Sử $\color{BLUE}{\fbox{LỊCH SỬ}\bigstar\text{THÔNG TIN LỊCH SỬ-NGHIÊN CỨU SÂU VÀ CHI TIẾT}\bigstar}$

S

scientists

Di sản
250px-L%C4%83ng_B%C3%A1c.JPG


Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh

Tại Việt Nam, ông được xem là nhân vật chính trong công cuộc giải phóng dân tộc. Đối với nhiều người, ông là một nhà yêu nước đã vận dụng chủ nghĩa Marx-Lenin vào công cuộc giải phóng dân tộc thoát khỏi ách thực dân và đế quốc. Tính giản dị và kiên cường của ông được nhiều người kính mến. Giáo sư David Thomas cho rằng "Chính viễn kiến của ông, sự hy sinh, tính bền bỉ và sự lãnh đạo của ông trong một nước nghèo nàn, lạc hậu đã thúc đẩy người Việt Nam đứng dậy, đánh thắng thực dân Pháp và quân đội Mỹ." Cũng chính giáo sư này xem ông là một nhân vật trong thời kỳ Phục Hưng, là người nói giỏi không ít ngoại ngữ, lại còn viết được thơ bằng chữ Hán. Trong đời, Hồ Chí Minh đã tham khảo những danh nhân về văn học và triết học như Victor Hugo, Charles Dickens, Lev Nikolayevich Tolstoy hay Fyodor Mikhailovich Dostoevsky thông qua các tài liệu bằng ngôn ngữ bản xứ của họ. Tuy nhiên, ông cũng nói rằng "Họ (Chính phủ Việt Nam) đã thánh hóa hình ảnh của ông, biến ông thành một vị thánh và điều đó khiến việc có được bức tranh thực và đầy đủ về cuộc đời ông trở thành bất khả."

Nhiều người dân Việt Nam yêu quý ông, gọi ông bằng cái tên thân mật Bác Hồ. Trong văn thơ, ông còn được gọi là "Người Cha già dân tộc". Một số dân tộc thiểu số Việt Nam, như Vân Kiều, Pa Cô, Kor, đã lấy họ Hồ vì yêu quý ông. Ông được thờ tại nhiều gia đình Việt Nam, cũng như tại nhiều gia đình Việt kiều ở Thái Lan, Lào,... và một số gia đình ở các nước khác như Na Uy.

Tuy nhiên, tại một số cộng đồng người Việt hải ngoại, đặc biệt là Hoa Kỳ mà đa phần là những người rời khỏi Việt Nam sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, hình ảnh của ông bị phản đối mãnh liệt. Năm 1999, khi một người cho thuê băng đĩa treo chân dung Hồ Chí Minh trước cửa tiệm mình tại Little Saigon, hàng vạn người Mỹ gốc Việt và cựu binh Hoa Kỳ tại Việt Nam đã tham gia biểu tình phản đối, gây ra nhiều tranh cãi về vấn đề tự do ngôn luận tại Hoa Kỳ . Một cuộc triển lãm nghệ thuật về ông tại Oakland, California năm 2000 cũng bị hàng trăm người biểu tình phản đối. Trong một hành động phản đối chuyến thăm của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tới Hoa Kỳ, hình nộm của ông bị đem ra treo cổ và hình ảnh ông bị giẫm đạp, một số cuộc biểu tình phản đối chính quyền Việt Nam tại Hoa Kỳ cũng có những hành động tương tự.
250px-Ho_Chi_Minh_vnzla.jpg


