Sử $\color{BLUE}{\fbox{LỊCH SỬ}\bigstar\text{THÔNG TIN LỊCH SỬ-NGHIÊN CỨU SÂU VÀ CHI TIẾT}\bigstar}$

S

scientists

Bài Do Thái

Suốt đời, Hitler là người bài Do Thái một cách mù quáng và quá khích. Di chúc của ông – viết ra vài giờ trước khi qua đời – chứa đựng lời công kích cuối cùng đối với người Do Thái, cho là họ có trách nhiệm đối với cuộc chiến mà ông phát động. Lòng căm thù nóng bỏng này được lan truyền qua nhiều người Đức, cuối cùng dẫn đến cuộc tàn sát kinh khủng trên diện rộng đến nỗi để lại một vết sẹo kinh hoàng trong nền văn minh của nhân loại và chắc chắn nó sẽ còn tồn tại khi mà con người còn sống trên Trái Đất.

Tinh thần bài Do Thái lan truyền mạnh mẽ trong các cấp chính quyền của Đức, đến nỗi các bị cáo trong Tòa án Nürnberg tin rằng thẩm phán trong các phiên tòa là người Do Thái!

Cuộc thảm sát Do Thái

"Giải pháp cuối cùng" là cụm từ do giới Quốc xã sử dụng (chỉ mới được đưa ra ánh sáng trước Tòa án Nürnberg) để chỉ các cuộc tàn sát người Do Thái tiếp diễn cho đến cuối cuộc chiến. Có nhiều tranh cãi về số người Do Thái bị sát hại. Theo hai binh sĩ SS làm nhân chứng tại Tòa án Nürnberg, Karl Eichmann ước tính con số này là từ 5 triệu đến 6 triệu. Eichmann là Trưởng ban Người Do Thái của tổ chức RSHA, thực hiện "Giải pháp cuối cùng" dưới sự chỉ đạo của Heydrich. Con số đưa ra trong bản cáo trạng của Tòa án Nürnberg là 5,7 triệu, trùng hợp với ước lượng của Hội đoàn Do Thái Thế giới. Riêng Reitlinger cho số thấp hơn, từ 4,2 đến gần 4,6 triệu.

Vào năm 1939, có khoảng 10 triệu người Do Thái sống trên những lãnh thổ bị lực lượng của Hitler chiếm đóng. Dù theo ước lượng nào, điều chắc chắn là phân nửa số người này đã bị Quốc xã sát hại. Đấy là hệ lụy chung cuộc và cái giá ghê gớm của sự lầm lạc mà nhà lãnh đạo Quốc xã truyền tải đến – hoặc chia sẻ với – nhiều người đi theo ông ta.


  • Gestapo (Geheime Staatspolizei hoặc Mật vụ)
  • Hermann Göring, cánh tay phải của Hitler
  • Heinrich Himmler, Lãnh tụ Lực lượng áo đen SS, Chỉ huy trưởng Cảnh sát Đức
  • Schutzstaffel, lực lượng áo đen SS
  • Sicherheitsdienst, Cơ quan An ninh

Tuần lễ Thủy tinh vỡ
Vào mùa thu 1938, có thêm một điểm ngoặt cho Quốc xã, diễn ra trong thời gian mà đảng viên sau này gọi là "Tuần lễ Thủy tinh vỡ".

Ngày 7 tháng 11, một thanh niên người Đức gốc Do Thái 17 tuổi tên Herschel Grynszpan bắn chết nhà ngoại giao Ernst vom Rath của đại sứ quán Đức ở Paris. Cha của anh trai trẻ này nằm trong số cả chục ngàn người Do Thái bị trục xuất sang Ba Lan. Để trả thù cho việc này và cho việc ngược đãi người Do Thái nói chung ở Đức mà anh trai trẻ tìm đến đại sứ quán Đức với ý định hạ sát đại sứ. Nhưng Ernst vom Rath được phái ra xem anh muốn gì, và bị anh bắn chết.

Đêm 9 rạng sáng 10 tháng 11, một đợt giết chóc tệ hại nhất, cho đến lúc này, xảy ra. Theo Quốc xã, đấy chỉ là do việc dân Đức có phản ứng "tự phát" với tin giết người ở Paris. Nhưng sau Thế chiến thứ hai, tài liệu tịch thu cho thấy Đức đã sắp đặt việc "tự phát".

Nội bộ Quốc xã báo cáo 119 giáo đường của người Do Thái bị đốt, 76 giáo đường khác bị phá hủy, 7.500 cửa hàng Do Thái bị phá phách. Có 20.000 người Do Thái bị bắt, 36 người chết, 36 bị thương nặng – đều là người Do Thái.

Người Do Thái còn phải chi trả cho sự phá hủy tài sản của họ. Nhà nước tich thu tiền bảo hiểm đáng lẽ họ nhận được. Thêm nữa, họ phải chung nhau trả khoản tiền phạt một tỉ Mark Đức vì lý do "tội ác ghê tởm của họ", theo lời Göring.

"Tuần lễ Thủy tinh vỡ" là dấu hiệu báo trước cho sự suy yếu tai hại mà cuối cùng sẽ dẫn nhà độc tài, chế độ của ông và đất nước của ông đến chỗ suy tàn. Chúng ta đã thấy đầy dẫy những biểu hiện của chứng hoang tưởng tự đại của Hitler. Nhưng từ trước đến giờ, Hitler đã cố tự kiềm chế ở những thời điểm khẩn trương trên bước đường đi lên của ông và của đất nước ông. Ở những thời điểm như thế, thiên tài về hành động gan lì và tính toán cẩn thận cho hậu quả đã giúp cho ông đạt hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nhưng bây giờ, như ngày 9 tháng 11 và những hệ lụy về sau sẽ cho thấy, Hitler đang mất dần khả năng tự kiềm chế. Chứng hoang tưởng tự đại của ông đã trở nên áp chế. Biên bản buổi họp ngày 12 tháng 11 do Göring chủ trì cho thấy chính Hitler có trách nhiệm đối với đêm tàn phá trong tháng 11 ấy; chính ông đã thúc đẩy Göring loại trừ người Do Thái ra khỏi cuộc sống ở Đức. Từ lúc này trở đi, chủ nhân ông tuyệt đối của Đế chế thứ Ba sẽ không còn biết tự kiềm chế – đức tính đã thường cứu nguy cho ông trước đây. Và dù cho thiên tài của ông sẽ dẫn đến những cuộc thôn tính đáng kinh ngạc khác, những hạt mầm độc hại cho việc tự phá hủy chung cục của nhà độc tài và của đất nước ông đã được gieo cấy.

(Còn nữa)
 
S

scientists

Việc làm đi đôi với lời nói

Cương lĩnh đảng

Trong đại hội quy mô đầu tiên của Đảng Lao động Đức (tiền thân của Quốc xã) ngày 24 tháng 2 năm 1920, lần đầu tiên Hitler nêu lên 25 điểm trong cương lĩnh của Đảng Lao động Đức. Những điểm quan trọng nhất sau này được Hitler mang ra thi hành, với hệ lụy tàn khốc cho hàng triệu người trong và ngoài nước Đức.

Điểm thứ nhất trong bản cương lĩnh đòi hỏi hợp nhất mọi người Đức trong một nước Đức mở rộng. Đây đúng là việc mà Hitler thực hiện sau này khi sáp nhập Áo với 6 triệu người Đức và vùng Sudetenland với 6 triệu người Đức khác. Đấy cũng là đúng theo yêu sách đòi lại vùng Gdańsk và những vùng đất khác ở Ba Lan có nhiều người Đức sinh sống. Và một trong những điều bất hạnh cho thế giới là có quá nhiều người trong giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến đã bỏ qua hoặc chế giễu mục đích này của Quốc xã mà Hitler đã cất công ghi trên giấy trắng mực đen. Những quan điểm bài Do Thái đưa ra cương lĩnh đảng cũng là lời cảnh cáo kinh khủng.

Có hai điểm trong cương lĩnh mà Hitler sẽ thi hành ngay khi trở thành thủ tướng. Điểm 2 đòi hỏi xóa bỏ các Hòa ước Versailles và Saint-Germain. Điểm 25 trù định việc "thiết lập một quyền lực trung ương mạnh cho Nhà nước". Điểm này – cũng như Điểm 1 và Điểm 2 đòi hỏi hợp nhất mọi người Đức trong Đế chế và việc xóa bỏ các hòa ước – được chính Hitler kiên quyết đưa vào cương lĩnh. Việc này cho thấy ngay từ lúc ấy, khi mà bên ngoài München chưa có mấy ai biết đến đảng của Hitler, ông đã phóng tầm nhìn đến chân trời xa hơn dù cho có nguy cơ bị mất sự hậu thuẫn ngay trong lãnh địa của mình.

Vào lúc ấy, tư tưởng ly khai nổi lên mạnh mẽ ở Bayern. Người Bayern thường xuyên xung khắc với chính quyền trung ương vì họ yêu sách phân quyền nhiều hơn hầu Bayern có thể được tự trị. Nhưng Hitler đang nhắm đến quyền lực không những ở Bayern mà còn bao trùm cả nước Đức, và nếu muốn duy trì quyền lực như thế cần có chính quyền trung ương mạnh, xóa bỏ những bang bán tự trị trong nền cộng hòa hiện thời và trong Đế chế Đức ngày xưa. Một trong những động thái của Hitler khi lên nắm chính quyền năm 1933 là nhanh chóng thực hiện điểm cuối cùng trong cương lĩnh của đảng mà lúc đầu không có mấy ai để ý đến. Không ai có thể trách Hitler đã không cảnh báo đầy đủ trước – trên giấy trắng mực đen – ngay từ bước khởi đầu.

Quyển sách Mein Kampf

Mùa hè 1924, trong tòa pháo đài Landsberg xưa cũ được dùng làm nhà tù, Adolf Hitler, tù nhân nhưng được đối xử như là khách danh dự với một căn phòng cho riêng mình và cảnh quan tuyệt vời bên ngoài, gọi Rudolf Hess đến (đã ra đầu thú và vào tù) để bắt đầu đọc cho anh này ghi lại từ chương này qua chương kia của một quyển sách có tựa đề là Mein Kampf (Cuộc tranh đấu của tôi).

Trong quyển Mein Kampf, Hitler diễn giải tư tưởng của ông và áp dụng đặc biệt vào việc phục hồi nước Đức. Hitler cho rằng Đức cần có không gian sinh sống (Lebensraum) ở miền Đông và phải sẵn sàng sử dụng vũ lực để đạt mục đích này. Chủ yếu là chiếm đất của Nga, phục hồi đường ranh giới của Đế quốc La Mã Thần thánh 600 năm về trước.

Hitler cũng vạch ra việc tạo dựng một quốc gia dựa trên chủng tộc thuần khiết và quy tụ mọi người Đức lúc này còn đang sống bên ngoài biên giới Đức. Trên quốc gia này sẽ thiết lập chế độ độc tài tuyệt đối dưới quyền một lãnh tụ – chính là ông ta – để ban hành mệnh lệnh cho một tầng lớp lãnh đạo nhỏ hơn, rồi những người này sẽ truyền lệnh xuống dưới.
250px-Erstausgabe_von_Mein_Kampf.jpg


Ấn bản đầu tiên quyển Mein Kampf (1925)

Tư tưởng chủ chốt thứ hai trong quyển Mein Kampf là về chủng tộc, nêu lên tính ưu việt của chủng tộc Aryan, chà đạp lên những chủng tộc khác, những thứ cỏ rác – đấy là Do Thái và Slav. Một lần nữa, phải công nhận rằng việc làm của Hitler đi đôi với lời nói khi ông thi hành chính sách diệt chủng ở Đông Âu trong chiến tranh. Sau này, Hitler thực hiện đúng như những gì ông đã vạch ra trong quyển Mein Kampf. Trong tác phẩm này, ông cũng ca ngợi tinh thần kỷ luật của Vương quốc Phổ xưa.

Sau khi ra khỏi nhà tù, ngày 27 tháng 2 năm 1925, Hitler mở đại hội đầu tiên của Đảng Quốc xã kể từ vụ Đảo chính Nhà hàng Bia với hai mục đích trong đầu mà từ nay về sau ông nhất định sẽ theo đuổi. Thứ nhất là tập trung mọi quyền lực vào tay ông. Thứ hai là tạo dựng lại Đảng Quốc xã thành một tổ chức chính trị hầu nắm chính quyền thông qua con đường hợp hiến mà thôi.

(Còn nữa)
 
S

scientists

Tài hùng biện, tổ chức và tuyên truyền

Trong những ngày sống lang thang ở thành Viên, Hitler để ý đến tầm quan trọng của tài hùng biện trong chính trị, và ông viết:
“ Uy lực trong lịch sử tạo ra những cơn lốc về tôn giáo và chính trị từ ngàn xưa đều là uy lực thần kỳ của lời nói, và chỉ do lời nói mà thôi.... Chỉ có thể khích động quần chúng bằng uy lực của lời nói. Mọi phong trào vĩ đại đều là phong trào quần chúng, là sự bùng nổ của nỗi mê đắm và xúc cảm của con người... ”

Dù không tham gia vào hoạt động chính trị của Áo, Hitler đã bắt đầu tập luyện tài hùng biện đối với những cử tọa anh tìm được ở khu nhà trọ, bếp ăn từ thiện, góc đường phố. Dần dà, việc này phát triển thành một kỹ năng đáng sợ hơn là bất kỳ kỹ năng nào giữa hai trận thế chiến, và đóng góp phần lớn vào thành công đáng kinh ngạc của Hitler.

Tái cơ cấu đảng

Khởi đầu, không có triển vọng gì về sự nghiệp chính trị cho một người Áo 31 tuổi không bạn bè, không tiền bạc, không công ăn việc làm, không nghề chuyên môn, và không hề có kinh nghiệm gì về hoạt động chính trị. Hitler nhận thức được điều này.

Hitler trở lại München vào mùa xuân 1919, rồi được điều vào Ban Báo chí và Thông tin của Phòng Chiến tranh Chính trị đóng tại quân khu địa phương. Quân đội Đức bây giờ nhúng sâu vào chính trị, đặc biệt là ở Bayern. Để quảng bá đường lối bảo thủ, họ tổ chức cho binh sĩ theo học các lớp chính trị, và Hitler là học viên chăm chỉ tham dự một trong các lớp học này. Một ngày tháng 9 năm 1919, Phòng Chiến tranh Chính trị ra lệnh cho Hitler dò xét một nhóm chính trị nhỏ tự gọi là Đảng Lao động Đức lúc ấy có không đến 100 đảng viên. Kết quả của việc này là Hitler chấp nhận trở thành Ủy viên Trung ương thứ bảy của Đảng Lao động Đức.

Ngay từ đầu, Hitler đã thể hiện một cách đáng kinh ngạc tài năng hùng biện, tổ chức và tuyên truyền. Đầu năm 1920, Hitler nắm nhiệm vụ tuyên truyền cho đảng, tổ chức một đại hội lớn lao nhất mà đảng tí hon này chưa từng mơ đến. Đại hội được dự trù vào ngày 24 tháng 2 năm 1920 trong một nhà hàng bia nổi tiếng ở München có sức chứa 2.000 người. Tài hùng biện của Hitler cũng giúp đảng thu thêm được đóng góp tài chính.
Thiết kế huy hiệu và cờ của Đảng Quốc xã

Cũng vào mùa hè 1920, nhà họa sĩ thất bại Hitler nhưng bây giờ trở thành bậc thầy về nghệ thuật tuyên truyền, phát sinh ý tưởng mà chỉ có thể được xem là một cú đột phá của thiên tài. Ông thấy cái mà đảng đang thiếu là một huy hiệu, một lá cờ, một biểu tượng nhằm thể hiện những gì mà đảng muốn phát huy và nhằm kích thích óc tưởng tượng của quần chúng – những người sẽ tiến bước và chiến đấu dưới ngọn cờ của đảng. Sau khi đã tập trung suy nghĩ và xem xét vô số mẫu thiết kế, Hitler tạo nên một lá cờ nền màu đỏ, ở giữa có một đĩa tròn màu trắng trong đó in hình chữ vạn nằm nghiêng 45 độ màu đen. Chẳng bao lâu, lực lượng SA và đảng viên Quốc xã mang băng tay có hình chữ thập ngược, và hai năm sau Hitler thiết kế lá cờ nghi thức để mang đi trong những cuộc diễu hành và để giăng lên sau khán đài của những buổi mít-tinh. Những tác phẩm này không hẳn là "mỹ thuật", nhưng là nghệ thuật tuyên truyền ở đẳng cấp cao. Đảng Quốc xã bây giờ có một biểu tượng mà không đảng phái nào khác sánh bằng. Hình chữ thập ngược dường như tự nó toát ra một sức mạnh huyền bí, để lôi kéo quần chúng hành động theo một đường hướng mới, và họ bắt đầu tụ hội dưới lá cờ của Quốc xã.

Trong phiên tòa xử tội phản quốc vì đã chủ mưu biến cố mà các sử gia gọi là Đảo chính Nhà hàng Bia (hay còn gọi là Vụ phiến loạn tiệm bia), Hitler tạo ấn tượng mạnh trong lòng người dân Đức bằng tài hùng biện và tinh thần quốc gia sôi sục, và đưa tên tuổi ông lên trang nhất nhiều tờ báo trên thế giới. Hitler chỉ bị án 5 năm tù. Tuy thất bại, vụ bạo loạn khiến cho Hitler nổi danh cả nước, và trong con mắt nhiều người ông là nhà yêu nước và người anh hùng. Bộ máy tuyên truyền của Đảng Quốc xã biến vụ việc thành một trong những huyền thoại vĩ đại nhất.
250px-Bundesarchiv_Bild_102-04051A%2C_Reichsparteitag%2C_Rede_Adolf_Hitlers.jpg


Hitler đang diễn thuyết trên Cờ Chữ Thập Ngoặc (1934)


Sau khi ra khỏi tù, cố dằn lòng vì bị cấm phát biểu trước công chúng, Hitler hùng hục lao vào công việc tái lập Đảng Quốc xã và biến nó thành một tổ chức mà Đức chưa hề thấy từ trước đến giờ. Ông có ý đồ tổ chức đảng như là một quân đội – một nhà nước trong một nhà nước. Công tác đầu tiên là thu hút đảng viên nộp phí gia nhập. Vào cuối năm 1925, chỉ có 27.000 đảng viên. Đảng này phát triển một cách chậm chạp, nhưng mỗi năm đều có tiến bộ: 49.000 đảng viên năm 1926; 72.000 năm 1927; 108.000 năm 1928; 178.000 năm 1929. Hitler thành lập cơ sở đảng hoàn chỉnh tương ứng với tổ chức hành chính của Đức và cũng giống với xã hội Đức. Nước Đức được chia ra thành vùng (gaue), tương đương với 34 đơn vị trong các kỳ bầu cử Nghị viện, và Hitler đích thân bổ nhiệm đảng viên làm gauleiter (tương đương với xứ ủy) đứng đầu mỗi vùng. Mỗi vùng được chia ra thành những cấp nhỏ hơn. Riêng thành phố được chia nhỏ thêm thành cấp khu phố và cấp tổ dân phố.