Tượng bán thân Hồ Chí Minh trên đại lộ Simon Bolivar, Caracas, Venezuela

Với chiến thắng quyết định ở trận Điện Biên Phủ, những nước thuộc địa trước đây của Pháp, chủ yếu ở Bắc Phi và Tây Phi cũng theo gương Việt Nam nổi dậy. Hồ Chí Minh được người dân ở những nước này rất kính trọng, và được coi như tấm gương cho cuộc giải phóng tại đất nước họ. Tên ông đã được đặt cho các đại lộ tại Luanda (Angola), tại Ouagadougou (Burkina Faso) và tại Maputo (Mozambique). Tại Berkeley, California, nơi có nhiều cuộc biểu tình chống chiến tranh Việt Nam, nhiều nhà hoạt động cộng đồng đã từng gọi Công viên Frances Willard là Công viên Hồ Chí Minh một cách không chính thức.[188] Nhiều nước trên thế giới đã phát hành tem bưu chính kỷ niệm ông: Liên bang Xô viết, Ấn Độ, Lào, Madagascar, Algérie, Cuba, Đông Đức, Triều Tiên, Quần đảo Marshall, Dominica,... Tượng đài ông được đặt tại nhiều thành phố trên thế giới, trong đó có La Havana (Cuba), Moskva (Nga), Zalaegerszeg (Hungary), Montreuil (Pháp), Calcutta (Ấn Độ), Antananarivo (Madagascar), và Caracas (Venezuela)

Tưởng niệm
250px-B%C3%A1c_H%E1%BB%93_v%E1%BB%9Bi_Thi%E1%BA%BFu_nhi.jpg


Tượng Bác Hồ với thiếu nhi của Diệp Minh Châu tại TP. Hồ Chí Minh

Sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc, phủ toàn quyền Đông Dương bên cạnh Quảng trường Ba Đình, nơi ông đã đọc Tuyên ngôn độc lập được chọn là nơi làm việc của Đảng, Nhà nước và đồng thời là nơi ở, nơi làm việc của Chủ tịch nước. Từ đó trở đi, nơi đây trở thành Khu di tích Phủ Chủ tịch. Khu này là nơi sống và làm việc lâu nhất trong cuộc đời hoạt động cách mạng của ông - từ 19 tháng 12 năm 1954 đến 2 tháng 9 năm 1969 (đây cũng là khoảng thời gian ông có những đóng góp quan trọng nhất trong lịch sử Việt Nam). Khu di tích Phủ Chủ tịch hàng năm đón nhiều khách tham quan trong và ngoài nước. Một công trình khác là Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi tuần có hơn 15.000 người đến đây viếng thăm, trong đó có nhiều nguyên thủ các nước.

Bảo tàng Hồ Chí Minh tại Hà Nội là khu tưởng niệm về Hồ Chí Minh lớn nhất Việt Nam. Tại các tỉnh thành phố khác cũng có các bảo tàng, nhà lưu niệm về ông, đặt tại những địa điểm ông đã từng sống và làm việc. Nổi bật nhất là bến Nhà Rồng tại Thành phố Hồ Chí Minh, nơi ông đã xuống tàu "Đô đốc Latouche Tréville" ra đi tìm đường cứu nước, và Nhà tưởng niệm xây dựng năm 1970 ở quê nội của ông. Tại các quốc gia khác cũng có các nhà lưu niệm về Hồ Chí Minh[194], chẳng hạn như ở Pháp. Ngoài ra còn có rất nhiều đài kỷ niệm và bia tưởng niệm. Tại Việt Nam, Hồ Chí Minh còn được thờ trong một số đền, chùa và gia đình. . Ngoài phạm vi Việt Nam, Hồ Chí Minh được tưởng niệm tại nhiều công trình trên thế giới.

Tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh tại thị xã Sa Đéc

Nhằm tôn vinh ông, năm 1976, kỳ họp Quốc hội đầu tiên sau ngày Việt Nam được thống nhất đã thống nhất quyết định đổi tên thành phố Sài Gòn thành Thành phố Hồ Chí Minh. Chiến dịch quân sự lịch sử xảy ra trên thành phố này, kết thúc Chiến tranh Việt Nam và mở đầu thời kỳ thống nhất của Việt Nam cũng mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh.