Trong kỳ tổng tuyển cử ngày 5 tháng 3 năm 1933, Quốc xã mở chiến dịch tuyên truyền vận động theo tầm mức nước Đức chưa từng thấy bao giờ. Lần đầu tiên, đài truyền thanh của Nhà nước phát đi giọng nói của Hitler, Hermann Göring và Joseph Göbbels đến mọi miền của đất nước. Đường phố giăng đầy cờ mang chữ thập ngoặc, vang vọng tiếng bước của binh sĩ SA. Những cuộc mít-tinh, diễu hành đốt đuốc buổi tối và âm thanh lan khắp các quảng trường. Những tấm pa-nô đầy dẫy hình ảnh tuyên truyền rực rỡ của Quốc xã, và trong đêm tối ánh lửa trại soi sáng những triền đồi. Cử tri bị phỉnh phờ với những lời hứa về thiên đường Đức, bị đội quân áo nâu trên đường phố dọa dẫm khủng bố và kinh hãi vì những "phát hiện" về cuộc "cách mạng" của phe Cộng sản.

Đây là kỳ tổng tuyển cử dân chủ thực sự theo chiến lược của Hitler: nắm chính quyền bằng đường lối hợp pháp. Vì thế, đa số cử tri vẫn có thể bỏ phiếu chống lại Hitler. Đảng Quốc xã dẫn đầu, nhưng chỉ thu được 44% số phiếu.

(Còn nữa)
 
S

scientists

Chiến thuật khủng bố tâm linh và thể chất

Học hỏi từ quan sát ở Viên

Ở thành Viên, Hitler đã chú ý đến cách "khủng bố tâm linh và thể chất" của Đảng Dân chủ Xã hội Áo, dựa trên quan sát sai lạc và bị thiên kiến của ông làm chệch hướng. Ông viết:

“ Tôi đã hiểu ra sự khủng bố tâm linh mà phong trào này đã thực hiện, đặc biệt đối với giới tư sản;... họ tung ra hàng loạt lời dối trá và vu khống để chống lại bất kỳ đối thủ nào bị xem là nguy hiểm, cho đến lúc tinh thần của đối thủ bị dập tắt... Đây là chiến thuật dựa trên sự tính toán chính xác về những điểm yếu của con người, và chắc chắn đạt thành công...

Tôi hiểu ra tầm quan trọng của sự khủng bố thể chất đối với cá nhân và quần chúng... Chiến thắng đạt được trong hàng ngũ những người ủng hộ dường như là do công lý, còn đối thủ bị đánh bại thường không thiết gì đến việc đối kháng thêm.

Lực lượng SA và SS
Chỉ trong mười năm, ông đã sử dụng bài học khủng bố để đạt mục đích của mình. Khi tổ chức Đảng Quốc xã, ông áp dụng phương cách này: tổ chức cựu chiến binh thành một lực lượng sắt máu, ngụy trang dưới tên "Ban Thể dục Thể thao". Khởi đầu, đám cựu chiến binh được điều động trong các buổi đại hội để trấn áp người la ó phản đối, và nếu cần, đẩy họ ra khỏi phòng họp. Ngày 5 tháng 10 năm 1921, lực lượng bán quân sự được chính thức đặt tên Sturmabteilung, gọi tắt là SA, còn được gọi là "Quân áo nâu". Dần dà SA được kiện toàn thành một lực lượng vũ trang gồm vài trăm ngàn người để bảo vệ buổi họp của Quốc xã, giải tán buổi họp của đối thủ và nói chung khủng bố người chống lại Hitler.

Một lần, vào năm 1921 đích thân Hitler dẫn lực lượng SA tấn công một đại hội của nhóm đối lập và đánh đập một người mang tên Ballerstedt sẽ đọc diễn văn trong đại hội. Vì việc này, Hitler bị án 3 tháng tù, nhưng được trả tự do sau khi ngồi tù 1 tháng. Ông trở nên gần như là một vị thánh tử vì đạo và giành thêm hậu thuẫn. Hitler khoe khoang với cảnh sát: "Không sao cả. Chúng tôi đã đạt được mục đích. Ballerstedt không phát biểu được." Đúng như Hitler đã tuyên bố vài tháng trước:

Trong tương lai Phong trào Quốc xã sẽ ngăn chặn một cách không khoan nhượng – bằng vũ lực nếu cần – mọi đại hội hoặc buổi diễn thuyết có thể khiến cho đồng bào của chúng ta phân tâm.

Để được sự hỗ trợ đáng tin cậy hơn, Hitler thành lập lực lượng SS (Schutzstaffel). Cuối cùng, lực lượng SS ngự trị nước Đức và là một cái tên gây kinh hoàng cho mọi vùng bị Đức chiếm đóng ở Châu Âu.

Xem chi tiết về những tổ chức và nhân vật gây khủng bố của Quốc xã:


  • Gestapo, Cơ quan Mật vụ
  • Heinrich Himmler, nhân vật đứng đầu Cảnh sát toàn nước Đức và SS
  • Hermann Göring, Lãnh đạo đội quân áo nâu SA
  • Schutzstaffel, tổ chức quân sự của Đảng Quốc xã gọi tắt SS
  • Sicherheitsdienst, Cơ quan An ninh

Trong kỳ tổng tuyển cử ngày 5 tháng 3 năm 1933, Hitler muốn Nghị viện thông qua việc thiết lập chế độ độc tài. Để đạt được việc này, Hitler cần có hai phần ba số phiếu Nghị viện. Quốc xã bắt giam 81 đại biểu đảng Cộng sản trong Nghị viện khiến cho họ "vắng mặt" trong kỳ họp Nghị viện.

Thôn tính Áo bằng khủng bố tinh thần

Suốt năm 1937, với sự tài trợ và thúc giục của Đức, Quốc xã Áo gia tăng chiến dịch khủng bổ. Bom nổ hầu như mỗi ngày đây đó trên đất Áo; ở những tỉnh miền núi những cuộc biểu tình diễn ra rầm rộ và thường gây bạo lực khiến cho chính phủ suy yếu dần.

Hitler phái Papen dàn xếp cuộc hội đàm giữa thủ tướng Áo Kurt Schuschnigg và Hitler ngày 12 tháng 2 năm 1938. Hitler áp dụng chiến thuật khủng bố tinh thần: dùng ngôn ngữ thù địch để phủ đầu. Hitler nói với Schuschnigg:

Han

đã tìm mọi cách để né tránh một chính sách thân thiện... Cả lịch sử của Áo chỉ là những hành vi phản bội không ngừng.... Đã đến lúc phải chấm dứt điều nghịch lý lịch sử này... Đế chế Đức là một trong những cường quốc vĩ đại nhất, và không ai sẽ lên tiếng nếu Đế chế này giải quyết vấn đề biên giới của họ.

...Tôi muốn cho ông biết là vụ việc không thể tiếp tục như thế này.... ai chống tôi sẽ bị nghiền nát... tôi sẽ giải quyết cái gọi là vấn đề Áo bằng cách này hoặc cách khác... Tôi chỉ cần ra lệnh, và chỉ trong một đêm duy nhất mọi cơ cấu phòng thủ nực cười của ông sẽ bị bắn tan tác.

Bị sốc vì cơn giận dữ của Hitler, vị Thủ tướng Áo vốn có tư thái trầm tĩnh cố giữ sự hòa dịu nhưng vẫn bảo vệ quan điểm của mình.

Cuối buổi sáng, khi Schuschnigg hỏi chính xác những điều kiện của Thủ tướng Đức là gì, thì Hitler đáp: "Chúng ta sẽ thảo luận chiều nay."

Buổi xế chiều, sau khi bị bắt phải chờ đợi trong hai giờ, Thủ tướng Áo nhận từ tay Ngoại trưởng Đức Joachim von Ribbentrop bản thảo của một "hiệp định" được chi biết rằng đấy là đòi hỏi cuối cùng của Hitler và rằng Hitler không cho phép thảo luận gì về bản văn này. Bây giờ cần phải ký kết.

Tối hậu thư này đòi trong vòng một tuần Schuschnigg phải chuyển giao chính phủ Áo cho Đảng Quốc xã Áo, chỉ định người thân Quốc xã TS. Arthur Seyss-Inquart làm Bộ trưởng Nội vụ. Tất cả có nghĩa là Áo sẽ mất quyền tự chủ. Đức cũng bảo Seyss-Inquart gửi điện tín cho Hitler, yêu cầu gửi quân Đức đến Áo để lập lại an ninh trật tự. Hãng thông tấn chính thức D.N.B. của Đức nói Seyss-Inquart đã gửi cho Hitler bức điện tín này. Trong bản cung khai tại Tòa án Nürnberg, Seyss-Inquart cho biết ông đã từ chối gửi điện tín như thế vì an ninh trật tự vẫn tốt. Hitler đã viện dẫn bức điện tín trong trò lừa đảo để biện minh với dân Đức và với người nước ngoài cho cuộc tấn công. Thật ra, có hai bản văn của bức "điện tín", đúng như Göring đã đọc qua điện thoại, được tìm thấy trong thư khố của Bộ Ngoại giao sau chiến tranh. Sau này, Papen giải thích là Bộ trưởng Bưu điện và Điện tín đã ngụy tạo các bức điện tín và đưa vào hồ sơ lưu trữ của chính phủ.

Schuschnigg thông báo sẽ tổ chức trưng cầu dân ý ngày 13 tháng 3 năm 1938 để hỏi dân Áo có muốn "một nước Áo tự do, độc lập, xã hội, Cơ đốc và thống nhất" hay không. Hitler nổi cơn giận dữ khi nghe tin bất ngờ này, và quyết định chiếm đóng Áo bằng quân sự. Đức ra lệnh Schuschnigg phải từ chức, và Áo phải bổ nhiệm Seyss-Inquart làm thủ tướng. Tổng thống Wilhelm Miklas của Áo miễn cưỡng chấp nhận đơn xin từ chức của Schuschnigg nhưng từ chối bổ nhiệm Seyss-Inquart lên thay thế.

Hitler ra lệnh phát động cuộc tiến công Áo ngày 12 tháng 3 năm 1938, rồi lên đường trở về quốc gia sinh quán của ông, được đón tiếp một cách tưng bừng. Hitler làm Tổng thống Áo, và Áo trở thành một tỉnh của Đế chế Đức. Một luật mới quy định "trưng cầu dân ý tự do và kín" ngày 10 tháng 4 để người Áo có thể quyết định "vấn đề thống nhất với Đế chế Đức", còn người Đức cũng tham gia trưng cầu dân ý về việc thống nhất cùng với việc bầu Nghị viện mới. Dưới chiến dịch tuyên truyền và khủng bố, 99,08% ở Đức và 99,95% ở Áo bỏ phiếu thuận cho Áo sáp nhập vào Đức, trở thành một tỉnh của Đức như các tỉnh khác.

(Còn nữa)
 
S

scientists

Vận dụng thời cơ

Hủy bỏ Hòa ước Versailles

Vì việc Đồng Minh áp đặt Hòa ước Versailles lên nước Đức, Đức trở thành một quốc gia bị chia rẽ. Phe bảo thủ không chấp nhận cả hòa ước lẫn nền hòa bình lẫn chế độ cộng hòa đã phê chuẩn hòa ước. Về lâu về dài, quân đội cũng thế. Adolf Hitler đã nhận ra thực lực của làn sóng quốc gia chống dân chủ, chống nền cộng hòa còn non trẻ. Ông bắt đầu nương theo làn sóng ấy mà tiến lên. Những diễn biến thời cuộc giúp Hitler thêm lợi thế, nhất là việc đồng Mark mất giá và việc Pháp chiếm đóng vùng sông Rhur. Chính giai đoạn này là cơ hội trời cho đối với Hitler.

Cơn suy thoái kinh tế lan khắp thế giới vào cuối năm 1929 tạo cho Adolf Hitler một cơ hội, và ông khai thác tận lực. Trong chiến dịch vận động cuồng loạn cho cuộc tổng tuyển cử ngày 14 tháng 9 năm 1930, Hitler hứa hẹn với hàng triệu người đang bất mãn rằng ông sẽ làm cho nước Đức hùng mạnh trở lại, từ chối việc trả bồi thường chiến tranh, chối bỏ Hòa ước Versailles, quét sạch tham nhũng, triệt hạ những trùm tài phiệt (đặc biệt nếu họ là người Do Thái), và đảm bảo mỗi người Đức đều có việc làm và bánh mỳ. Đối với những người đang đói kém mong cho cuộc sống bớt khổ và cũng đang tìm kiếm niềm tin mới, lời hứa như thế nghe thật hấp dẫn. Đảng Quốc xã chiếm 107 ghế, từ vị trí thứ chín và là đảng nhỏ nhất trong Nghị viện nhảy lên thành đảng lớn thứ nhì. Từ đầu năm 1930, chiến dịch tuyên truyền của Quốc xã đã có hiệu lực đối với Quân đội Đức, đặc biệt là trong số sĩ quan trẻ. Họ cảm thấy thu hút vì tinh thần quốc gia cực đoan của Hitler, và cũng vì viễn tượng mà ông vẽ ra: tái lập Quân đội trở lại thời vinh quang và hùng mạnh. Lúc ấy, sĩ quan sẽ có nhiều cơ hội để thăng tiến, không phải bị gò bó trong lực lượng nhỏ bé như bây giờ.

Ngày 30 tháng 1 năm 1937, Hitler đọc diễn văn trước Nghị viện, tuyên bố "rút chữ ký của Đức" ra khỏi Hòa ước Versailles.

Nước cờ mạo hiểm ở Rheinland

Sáng 7 tháng 3 năm 1936, một lực lượng nhỏ của Đức đi qua các cầu sông Rhein và tiến vào khu phi quân sự Rheinland. Lực lượng Pháp đang hiện diện trong vùng có thể bắn quân Đức tan tành và hầu như chắc chắn sẽ đặt dấu chấm hết cho Hitler. Nhưng Hitler dám đánh nước cờ mạo hiểm là do Pháp lưỡng lự và Anh mềm yếu. Nước cờ này mang đến cho Hitler một thắng lợi to tát hơn và có tính quyết định hơn là những gì ta hiểu lúc đầu. Trong nước, Hitler củng cố vị thế và quyền lực, đưa ông lên tầm cao chưa có nhà lãnh đạo Đức nào trong quá khứ đạt được. Ngày 7 tháng 3 năm 1936, Hitler giải tán Nghị viện, tổ chức "bầu cử" mới và trưng cầu dân ý về việc Đức chiếm Rheinland. Theo số liệu chính thức, 99% cử tri đi bỏ phiếu trưng cầu dân ý, và 98,8% chấp thuận hành động của Hitler. Ngay cả với yếu tố khủng bố của mật vụ, vẫn còn có tỷ lệ áp đảo người Đức ủng hộ Hitler.

Thắng lợi cũng đảm bảo Hitler vượt lên trên tướng lĩnh, những người đã lưỡng lự và nhụt chí vào thời điểm khủng hoảng trong khi ông vẫn kiên quyết. Thắng lợi cũng cho Hitler thấy rằng trong chính sách ngoại giao và ngay cả trong sự vụ quân bị, Hitler có óc phán đoán cao hơn tướng lĩnh. Họ đã sợ Pháp sẽ chống trả; Hitler thì biết rõ hơn. Tuy chỉ là một chiến dịch quân sự nhỏ nhoi, việc chiếm đóng Rheiland là một bước ngoặt quan trọng. Vị thế chiến lược của mỗi bên đã thay đổi hẳn sau khi ba tiểu đoàn của Đức đi qua các cầu sông Rhein mà các sư đoàn của Pháp không có động thái gì.


(Còn nữa)
 
S

scientists

[...]

Những ngày cuối cùng của Hitler


Vào ngày 16 tháng 1 năm 1945, Hitler trở về thủ đô Berlin, từ boong-ke sâu 16 mét phía dưới Phủ Thủ tướng chỉ đạo các đoàn quân đang vỡ vụn trước sức tiến công của Hồng quân Liên Xô và Quân đội Đồng Minh vào lãnh thổ Đức. Trong cuộc chiến tranh, ông ta chỉ trang hoàng duy nhất một vật tại boong-ke sâu 16 mét phía dưới Phủ Thủ tướng của mình, đó là bức chân dung của vua Friedrich II Đại Đế do họa sĩ Anton Graff thực hiện. Ông ta nói với tướng Guderian vào tháng 2 năm 1945:
“ Bức tranh này luôn luôn đem lại cho tôi sức mạnh khi những hung tin đe dọa tới tinh thần của tôi. ”

Chính vị vua lừng danh này cũng từng phải đối chọi với một liên quân chống Phổ trong cuộc Chiến tranh Bảy năm tàn khốc (1756 - 1763), và toàn thắng sau khi liên quân tan rã. Adolf Hitler tin rằng ông cũng vĩ đại như vua Friedrich II Đại Đế, và cũng sẽ giành thắng lợi tương tự như vị vua Phổ xưa. Trong tình trạng thể chất và tinh thần suy sụp, Hitler đưa ra một trong những quyết định quan trọng cuối cùng trong đời. Ngày 19 tháng 3 năm 1945, ông ra lệnh phá hủy tất cả các cơ sở quân sự, công nghiệp, giao thông và viễn thông cũng như mọi cửa hàng trên đất Đức để tránh rơi vào tay Hồng quân Liên Xô và Quân đội Đồng Minh. Nước Đức sẽ biến thành đồng không và không thứ gì còn lại để giúp người dân Đức có thể sống sau chiến bại.

Người dân Đức tránh khỏi thảm họa cuối cùng là do những nỗ lực tuyệt vời của Bộ trưởng Khí tài và Vũ trang Albert Speer và một số sĩ quan Quân đội đã kháng lệnh của Hitler. Họ đã chạy cùng khắp nước Đức để đảm bảo sĩ quan quân đội và đảng viên phục tùng một cách nhiệt tình không phá hủy những cơ sở ấy. Một phần cũng nhờ sự tiến quân thần tốc của Đồng Minh khiến cho công tác phá hủy trên diện rộng như thế là bất khả thi.

Hitler đã định rời Berlin ngày 20 tháng 4 năm 1945, sinh nhật thứ 56 của ông, để đi Obersalzberg và chỉ đạo cuộc chiến từ nơi này. Mười ngày trước, chính Hitler đã phái toán nhân viên hộ lý của ông đi Obersalzberg để chuẩn bị cho ngôi biệt thự Berghof đón ông đến. Tuy nhiên, định mệnh khiến cho Hitler không bao giờ được nhìn lại nơi chốn nghỉ dưỡng mà ông yêu thích. Hồi kết đến nhanh hơn là ông dự tính, vì quân Mỹ và Liên Xô tiến quá nhanh vào đất Đức.

Sinh nhật 20 tháng 4 của Hitler trải qua một cách trầm lặng, dù tướng lĩnh Đức ghi nhận thêm thảm họa trên các mặt trận. Tất cả các lãnh đạo Quốc xã kỳ cựu đều có mặt: Hermann Göring, Joseph Göbbels, Heinrich Himmler, Joachim von Ribbentrop và Martin Bormann, cũng như những chỉ huy quân đội còn sót lại: Karl Dönitz, Wilhelm Keitel, Alfred Jodl và Hans Krebs (tân Tham mưu trưởng Lục quân, và cũng là người cuối cùng trong chức vụ này).

Hitler không tỏ ra tuyệt vọng, cho dù tình hình tồi tệ. Ông vẫn tự tin, như ông nói với các tướng lĩnh 3 ngày trước rằng quân Nga sẽ chịu đổ máu nặng nề nhất trước Berlin. Các tướng lĩnh biết rõ hơn ông, và trong buổi họp quân sự thường kỳ sau khi ăn mừng sinh nhật, họ khuyên ông nên rời Berlin để đi về miền nam. Họ giải thích rằng chỉ 1 hoặc 2 ngày nữa quân Nga sẽ cắt đứt hành lang đi về hướng ấy. Hitler lưỡng lự; ông không nói đồng ý hay chối từ. Hiển nhiên là ông không thể đối mặt với sự kiện kinh khủng là thủ đô của Đế chế thứ Ba sắp bị Liên Xô chiếm đóng, trong khi chỉ vài năm trước ông đã tuyên bố rằng kẻ thù này đã bị đánh gục.

Nhưng Hitler vẫn chưa chịu buông xuôi. Ông đã ra lệnh tướng SS Felix Steiner tổng phản công quân Liên Xô ở những vùng ngoại ô phía nam của Berlin. Tất cả binh sĩ trú đóng trong vùng Berlin sẽ được tung ra trận đánh, kể cả binh sĩ không quân hiện diện trên mặt đất. Trong hai ngày kế, Hitler nôn nóng chờ đợi tin tức về cuộc phản công của Steiner. Đây là thêm một ví dụ ông đã không còn biết gì về tình hình thực tế. Cuộc phản công của Steiner không hề diễn ra, mà chỉ nằm trong tâm trí nóng bỏng của nhà độc tài tuyệt vọng.

Trong buổi họp quân sự ngày 22 tháng 4, Hitler giận dữ đòi hỏi được biết tin tức về Steiner. Các tướng lĩnh đều không trả lời được, nhưng cho biết việc điều quân từ hướng bắc đi tăng viện cho Steiner ở hướng nam đã khiến cho mặt trận hướng bắc suy yếu, quân Liên Xô thâm nhập ở đây và xe tăng của họ đã tiến vào bên trong thành phố.

Hitler không còn có thể chịu được nữa. Mọi nhân chứng còn sống sót sau này đều kể lại rằng Hitler hoàn toàn mất tự chủ. Ông nổi cơn thịnh nộ dữ tợn nhất trong đời. Ông la hét rằng đây là hồi kết cục. Mọi người đã bỏ rơi ông. Không còn gì nữa, mà chỉ có phản bội, dối trá, tham nhũng và hèn nhát. Tất cả đã hết. Thôi được, ông sẽ ở lại Berlin. Ông sẽ đích thân chỉ huy sự phòng vệ thủ đô của Đế chế thứ Ba. Những người khác có thể đi nếu muốn. Tại nơi này, ông sẽ đối mặt với đoạn cuối của đời ông. Ông nói với tất cả những người quanh ông rằng ông đã quyết định. Và để chứng tỏ cho mọi người thấy không gì đảo ngược lại được, ông gọi một thư ký và với sự hiện diện của họ, đọc một bản tuyên bố sẽ được truyền ngay trên sóng phát thanh. Bản tuyên bố cho biết Hitler sẽ ở lại Berlin và bảo vệ thủ đô cho đến cùng.
220px-FuehrerBunkerBerlinLocation.jpg

Boong-ke tại Berlin của Hitler năm 1945


Có hai vị khách cuối cùng đi đến boong-ke của Hitler: Hanna Reitsch, nữ phi công tài ba chuyên lái máy bay thử nghiệm có ác cảm thậm tệ với Göring, và Đại tướng không quân Robert Ritter von Greim mà ngày 24 tháng 4 ở München đã nhận lệnh của Hitler về trình diện ông. Chiếc máy bay chở hai người trên chặng cuối vào tối 26 tháng 4 bị đạn phòng không của Liên Xô bắn trúng, và một chân của Greim bị thương nặng.

Hitler đi đến phòng giải phẫu, nơi một bác sĩ đang băng bó vết thương của Greim, rồi phong cho vị tướng đang nằm dưỡng thương chức Tư lệnh Không quân và thăng ông quân hàm Thống chế (là thống chế Đức cuối cùng trong cuộc chiến).

Ngày 28 tháng 4, Hitler có vẻ như lại hy vọng, nhưng thật ra đấy là hoang tưởng. Ông gọi máy vô tuyến cho Keitel, hỏi han về những cánh quân Đức trong chiến dịch giải cứu Berlin. Nhưng "chiến dịch" này chỉ có trong trí tưởng tượng của Hitler. Các đội quân Đức mà Hitler trông chờ hoặc bị tiêu diệt, hoặc vội vàng rút về hướng tây để chịu cho Đồng Minh phương Tây bắt thay vì đầu hàng quân Liên Xô. Những mũi tiền tiêu của quân Liên Xô chỉ còn cách Phủ Thủ tướng vài góc phố.

Cũng trong ngày 28 tháng 4: Bộ Tuyên truyền Đức bắt được bản tin của đài BBC ở Luân Đôn, cho biết Himmler đã tiến hành bí mật thương lượng để đề nghị quân đội Đức ở miền Tây đầu hàng quân Mỹ. Đối với Hitler, người không bao giờ ngờ vực lòng trung thành tuyệt đối của Himmler, đây là đòn đau đớn nhất.
220px-Bundesarchiv_B_145_Bild-F051673-0059%2C_Adolf_Hitler_und_Eva_Braun_auf_dem_Berghof.jpg

Adolf Hitler và Eva Braun tại Berghof


Ít phút sau, có thêm tin báo là quân Liên Xô đang tiến đến chỉ còn cách một khu phố, và có lẽ sẽ tràn ngập Phủ Thủ tướng vào buổi sáng 30 tháng 4, cách 30 tiếng đồng hồ sau. Hai tin báo liên tiếp cho thấy dấu hiệu của hồi kết thúc. Hitler bắt buộc phải đi đến một trong những quyết định cuối của đời ông. Đến hừng sáng, ông cử hành hôn lễ với Eva Braun, soạn thảo bản di chúc và tuyên cáo cuối cùng,
220px-Stars_%26_Stripes_%26_Hitler_Dead2.jpg


Báo Mỹ đưa tin về cái chết của Hitler.

Hai văn bản Di chúc và Tuyên cáo Chính trị của Hitler đều tồn tại sau cuộc chiến theo như ý nguyện của Hitler. Hai văn bản xác định rằng người đã cai trị nước Đức với bàn tay sắt trong hơn 12 năm, và thống trị phần lớn Châu Âu trong 4 năm, đã không rút tỉa được bài học nào từ kinh nghiệm của ông. Ngay cả những bước thụt lùi và thảm bại cuối cùng vẫn không dạy cho ông được điều gì. Trong những tiếng đồng hồ cuối cùng của cuộc đời, ông luôn nguyền rủa người Do Thái về mọi vấn nạn của thế giới, và than vãn là một lần nữa định mệnh đã cướp đi chiến thắng của nước Đức. Trong lời giã biệt này với nước Đức và với thế giới mà cũng là lời kêu gọi cuối cùng với lịch sử, Adolf Hitler lại moi ra mọi lời lừa phỉnh trong quyển Mein Kampf và thêm vào những luận cứ sai lạc cuối cùng. Đấy là một bài văn bia thích hợp cho một kẻ chuyên chế say với quyền lực mà quyền lực tuyệt đối đã hoàn toàn bị phá sản. Một lần nữa, dù là lần cuối, Hitler vẫn lừa dối:

Không phải tôi hoặc bất kỳ ai ở Đức mong muốn chiến tranh vào năm 1939. Đấy chỉ là do những chính khách quốc tế đã mong mỏi và khiêu khích nên, những người hoặc có gốc Do Thái hoặc hành động vì quyền lợi của người Do Thái.


(Còn nữa)
 
S

scientists

Buổi chiều 29 tháng 4, Hitler bắt đầu những bước chuẩn bị cuối cùng. Ông ra lệnh đầu độc con chó Blondi mà ông thương yêu, và cho bắn hai con chó khác. Rồi ông gọi hai nữ thư ký vào và trao cho họ những viên thuốc độc để họ dùng nếu muốn khi quân Nga tiến vào. Ông nói ông lấy làm tiếc đã không thể trao cho họ món quà từ biệt đáng quý hơn, và ông bày tỏ là ông đánh giá cao sự phục vụ lâu dài và trung thành của họ.

Đêm cuối cùng trong đời, Hitler ra lệnh cho một trong các thư ký tên Junge thiêu hủy giấy tờ còn lại trong hồ sơ của ông và truyền lệnh không ai trong boong-ke được đi ngủ cho đến khi có lệnh mới. Mọi người suy diễn ý nghĩa là ông nghĩ đã đến lúc vĩnh biệt. Nhưng đến khoảng 2:30 giờ sáng ngày 30 tháng 4, Hitler mới từ phòng riêng bước ra, đi đến nhà ăn chung, nơi khoảng 30 người tụ tập, phần lớn số này là phụ nữ làm việc cho ông. Ông đi đến bắt tay từng người và thủ thỉ nói vài tiếng mà không ai nghe rõ. Một màn nước mắt dầy phủ đôi mắt ông, theo Junge nhớ lại, "như thể nhìn đến nơi chốn xa xăm, vượt qua các bức tường của boong-ke".

Sau khi ông trở về phòng riêng, một điều kỳ lạ xảy ra. Sự căng thẳng đã tăng đến mức hầu như ngạt thở trong boong-ke đã tan biến, vài người đi đến căng-tin – để khiêu vũ. Tiếng ồn từ nhóm người này càng tăng thêm đến nỗi có lệnh đưa ra từ phòng riêng của Hitler yêu cầu giữ im lặng. Quân Nga có thể đến trong vài tiếng đồng hồ sắp tới và sẽ giết tất cả bọn họ – tuy số đông đang suy nghĩ làm cách nào để trốn thoát. Nhưng trong khoảnh khắc ngắn ngủi này, khi cuộc sống họ không còn ở dưới sự kiểm soát nghiêm ngặt của Hitler, họ muốn tìm thú tiêu khiển ở nơi và theo cách thức có thể nghĩ ra. Cảm giác thư giãn dường như lan rộng trong nhóm người này, và họ tiếp tục khiêu vũ suốt đêm.

Trưa 30 tháng 4 năm 1945, người vợ của ông có vẻ như không thấy đói, còn Hitler dùng bữa cùng với hai thư ký và người nấu bếp – người này không nhận ra là mình đã nấu bữa ăn cuối cùng cho ông. Họ ăn xong vào lúc 2 giờ rưỡi xế chiều. Trong lúc ấy, Erich Kempka, tài xế của Lãnh tụ, được lệnh mang 200 lít xăng đến giao ở khu vườn Phủ Thủ tướng. Kempka gặp vài khó khăn thu thập đủ lượng xăng như thế, nhưng cũng thu được 180 lít, rồi với 3 người khác phụ giúp mang đến cửa thoát hiểm của boong-ke.

Trong lúc ấy, Hitler đã ăn xong, đi tìm Eva Braun để cùng nói lời vĩnh biệt với những người phụ tá thân cận nhất: Göbbels, hai tướng Krebs và Wilhelm Burgdorf, các thư ký, và người nấu bếp Manzialy. Sau khi nói xong những lời vĩnh biệt, Hitler và vợ trở về phòng riêng. Ở hành lang bên ngoài, Göbbels, Bormann cùng vài người khác chờ đợi. Ít lâu sau, họ nghe một tiếng súng lục. Họ chờ nghe tiếng súng thứ hai, nhưng tất cả đều im lặng. Sau một lúc, họ nhè nhẹ bước vào phòng. Họ thấy thi thể của Adolf Hitler ngã dài trên băng ghế dài, đang rỉ máu. Ông đã tự bắn vào miệng. Eva Braun nằm kế bên ông. Hai khẩu súng lục nằm trên sàn, nhưng bà vợ không dùng súng. Bà đã nuốt thuốc độc.

Bây giờ là 3 giờ rưỡi chiều ngày Thứ Hai, 30 tháng 4 năm 1945, mười ngày sau sinh nhật thứ 56 của Hitler, mười hai năm ba tháng sau ngày ông trở thành Thủ tướng của nước Đức và thiết lập Đế chế thứ Ba. Đế chế này chỉ kéo dài hơn ông có một tuần.


Tiếp theo là tang lễ. Không ai cất lên lời nào; âm thanh duy nhất là tiếng đạn đại bác của Liên Xô nổ trong khu vườn Phủ Thủ tướng và trên những bức tường chung quanh. Người phục vụ của Hitler, Thiếu tá SS Heinz Linge, cùng một hộ lý mang thi thể của Hitler được quấn trong một tấm chăn che lấp khuôn mặt. Kempka trông thấy lộ ra ngoài tấm chăn là chiếc quần đen và đôi giầy mà Hitler luôn sử dụng. Thi thể của Eva Braun thì trông tươm tất hơn, không dính máu.

Hai thi thể được mang ra ngoài khu vườn, trong khi đại bác ngưng bắn, được để xuống một hố đạn rồi đốt bằng xăng. Nhóm người, do Göbbels và Bormann dẫn đầu, rút vào đứng trong hầm tránh bom nơi cửa thoát hiểm. Khi ngọn lửa bùng lên, họ đứng nghiêm, đưa cánh tay phải lên chào theo kiểu Quốc xã. Nghi thức diễn ra ngắn gọn, vì đạn pháo của Hồng quân lại bắt đầu rơi xuống khu vườn. Nhóm người còn sống đi vào bên trong boong-ke, để lại ngọn lửa làm nốt công việc xóa đi mọi dấu vết của Adolf Hitler và vợ của ông. Thủ đô Berlin thất thủ vào ngày 2 tháng 5 năm 1945, và những tên phát xít Đức còn sống sót đã đầu hàng.

Khởi đầu, người ta cho biết không tìm ra xương của hai người. Điều này nảy sinh lời đồn đại sau khi chiến tranh chấm dứt là Hitler còn sống. Nhưng quân báo Anh và Mỹ thẩm vấn độc lập vài nhân chứng cho thấy không có sự nghi ngờ gì. Sau này Liên Xô tiết lộ đã thu được mảnh vụn thi thể của Hitler kể cả một phần hộp sọ và xương hàm, được pháp y Nga, nha sĩ của Hitler và một pháp y Mỹ chứng nhận đúng là của Hitler.

(Còn nữa)
 
S

scientists

Nhận định về Hitler

Những thông tin trên được chủ yếu rút ra từ quyển The rise and fall of the Third Reich – A history of Nazi Germany, của William L. Shirer. NXB: Simon and Schuster, Inc., New York, N.Y., 1960. Tựu chung, quyển sách của Shirer được trích dẫn nhiều và không thấy gây tranh cãi nào, dù tác giả là một người Mỹ. Shirer chủ yếu dựa trên khối lượng tài liệu của Đức tịch thu được sau chiến tranh, vì thế tuy đưa ra nhiều chi tiết dồi dào nhưng có thể còn một chiều theo cảm quan của phía Đức (ví dụ như nhận định về các nhà lãnh đạo Tiệp Khắc).

Quyển Hitler at war and the war path (2002) của tác giả người Anh David Irving thì gây tranh cãi nhiều hơn vì cách trình bày cuộc chiến "theo quan điểm của Hitler", tuy Irving trích dẫn lời nhận xét của tờ báo Washington Post năm 1977: "Các sử gia người Anh luôn khách quan đối với Hitler hơn là các tác giả người Đức hoặc người Mỹ". Công bằng mà nói, Irving cũng nhận được nhiều lời khen ngợi.

Irving cho biết đã sử dụng nhiều nguồn tư liệu riêng tư nên cũng đưa ra vài ánh sáng mới. Lập luận của tác giả là Hitler không có quyền hành rộng lớn đối với cấp dưới như người ta vẫn tưởng, vì thế có nhiều việc cấp dưới làm mà Hitler không biết. Điển hình là cuộc tàn sát người Do Thái, vì không tìm ra bất kỳ văn bản nào của Hitler ra lệnh làm việc này. (Irving còn treo giải thưởng 1.000 bảng Anh cho ai tìm ra một văn bản cho thấy Hitler ra lệnh tàn sát người Do Thái).

Theo Irving, Hitler cũng không có tham vọng lãnh thổ đối với Anh quốc, trong khi Shirer cho rằng tuy Hitler ngưỡng mộ nền văn minh của Anh, ý đồ tấn công Anh là nghiêm túc, chỉ vì Đức không có đủ sức mạnh hải quân cho cuộc đổ bộ lên đất Anh.

Irving có ý công kích phe Đồng Minh, cho rằng Thủ tướng Anh Winston Churchill có trách nhiệm trong việc leo thang chiến tranh, rằng Đức tấn công Nga chỉ vì muốn đánh phủ đầu ý đồ của Nga định đánh Đức.

Irving cũng cho rằng tuy Hitler là con người tàn bạo và vô cảm, ông lại không đủ sắt đá khi cần thiết. Hitler không muốn tổng động viên dân Đức, đến nỗi các nhà máy thiếu công nhân nhưng phụ nữ Đức vẫn ở nhà. Trong một thời gian, Hitler không đối phó một cách cương quyết với những người chống đối ngay trong Quân đội Đức. Hitler thường thu mình trong tổng hành dinh của ông (cũng như Shirer nhận xét là Hitler không bao giờ đi thăm những vùng bị không quân Đồng Minh thả bom).

Cần ghi nhận rằng do lập luận gây tranh cãi của Irving về cuộc tàn sát người Do Thái, các nước Áo, Canada, Israel, New Zealand, Úc và ngay cả Đức đã cấm ông đặt chân lên nước họ. Ngày 20 tháng 2 năm 2006, ông bị Áo tuyên án tù 3 năm vì lập luận đối với cuộc tàn sát người Do Thái.

Cuốn phim Der Untergang (tựa tiếng Anh: Downfall) phát hành năm 2004 trình bày những ngày cuối cùng của Adolf Hitler, dựa trên quyển sách Inside Hitler's Bunker của sử gia Joachim Fest, hồi ký của Albert Speer và hồi ký của Traudl Junge, thư ký của Adolf Hitler. Đạo diễn Oliver Hirschbiegel xác nhận các nhà làm phim muốn thể hiện nhân cách ba chiều của Hitler: một người có sức thu hút cao và không kém nhân từ, hòa nhã đối với người dưới. Phim Der Untergang nhận được đề cử Giải Oscar về phim nước ngoài hay nhất năm 2005, và đoạt giải thưởng phim ảnh của đài BBC.

Ở nước Đức không hề có đài tưởng niệm Hitler, người đã cai trị dân tộc này bằng bàn tay sắt từ năm 1933. Không ai viếng mộ, mà cũng không ai rõ là mộ ông ta nằm ở đâu. Có thể là tro cốt, và cả hộp sọ của ông, vẫn được giữ bí mật trong một kho lưu trữ của Nga. Hoặc là có thể ở một quốc gia Đông Âu nào đó mấy năm trước, chúng đã bị gió thổi tan tác. Người ta đã cố tình tạo nên huyền thoại về thi hài của Hitler. Trong những năm ngay sau cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai, người ta sợ rằng những tín đồ trung kiên của Hitler có lẽ sẽ tụ tập đông đảo quanh mộ ông, và vinh danh ông. Nhưng cũng khi đó thì tất cả những thế lực chống đối Hitler đều muốn tổ chức phản đối tại địa điểm ấy. Để tránh xung đột và tranh cãi, người Liên Xô sau khi lấy được thi hài Hitler lúc chiến sự kết thúc, đã quyết định đem giấu nó đi ở nơi đâu đó.