Tên ông còn được đặt cho các giải thưởng và huân chương cao quý nhất của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam: Huân chương Hồ Chí Minh là huân chương bậc cao thứ nhì của Nhà nước; Giải thưởng Hồ Chí Minh là giải thưởng cao quý nhất dành cho những cống hiến trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ. "Cháu ngoan Bác Hồ" là danh hiệu dành cho các thiếu nhi có thành tích cao trong học tập và hoạt động xã hội. Tên ông còn được đặt cho hai tổ chức chính của thanh thiếu niên Việt Nam: Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
300px-500000_polymer.jpg
250px-500000_polymer.jpg


Mọi tờ tiền giấy tại Việt Nam hiện nay đều in hình chủ tịch Hồ Chí Minh

Các tên Hồ Chí Minh, Nguyễn Ái Quốc hay Nguyễn Tất Thành còn được đặt cho nhiều công trình công cộng, như đường quốc lộ, quảng trường, đường phố, trường học.

Hình ảnh và tượng ông hiện diện tại nhiều nơi công cộng, cũng như trên tất cả các đồng tiền giấy đang lưu hành tại Việt Nam. Cùng với quốc kỳ, tượng bán thân hoặc hình ông được đặt tại nơi trang trọng nhất của mỗi cơ quan nhà nước và trường học tại Việt Nam.
(Còn nữa)
 
S

scientists

Danh hiệu
Ông được xem là một danh nhân không chỉ của dân tộc Việt Nam mà còn của thế giới. Trong Khóa họp Đại hội đồng lần thứ 24 tại Paris (20/10 - 20/11/1987), UNESCO đã tôn vinh ông là "Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa" (nguyên văn: Hero of national liberation and Great man of culture)và khuyến nghị các nước thành viên tổ chức kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông do "các đóng góp quan trọng và nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật", và ông "đã dành cả cuộc đời mình cho sự giải phóng nhân dân Việt Nam, đóng góp cho cuộc đấu tranh chung vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của các dân tộc". Tuy nhiên, trước sự phản đối của một số người Việt và người Pháp tại thủ đô Paris nước Pháp, UNESCO không đứng ra tổ chức lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hồ Chí Minh mà để chính phủ Việt Nam tự tổ chức nhưng không được lấy danh nghĩa UNESCO.Dù vậy, nghị quyết gốc vẫn được UNESCO công nhận và bảo lưu giá trị. Phát biểu tại hội thảo quốc tế ở Hà Nội tháng 3/1990, Giám đốc UNESCO khu vực châu Á - Thái Bình Dương Modagat Ahmet, khẳng định: "Hội nghị UNESCO phiên thứ 24 đã quyết định kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông vào năm 1990. Đây là một cử chỉ tôn kính đối với một nhân vật vĩ đại đã cống hiến trọn đời mình cho sứ mệnh tự do và độc lập. UNESCO rất vui sướng được tham gia vào sự kiện đáng ghi nhớ này. Điều đó biểu hiện sự cam kết sâu sắc của tổ chức này trong việc duy trì các giá trị và công lao của các nhân vật vĩ đại được nhân loại công nhận và kính trọng". Năm 2010, văn bản gốc bằng tiếng Pháp của Nghị quyết đã được Tổng Giám đốc UNESCO trao tặng cho Bảo tàng Hồ Chí Minh để trưng bày.

Tuần báo TIME của Hoa Kỳ bình chọn Hồ Chí Minh là một trong 100 nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất trong thế kỷ 20. Tờ Time 2000 đã nhận định ông là người đã góp phần "làm thay đổi diện mạo hành tinh chúng ta trong thế kỷ XX" . Ngày 15 tháng 10 năm 2010, báo Time cũng đã bầu chọn Hồ Chí Minh là một trong 10 tù nhân chính trị nổi bật chiến đấu cho tự do nổi tiếng nhất mọi thời đại cùng với Aung San Suu Kyi, Nelson Mandela, Martin Luther King Jr., Mohandas Gandhi...

Ảnh hưởng của Hồ Chí Minh ở Việt Nam ngày nay
Tại Việt Nam, hình ảnh Hồ Chí Minh phổ biến khắp nơi như là một "tấm gương sáng ngời về đạo đức", một "nhân cách cao thượng" và được coi là một "thần tượng". Những tác phẩm nói về Hồ Chí Minh thường ca ngợi những đức tính tốt đẹp của ông. Các cấp ủy Đảng Cộng sản Việt Nam thường xuyên tuyên truyền, vận động cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân học tập và làm theo tấm gương đạo đức, lối sống của Hồ Chí Minh. Mỗi năm, chính quyền và Đảng bộ đều tổ chức các cuộc thi Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho nội bộ lẫn quần chúng.