 
S

scientists

Thiên tình sử huyền trân công chúa- Hoàng hậu Parmecvari champa

huy%C3%AAn+tr%C3%A2n.jpg


Trong vài trăm năm trở lại đây người ta chỉ hiểu câu chuyện tình sử Vua Chế Mân và Công Chúa Huyền Trân qua thi ca còn truyền tụng đến ngày nay của một vài tác giả ngày xưa viết theo cảm tính tự tôn và phiến diện . Cũng theo lối mòn đó, ngày nay những tập san văn nghệ, báo chí cũng thường hay dựa vào câu thơ do bia miệng truyền lại để viết về tình sử Chế Mân và Huyền Trân không được chính xác đầy đủ bởi vì thiếu sự kiện bối cảnh lịch sử .
Như sử gia Trần Trọng Kim đã nói: Việt Nam đến thế kỷ thứ 13 mới có lịch sử; mà các sử gia là những người làm việc dưới quyền chỉ đạo của Vua chúa, cho nên sự kiện lịch sử chưa hẳn đã được ghi lại trung thực, mà thường hay bị chính trị bóp méo ngòi bút của sử gia.Cho nên theo thiển kiến của tác giả viết bài này, chúng ta cần phải suy luận và dùng quan điểm cá nhân để soi sáng lại phần sự kiện lịch sử nào đôi lúc xét thấy còn mập mờ .
Năm 1479, sử thần Ngô Sĩ Liên là người đầu tiên tuân lệnh Vua Lê Thánh Tông sử dụng truyền thuyết dân gian để biên soạn lịch sử: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Mà đã là truyền thuyết thì không thể hoàn toàn là sự thật vì truyền thuyết được nhân gian tưởng tượng thêu dệt bằng những chi tiết ly kỳ nên có phần mang tính hư cấu của nó . Do đó để tránh sự hiểu biết lệch lạc về cuộc hôn nhân giữa Huyền Trân Công Chúa và Vua Chế Mân, ít ra cũng nên hiểu biết sơ qua về bối cảnh lịch sử của thời Vua Trần Nhân Tông Đại Việt và Vua Chế Mân Chiêm Thành, vì từ bối cảnh lịch sử đó mới đưa đến cuộc tình lịch sử đầy vương giả nàỵ

Bối cảnh lịch sử thời Vua Trần Nhân Tông và Vua Chế Mân
Năm 1253, đế quốc Mông Cổ Hốt Tất Liệt xua quân xâm lăng Trung Hoa đời nha` Tống, dựng nên nhà Nguyên gọi là thời kỳ Nguyên Mông hay gọi tắt là nha` Nguyên bên Tàu .
Theo Việt Nam Sử Lược, sau khi tiêu diệt nhà Tống Trung Hoa, nhà Nguyên bắt đầu xâm lăng Đông Nam Á . Trong phạm vi bài này, chỉ xin nói đến giai đọan lịch sử đời Trần Nhân Tông và Chế Mân ở Đông Dương theo tiến trình lịch sử như sau:
1258-1288: Nhà Nguyên xâm lăng Đại Việt
Trong giai đọan 30 năm lịch sử này, nhà Nguyên 3 lần tiến quân sang xâm lăng Đại Việt nhưng đều thảm bại vì sự chống trả quyết liệt của Đại Việt . Tuy ngăn chận được ý đồ xâm lăng của quân Nguyên, nhưng Đại Việt vẫn thần phục nhà Nguyên dưới hình thức dâng cống phẩm hàng năm để tạo sự hiếu hoà giữa hai dân tộc và đây cũng là sách lược ngoại giao của Vua Trần Nhân Tông có tánh cách nhún nhường cả nể một chút để bảo tồn sự độc lập của một nước nhỏ bé bên cạnh nước phương bắc khổng lồ luôn có ý đồ thôn tính các nước liên bang. Do đó lúc nào Đại Việt cũng lo âu phập phồng đối với mộng xâm lăng bành trướng của đế quốc phưong bắc có thể xảy ra bất cứ lúc nào .
Nằm trong giai đoạn 30 năm lịch sử này của Đại Việt, vào năm 1284-1285 Vua Chế Mân Champa đã đem quân cứu viện cho Vua Trần Nhân Tông để đánh bại cuộc xâm lăng của quân Nguyên ở Nghệ An .
1282-1284: Dưới sự thống lãnh của Toa Đô, nhà Nguyên ào ạt xâm lăng Champa nhưng bị Vua Chế Mân giáng trả oanh liệt đánh bại quân Nguyên lui về cố quốc.
1292:Trên đường rút quân khỏi đảo Sumatra của nước Java (Nam Dương), quân Nguyên đổ bộ lên bơ` biển Champa lại bị Vua Chế Mân đánh bạt ra biển Nam Hải để lại cả trăm chiến thuyền tan nát và hàng vạn xác chết nằm ngổn ngang bên bờ cát trắng của miền biển Champa .
Kể từ 1253 khi Hốt Tất Liệt tiêu diệt được nhà Tống và lập nên nhà Nguyên cho đến khi Hốt Tất Liệt qua đời vào năm 1294, đây là giai đoạn lịch sử làm cho Đại Việt thời Trần Nhân Tông và Champa thời Vua Chế Mân vô cùng khốn khổ với mộng xâm lăng của quân Nguyên, và hai nhà Vua của hai quốc gia Việt – Chiêm dựa lưng vào nhau để chống quân Nguyên, đó cũng là lý do Trần Nhân Tông và Chế Mân rất có hảo cảm với nhau Vài đặc điểm của Vua Trần Nhân Tông và Vua Chế Mân

Vua Trần Nhân Tông
Một vị Vua anh hùng ái quốc (đánh đuổi quân Nguyên) và nhân hậu (Toa Đô nhà Nguyên tử trận lúc tấn công Đại Việt tại mặt trận Tây Kết, Vua Trần Nhân Tông đã cởi áo long bào đắp cho Toa Đô và cho mai táng theo đúng nghi lễ trang trọng).
Là một vị Vua đạo đức không tham quyền cố vị (nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông để làm Thái Thượng Hoàng, khoác áo cà sa nghiên cứu kinh Phật, tu hành trên núi Yên Tử).
Trần Nhân Tông làm Vua 13 năm, Thái Thượng Hoàng 14 năm, tất cả là 27 năm và băng hà lúc 51 tuổi .

Vua Chế Mân
Một vị Vua anh hùng ái quốc (đánh đuổi quân Nguyên) và đạo nghĩa (tha tội chết cho một viên chỉ huy quân binh Champa toan toa rập với địch quân (quân Nguyên) nhưng tước hết binh quyền đuổi về quê làm ruộng và còn là một vị Vua nhân hậu (xem xét giấy tờ tùy thân những binh sĩ quân Nguyên đã tử trận trên bờ biển Champa rồi cho hỏa táng riêng biệt từng người, bỏ tro cốt vào hủ sành riêng mỗi người và dán tên họ lên, đồng thời cấp cho một chiếc thuyền, tha tội chết cho 10 tên giặc Nguyên bị bắt sống mang theo tro cốt đuổi về Tàu
Vua Chế Mân làm Vua được 26 năm và băng hà lúc 50 tuổi .

Đại Việt dưới thời Trần Nhân Tông
Guồng máy chính trị quân sự được kiện toàn vững chắc nhờ Vua Trần Nhân Tông và các quan trong triều có nhiều tài đức. Tinh thần dân tộc đoàn

kết, kinh tế phồn thịnh, dân sinh ấm no hạnh phúc, có một nền văn hóa dân tộc nhân bản. Nhờ sức mạnh này Vua quan nhà Trần đã nhiều lần đập tan được mộng xâm lăng của Bắc phương.
Champa dưới thời Chế Mân
Hùng cường về quân sự, văn hóa nghệ thuật phát triển sáng ngời. Nền hành chánh chánh trị tổ chức vững vàng, nền kinh tế phồn thịnh và có một nền ngoại thương ngành hàng hải phát triển mạnh từ khi Vua Chế Mân kết hôn với Công Chúa Tapasi của Java (Nam Dương ngày nay).
Theo lời kể của cụ Bố Thuận, một học giả Champa và là một chuyên viên nghiên cứu về Champa của trường Viễn Đông Bác Cổ Hà Nội trong thời kỳ Pháp thuộc

Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông và cuộc viễn du Chiêm Thành:
Vua Chế Mân là một anh hùng hào kiệt, quyết liệt với địch quân xâm lược nhưng lại là một vị Vua hiếu hòa . Tháng 3 năm 1301, Vua Chế Mân đã cử sứ thần hướng dẫn ngoại giao đoàn sang Đại Việt cùng với nhiều tặng phẩm quí giá: ngọc ngà châu báu, sừng voi, tê giác, lụa là vàng bạc với ước muốn đặt nền tảng bang giao với Đại Việt trong tình hữu nghị lâu dài để cùng tồn tại trước móng vuốt xâm lược của đế quốc Trung Hoa .
Khi đoàn sứ thần ngoại giao của Champa đến Đại Việt, lúc ấy Vua Trần Nhân Tông đã là Thái Thượng Hoàng mặc áo cà sa tu hành tại một ngôi chùa trên núi Yên Tử, nhường ngôi lại cho con là Trần Anh Tông. Đây là giai đoạn cực thịnh của Phật giáo trên đất Việt. Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông là người nhân từ sùng kính đạo Phật, say sưa nghiên cứu kinh kệ Phật pháp và yêu thích cảnh gió núi mây ngàn, thích ngao du sơn thủy đó đây và vẫn cố vấn cho Vua Trần Anh Tông trong vấn đề điều hành việc dân việc nước.
Nhân phái đoàn ngoại giao Champa được Vua Chế Mân cử đến thăm viếng ngoại giao với Đại Việt và mong muốn kết tình hữu nghị; Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông nhớ lại người xưa tức Vua Chế Mân của Chiêm Thành cách đây bảy năm đã cùng dựa lưng nhau chống trả quân Nguyên tại Nghệ An; nên để đáp lại tấm thịnh tình của Vua Chế Mân, Ngài quyết định theo chân ngoại giao đoàn Chiêm Thành về thăm Chiêm quốc và Vua Chế Mân, cùng ngao du sơn thủy nghiên cứu Phật pháp bên Chiêm Thành.
Trong bộ áo cà sa, Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông và đoàn tùy tùng cùng với sứ đoàn Champa sau thời gian cả tháng trường nay đã đến kinh thành Champa . Được tin quân báo, Vua Chế Mân hân hoan ra đón tận cổng thành Đồ Bàn để mừng đón Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông Đại Việt. Một cuộc tiếp đón vô cùng long trọng dành cho một vị quốc khách. Hai nhà Vua Việt – Chiêm có nhiều điểm tương đồng hợp ý như đã nêu ở phần bối cảnh lịch sử : cùng có một quá khứ oai hùng đầy máu xương khi chống phá quân Nguyên cũng với một tâm nguyện kết tình hữu nghị để cùng tồn tại trước tham vọng điên cuồng tàn bạo của quân Nguyên; cùng đạo đức nhân hậu, anh hùng và ái quốc giống nhau, tâm đầu ý hợp đã kéo dài cuộc thăm viếng của Thái Thượng Hoàng đến chín tháng trời, được Vua Chế Mân hướng dẫn đi thăm viếng nhiều nơi danh lam thắng cảnh cũng như những địa điểm đặc biệt liên quan đến văn hóa, tôn giáo của nước Chiêm Thành như Ngũ Hành Sơn, Thánh địa Mỹ Sơn, trung tâm Phật giáo vĩ đại ở Đồng Dương..v..v.. hều hết đều nằm trong lãnh địa Amaravati cũ tức từ Quảng Trị Thừa Thiên đến Quảng Nam Đà Nẵng ngày nay . Mỗi nơi đi qua Ngài đều lưu lại một thời gian. Lần lượt, Thái Thượng Hoàng được Vua Chế Mân hướng dẫn đi thăm viếng hầu hết các đền tháp thuộc lãnh địa Vijaya, Kâuthara và Panduranga, tới đâu cũng được các lãnh chúa mỗi vùng tiếp đón long trọng .
Đặc biệt là Tu Viện Đồng Dương là một kinh đô có một nền kiến trúc vĩ đại, một thành phố tráng lệ bậc nhất vào thời đại này tại Đông Dương, thời Vua Indravarman đệ nhị . Ngài là một vị Vua sùng bái đạo Phật; vào năm 875 Công Nguyên đã xây một Phật Viện vĩ đại lấy tên là Laksmindra-Lokesvara. Đây là một trung tâm Phật giáo Champa lớn nhất, có vô số kinh điển Phật học trong lịch sử đất nước và có một nhà sư Aán Độ nổi tiếng uyên thâm về Phật học trụ trì tại trung tâm Phật giáo này . Thái Thượng Hoàng trong bộ áo cà sa của Đại Việt đã dành hai phần ba thời gian thăm viếng Chiêm Thành để nghiên cứu Phật Pháp tại tu viện Đồng Dương .
Trong thời gian lưu lại 9 tháng ở Champa, Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông cùng Vua Chế Mân tham dự những lễ hội lớn của dân tộc Champa . Ngài đã mục kích tận mắt và rất thiện cảm với dân tộc Champa trông có vẻ bình dị và hiền lương này . Ngài cũng được thưởng ngoạn những điệu múa hát theo điệu Tây Thiên Trúc (của Aán Độ) qua nghệ thuật trình diễn của các cô Chiêm nữ trong xiêm y lụa là vừa nhẹ nhàng vừa thanh thoát và những điệu múa trong cung đình Champa ảnh hưởng vũ điệu của nữ thần nghệ thuật Sravastri và thiên thần vũ nữ Apsara ..v..v.. Ngài cũng tìm hiểu những phong tục tập quán của dân tộc Champa thật thích thú .
Bao nhiêu dáng vẻ thâm nghiêm kỳ vĩ của nền kiến trúc đền tháp, tu viện, bảo tháp, Phật đường, với vô số kinh điển .v..v… với những đường nét điêu khắc chạm trổ thật tinh vi sắc sảo đã nói lên một nền hoa phong tuyệt mỹ của các điêu khắc gia Champa. Nền kiến trúc này đã tô điểm cho giang sơn gấm vóc Champa thêm phần xinh đẹp và đã nói lên sự lớn mạnh và văn minh của một dân tộc. Một đất nước xinh đẹp, mưa thuận gió hòa, đất đai phì nhiêu được xây dựng và gìn giữ bởi một dân tộc lương thiện an hoà, bởi một quân đội gồm kỵ binh, tượng binh, bộ binh và hải quân; nền kinh tế nông nghiệp phồn thịnh, một nền văn hóa nhân bản đầy bản sắc dân tộc Champa và được cai trị bởi một vị Vua Chế Mân anh hùng ái quốc, nhân hậu lịch duyệt …; chừng ấy dữ kiện đã mang đến cho Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông một cảm xúc đặc biệt, một tình cảm nồng nàn mà Ngài tưởng chừng như bị cuốn hút bởi Vua quan, lương dân và đất nước Champa đã dành cho Ngài trong cuộc viễn du kỳ thú này.
Một sáng cuối thu năm 1301, tại thành Vijaya (Đồ Bàn) mây giăng bàng bạc, không gian và thời gian như chùng lại, muốn níu gót viễn du của Thái Thượng Hoàng trong bộ áo cà sa chuẩn bị quay về Đại Việt sau 9 tháng viễn du thăm viếng Champa.

(Còn nữa)

 
S

scientists

Trước mặt bá quan văn võ trong triều đình Champa, Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông với khuôn mặt khôi ngô phúc hậu và cũng đầy nét uy vũ, Ngài đã long trọng tuyên bố ước gả Huyền Trân Công Chúa cho Vua Chế Mân . Đây là lời minh thị của một Thái Thượng Hoàng đầy quyền uy với triều thần Trần Anh Tông và là nhà sư uyên bác, đức hạnh và trung tín của Trúc Lâm Thiền Sư Yên Tử sơn.
Sự ước gả này để thực hiện một sách lược hoà thân của hai vị lãnh đạo quốc gia hiếu hoà Việt – Chiêm để rồi Công Chúa Huyền Trân sẽ là Hoàng Hậu Champa, Vua Chế Mân sẽ là Phò Mã Đại Việt. Hai nước láng giềng sẽ có mối liên hệ tình thân gia đình (con của Huyền Trân sẽ là cháu ngoại của Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông) và còn đoàn kết liên minh với nhau cùng tồn tại và cùng đối phó với mộng xâm lược có thể xảy ra bất cứ lúc nào của đế quốc bắc phương tràn xuống các nước phía nam, đó là ý nghĩa của sách lược hòa thân của Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông và Vua Chế Mân.
Sách lược hòa thân (từ ngữ Hòa Thân theo giáo sư Huỳnh Văn Lang) này đã bị triều thần Trần Anh Tông biến thành một sự đổi chát đưa đến tráo trở và thất tín sẽ đề cập chi tiết ở phần sau .
VUA CHẾ MÂN CẦU HÔN
Tháng 02/1302 Vua Chế Mân cử sứ thần Chế Bồ Đài hướng dẫn một phái đoàn hơn một trăm người đem vàng bạc châu báu, trầm hương, ngọc ngà v.v… sang Đại Việt để xin cầu hôn với Công Chúa Huyền Trân theo lời ước gả của Vua cha Trần Nhân Tông; nhưng triều thần Trần Anh Tông có người thuận có người không. Họ muốn biến đổi cuộc hôn nhân như một sách lược Hoà Thân của Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông thành một chủ trương mậu dịch, ngoài lễ vật nêu trên, triều thần Trần Anh Tông còn buộc Vua Chế Mân phải nạp thêm đất đai gọi là “lễ Nạp Trưng” theo phong tục Việt Nam và Trung Hoa Trần Nhân Tông với uy quyền của một Thái Thượng Hoàng, Ngài không bao giờ đặt ra vấn đề đổi chát hay mậu dịch, mà vai trò Huyền Trân là một sứ giả hoà bình, dùng hôn nhân để thực hiện sách lược Hoà Thân giữa hai gia đình và hai nước láng giềng vẫn thường hay lục đục trước đây, để cùng nhau liên minh trong tình gia đình, trong tình thân giữa hai nước thực sự đoàn kết với nhau để chống lại hiểm họa xâm lăng từ đế quốc bắc phương tràn xuống lúc nào không hay; hơn nữa Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông, Ngài còn là một nhà sư Trúc Lâm của Yên Tử Sơn, ảnh hưởng sâu sắc triết lý nhà Phật, nên việc đòi đất đai của dân tộc khác là sai với tôn chỉ từ bi vô lượng vô biên, công bằng bác ái, phóng khoáng của đạo Phật và sẽ có nhân quả không tốt đẹp về sau .
Trước sức ép của triều thần Trần Anh Tông, Vua Chế Mân đành phải lấy hai châu ở biên thùy để làm “lễ nạp trưng” thoả mãn một số quần thần Trần Anh Tông đòi hỏi hầu xúc tiến cuộc hôn nhân thực hiện sách lược Hoà Thân Việt – Chiêm.
Việc hiến cống hai châu Ô Lý để làm quà sánh lễ cưới Công Chúa Huyền Trân đã bị triều thần Champa phản kháng dữ dội và thần dân Champa ở hai châu Ô và Lý cũng như cả nước Champa đều phẩn nộ trước quyết định sai trái của Vua Chế Mân; nhưng thời đó Vua là Thiên Tử nắm hết giang sơn và thiên hạ, nên dân tộc Champa đành chịu vậy trong ngấn lệ xót xa .
Ngày nay hậu duệ của Champa cho rằng việc dâng đất để làm sính lễ cưới Huyền Trân là một sự sai lầm của Vua Chế Mân vì đó là vùng chiến lược quân sự địa đầu rất quan trọng. Từ châu Ô châu Lý nhìn xuống thấy cả đồng bằng hẹp nhưng phì nhiêu và cả chiều dài của bờ biển (miền Trung ngày nay) với bãi cát trắng phau trông giống người phụ nữ nằm để lộ cặp đùi nõn nà khiến cho anh dâm đãng Hốt Tất Liệt thèm thuồng nhỏ nước miếng muốn chiếm đoạt .
Sau khi Vua Chế Mân đồng ý nạp hai châu Ô và Lý, Vua Trần Anh Tông và quần thần xem như một món lợi to lớn nên đã hân hoan gả Huyền Trân cho Vua Chế Mân vào tháng 06/1306 năm Bính Ngọ
CÔNG CHÚA HUYỀN TRÂN TRÊN ĐƯỜNG VỀ CHIÊM QUỐC
Tháng 06 năm Bính Ngọ (1306), Vua Trần Anh Tông cử Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi, Ngự Sử Đoàn Nhữ Hải và Thượng Tướng Trần Khắc Chung cầm đầu phái đoàn Đại Việt gồm nhiều quan quân hộ tống để đưa tiễn cô dâu Huyền Trân về Chiêm Thành.
Từ thủ đô Thăng Long của Đại Việt ra đến bến sông Hồng Hà, quần chúng đứng đầy dọc hai bên thành lộ với cờ xí và biểu ngữ chúc mừng chúc tụng lên đường bình an dành cho công chúa thân yêu của Đại Việt xuôi về Nam để kết duyên cùng Vua Chiêm Thành để thực hiện lời giao ước của Vua cha là Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông (quân vô hý ngôn).
Một công chúa tuổi vừa độ đôi mươi xinh đẹp, con nhà Vua chúa, học thức và đạo hạnh lại phải xa lìa tổ ấm gia đình tại cung đình, xa lìa quê hương yêu dấu, ngàn dặm ra đi, lênh đênh nghìn trùng sóng vỗ để làm dâu xứ lạ, lòng dạ nào lại không bịn rịn lúc ra đi .
Ngày xưa bên Trung Hoa, thời Hán Nguyên Đế có Vương Chiêu Quân có vẻ đẹp phi phàm trầm ngư (chìm đáy nước cá lờ đờ lặn) vương giả sang trọng. Trong ngày từ biệt Vua Hán Nguyên Đế ra đi làm Hoàng Hậu một xứ xa lạ ở nước Hung Nô, có thi nhân thời đó ở Trung Hoa làm thơ cảm thán:
Cô ơi cô đẹp nhất đời
Mà sao mệnh bạc thọ trời cũng thua
Một đi từ biệt cung Vua
Có về đâu nữa đất Hồ ngàn năm!
(Huyện Nẻ Nguyễn Thiện Kế)