Ngoài những phát biểu của chính Hồ Chí Minh và hình vẽ, hình chụp của ông, những câu nói và khẩu hiệu tuyên truyền có thể đọc thấy ở mọi nơi đó là:

  • Đời đời nhớ ơn Bác Hồ vĩ đại
  • Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
  • Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp chúng ta
(Còn nữa)
 
S

scientists

Danh ngôn Hồ Chí Minh

  • Tôi nói, đồng bào có nghe rõ không?
    • Khi đọc Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh ngừng lại để hỏi người dân có nghe rõ lời ông đọc hay không.
  • Tôi chỉ có một Đảng: Đảng Việt Nam.
    • Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 4, tr. 427-428.
  • Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người.
    • Câu này lấy từ ý của Quản Trọng trong sách Quản tử, nguyên văn là: Nhất niên chi kế, mạc như thụ cốc, thập niên chi kế, mạc như thụ mộc, chung thân chi kế, mạc như thụ nhân.: "Kế sách cho 1 năm, lấy việc trồng lúa làm đầu; Kế sách cho 10 năm, lấy việc trồng cây làm đầu; Kế sách cho trăm năm, lấy việc trồng người làm đầu"
  • Chớ lên mặt làm quan cách mệnh!
    • Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tập 5, tr. 105.
  • Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong.
    • Câu này nguyên không phải của Hồ Chí Minh. Có thuyết nói là nguyên của nhà thơ Thanh Tịnh, lấy từ bài thơ Dân no thì lính cũng no 1948 của ông, có thuyết nói rằng câu này trong báo cáo của Đảng bộ tỉnh ủy tỉnh Quảng Bình gửi ra, được Hồ Chí Minh đọc và từ đó nhiều người dân và cán bộ miền Bắc cho rằng đây là câu nói của Hồ Chí Minh.
  • Mỹ mà không đẹp!
    • Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tập 6, tr. 263.
    • Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tập 11, tr. 277.
  • Nhiệm vụ của thanh niên không phải là đòi hỏi Nước nhà đã cho mình những gì, mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho Nước nhà? Mình phải làm thế nào cho ích lợi Nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích Nước nhà mà hy sinh phấn đấu đến chừng nào?
    • Trích trong bài nói chuyện tại buổi Lễ khai mạc trường Đại học Nhân dân Việt Nam vào ngày 19 tháng 1 năm 1955. Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tập 7, tr. 454-455.
    • Câu nói của Tổng thống Hoa Kỳ John Kennedy trong diễn văn nhậm chức ngày 20 tháng 1 năm1961 có ý tứ giống câu này. Nguyên văn câu nói của Kennedy: Ask not what your country can do for you - Ask what you can do for your country.: "Đừng hỏi Tổ quốc có thể làm gì cho bạn, mà hãy hỏi bạn có thể làm gì cho Tổ quốc.".
  • Vượt qua mùa đông giá rét, chúng ta sẽ có một mùa xuân ấm áp.
    • Chiến dịch Thu - Đông năm 1947.
  • Nay tuy châu chấu đá voi. Nhưng mai voi sẽ bị lòi ruột ra.
    • Phỏng theo ca dao: Nực cười châu chấu đá xe. Tưởng rằng chấu ngã ai dè xe nghiêng.
  • Hỡi đồng bào cả nước! Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
  • Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu.
    • Viết trong Thư gửi các em học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tháng 9/1945.
  • Nước nhà cần kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài có đức. E vì Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi những bực tài đức không thể xuất thân. Khuyết điểm đó tôi xin thừa nhận. - Hồ Chí Minh - Báo Cứu Quốc số 411. Ngày 20-11-1946.
    • Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tập 4, tr. 451.
  • Người Cộng sản không được sợ bất cứ cái gì và cũng không sợ bất cứ cái gì!
    • Trả lời một phóng viên Ý năm 1956 khi được hỏi "Ông sợ cái gì?".
    • Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.
    • Tôi là một công dân !.
    • Trời có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông, đất có bốn phương: đông, tây, nam, bắc, người có bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính.
    • Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải có con người xã hội chủ nghĩa.
    • Các chú thương binh tàn nhưng không phế!
    • Chúng tôi sẽ đứng trung lập, như Thái Lan đứng trung lập giữa Anh và Pháp vậy !
    • Văn hóa - Văn nghệ cũng là một Mặt trận, các anh chị em văn nghệ sĩ chính là những chiến sĩ trên Mặt trận ấy !
    • Cho dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập !
    • Trẻ em như búp trên cành. Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan.
    • Non sông Việt Nam có vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có được sánh vai với các cường quốc năm châu hay không, chính là nhờ một phần công học tập của các cháu.
    • Dân là dân nước, nước là nước dân.
    • Không có gì quý hơn độc lập, tự do !
    • Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
    • Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một; sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi.
    • Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước.
    • Dân ta phải biết sử ta, Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.
    • Cán bộ là người lãnh đạo, người đầy tớ thực sự trung thành của nhân dân và phải luôn luôn xứng đáng là người công bộc của dân !
    • Tôi chỉ là người đầy tớ trung thành của nhân dân !
    • Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công.
    • Không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền, đào núi và lấp biển, quyết chí ắt làm nên
    • Chính lòng yêu nước, chứ không phải lý tưởng Cộng sản, là nguồn cảm hứng cho tôi
    • Hình ảnh miền Nam luôn ở trong trái tim tôi !
    • Nhân dân miền Nam là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam.
    • Việc học không bao giờ cùng, còn sống còn phải học.
    (Còn nữa)
 
S

scientists

Hồ Chí Minh trong văn học, nghệ thuật

Âm nhạc

  • "Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn các em nhi đồng" (Phong Nhã)
  • "Bác đang cùng chúng cháu hành quân" (Huy Thục)
  • "Bác Hồ sống mãi với Tây Nguyên" (Lê Lôi)
  • "Bác Hồ, một tình yêu bao la" của (Thuận Yến):...Bác thương các cụ già xuân về gửi biếu lụa, Bác yêu đàn cháu nhỏ Trung Thu gửi cho quà. Bác thương đoàn dân công đêm nay ngủ ngoài rừng, Bác thương người chiến sĩ đứng gác ngoài biên cương..."
  • "Bác Hồ - Người cho em tất cả" (Hoàng Long, Hoàng Lân, thơ Thu Phong)
  • "Bác Hồ trên đỉnh Trường Lệ" (Lê Đăng Khoa)
  • "Bài ca dâng Bác" (Trọng Loan)
  • "The Ballad of Ho Chi Minh" (Bài ca Hồ Chí Minh) của nhạc sĩ người Anh Ewan MacColl: ...From VietBac to the SaiGon Delta. Marched the armies of Viet Minh. And the wind stirs the banners of the Indo-Chinese people. Peace and freedom and Ho Chi Minh...
  • "Bài ca về đồng chí Hồ Chí Minh" (Nhạc sĩ người Nga Vladimir Fere)
  • "Bé yêu Bác Hồ" (Đỗ Nhuận)
  • "Bên lăng Bác Hồ" (Dân Huyền)
  • "Bên ta như có Bác" (Lê Đăng Khoa) : Ði khắp năm châu hiếm có ai như Bác. Cuộc đời giản dị, tình người bao la. Như có Bác bên ta đang cùng nhau lội đồng, thăm những công trình nhà máy vút cao. Như có Bác bên ta trên giảng đường học tập. Chắp cánh cho ta bay xa, bay xa.
  • "Bên tượng đài Bác Hồ" (Lê Giang)
  • "Biết ơn cụ Hồ" (Lưu Bách Thụ)
  • "Buổi sáng nhớ Bác"
  • "Ca ngợi Hồ Chủ tịch" (Văn Cao): Người về đem tới ngày vui. Mùa thu nắng toả Ba Đình. Với tiếng Người còn dịu dàng như tiếng đất trời. Người về đem tới xuân đời từ đất nước cằn, Từ bùn lầy cả cuộc đời vùng lên.
  • "Ca ngợi Hồ Chủ tịch" (Lưu Hữu Phước): Hồ Chí Minh sáng ngời gương đấu tranh. Vững bền đưa chúng ta vượt khó khăn. Hồ Chí Minh muôn năm chỉ lối cho nhân dân. Đến ngày chiến thắng vẻ vang.
  • "Cảm ơn đường Hồ Chí Minh" của Norodom Sihanouk (Campuchia)[7]
  • "Chúng con bên giấc ngủ của Người" (Nguyễn Đăng Nước)
  • "Dâng Người tiếng hát mùa xuân" (Nguyễn Văn Thương)
  • "Dấu chân phía trước" (Phạm Minh Tuấn)
  • "Đêm nghe hát đò đưa nhớ Bác" (An Thuyên)
  • "Đêm Trường Sơn nhớ Bác" (Trần Chung)
  • "Đôi dép Bác Hồ" (Văn An, phổ thơ Tạ Hữu Yên):... Đôi dép đơn sơ đôi dép Bác Hồ Bác đi từ ở chiến khu Bác về, Bác đi từ ở chiến khu Bác về. Phố phường trận địa nhà máy đồng quê đều in dấu dép Bác về...
  • "Em mơ gặp Bác Hồ" (Xuân Giao): "Đêm qua em mơ gặp Bác Hồ, râu Bác dài tóc Bác bạc phơ"
  • "Em về quê Bác Hồ" (Hồ Tĩnh Tâm)
  • "Giữa Mạc Tư Khoa nghe câu hò Nghệ Tĩnh" (Trần Hoàn)
  • "Gửi tới Bác Hồ" (Kapapúi, lời Việt của Tường Vi)
  • "Hát mừng Bác Hồ vĩ đại" của nhạc sĩ Suphat Mukhophathiai (Ấn Độ): “Ôi Hồ Chí Minh, Người vĩ đại biết bao!”
  • "Ho Chi Minh" của nhạc sĩ người Đức Kurt Demmler
  • "Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người" (Trần Kiết Tường): ...Trên cánh đồng miền Nam, đau thương mây phủ chân trời. Khi ca lên Hồ Chí Minh, nghe lòng phơi phới niềm tin...
  • "Hồ Chí Minh là cả một bài thơ" (Nhạc sĩ người Cuba Felis Pita Rogerigate)