Đối với Huyền Trân cũng vậy, tâm trạng nàng vô cùng ngổn ngang, vừa gạt lệ giã từ Phụ Hoàng và Mẫu Hậu, người thân, giã từ quê hương mẫu quốc đồng bào ruột thịt, vừa nao nao bồn chồn hướng về một khung trời hạnh phúc xa xôi mờ mịt chưa biết ra sao ? Những thế hệ về sau, có vài thi nhân đã cảm thông với nỗi niềm của kiếp hoa trôi dạt nên có những câu tự sự Nam Bình được dân Thuận Hóa hát theo điệu Chiêm Thành:
Nước non ngàn dặm ra đi
Mối tình chi
Mượn màu son phấn
Đền nợ Ô Ly
Đắng cay vì đương độ xuân thì …
(tác giả vô danh)

Sau hồi trống giục, nàng phải bước chân xuống thuyền hoa với đoàn tùy tùng hộ tống của Đại Việt và sự hướng dẫn thủy lộ của đoàn Sứ Bộ Chiêm Thành; trong cờ xí phất phới tiễn đưa cũng có sự sụt sùi giữa kẻ đi người ở … Đoàn thuyền hoa rời bến sông Hồng để ra cửa biển xuôi về Nam.
Gió đông nam thổi nhẹ nhưng hoa sóng đại dương vẫn nở rì rào như tâm sự người đi xa, mặt biển trong xanh dưới bầu trời sáng chói của muà xuân ban ngày, và khi hoàng hôn bao trùm, cả mặt biển trở thành đen nghịt, chỉ có hàng vạn vì sao trên bầu trời lấp lánh như những hạt kim cương tô lên một bức họa ánh sáng thâm trầm. Lòng cô gái xuân thì trên đường vu qui rộn rã không biết bao nhiêu tâm sự …
Lời Phụ Hoàng, người cha già kính yêu đã căn dặn trước khi về Chiêm Quốc: những tháng ngày trước đây Phụ Hoàng đã viễn du xứ Chiêm Thành, đất nước họ đẹp đẽ, một dân tộc hiền lương có nền văn hóa riêng biệt rực rỡ . Chế Mân là một vị Vua biết yêu thương nòi giống, một anh hùng hào kiệt, lịch duyệt và nhân hậu, không phải là một hôn quân bạo chúa . Con hãy làm tròn bổn phận một sứ giả hoà bình, đem lại tình thân thiện giữa hai dân tộc Việt – Chiêm. Đối với Chế Mân sau này sẽ là phu quân của con, con phải biết đạo tam tòng tứ đức, phu xướng phụ tùy của người phụ nữ Á đông và phải xứng đáng là một “mẫu nghi thiên hạ” . Nghĩ đến lời Phụ Hoàng còn văng vẳng bên tai, lòng nàng se lại và ấm áp hơn rồi chìm dần trong giấc ngủ mơ hoa, bồng bềnh trên sóng nước đại dương trôi dần về Chiêm Quốc.
Trong khi đó ở Chiêm Quốc, Vua Chế Mân cử quan Ngự Sử Chế Bồ Đài cầm đầu một số quần thần, binh lính và toán Ngự Lâm Quân theo hộ giá nhà Vua để đón rước cô dâu Huyền Trân cùng phái đoàn Đại Việt tại hải cảng Pat-Thinưng (Thị Nại Bình Định ngày nay)
Sau những ngày lênh đênh trên biển cả mênh mông, đoàn thuyền hoa đưa tiễn Công Chúa Huyền Trân của Đại Việt đã vào đến lãnh hải Vijaya (Bình Định) và hướng dần vào cặp bến cảng Pat-Thinưng do sự hướng dẫn của đoàn Sứ Bộ Chiêm Thành.
Công Chúa Huyền Trân lòng dạ bồn chồn muốn sớm trông thấy mặt Vua Chế Mân, nhưng hơi lo âu vì nếu phu quân Chế Mân quá dị dạng như anh chàng Trương Chi thì làm sao đây hỡi Phụ Hoàng của con! Liệu con có làm nổi những lời khuyên của Phụ Hoàng kính yêu hay không ?
Đoàn thuyền hoa Đại Việt vừa cặp sát vào cầu bến cảng Pat-Thinưng thì đoàn quân binh, quần thần, toán ngự lâm quân, các nữ tỳ .v..v… cùng Vua Chế Mân đã có mặt ở bến cảng trước rồi .
Khi một Hòa Thượng trong phái đoàn Đại Việt cùng các vị quần thần như Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi, Thượng Tướng Trần Khắc Chung, Ngự Sử Đoàn Nhữ Hải bước lên bờ cảng thì quần thần và Ngự Sử Chế Bồ Đài Chiêm Thành đã đón chào thân mật, trong khi đó Vua Chế Mân từ trên kiệu vàng rực rỡ bước ra, con người cao lớn, nước da sáng, mũi cao, tóc hơi gợn sóng phía trước, đôi mắt sáng ngời thoáng nét đa tình và dáng vẻ hào hoa phong nhã nhưng không kém phần uy dũng của một quân vương, ngang hông mang một thanh kiếm báu với vỏ kiếm bằng vàng, chuôi kiếm bằng ngà voi khảm ngọc . Đầu đội chiếc mũ bằng vàng cao hình trụ, trên đỉnh nhọn của mũ có gắn một viên ngọc tỏa ra ánh sáng với nhiều màu sắc khác nhau trông vừa đẹp mắt vừa uy nghi. Mình mặc áo lụa thượng hạng màu trắng, đường viền cổ áo, hai tay áo và song song với hai hàng nút đều bằng kim tuyến bằng vàng lấp lánh, và một đai vàng dát mỏng thắt ngang lưng, khoác ngoài một chiếc áo lông bào . Chân mang hia màu đen có thêu hình con chim Garuda màu đỏ …
Huyền Trân Công Chúa từ trong kiệu hoa, sau khi cô tỳ nữ nhẹ vén màng che trước kiệu hoa, nàng nhìn ra ngoài thấy Quốc Vương Chế Mân, đôi má nàng ửng hồng lên, ý nghĩ về Chiêm Quốc bây giờ không những để làm sứ giả hòa bình mà còn đến Chiêm Thành với lòng dạ băng trinh của một cô thanh nữ xuân thì vu qui về nhà chồng; nàng thầm cảm ơn Phụ Hoàng đã khéo chọn cho nàng một đấng phu quân xứng đáng để sửa túi nâng khăn. Huyền Trân nhẹ nhàng bước ra khỏi kiệu hoa, e ấp thẹn thùng, khép nép; nàng chắp hai tay trước ngực cuối mình quì phục xuống chào, Vua Chế Mân lật đật đến sát bên nàng đưa hai tay nhẹ nhàng đỡ nàng đứng dậy. Như hai luồng điện âm dương giao cảm; đôi bàn tay nhỏ bé thon thả xinh đẹp của nàng nhẹ nhàng như cánh bướm đậu trên nụ hoa thật ấm áp trong đôi lòng bàn tay của Quân Vương. Bằng một giọng êm đềm dịu vợi, Công Chúa Huyền Trân tâu: Xin đa tạ Thánh Thượng đã nhọc công đón tiếp bằng tiếng Champa (Triều đình Trần Anh Tông mời một người Chăm sống ở Đại Việt dạy tiếng Chăm cũng như phong tục và văn hóa Champa trước khi nàng lên đường về Chiêm Quốc). Vua Chế Mân đăm đăm nhìn nàng trong sự ngạc nhiên, không ngờ nàng ăn mặc y phục trang sức theo mỹ thuật Champa, lại nói được cả ngôn ngữ Champa. Rồi nhà Vua nở nụ cười và ân cần hỏi nàng có khỏe không, ta rất lo âu sóng nước trùng dương làm nàng mệt mỏi, ta xin lỗi nàng. Công Chúa Huyền Trân duyên dáng chắp tay cuối đầu khẽ tâu: nhờ hồng ân của Thánh Thượng, thần thiếp và tất cả mọi người trong đoàn thuyền hoa đều khỏe mạnh, chỉ có chút say sóng.Vua Chế Mân nhẹ nhàng dìu Huyền Trân lên kiệu vàng rực rỡ, những chiếc kiệu nhỏ hơn để dọc một hàng sau dành cho các đại diện triều thần Trần Anh Tông và các quần thần Champa; những thành phần nhỏ hơn đi ngựa lững thững theo sau, cùng với toán ngự lâm quân, binh lính hướng về thành Vijaya (thành Đồ Bàn). Con đường từ hải cảng Pat-Thinưng đến cửa thành Đồ Bàn dài khoảng 8 km. Hai bên đường là hai hàng dương liễu óng ả mượt mà xanh thẩm như đón chào cô dâu từ Đại Việt đến .

(Còn nữa)
 
S

scientists

Đoàn rước dâu rời khỏi bến cảng Pat-Thinưng chẳng bao lâu, chỉ còn một dặm nữa đến thành Đồ Bàn. Hai bên đường tới đây không còn cây dương, chỉ có trồng hoa Vong, hoa Phượng, hoa Quỳ dọc hai bên đường trông rất được mắt. Quần chúng Champa đứng đón hai bên đường với áo quần đẹp đẽ, cờ xí phất phới, biểu ngữ giăng đầy, chiêng trống hòa lẫn với lời hô chào vang dậy chào đón cô dâu Đại Việt.
Thành Đồ Bàn rộng mênh mông, thành quách tráng lệ vây quanh. Bên ngoài thành Đồ Bàn, phía Tây của thành:
- Nơi ngựa hí chuông rền vang trong gió
(Chế Lan Viên)

Phía Nam thành:
Đây chiến thuyền nằm mơ trên sông lặng
Bầy voi thiêng trầm mặc dạo quanh thành
(Chế Lan Viên)

Khi Quốc Vương Chế Mân và hai phái đoàn đưa rước Công Chúa Huyền Trân vào trong khuôn viên cung đình, trước mắt Huyền Trân:
Đây điện các huy hoàng trong ánh nắng
Những đền đài tuyệt mỹ dưới trời xanh
(Chế Lan Viên)

Huyền Trân như lạc vào cõi mộng, khi đăm chiêu suy nghĩ, khi ngẩn ngơ nhìn những lâu đài điện các, gác tía cung son, tháp nước, miếu đường, đại sảnh nguy nga .v..v… không biết bao nhiêu khu được xây dựng theo hàng lối ngay thẳng nếp na, với những công trình kiến trúc vĩ đại tráng lệ, thâm nghiêm hòa hợp bởi hai nền văn minh kiến trúc của Chiêm Thành và Ấn Độ, tất cả đều xây dựng bằng gạch, được sơn phết đẹp mắt . Cả khu triều đình rộng lớn đồ sộ ấy đều được lát gạch Bát Tràng, trông nổi bật rực rỡ . Cũng trong khuôn viên triều đình, ngoài lầu son gác tía, còn có những hương liệu kỳ nam, trầm hương, những loài hoa quí như hoa lan, hoa Champa; chim ưng, chim yến, bạch tượng.v..v… cung tần, mỹ nữ, hoa gấm lụa là v.v.. đã nói lên một sức sống đầy thi vị trong một thế giới cung đình riêng biệt, thế thì tại sao có người dị nghị cho Chiêm Thành là man di ? Thật không trung thực chút nào, chỉ do đố kỵ tự tôn mà ra . Thảo nào Phụ Hoàng không ngớt lời khen ngợi đất nước Chiêm Thành. Đang khi với ý nghĩ miên man, Quốc Vương Chế Mân khẽ bảo với Huyền Trân: nàng và các nữ tỳ sẽ được các cung nữ Chiêm Thành đưa vào hậu cung nghỉ ngơi chờ ngày mai thiết triều để chính thức sắc phong Hoàng Hậu cho Công Chúa theo lời ta đã hứa với Thái Thượng Hoàng của Đại Việt tức thân phụ của nàng trước đây .

(Còn nữa)
 
S

scientists

LỄ PHONG TƯỚC HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA - HOÀNG HẬU PARMECVARI CỦA CHIÊM THÀNH
Lễ phong tước Hoàng Hậu cho Công Chúa Huyền Trân được tổ chức trọng thể . Tất cả các vị lãnh chúa từ các lãnh địa Amaravati, Vijaya, Kâuthara, và Panduranga đều có
mặt từ hôm trước như đã dự định. Các bậc tăng lữ, các quần thần văn võ đều tề tựu đông đủ . Các quan Phủ quan Huyện và các đoàn thể quần chúng quanh vùng thành Đồ Bàn đều có mặt trong triều đình để làm cho lễ phong tước được long trọng .
Công Chúa Huyền Trân được các tỳ nữ Chiêm Thành và viên quan đặc trách lễ tấn phong hướng dẫn Công Chúa vào đại sảnh sau khi phái đoàn Đại Việt đã đến trước và ngồi vào vị trí ấn định sẵn .
Vua Chế Mân từ trong nội cung bước ra với dáng vẻ uy nghi, đường bệ pha lẫn với phong cách hào hoa phong nhã của một Quốc Vương văn võ song toàn. Tất cả mọi người trong đại sảnh thiết triều đều quì phục xuống nghênh chào bệ hạ . Vua Chế Mân vội vã bước đến hai tay nhẹ nhàng đỡ lấy Công Chúa Huyền Trân đứng dậy và dìu nàng ngồi vào chiếc bành kỷ dát vàng bọc quanh viền bên cạnh chiếc ngai vàng khảm ngọc dành cho Hoàng đế . Ngài truyền cho mọi người bình thân. Sau đó Quốc Vương Chế Mân long trọng tuyên bố : “Trong không gian đại sảnh của cung đình Champa, hôm nay, tại thời khắc vàng son của lịch sử này, Công Chúa Huyền Trân chính thức là phu nhân của Trẫm, ta phong tước Hoàng Hậu cho nàng với tước hiệu là Hoàng Hậu Paramecvari của Champa . Hoàng Hậu Paramecvari là mẫu nghi thiên hạ và cũng là nàng dâu của dân tộc và đất nước Champa . Những tràng pháo tay tung hô vang dội cả cung đình . Quốc Vương Chế Mân chỉ thị cho viện Hàn Lâm phụng chỉ viết tờ Chiếu để nhà Vua ban hành bố cáo cho thần dân toàn quốc Champa để tri tường .
Sau đó đại diện triều đình Đại Việt lên chúc mừng Hoàng đế Chế Mân và Hoàng Hậu Paramecvari được an khang trường thọ để chăn giữ muôn dân Champa và đem lại sự hòa thân đoàn kết giữa hai dân tộc Việt – Chiêm, cùng kiến tạo hòa bình, cùng tồn tại trước mọi mưu đồ xâm lăng từ nước khổng lồ phương bắc .
Đến khi hoàng hôn vừa bao phủ vạn vật, không gian và vũ trụ chìm trong ánh sáng của trăng sao huyền hoặc; nơi cung đình Champa hoa đăng nở rộ sáng trưng khắp nội thành Vijaya . Vua Chế Mân và Hoàng Hậu Paramecvari đôi trai tài gái sắc hàng đầu của dân tộc Champa đã mở dạ tiệc linh đình để mừng Tân lang và Tân giai nhân và mừng tước vị Tân Hoàng Hậu Paramecvari của Champa. Với Công Chúa Huyền Trân, trước khi từ giã quê hương Đại Việt lên đường về Chiêm Quốc đã được triều đình Đại Việt chuẩn bị hành trang chu đáo cho nàng về việc hội nhập văn hóa Champa; từ ngôn ngữ, ăn mặc phục sức, văn hóa nghệ thuật. Do đó nàng phục sức theo cung cách Chiêm Thành, sử dụng ngôn ngữ Chiêm Thành và đã biết rành rẽ những vũ khúc cung đình nơi điện ngọc cung vàng của triều đình Champa .
Để mở đầu dạ tiệc, Vua Chế Mân cũng nổi tiếng là hào hoa đã khẽ nghiêng vai nhẹ nhàng đưa tay mời Hoàng Hậu Paramecvari, Tân lang và Tân giai nhân mở đầu dạ tiệc qua vũ khúc “Mia – Harung” (vũ khúc này cách đây một ngàn năm mà ngày nay nhạc sĩ Champa Quảng Đại Tửu người Ninh Thuận đã sáng tác theo nội dung và điệu mới mà dân tộc Chăm hiện đang múa hát vào dịp có lễ hội của dân tộc Chăm). Vũ khúc Mia-Harung cũng là loại vũ khúc cung đình hoan ca . Hoàng Hậu Paramecvari trong bộ nhung y rực rỡ, với chiếc khăn quàng bằng kim tuyến đỏ với tua vàng lấp lánh, quàng từ trên vai trái xuyên hông phải . Chiếc thắt lưng dát mỏng bằng vàng khảm ngọc lấp lánh ôm nhẹ tấm lưng ong với dáng người thon thả cao ráo, làn da trắng mịn màng làm nổi bật Hoàng Hậu Paramecvari như tiên nữ giáng trần bên cạnh một Quân Vương hào hoa đa tình và phong độ, với nước da sáng, mái tóc một chút gợn sóng phía trước, đôi mắt sáng ngời trong một thân thể cao ráo cân đối .
Nhạc trống, kèn nổi lên khi khoan khi nhặt, khi náo động như trời đổ mưa, khi khoan như gió thoảng ngoài .Jaya Simhavarman III (tức Vua Chế Mân) và Paramecvari (Huyền Trân Công Chúa) tay trong tay, mắt trong mắt, chìm đắm trong những nhịp múa khi nhanh lúc đuổi nhau, kẻ tiến người lui, khi nương tựa vào nhau, khi nàng mềm mại như một cành hoa lan, lúc ẻo lả như một ngọn trúc mềm trước gió, chàng phải nhạy bước nhanh tay đỡ lấy tấm thân ngọc ngà, họ đã thực sự không phải say nồng trong men rượu mà trong men nồng hạnh phúc qua những động tác múa mà lịch sử hai quốc gia cũng như định mệnh của Thượng Đế đã an bài cho họ .
Trong khung cảnh lộng lẫy nơi cung đình với hoa đăng sáng rực như trân châu, qua vũ khúc Mia-Harung của cung đình mà Vua Jaya Simhavarman Đệ Tam cùng Hoàng Hậu Paramecvari đã mở đầu buổi dạ tiệc, đoàn sứ thần Đại Việt nghĩ rằng thảo nào Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông đã không chọn một mỹ nhân nào trong nước Đại Việt để gả cho Vua Chế Mân hầu thực hiện sách lược hòa thân mà lại chọn ngay con gái ruột xinh đẹp của mình . Sau màn vũ Quân Vương và Hoàng Hậu chấm dứt, cả cung đình vang lên nhiều tràng pháo tay khen ngợi . Nhà Vua dìu Hoàng Hậu trở về vị trí cũ, đêm dạ tiệc được tiếp tục với những điệu múa Tây Thiên Trúc qua nghệ thuật trình diễn của các cô Chiêm Nữ trong cung đình với xiêm y lụa là vừa nhẹ nhành vừa thanh thoát . Những điệu múa cung đình Champa ảnh hưởng vũ điệu của nữ thần nghệ thuật Sravastri và vũ điệu Thiên Thần Vũ Nữ Apsara cũng được đoàn vũ nữ cung đình biểu diễn thật tuyệt vời cùng với dàn trống đệm gồm ba mươi nhạc công, ngoài ra các nhạc cụ dân tộc cổ điển dân gian Champa như kèn Saranai, trống đôi Ginăng, trống chiếc một người sử dụng như Paranưng .v..v… cũng được dùng hòa âm khi trình bày những khúc nhạc dân ca .Dạ yến tiệc có đủ sơn hào hải vị, các loại rượu đặc biệt của Champa và của những quốc gia lân cận. Mọi người vừa thưởng thức nghệ thuật ca vũ, rượu ngon trà ấm, những thức ăn tuyệt hảo sang trọng trong đời sống cung đình:
Đây ánh ngọc lưu ly mờ ảo .
Vua quan Chiêm say đắm thịt da ngà,

Những Chiêm nữ mơ màng trong tiếng sáo,
Cùng nhịp nhàng uyển chuyển uốn mình hoa .(Chế Lan Viên)

Khi dạ tiệc chấm dứt, mọi người nghiêm chỉnh tiễn đưa Quốc Vương và Hoàng Hậu về cung son gác tía, thế giới riêng tư của Quân Vương và Hoàng Hậu. Trong chốn mê cung này, Tân lang và Tân giai nhân cùng cạn hai chung rượu nồng ấm sắt son và trong Hoa Tiên có câu:
Bấy lâu chút mảnh riêng tây
Áiân này đến đêm này là xong .
(Còn nữa)
 
S

scientists

Sau năm năm cầu hôn và chờ đợi, Quân Vương Chế Mân bây giờ mới thực sự trùng phùng với giai nhân ngày tháng đợi chờ . Hai người nhoài đi trong giấc điệp … Những con Oanh vàng và mấy con chim Vành Khuyên phía sau vườn thượng uyển hót vang lên, Quốc Vương và Hoàng Hậu vừa thức giấc thì vừng thái dương đã chiếu rọi nơi khung cửa ngọc … và lại bắt đầu một ngày mới .
Sau những tuần trăng mật, Vua Chế Mân trở lại lo việc triều chính . Hoàng Hậu Paramecvari, bà ta không những là một nhịp cầu nối liền tình đoàn kết thâm sâu của hai dân tộc Việt-Chiêm mà còn là một người đàn bà luôn bên cạnh Vua Chế Mân (bên Tây Cung). Hoàng Hậu Tapasi ở bên Đông Cung, bà này đời sống đóng kín hơn. Hoàng Hậu Paramecvari còn lo việc an nguy của dân tộc và đất nước Champa để xứng đáng là “Mẫu nghi thiên hạ” . Quốc Vương và Hoàng Hậu Paramecvari cùng đi thăm viếng lương dân, quan sát đời sống của dân để có kế hoạch lo cho nhơn quần xã hội Champa được ấm no hạnh phúc, đồng thời chiêm ngưỡng cảnh trí thiên nhiên đẹp đẽ của giang sơn chồng. Quốc Vương và Hoàng Hậu lần lượt thăm viếng những địa danh đặc biệt nổi tiếng trên đất nước Champa như:
Ngũ Hành Sơn: để ra mắt Thần Linh Champa, vì nơi đây có những khóm mây ngủ quên trên lưng chừng đồi; cảnh trí như sương khói mùa thu bao phủ cả rừng cây, cả những hang động thiên nhiên rộng và sâu nhưng đầy mùi hương trầm và đèn sáp sáng trưng, vốn là nơi thờ phượng thần linh hiển linh của dân tộc Champa .
Thánh Địa Mỹ Sơn do Vua Bhadravarman xây dựng hồi cuối thế kỷ thứ IV công nguyên. Quốc Vương và Hoàng Hậu cầu nguyện trước Thần Bhadresvara là đấng toàn năng của đất nước và dân tộc Champa và quì lạy trước Thần Shiva là đấng toàn năng chỉ đạo đời sống vương quyền Champa và còn là một biểu tượng tâm linh cội nguồn của dân tộc Champa . Đây là một trung tâm hành hương lớn nhất của Champa với nền kiến trúc rực rỡ nguy nga .
Tu Viên Đồng Dương: ở Quảng Nam (Indrapuna) Quốc Vương và Hoàng Hậu đến lạy Phật. Đây là một trung tâm Phật giáo Đại Thừa nguy nga đồ sộ lớn nhất ở Đông Nam Á trong thời điểm lịch sử này, do Vua Indravarman Đệ Nhị xây dựng hồi thế kỷ thứ 9 . Nơi đây, Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông là phụ hoàng của Hoàng Hậu Paramecvari đã trải qua nhiều tháng để nghiên cứu Phật Pháp. Dạo chơi vườn Mai Uyển tại miền đất thuộc châu Panduranga, giữa Cà Ná và Vĩnh Hảo tức ranh giới giữa tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận ngày nay . Vườn Mai Uyển này gồm có Bạch mai, Hoàng mai, và Hồng mai tọa lạc tại một địa thế hùng vĩ của núi rừng và sự mênh mông của biển cả (một bên là biển Thái Bình Dương, một bên là chi nhánh của dãy Trường Sơn Việt Nam, vườn Mai Uyển ở giữa). Nghĩa là một bên là màu xanh của biển cả, một bên là màu xanh của núi rừng, ở giữa là vườn Mai Uyển với hoa trắng hoa vàng hoa Mai hồng hoà lẫn với màu xanh cỏ cây và hoa rừng đủ loại tạo thành một bức tranh màu sắc tuyệt đẹp . Người ta đồn rằng khi Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông ước gả Huyền Trân Công Chúa cho Vua Chế Mân, Ngài (Vua Chế Mân) đã lập sẵn vườn Mai Uyển này để tặng cho Huyền Trân Công Chúa. Nhưng thực sự đây chỉ là lời đồn do sự tưởng tượng của thi ca, vì vườn Mai này do thiên nhiên hiến tặng cho dân tộc và đất nước Champa, cũng như mạch suối “Khoáng Tuyền” cũng có ở vùng này gọi là suối Vĩnh Hảo cũng nằm hóc núi khu vườn Mai Uyển này . Có lẽ Quốc Vương Chế Mân và Huyền Trân Công Chúa cũng đến thăm viếng ở đây . Trong thời Pháp thuộc, người Pháp có lập nhà máy khai thác mạch suối khoáng chất này để vô chai gọi là “nước suối Vĩnh Hảo” đem bán khắp nơi trong nội địa, không rõ có xuất cảng hay không . Kẻ viết bài này lúc còn là học sinh trung học thường đến đây tắm và uống nước suối với chanh đường thật là tuyệt vời giống như soda chanh đường vậy .
Vườn Mai Uyển, như trên đã nói là đã có sẵn trong thiên nhiên của vùng đất Panduranga, Vua Chế Mân chỉ tô điểm sửa sang lại cho đẹp đẽ không có vẻ hoang dã nữa . Mỗi độ xuân về vườn Mai này nở rất đẹp . Khi Huyền Trân Công Chúa chính thức thành Hoàng Hậu Paramecvari của Champa trong mùa xuân đầu tiên trên đất nước Champa, Hoàng Hậu Paramecvari và Vua Chế Mân cùng sánh bước với nhau nhiều lần trong vườn Mai Uyển của muà xuân năm 1307 trong tình nghĩa phu thê để rồi sau mùa xuân năm đó, vào tháng 05/1307 Vua Chế Mân băng hà . Sau đó vườn Mai Uyển không ai chăm sóc nữa, dần dà trở nên hoang dã như xưa . Bảy trăm năm qua, ngày nay trở lại khu vườn Mai đó nay chỉ còn là dấu tích, lác đác đó đây những bụi Mai vàng nhắc nhở nhân gian về một quá khứ đẹp đẽ của một cuộc tình vương giả giữa Vua Chế Mân và Huyền Trân Công Chúa Đại Việt ngày xưa .
Trở lại Quốc Vương Chế Mân và Hoàng Hậu Paramecvari trong đời sống Hoàng cung; Vua Chế Mân là một phu quân phong độ và lịch duyệt. Ngài thật sự yêu thương Hoàng Hậu xinh xắn yêu kiều, mang đến cho Hoàng Hậu những hương vị ngọt ngào của đời sống phu thê và Hoàng Hậu tỏ ra là một phụ nữ Á Đông thấm nhuần Nho giáo với câu tam tòng tứ đức. Một người vợ ngây thơ (20 tuổi) hiền thục, một Hoàng Hậu đức hạnh xứng đáng là một mẫu nghi thiên hạ . Đời sống trong Hoàng cung thật êm đềm cũng có vẻ kiêu sa và cũng rực rỡ huy hoàng của một mệnh phụ triều đình .
Hoàng Hậu thường thăm viếng ủy lạo chuà chiền trong kinh thành, cầu xin cho hai quốc gia Chiêm-Việt được quốc thái dân an. Lập nhiều khu tế bần để giúp đỡ lê dân bá tánh, chăm sóc nuôi nấng người già cả tật nguyền đơn chiếc cút côi . Đôi lúc Quốc Vương và Hoàng Hậu cùng ngồi trên một cái bành nệm êm có lọng che sặc sỡ được gắn chặt trên lưng một thớt voi với sự điều khiển của một quản tượng chuyên môn rành nghề, băng suối lên ngàn ngao du sơn thủy cùng với toán Ngự Lâm quân theo hầu, một quan thái gia lo về ẩm thực cùng quân lính theo hậu vệ . Cuộc sống phu thê giữa Quốc Vương và Hoàng Hậu đang trải qua những ngày tháng êm đềm hạnh phúc trong một giai đoạn yên bình của lịch sử, trong sự hòa thân tốt đẹp của hai quốc gia Việt – Chiêm, thì bất hạnh lại đến với Hoàng Hậu Paramecvari, với triều đình và dân tộc Champa là Quốc Vương Chế Mân băng hà vào tháng 05/1307 năm Hưng Long thứ 15. Cả triều đình Champa đau buồn vì sự ra đi vĩnh viễn của một Quốc Vương anh hùng đạo đức này .
Hoàng Hậu Paramecvari đang mang trong mình giọt máu của Quốc Vương và Hoàng Hậu, nàng đau nhói tâm cang, nỗi lòng quặn thắt, nước mắt nhạt nhòa vĩnh biệt phu quân . Cuộc hôn nhân vương giả do sự an bài của lịch sử hai quốc gia nhưng những tháng ngày bên nhau ấy đã tạo nên một tấm chân tình sắt son giữa Quốc Vương và Hoàng Hậu vừa tròn một năm thì rơi vào mệnh bạc !
(Còn nữa)
 
S

scientists

VUA CHẾ MÂN BĂNG HÀ, CÔNG CHÚA HUYỀN TRÂN VỀ CỐ QUỐC
Sau khi Vua Chế Mân băng hà, triều thần Trần Anh Tông lấy cớ sợ Huyền Trân phải lên dàn hỏa với Vua Chế Mân theo tục lệ của người Chiêm Thành, nên đã cử Thượng Thư Tả Bộc Xạ Trần Khắc Chung và An Phủ Sứ Đặng Vân (Đặng Thiệu) sang Chiêm Thành phúng điếu tang lễ rồi tìm cách cướp Huyền Trân về Đại Việt . Phái đoàn Đại Việt đề nghị với triều đình Champa cho Huyền Trân Công Chúa ra bờ biển làm lễ chiêu hồn cho nhà Vua, xong rồi trở về lại Hoàng cung. Triều đình Champa tin tưởng rồi chấp thuận.
Nhưng, khi Hoàng Hậu Paramecvari đến bờ biển thì Trần Khắc Chung dùng thuyền nhẹ cướp lấy Huyền Trân đưa về Đại Việt . Cuộc hải hành đưa Huyền Trân về Đại Việt đáng lý ra không quá hai tháng vì lúc này gió chướng Đông Bắc chưa mạnh, nhưng đã kéo dài đến mười tháng mới về đến Thăng Long thành. Sự kiện cướp Hoàng Hậu này gây phẩn nộ cho triều thần Champa . Còn việc đưa Công Chúa Huyền Trân về lại Thăng Long quá chậm trễ đưa đến hai quan điểm khác nhau sau đây:
Quan điểm thứ nhất:
Sở dĩ kéo dài đến 10 tháng lênh đênh trên biển cả vì Trần Khắc Chung tìm cách tư thông với Huyền Trân, vì thời gian trước kia Trần Khắc Chung cũng thương thầm Huyền Trân ?
Giáo sư Huỳnh Văn Lang, tác giả cuốn “Những Công Chúa Sứ Giả”, tập II, trang 117 có ghi rằng: “Về lại, Thái Thượng Hoàng không phạt Trần Khắc Chung mà lại phạt Huyền Trân Công Chúa như là người đàn bà mất nết, bắt cạo đầu vào chùa tu cho đến chết .”
Nếu quả thật là tư thông với Trần Khắc Chung sau khi chồng chết chưa mãn tang ? thì:
Thương thay cô gái quạt mồ
Hại thay cô gái xách vồ đập xăng!
Dù sao đi nữa thì cũng:
Nhất dạ phu thê bá vạn ân!
Hay là:
Đã trót tương phùng trong một quán
Dẫu trà ôi rượu nhạt cũng là duyên
(không rõ tác giả)
Phương chi một Công Chúa hiểu câu Tam tòng Tứ đức, một mệnh phụ của triều đình, một mẫu nghi thiên hạ, làm như vậy thật là tàn nhẫn đối với Chế Mân, đau lòng xót dạ cho những người trong cuộc; ôi thôi “Hai châu Ô, Lý vuông ngàn dặm”!
Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư tập II, trang 92, Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam, nhà xuất bản Khoa học – Xã Hội có ghi chép như sau: “Khắc Chung dùng thuyền nhẹ cướp lấy Công Chúa đem về rồi tư thông với Công Chúa đi đường biển loanh quanh, chậm chạp lâu ngày mới về đến kinh đô .
Hưng Nhượng Đại Vương ghét lắm, mỗi khi thấy Khắc Chung thì mắng phủ đầu: (Thằng này là điềm chẳng lành đối với nước nhà . Họ tên nó là Trần Khắc Chung thì nhà Trần rồi mất vì nó chăng?). Khắc Chung thường sợ hãi né tránh.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Thói gian tà của Trần Khắc Chung thực quá quắt lắm! Không những hắn giở trò chó lợn ở đây mà sau này còn vào hùa với Văn Hiến vu hãm Quốc Phụ Thượng Tể tức Huệ Vũ Đại Vương Trần Quốc Chẩn vào tội phản nghịch làm chết oan đến hơn trăm người . Thế mà hắn được trọn đời phú quí .
Khổng Tử nói: “Kẻ gian tà được sống sót là may mà thoát tội chăng?” Song, sau khi hắn chết gia nô của Thiệu Vũ Vương (con của Quốc Chẩn) đào xúc hắn lên mà vằm nhỏ ra thì lời thánh nhân càng đáng tin.
Về Huyền Trân, kẻ viết bài này mạo muội nghĩ rằng: nàng là người đoan chính vì là huyết thông nhân từ đạo hạnh của Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông. Tuổi 20 cũng còn ngây thơ, chỉ sợ mưu mô và cạm bẫy quỉ khốc thần sầu của Trần Khắc Chung làm ảnh hưởng đến nhân phẩm ngọc ngà của nàng. Dù sao nàng cũng chỉ là một nạn nhân của một tấn tuồng chánh trị của triều thần Trần Anh Tông.
Quan điểm thứ hai:
Theo tác giả Mường Giang trong tập sách “Qua Những Nẻo Đường Bình Thuận”, nơi trang 204 và 205, tác giả ghi rằng: “Về việc bia miệng căn cứ chuyện Khắc Chung cứu Huyền Trân, sau đó gần một năm mới đưa về nước, mà cho rằng hai người đã tư thông. Chuyện này đến nay vẫn là huyền thoại vì chính sử không hề nhắc tới vì là lời đồn. Theo sử liệu, trong phái đoàn sang Chiêm Thành giải cứu Công Chúa Huyền Trân lúc đó rất đông đảo, ngoài chủ tướng họ Trần còn có An Phủ Sứ Đặng Vân, phương chi Thượng Tướng Trần Khắc Chung là người rất có danh vọng đời Trần, ông còn là một thiền sư, đã từng đề bạt cho tập “Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục” do nhà sư Pháp Loa biên tập, Vua Nhân Tông hiệu đính. Bao nhiêu đó đủ thấy đạo đức của ông, vì vậy sau khi về triều Trần Khắc Chung vẫn được từ Vua tới dân chúng kính nể ngưỡng mộ, qua các triều Anh Tông, Minh Tông. Sau rốt theo sử cho biết Vua Anh Tông rất nghiêm khắc, nếu quả thật Trần Khắc Chung tư thông với Huyền Trân, làm nhục quốc thể Đại Việt, liệu ông thoát được sự trừng phạt của triều đình lúc đó như Thượng Phẩm Nguyễn Hưng chỉ tội đánh bạc mà đã bị Anh Tông ra lệnh đánh đến chết vào tháng 03 năm Bính Thân 1296.
Theo Thiền Sư Nhất Hạnh, trong “Am Mây Ngủ”: phái đoàn Đại Việt đi chia buồn với Chiêm Thành còn có An Phủ Sứ Đặng Vân, các quan, binh lính và bao nhiêu thủy thủ lành nghề để chuẩn bị thủy chiến khi cướp Công Chúa chứ đâu phải chỉ Trần Khắc Chung mà nói có chuyện tư thông? Do đó câu ca dao trên chỉ do sự tưởng tượng của những người đa nghi về cuộc hành trình dài quá mức thôi .
Thứ 1 Tục lệ Champa không hề bắt buộc các hoàng hậu, thứ phi phải lên dàn hỏa với nhà Vua khi băng hà . Trong dân gian Champa cũng không có tình trạng vợ lên dàn hỏa với chồng, bởi vì trong lễ hỏa táng, trên giàn hỏa chỉ có một thi hài đặt trong một cái “Cung” rồi phủ quần áo đẹp lên thi hài . Một cái nhà bằng giấy đủ màu sắc rất đẹp gọi là: “Thang Thuơr” đặt trên cái cung đó, thi hài nằm trong lòng cái cung và dưới vòm “Thang Thuơr ”. Trên đỉnh cái nhà giấy này có một con bò ngũ sắc tức là bò Thần, người Chăm gọi là Limow-Kapil, tiếng Phạn gọi là Kapila . Con bò Thần Limow-Kapil chỉ đưa một linh hồn duy nhất cho một lễ hỏa táng. Linh hồn này được con bò Thần Limow-Kapil đưa qua sông Khawphar (giòng sông ngăn cách trần gian và thế giới vĩnh hằng) để qua một thế giới “KHÔNG CÙNG”
Thứ 2 Các vị tăng lữ, tu sĩ là các vị sư cả Bà La Môn là những người trực tiếp thi hành những thủ tục hỏa táng cũng không thấy có ghi trong kinh điển Champa theo đạo Bà La Môn nói về việc lên giàn hỏa của Hoàng Hậu khi nhà Vua băng hà; có nghĩa là không có tục lệ đó .
Thứ 3 Như đời Vua Pô Rômê Champa theo đạo Bà La Môn, có ba người vợ: một người Chăm tên là Bia Sutki, người Việt là Công Chúa Ngọc Khoa tên Chăm là Nai Bia Lith, một người thứ ba gốc Tây Nguyên Rhadé tên Bia Tanchank. Khi Vua Pô Rômê qua đời cũng không có bà nào lên dàn hỏa cả .
Thứ 4 Theo tục lễ hỏa táng, khi một người qua đời dù Vua, quan, hay thứ dân, thì lễ hỏa táng sẽ được thực hiện từ ba đến bảy ngày .
Ngày xưa vào thời Chế Mân và Huyền Trân chưa có điện thoại, chưa có máy bay, chưa có tàu thủy tàu hỏa … mọi sự liên lạc thông tin đều bằng ngựa, bằng thuyền buồm.
Khi Vua Chế Mân băng hà, quân báo sẽ dùng ngựa về Thăng Long báo tin, rồi Thăng Long cử phái đoàn đến phúng điếu có nhanh lắm cũng mất gần hai tháng. Chừng ấy nếu quả thật có tục lệ hoàng hậu, thứ phi .v..v… phải lên giàn hỏa với Vua, thì bảy ngày sau khi Vua Chế Mân băng hà Hoàng Hậu Paramecvari tức Công Chúa Huyền Trân đã thành tro cùng với Chế Mân. Lúc ấy phái đoàn Đại Việt đến thì còn Huyền Trân đâu nữa mà cứu hay cướp.
Thứ 5 Hơn ai hết, Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông khi thăm viếng Chiêm Thành đã ở lại 9 tháng với Vua Chế Mân; trong thời gian này đủ cho Ngài biết về văn hóa và tôn giáo cùng phong tục tập quán Champa rồi . Có người cha nào dại dột đem con gái ruột của mình gả cho một người mà sau này sẽ bị lên giàn hỏa để thiêu sống cùng chồng (Vua Chế Mân)? Cùng lắm nếu muốn dùng mỹ nhân kế để thực hiện sách lược Hoà Thân hay thôn tính gì đó thì kiếm một cô gái nhan sắc nào trong từng lớp dân chúng hay con quan huyện quan phủ nào đó v.v.. như trường hợp Chiêu Quân bên Trung Hoa chỉ là con của một Tri Phủ Châu Việt tỉnh Hồ Bắc người ma Hán Nguyên Đế đã phong làm Công Chúa để gả cho Hồ Hàn Da của Hung Nô . Tội gì phải gả Huyền Trân để bị lên giàn hỏa ?!