  • "Hoa sen Tháp Mười" (Trương Quang Lục)
  • "Inolvidable Ho Chi Minh" (nhạc sĩ Venezuela Alí Primera)
  • "Jose Marti Hồ Chí Minh" (Nhạc sĩ Cuba Armando Cardoso)
  • "Làng Chăm ơn Bác" (Nhạc sĩ người Champa AmưNhân)
  • "Lãnh tụ ca" (Lưu Hữu Phước)
  • "Lời Bác dặn trước lúc đi xa" (Trần Hoàn): Chuyện kể rằng trước lúc Người ra đi, Bác muốn nghe một câu hò xứ Huế. Nhưng không gian. vẫn bốn bề lặng lẽ, Bác đành nằm im...
  • "Mỗi dòng thư Bác sáng ngời niềm tin" (Thuận Yến)
  • "Miền Nam nhớ mãi ơn Người" (Lưu Cầu)
  • "Miền Trung nhớ Bác" (Thuận Yến)
  • "Ngọn cờ Hồ Chí Minh" (Nhạc sĩ Cuba Carlos Puebla, lời Việt của Hồ Bắc)
  • "Nhớ hình ảnh Bác Hồ với nông dân" (Lê Đăng Khoa)
  • "Nhớ ơn Bác" (Phan Huỳnh Điểu)
  • "Nơi Bác ở" (Lê Đăng Khoa) : Ngôi nhà sàn bé nhỏ, nơi Bác ở đạm bạc. Cỏ non vờn chân Bác. Gió hát chiều xốn xang. Người ra đi, căn phòng vẫn lộng gió. Ấm áp tình người như Bác vẫn đâu đây
  • "Ngợi ca chủ tịch Hồ Chí Minh" (Nhạc sĩ người Đức Jeans Chourfores)
  • "Người là niềm tin tất thắng" (Chu Minh): Đất nước nghiêng mình đời đời nhớ ơn. Tên người sống mãi với non sông Việt Nam. Lời thề sắt son theo tiếng bác gọi, bốn ngàn năm dồn lại hôm nay, người sống trong muôn triệu trái tim... Thế giới nghiêng mình, loài người tiếc thương. Đây người chiến sĩ đấu tranh cho tự do. Người là ước mơ của các dân tộc. Tiếng người vang vọng đến mai sau. Nguyện ước theo con đường Bác đi...
  • "Người mang tấm áo Bác Hồ"
  • "Người sống mãi trong lòng miền Nam" (Nguyễn Đồng Nai)
  • "Người về thăm quê" (Thuận Yến)
  • "Nhật ký trong tù" (Nhạc sĩ người Anh George Feris phổ nhạc 7 bài thơ ông ưng ý nhất trong tập thơ này)
  • "Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng" (Phạm Tuyên)
  • "Những bông hoa trong vườn Bác" (Văn Dung)
  • "Quyền sống trong hòa bình" (The Right of Living in Peace) nhạc của Víctor Jara (Chile): "Nhà thơ Hồ Chí Minh – Đưa quyền sống hòa bình – Từ Việt Nam ra toàn nhân loại...”
  • "Suối Lê Nin" (Phạm Tuyên)
  • "Tây Nguyên mừng đón thơ Bác" (Doãn Nho)
  • "Tây Nguyên nhớ Bác Hồ" (Kapapúi - lời Tường Vi)
  • "Teacher Uncle Ho" (Thầy giáo Bác Hồ) của nhạc sĩ người Mỹ Pete Seeger: ...I'll have to say in my own way. The only way I know, that we learned power to the people and the power to know. From Teacher Uncle Ho!
  • "Tấm áo Bác Hồ" (Thuận Yến)
  • "Tấm ảnh Bác Hồ" (Lưu Hữu Phước)
  • "Thăm bến Nhà Rồng" (Trần Hoàn)
  • "Thanh niên làm theo lời Bác" (Hoàng Hà)
  • "Tiếng hát giữa rừng Pắk Pó" (Nguyễn Tài Tuệ)
  • "Tiếng hát từ thành phố mang tên Bác" (Cao Việt Bách)
  • "Tình Bác sáng đời ta" (Lưu Hữu Phước)
  • "Trông cây lại nhớ Người" (Đỗ Nhuận)
  • "Tuổi trẻ thế hệ Bác Hồ" (Triều Dâng)
  • "Từ làng Sen" (Phạm Tuyên)
  • "Vâng lời Bác Hồ" (Lưu Bách Thụ)
  • "Vầng trăng Ba Đình" (Thuận Yến)
  • "Viếng Lăng Bác" (Hoàng Hiệp, phổ thơ Viễn Phương)
  • "Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ" (Nhạc sĩ Nga Vladimir Fere, lời Việt của Đỗ Nhuận)
(Còn nữa)
 