Qua năm điểm trình bày nêu trên Champa không có tục lệ bắt hoàng hậu, thứ phi, phi tần v.v.. phải lên giàn hỏa với nhà Vua khi băng hà .
Do đó, việc triều thần Trần Anh Tông đi cướp Hoàng HậuParamecvari của Champa (tức Huyền Trân) vì sợ lên giàn hỏa với Vua Chế Mân chỉ là một cái cớ không trung thực. Đây chỉ là một sự bội tín . Huyền Trân bây giờ đã là Hoàng Hậu Paramecvari của Champa, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử . Bây giờ nàng đã có Hoàng Tử Chế Đa Gia, giọt máu của Vua Chế Mân và Hoàng Hậu Paramecvari (tức Huyền Trân) vẫn còn có trọng trách duy trì sách lược Hoà Thân của Thái Thượng Hoàng đối với hai dân tộc Việt-Chiêm.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: “Nhân Tông đem con gái gả cho Vua Chiêm Thành là nghĩa làm sao ? Nói rằng khi đi chơi đã trót hứa gả, sợ thất tín thì sao không đổi lại lệnh đó có được không? Vua giữ ngôi trời mà Thượng Hoàng đã xuất gia rồi, Vua đổi lệnh thì có khó gì, mà lại đem gả cho người xa không phải giống nòi để thực hiện lời hứa trước , rồi sau lại dùng mưu gian trá cướp về, thế thì TÍN ở đâu ?” (Tham chiếu Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, tập II trang 90).
Giáo Sư Huỳnh Văn Lang, tác giả cuốn sách “Những Công Chúa Sứ Giả Trung Hoa và Việt Nam” đã phát biểu rằng: “Chế Mân chết tháng 05 năm 1307. Đại Việt sai Trần Khắc Chung qua Chiêm Thành gọi là đi phúng điếu Vua Chiêm, nhưng thực ra để lập kế cướp Huyền Trân Công Chúa đem về nước, đúng ra là tiền đã trao, cháo đã múc, nhưng múc rồi lại lấy lại , đúng là thủ đoạn của một chị bán hàng chơi cái trò gian lận . Nhân dân và quần thần nhà Trần có hãnh diện thế nào thì hãnh diện, nhưng nhân dân Chiêm Thành từ quí tộc tới thường dân đều nhìn nhận đó là một quốc nhục cần phải trả bằng mọi giá .” (Trích Những Công Chúa Sứ Giả Trung Hoa và Việt Nam, tập II trang108).
Từ những nguyên nhân nêu trên đã được vài tác giả nêu lên, sau này đã mở đường cho Chế Chi con của Chế Mân, Chế Năng cháu của Chế Mân và cho tới Chế Bồng Nga và dân tộc Chiêm Thành đã bất chấp tương quan lực lượng đôi bên đã đem hết tinh thần tự ái dân tộc trả thù cho Chế Mân cho đất nước và dân tộc Champa đòi lại sính lễ Châu Ơ, Châu Lý mặc dù hành động tự ái dân tộc chỉ đem lại sự tan nát đớn đau triền miên cho dân tộc Chiêm Thành chứ làm sao thắng nổi sức mạnh của Đại Việt gấp hơn mười lần đối với Chiêm Thành.

Nhà Sử học Phạm Văn Sơn đã nói:
- “Duy việc Trần Khắc Chung lập mưu đưa Huyền Trân trở về nước sau khi Chiêm Vương qua đời, muốn sao ta cũng phải nhận là một việc bất tín đối với Chiêm Thành. Thì phản ứng của nước Chiêm là lẽ dĩ nhiên và chính đáng.” (Việt Sử Toàn Thư – Phạm Văn Sơn, trang 203).
“ … Còn người Việt đã thắng một canh bạc không lương thiện lắm lại còn ra bộ não nùng xót xa …” (Việt Sử Toàn Thư – Phạm Văn Sơn, trang 203).
 
S

scientists

Về vụ án Lệ Chi Viên, mình đã post ở ĐÂY , các bạn có thể tìm hiểu hiểu sơ lược.

Chúng ta sẽ tiếp tục đi vào đề tài nghiên cứu tiếp theo :

Vụ án Lệ Chi Viên
Truyền thuyết ly kì
(Kienthuc.net.vn) - Mặc dù bị án tru di 3 họ, một vài hậu nhân của Nguyễn Trãi vẫn thoát được và xung quanh cuộc đời họ cũng có nhiều truyền thuyết ly kỳ.

Nói đến vụ án Lệ Chi Viên, ngay trong những trang chính sử của Đại Việt sử ký toàn thư vẫn ghi một truyền thuyết về việc con rắn báo oán. Nói gọn lại thì câu chuyện bắt đầu từ đời Nguyễn Phi Khanh (cha Nguyễn Trãi). Khi còn dạy học, Phi Khanh có lần cho học sinh dọn cỏ. Đêm trước đó, ông nằm mộng thấy một người phụ nữ đến khẩn khoản nói rằng xin thư lại cho ít hôm để dọn nhà vì chồng đi vắng, các con còn nhỏ.
Vì đã báo các học trò, việc dọn cỏ không hoãn lại được. Đến trưa có học trò báo lại họ đào phải một hang rắn. Vì rắn định cắn nên họ đã đánh chết 3 con con và làm đứt đuôi con mẹ nhưng nó và một vài con con đã chạy thoát. Phi Khanh chợt hiểu ra người đàn bà trong giấc mơ là rắn đội lốt. Ông thở dài: “Thế là ta đã không cứu được họ rồi”. Mấy ngày sau trong khi Phi Khanh đang ngồi đọc sách thì trên xà nhà có con rắn bò. Đuôi của nó nhỏ máu xuống trang sách của ông đúng vào chữ "đại" và máu thấm qua 3 trang giấy.
Nhà Hồ mất, nước nhà bị quân Minh đô hộ hơn 20 năm. Nhờ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi mà nền độc lập dân tộc lại lấy lại được. Thành công của cuộc kháng chiến ấy có sự đóng góp rất lớn của Nguyễn Trãi - con trai Nguyễn Phi Khanh.
Khi đã làm quan to trong triều, Nguyễn Trãi có gặp một người phụ nữ tài danh, nhan sắc là Nguyễn Thị Lộ. Ông bèn lấy bà làm thiếp. Vì bà có học thức nên được Lê Nhân Tông cho vào triều làm Lễ nghi học sĩ để dạy dỗ cho cung tần mỹ nữ của vua.
Vào năm 1442, Nhân Tông về miền Đông tuần du rồi băng hà ở Lệ Chi Viên. Khi vua mất chỉ có một mình Nguyễn Thị Lộ theo hầu. Lập tức Nguyễn Trãi bị khép tội cùng Thị Lộ âm mưu giết vua. Ngay sau đó triều đình tru di 3 họ Nguyễn Trãi gây ra một vụ án tàn khốc nhất lịch sử.

kt-12-9-nguyentrai-kienthuc_ukmq.jpg
Chân dung Nguyễn Trãi. Ảnh: Internet.

Tương truyền rằng khi hành hình, vừa cởi trói cho Nguyễn Thị Lộ thì bà biến thành một con rắn lớn bò xuống nước bơi đi mất. Nhân thế người ta cho rằng Thị Lộ là rắn đội lốt thành để hại con cháu Nguyễn Phi Khanh nhằm báo thù.
Câu chuyện đến đó chưa kết thúc. Sau hơn 20 năm chịu tiếng oan, vào năm 1464, vua Thánh Tông đã xuống chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi và cho tìm con cháu ông để cho tập ấm. Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì người ta tìm được một người con Nguyễn Trãi là Nguyễn Anh Vũ. Lúc này Anh Vũ đã đỗ Hương cống nên được Thánh Tông cho làm tri huyện và ban cho 100 mẫu ruộng.
Sử không chép rõ cuộc đời sự nghiệp sau này của Anh Vũ ra sao nhưng truyền thuyết dân gian thì lưu truyền những câu truyện rất ly kỳ mà theo đó, Anh Vũ không thoát khỏi sự báo thù của con rắn.
Cuốn Thế giới kỳ bí của Nxb Thanh Hóa viết: “ Khi Lê Thánh Tông minh oan cho Nguyễn Trãi, đã xuống chiếu cho người đi tìm dòng dõi của ông. May thay, một người vợ của ông ở miền Đông Bắc lúc ấy đã có mang, sau sinh ra Nguyễn Tạc Tổ, hiệu là Anh Vũ. Nguyễn Tạc Tổ, được tập ấm rồi thăng dần lên chức chánh sứ, đi sứ sang Trung Hoa.
Sau khi biết Nguyễn Tạc Tổ là hậu duệ cuối cùng của Nguyễn Phi Khanh, rắn báo oán vẫn tiếp tục truy sát.
Khi thuyền sứ bộ của Nguyễn Tạc Tổ qua Động Đình hồ, thấy một con rắn lớn đuổi theo. Đuôi nó to như cái quạt, quẫy sóng dữ dội làm cho thuyền chòng chành cơ hồ như muốn chìm nghỉm. Mọi người sợ hãi tái xám mặt mày. Con rắn vượt lên ngang thuyền, réo tên Anh Vũ mà gào thét. Biết là món nợ truyền kiếp vẫn còn phải trả, Anh Vũ bèn bước lên mũi thuyền nói lớn: “Hỡi rắn thần! Hãy để ta lên đường làm tròn sứ mệnh. Xong việc nước, về đây ta sẽ nộp mình”.
Anh Vũ vừa nói xong, tự nhiên sóng êm gió lặng, con rắn biến mất. Mấy tháng sau, công việc đi sứ hoàn tất, đoàn thuyền sứ bộ nước ta lại về qua Động Đình hồ. Anh Vũ chuẩn bị trước, nai nịt gọn gàng, tay cầm đoản kiếm. Khi rắn vừa xuất hiện gọi tên mình, ông nói lời vĩnh biệt mọi người, rồi nhảy xuống nước. Ở trên thuyền, mọi người thấy ông cùng con rắn quây tròn lấy nhau trong một trận giáp chiến thật dữ dội. Những đường kiếm rẽ nước quay loang loáng bên cạnh cái đầu rắn đang thè lưỡi đỏ phun phì phì. Những cuộn bọt đỏ nổi lên, hết lớp này đến lớp khác. Rồi bỗng đâu, máu nhuộm đỏ thẫm cả người lẫn vật. Một lúc lâu sau, cả hai cùng chìm sâu xuống đáy hồ.
Ông phó sứ là người chứng kiến cảnh tượng này, vô cùng cảm kích, ông vội tìm giấy mực viết ngay một tờ sớ gửi về, trình lại hoàng đế nhà Minh. Cảm kích trước hành vi dũng cảm quên mình của vị chánh sứ nước Việt, vua Minh đã xuống chiếu sắc phong Nguyễn Tạc Tổ đời đời làm thần thành hoàng của cả vùng Động Đình hồ rộng lớn”.
Vũ Tiến Đức
 
S

scientists

Đâu là hung thủ thật sự?

(Kienthuc.net.vn) - Vụ án Lệ Chi Viên xảy ra từ hơn 500 năm trước đã khiến vua Lê Thái Tông chết đột ngột ở tuổi 20 và cũng khiến người anh hùng Nguyễn Trãi phải chịu tru di tam tộc. Đó là vụ án oan và thảm khốc vào bậc nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam


Mặc dù đến triều vua Lê Thánh Tông, nhà vua đã minh oan cho Nguyễn Trãi nhưng nhiều sách sử sau đời Lê khi viết về sự kiện Lệ Chi Viên vẫn ghi tội Nguyễn Thị Lộ giết vua. Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí khẳng định rằng, Nguyễn Thị Lộ đã dùng thuốc độc giết vua: “Năm Nhâm Tuất (1442), ông (Nguyễn Trãi) 63 tuổi, vì có vợ tên là Nguyễn Thị Lộ vào hầu vua, dùng chất độc giết vua, triều đình kết án phải giết ba họ...Ông có văn chương mưu lược...làm công thần mở nước thứ nhất. Về già muốn an nhàn, không có ý tham luyến (địa vị), chỉ vì nghiệp báo của yêu nữ cuối cùng lụy đường công danh, bấy giờ ai cũng thương tiếc”.

2-lechivien_kienthuc.jpg

Chân dung Nguyễn Trãi – Người anh hùng dân tộc và cũng là người mang nỗi oan ức lớn nhất thiên hạ.


Cho đến gần đây, trong nỗ lực tìm hiểu để nhìn nhận khách quan sự kiện lịch sử này, các nhà nghiên cứu đã đưa ra một câu chuyện hoàn toàn khác để minh oan cho vợ chồng Nguyễn Trãi. Theo đó, thủ phạm giết vua bất ngờ lại chính là vợ thứ vua Thái Tông – Nguyễn Thị Anh (mẹ vua Lê Nhân Tông).

Các nhà nghiên cứu: Phan Duy Kha, Đinh Công Vĩ, Lã Duy Lan trong cuốn sách “Nhìn lại lịch sử” cho rằng: trước khi vua Thái Tông mất đã truất ngôi thái tử của Nghi Dân (con của bà phi Dương Thị Bí) để phong cho Bang Cơ (con của bà phi Nguyễn Thị Anh). Tuy nhiên, lúc đó lại có nhiều lời đồn đại rằng, Bang Cơ không phải là con của vua Thái Tông. Mặt khác, bài học nhãn tiền, hoàng tử Nghi Dân vừa bị phế truất ngôi thái tử sau khi nhà vua chán bà phi Dương Thị Bí. Lo sợ nhà vua còn trẻ rồi sẽ còn tái diễn cảnh "có mới nới cũ" mà một bà phi khác là Ngô Thị Ngọc Dao cũng vừa sinh con trai xong.


Khi bà Ngô Thị Ngọc Dao (mẹ vua Lê Thánh Tông) mang thai đã bị bà Nguyễn Thị Anh tìm nhiều cách hãm hại nhưng vợ chồng Nguyễn Trãi hết lòng che chở cho. Vì những lý do đó, khi vua Lê Thái Tông đi tuần miền đông về nghỉ ở chỗ Nguyễn Trãi, bà Nguyễn Thị Anh đã sai người ra tay giết vua để đổ vạ cho Nguyễn Trãi nhằm trả thù và cũng để cho ngôi vua của con bà chắc chắn. Một mũi tên trúng hai đích. Đó là các lập luận của những nhà nghiên cứu trong thời gian gần đây.


3-lechivien_kienthuc.jpg

Tượng Nguyễn Thị Lộ ở đền thờ bà tại quê hương Hưng Hà,Thái Bình.

Không chỉ có vậy, các nhà nghiên cứu trên còn tham khảo cả cuốn gia phả của dòng họ Đinh, hậu duệ của Đinh Liệt. Trong đó đặc biệt có một số bài thơ nói về sự việc vua Thái Tông chết cũng như nguồn gốc của vua Nhân Tông:

Nhung tân lục cá nguyệt khai hoa
Bất thức hà nhân chủng bảo đa
Chủ kháo Tống khai vi linh dược
Cựu binh tân tửu thịnh y khoa

“Nhung tân” đọc lái là Nhân Tông, tức là Bang Cơ con Nguyễn Thị Anh, “thịnh y” là “thị Anh”.


Bài này có thể tạm dịch:


Nhân Tông sáu tháng đã ra hoa
Dòng máu ai đây quý báu à?
Núp bóng Thái Tông làm linh dược
Thị Anh dùng ngón đổi dòng cha

Lại có một bài thơ khác nói về việc hai hoạn quan bị giết:


Hung Tân hà hữu Tống thai tinh
Lục nguyệt khai hoa quái dị hình
Niên nguyệt nhật thời Thăng Đính ký
Hoàng bào ô nhiễm vạn niên thanh

Chữ Thăng Đính đọc ngược là Đinh Thắng, Tống Thai đọc ngược là Thái Tông. Bài thơ này dịch là:


Nhân Tông không phải máu Nguyên Long
Sáu tháng hoài thai cảnh lạ lùng
Năm, tháng, ngày, giờ Đinh Thắng chép
Hoàng bào dơ bẩn tiếng ngàn năm

Từ trước khi có những lập luận như trên rất lâu, khi Nghi Dân cướp ngôi vua đã ban chiếu nói rằng: “Diên Ninh (Nhân Tông) tự biết không phải là con của tiên đế, vả lại lòng người lìa tàn, ngày mồng 3 tháng 10 năm nay khiến trẫm thay ngôi.” Tuy nhiên, vì Nghi Dân cướp ngôi vua và không được lòng các triều thần nên sau đó bị các đại thần là Nguyễn Xí, Đinh Liệt xướng nghĩa phế bỏ cho nên điều Nghi Dân nói Nhân Tông không phải con của Thái Tông không được chú ý.