S

scientists


Thơ, văn

Bài thơ "Người đi tìm hình của nước" của nhà thơ Chế Lan Viên:

...Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba-lê
Một viên gạch hồng Bác chống lại cả một mùa băng giá
Và sương mù thành Luân Đôn, người có nhớ
Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya...

Bài thơ "Việt Bắc" của Tố Hữu:

...Nhớ ông cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường...

Bài thơ "Bác ơi" của Tố Hữu, sáng tác ngày 6 tháng 9 năm 1969 ngay sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, có đoạn:

Bác để tình thương cho chúng con
Một đời thanh bạch, chẳng vàng son
Mong manh áo vải hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.

Bài thơ "Viếng lăng Bác" của Viễn Phương:

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên::
Giữa một vầng trǎng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!

Bài thơ "Một con người chủ nghĩa Mác sinh ra" của Hải Như:

Bác đã cho ta, Bác đã cho đời
Lẽ sống của ngày mai trên Trái Đất
Lẽ sống đẹp, không coi mình cao nhất
Mong kiếp người, ai cũng cất đầu cao

Bài thơ "Chúc tụng Bác Hồ" của Ismael Gomes Braga (Brazil):

Vị thánh sống của nghìn thánh sống
Và ân nhân của cả muôn đời
Hồ Chí Minh! - Chưa dễ thấy người
Chúng tôi đây bọn mù mắt sáng!