 
S

scientists

10 ẩn số không lời giải trong lịch sử Việt Nam (1)

(Kienthuc.net.vn) - Lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam tồn tại nhiều uẩn khúc mà có thể hậu thế sẽ không bao giờ giải đáp được.


Các vua Hùng trị vì bao nhiêu năm?
Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, triều đại các vua hùng ở Việt Nam bắt đầu khi vua Kinh Dương Vương lên ngôi năm Nhâm Tuất (2879 TCN). Triều đại này kéo dài đến năm Quý Mão (258 TCN) thì kết thúc với 18 đời vua Hùng nối nhau trị vì trong 2.622 năm. Tính trung bình, mỗi thời vua Hùng Vương kéo dài tới… 150 năm.


Đây rõ ràng là một con số khó tin. Vì vậy, nhiều sử gia đã tỏ ý nghi ngờ và đưa ra các cách lý giải khác nhau về niên đại của thời kỳ Hùng Vương.


Kienthuc-Hung-Vuong.jpg
Mỗi vua Hùng trị vì hơn 100 năm?



Theo đó, con số 18 ở đây không phải 18 đời vua mà là 18 ngành vua, mỗi ngành gồm nhiều đời vua mang chung vương hiệu, khi hết một nhành mới đặt vương hiệu mới. Nếu tính như vậy thì có thể có đến 180 đời vua Hùng, và thời gian trị vì trong 2.622 năm là hoàn toàn hợp lý.


Cũng có một số nhà nghiên cứu cho rằng nước Văn Lang của các vua Hùng chỉ tồn tại trong khoảng 300 – 400 năm và niên đại kết thúc là khoảng năm 208 TCN chứ không phải là năm 258 TCN.


Ai sát hại Vua Đinh Tiên Hoàng?

Sử sách chính thống của Việt Nam đều ghi rằng người giết chết Đinh Tiên Hoàng - vị vua sáng lập triều đại nhà Đinh, nước Đại Cồ Việt là hoạn quan Đỗ Thích. Sử chép rằng, viên quan này mơ thấy sao rơi vào miệng, tưởng là điềm báo được làm vua nên đã giết chết cả Đinh Tiên Hoàng và Thái tử Đinh Liễn.


Tuy vậy, nhiều sử gia đã bày tỏ sự hoài nghi với các ghi chép này, vì Đỗ Thích chỉ là một viên hoạn quan, chức nhỏ, sức mọn, không hề có uy tín hay vây cánh, dù có gan đến mấy cũng không thể liều lĩnh đến như vậy được. Một giả thuyết được đặt ra: Đỗ Thích chỉ là tấm bình phong che đậy cho thủ phạm thực sự, Lê Hoàn và Dương Vân Nga mới chính là thủ phạm.


Theo lý giải, việc Lê Hoàn làm Phó vương khi Đinh Toàn lên ngôi, cấm cố họ Đinh cùng với việc các trung thần chống đối có thể là biểu hiện cho thấy mưu đồ chiếm ngôi của Lê Hoàn. Hành động của Lê Hoàn nhiều khả năng đã có sự trợ giúp của Dương Vân Nga.


Dương Vân Nga, có thể giữa bà và các hoàng hậu khác (Tiên Hoàng có những 5 hoàng hậu) đã xảy ra cuộc đua giữa họ về tương lai của ngôi thái tử. Do yếu thế trong cuộc cạnh tranh này, Dương Vân Nga đã chọn Lê Hoàn làm chỗ dựa.


Do vậy, dù động cơ có phần khác nhau, Dương hậu đã cùng Lê Hoàn tiến hành vụ ám sát chấn động lịch sử và dùng Đỗ Thích như một hình nhân thế mạng.


Lê Long Đĩnh có thật là vị vua tồi tệ nhất lịch sử?

Trong chính sử Việt Nam, Lê Long Đĩnh được mô tả là người bạo - ngược, tính hay chém giết, ác bằng Kiệt, Trụ ngày xưa. Ông nổi danh vì những thú vui tàn ác như tra tấn tù binh bằng các cách thức mạn rợ, lấy mía để trên đầu nhà sư mà róc cho tóe máu… Do sống dâm dục quá độ nên Lê Long Đĩnh mắc bệnh không ngồi được, đến buổi chầu thì cứ nằm mà thị triều, cho nên tục gọi là “Ngọa-triều".


Tuy vậy giới sử học Việt Nam gần đây đã có những cách nhìn khác về vị vua tai tiếng này.


Nhiều nguồn sử liệu khẳng định, Lê Long Đĩnh là ông vua đầu tiên cử người đi lấy kinh Đại Tạng cho Phật giáo và sư Vạn Hạnh, thiền sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu cũng như các cao tăng khác thời đó đều được Lê Long Đĩnh rất trọng vọng... Và một ông vua đề cao Phật pháp như vậy có thể nào "lấy mía để trên đầu nhà sư mà róc" ?


Trước khi chết ở độ tuổi 24, Lê Long Đĩnh còn chăm lo việc đào kênh, mở mang đường sá và đến tận nơi xem xét rồi xuống chiếu đóng thuyền bè đi lại cho dân. Một ông vua suốt ngày ham mê tửu sắc không đi lại được đến mức phải "ngọa triều", ông vua đó có thể làm được những chuyện ý nghĩa như vậy không?


Không chỉ vậy, trong 4 năm làm vua, Lê Long Đĩnh đã 6 lần trực tiếp cầm quân ra trận, lần cuối cùng chỉ cách 2 tháng trước khi ông mất. Cầm quân đánh giặc liên miên như vậy phải có sức vóc, người "dâm dục quá độ, mắc bệnh không ngồi được" sao có thể cáng đáng nổi?

(Còn nữa...)
 
S

scientists

10 ẩn số không lời giải trong lịch sử Việt Nam (2)

(Kienthuc.net.vn) - Trong lịch sử Việt Nam, có những cái chết bí ẩn của các bậc vua chúa khiến cả dân tộc bàng hoàng...


Ai là tác giả bài thơ Nam Quốc Sơn Hà?
Bài thơ Nam quốc sơn hà được xem là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước Việt Nam, gắn với tên tuổi của danh tướng Lý Thường Kiệt (1019-1105) và thắng lợi trước quân Tống xâm lược tại sông Như Nguyệt. Hiện nay, nhiều người vẫn ngộ nhận tác giả bài thơ là Lý Thường Kiệt.


Kienthuc-Nam-quoc-son-ha.jpg
Nhiều người ngộ nhận tác giả bài thơ Nam quốc sơn hà là Lý Thường Kiệt.​

Tất cả sử liệu Việt Nam, từ chính sử đến dã sử đều không nhắc đến tác giả bài thơ. Đại Việt sử ký toàn thư chỉ ghi rằng, vào một đêm, quân sĩ nhà Lý chợt nghe thấy có tiếng đọc to bài thơ này được trong đền Trương tướng quân. Trong khi đó, sách Lĩnh Nam Chích Quái cho rằng "Thần nhân tàng hình ở trên không” đã đọc bài thơ. Cũng theo Lĩnh Nam Chích Quái, bài thơ đã xuất hiện từ thời Lê Hoàn chống Tống, và cũng được đọc trên con sông Như Nguyệt.


Nguồn gốc bí ẩn đó đã khiến Nam quốc sơn hà được người đời coi là một bài thơ Thần.


Một số sử gia thời hiện đại đã đưa ra giả thiết tác giả bài thơ là những bậc đại sư như Khuông Việt hay Pháp Thuận, nhưng tính thuyết phục không cao vì chỉ dựa vào mối quan hệ của các Thiền sư với các vua thời đó.



Công chúa Huyền Trân tư thông với Trần Khắc Chung?
Công chúa Huyền Trân sinh năm 1287, là con gái của vua Trần Nhân Tông và em gái vua Trần Anh Tông. Năm 1306, vua Chế Mân dâng hai châu Ô, Lý (Nam Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế ngày nay) cho nhà Trần làm của hồi môn để lấy Huyền Trân. Vua Trần đã đồng ý gả công chúa.


Về Chiêm Thành, Huyền Trân được phong làm hoàng hậu. Một năm sau, bà sinh cho Chế Mân một hoàng tử, đặt tên là Chế Đa Đa. Ít lâu sau Chế Mân băng hà, nhà Chiêm sai sứ sang Đại Việt báo tang.


Theo tục lệ Chiêm Thành, khi vua chết hoàng hậu phải lên dàn hỏa thiêu để chết theo. Vua Trần Anh Tông biết điều này bèn sai Trần Khắc Chung vờ sang viếng tang rồi tìm cách cứu Huyền Trân. Trần Khắc Chung đã bày kế thành công và cứu được Huyền Trân, đưa công chúa về Đại Việt bằng đường biển.


Theo một số nguồn sử liệu, cuộc hành trình về nước của công chúa Huyền Trân đã kéo dài tới một năm, và bà đã tư thông với Trần Khắc Chung trong khoảng thời gian đó.


Cuốn Đại Việt sử ký toàn thư ghi: "..hai người tư thông với nhau, trùng trình ở trên mặt biển, lâu lắm mới về đến kinh sư. Hưng Nhượng vương Quốc Tảng lấy làm ghét lắm, hễ thấy Khắc Chung liền mắng rằng: ‘Họ tên người này là "Trần Khắc Chung", đối với nước nhà có điều không tốt, có lẽ nhà Trần sẽ mất về người này chăng?’. Khắc Chung thường phải sợ mà lánh mặt..".


Tuy vậy cũng có một số sử gia đưa ra các lý lẽ khác nhau để minh oan cho Công chúa Huyền Trân. Có lẽ, thực hư của câu chuyện này ra sao mãi mãi là một ẩn số trong lịch sử Việt Nam.



Ai là thủ phạm trong thảm án Lệ Chi Viên?
Cho đến nay, vụ án Lệ Chi Viên với cái chết bí ẩn của vua Lê Thái Tông và việc tru di tam tộc quan đại thần Nguyễn Trãi vẫn là đề tài bàn luận sôi nổi của giới nghiên cứu sử học Việt Nam.


Theo sử sách, ngày 4/8/1442, vua về Lệ Chi (nay thuộc huyện Gia Lương, Bắc Ninh). Cùng đi với Vua có Nguyễn Thị Lộ, một người thiếp của Nguyễn Trãi, khi ấy đã vào tuổi 40, rất được nhà vua yêu quý vì sắc đẹp, văn hay. Tại Lệ Chi Viên, vua thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ, rồi băng hà.


Triều đình đã quy cho Nguyễn Thị Lộ tội giết vua. Nguyễn Trãi và gia đình bị án tru di tam tộc và bị giết ít lâu sau đó. Đến năm 1464, vua Lê Thánh Tông đã rửa oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng ông tước Tán Trù bá và bổ dụng người con còn sống sót của ông là Nguyễn Anh Vũ.


Sau này, nhiều sử gia đã tán đồng với giả thuyết cho rằng chủ mưu vụ án chính là Nguyễn Thị Anh - vợ thứ vua Lê Thái Tông.


Về động cơ, thứ nhất là do bà đã có sẵn tư thù với Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ. Thứ hai là do thời đó, nhiều người trong triều dị nghị rằng Nguyễn Thị Anh đã có thai trước khi vào cung và Thái tử Bang Cơ không phải là con Vua Thái Tông, sợ Nguyễn Trãi gièm pha nên bà đã sai người sát hại vua rồi đổ tội cho vợ chồng Nguyễn Trãi.


Vì sao vua Quang Trung băng hà?

Vào tuổi tứ tuần, giữa lúc chuẩn bị mở một chiến dịch tổng lực để tiêu diệt liên minh Nguyễn Ánh - Pháp, hoàn thành việc thống nhất đất nước; đồng thời nỗ lực giành lại hai tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông từ nhà Thanh, hoàng đế Quang Trung đột ngột băng hà. Biến cố này là một trong những nghi vấn lớn nhất của lịch sử Việt Nam.


Kienthuc-Quang-Trung.jpg

Theo chính sử nhà Nguyễn, hoàng đế Quang Trung chết vì một chứng bệnh kỳ bí, bắt đầu từ một cơn đột quỵ khiến ông rơi vào trạng thái mê man nhiều ngày. Chứng bệnh này sử gia nhà Nguyễn giải thích như sự trừng phạt của thần thánh dành cho việc quân đội của ông đã xâm phạm các tôn lăng của chúa Nguyễn khi chiếm thành Phú Xuân (Huế).


Nếu gạt bỏ những yếu tố hoang đường và dụng ý chính trị thì những mô tả trong Ngụy Tây liệt truyện đã hé mở phần nào nguyên nhân dẫn đến cái chết của vua Quang Trung trên phương diện y học hiện đại.


Theo giả thuyết của các nhà nghiên cứu ngày nay, nhiều khả năng vị hoàng đế vĩ đại của nhà Tây Sơn đã bị suy sụp bởi một cơn tăng huyết áp đột ngột và qua đời vì tai biến mạch máu não.


Ngoài ra, còn một giả thuyết khác khá hoang đường khác về cái chết của vua Quang Trung, đó là ông đã bị trúng tà thuật từ chiếc áo bị yểm bùa do vua Càn Long của nhà Thanh ban tặng. Một biến thể của giả thuyết này là chiếc áo kể trên đã bị tẩm thuốc độc.
 
S

scientists

“Giải” ẩn số Ỷ Lan bức chết vợ vua, 72 cung nữ

nguyenphiylan2.jpg


(Kienthuc.net.vn) Trong lịch sử của Việt Nam, Nguyên phi Ỷ Lan là một trong những người phụ nữ hiếm hoi vừa có sắc đẹp trời phú, vừa có học vấn uyên thâm và quyền lực to lớn trong triều đình. Bà cũng được ghi nhận là người có công lao to lớn trong việc đem lại sự thịnh trị cho triều Lý.


Tuy vậy, trong cuộc đời của người phụ nữ huyền thoại này không phải là không có những vết nhơ. Đó chính là vụ bức tử Hoàng hậu Thượng Dương cùng 72 cung nữ vào năm 1073.

Theo các sử liệu, cho đến năm 40 tuổi, vua Lý Thánh Tông vẫn không có con. Ước nguyện có người nối dõi của vua chỉ trở thành hiện thực sau khi ông lấy Ỷ Lan và được nàng sinh cho hai đứa con trai, người con trai đầu là Thái tử Càn Đức và người con thứ hai là Minh Nhân Vương.

Năm 1072, vua Lý Thánh Tông qua đời, thái tử Càn Đức bấy giờ mới 6 tuổi lên nối ngôi, niên hiệu là Lý Nhân Tông. Hoàng hậu Thượng Dương là vợ cả nên được tôn phong là Dương thái hậu, trong khi Ỷ Lan là vợ thứ nên chỉ được tôn là Linh Nhân thái phi.

Theo luật xưa, khi hoàng đế lên ngôi lúc còn nhỏ tuổi thì thái hậu sẽ được quyền nhiếp chính. Như vậy, chỉ vì các quy định của triều đình mà Ỷ Lan, vừa là mẹ vua, vừa là một người có tài chính trị nhưng lại mất quyền nhiếp chính vào tay Dương thái hậu – người không thể sinh nổi cho vua một mụn con. Điều này khiến bà tức tối và tìm cách chiếm quyền nhiếp chính.

Thường Kiệt và giả ốm để chờ hoàng thượng nhỏ tuổi tới thăm, nhằm tận dụng hoàn cảnh cũng như mối quan hệ mẹ con để đánh vào tình cảm của Lý Nhân Tông.

Đúng như tính toán của bà, khi nghe tin mẹ ốm, hoàng thượng đã vội vã vào cung thăm hỏi ngay sau buổi lên triều. Ỷ Lan không bỏ lỡ cơ hội khóc lóc, than vãn về sự bất công trong triều đình và khéo léo truyền đạt ý muốn được nhiếp chính của mình đến với nhà vua. Màn kịch hoàn hảo của Ỷ Lan đã khiến Lý Nhân Tông hoàn toàn bị bà chi phối.

Dưới sự dẫn dắt của Ỷ Lan, vị vua trẻ đã quyết định đày Dương thái hậu cùng 72 cung nữ thân cận vào lãnh cung. Với đầu óc mưu lược của mình, Ỷ Lan đã giành lại được địa vị tối cao trong triều đình nhà Lý.

Số phận của Dương thái hậu và các cung nữ đã kết thúc một cách bi thảm. Thái hậu đã phải tự sát bằng dải lụa trắng mà vua ban cho. 72 cung nữ phải từ giã cõi đời một cách khốn khổ hơn: bị bỏ đói đến chết…
XHYlanjpg1352692239.jpg
Từ thân phận của một cô gái hái dâu, Ỷ Lan đã trở thành một trong những người phụ nữ quyền lực nhất trong lịch sử Việt Nam.
Quanh vụ thảm án này, còn có một lời kể khác được ghi lại. Theo đó, Thượng Dương hoàng hậu do không có con nên đã sai thuộc hạ bắt trộm Thái tử Càn Đức về làm con mình, đồng thời vu cho Ỷ Lan sinh ra cầm thú. Càn Đức lớn lên trong vòng tay của hoàng hậu và luôn nghĩ rằng bà là mẹ đẻ của mình.

Phải đến sau khi Càn Đức lên ngôi, nhà vua mới biết Nguyên phi Ỷ Lan là mẹ ruột của mình. Vì oán hận mưu gian của hoàng hậu, vua cùng mẹ mình đã ra lệnh giết 72 cung nữ trong Thượng Dương cung. Dương thái hậu vì biết trước điều này nên đã kịp thời bỏ trốn.


Dù nguyên nhân thực sự của vụ việc này là gì thì hành vi của Nguyên phi Ỷ Lan vẫn là điều đáng bị lên án. Ỷ Lan hiểu rõ điều này nên về cuối đời đã vô cùng hối hận. Bà đã cho xây 72 ngôi chùa để tỏ lòng sám hối và độ sinh cho hoàng hậu Thượng Dương cùng 72 cung nữ.

Cũng vì thảm án kể trên mà các nhà chép sử khi xưa tỏ ra khá dè dặt khi đề cập đến Ỷ Lan, dù ghi nhận công lao của bà trong việc tạo dựng nên một nền văn hóa rực rỡ thời Lý.

ykb1365406896.jpg


Cho đến tận thời hiện đại, các sử gia vẫn tranh cãi về tính chất của tội lỗi mà Ỷ Lan đã mắc phải.

TS sử học Đinh Công Vỹ cho rằng, Nguyên phi Ỷ Lan không thể được dung thứ vì đã phạm tội giết người hàng loạt chỉ vì sự tham lam quyền lực, sự ích kỉ cá nhân đã giết chết mọi nhân tính.

Một số nhà sử học khác thì biện hộ cho Ỷ Lan với lý lẽ rằng, trong nền chính trị cung đình thời xưa, những hành động thanh trừng như vậy là điều thường gặp.

Trong khi đó, PGS-TS Nguyễn Minh Tường (Viện Sử học Việt Nam) lưu ý rằng dưới triều Lý có tục “tuẫn táng”, tức là khi vua, hoàng hậu hay thái hậu mất thì triều đình có thể chôn theo cung phi để hầu hạ ở thế giới bên kia. 72 cung phi của Dương thái hậu có thể đã phải chết vì nguyên cớ này.

 
Top Bottom