Tác phẩm Búp sen xanh của Sơn Tùng kể về thời tuổi trẻ của Hồ Chí Minh.

Trong tiểu thuyết Đỉnh cao chói lọi của Dương Thu Hương, Hồ Chí Minh được hư cấu thành nhân vật chính Chủ tịch.

Hội họa
300px-Thieunhi4_52011.jpg


Tác phẩm "Bác Hồ và ba em thiếu nhi Trung -Nam -Bắc" (Tranh lụa vẽ bằng máu 1947) của họa sĩ Diệp Minh Châu.

Đã có ít nhất bốn bức vẽ bằng máu về Hồ Chí Minh (huyết họa)

Điện ảnh


  • Hình tượng Hồ Chí Minh trong phim truyện video "Hà nội - Mùa đông 1946" do NSƯT Tiến Hợi thể hiện.
  • Hình tượng Nguyễn Tất Thành (Văn Ba) trong phim truyện nhựa "Hẹn gặp lại Sài Gòn" do NSƯT Tiến Hợi thể hiện.
  • Hình tượng Tống Văn Sơ trong phim truyện Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông do NSƯT Trần Lực thể hiện.
Sân khấu

  • Hình tượng Hồ Chí Minh trong vở kịch "Đêm trắng" NSƯT Tiến Hợi thể hiện.
  • Hình tượng Hồ Chí Minh trong vở chèo "Những vần thơ thép" do NSƯT Mạnh Kiên thể hiện.
Nguồn loạt bài viết : Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
 
S

scientists

Loạt bài viết tiếp theo :

Pol Pot - đảng cộng sản Khơ-me đỏ

Và những tội ác kinh hoàng


230px-Pol_Pot2.jpg



Saloth Sar (19 tháng 5, 1925 – 15 tháng 4, 1998), được biết đến dưới cái tên Pol Pot, là người lãnh đạo đảng cộng sản Khmer Đỏ và là thủ tướng Campuchia (tên chính thức Kampuchea Dân chủ dưới quyền ông) từ 1976 đến 1979, nhưng cầm quyền không chính thức từ giữa năm 1975. Trong thời gian cầm quyền Pol Pot đã tạo ra một chế độ cải cách nông nghiệp, nhằm tạo ra một xã hội cộng sản lý tưởng nhưng đã đàn áp các nhà trí thức. Ngày nay chế độ của ông bị hầu hết mọi người cho là nguyên nhân dẫn đến cái chết của khoảng 1,7 triệu người Campuchia (khoảng 26% dân số tại thời điểm đó). Ông là người Campuchia gốc Hoa.


Khởi đầu

Pol Pot (Saloth Sar) sinh tại Prek Sbauv lúc ấy là một phần của Đông Dương thuộc Pháp hiện nay là tỉnh Kompong Thom, Campuchia (từ 1928). Năm 1934 cha mẹ gửi ông tới Phnom Penh để học tại Wat Botum Vaddei, một Tu viện Phật giáo lớn và trở thành một nhà sư. Sau một năm ở đó, ông tới sống với vợ chồng người anh trai và bắt đầu theo học Trường Miche. Trong lần đầu tiên thi bằng sơ cấp tiểu học (Certificat d'Etudes Primaires Complémentaires) năm 1941, ông thi trượt và bị giữ lại trường. Tới tận năm 1943 ông mới đỗ. Ông cũng trượt ở kỳ thi vào trường Lycée Sisowath và vì thế phải theo học trường cấp thấp hơn tên là Collège Preah Sihanouk tại Kampong Cham năm 1943.Trong thời gian ở đó ông vẫn là một học trò tầm thường, nhưng thích chơi bóng đá và roneat (một thứ nhạc cụ tre). Năm 1947 ông vượt qua kỳ thi cuối cùng và được theo học Lycée Sisowath.

Năm 1949, ông được theo học kỹ sư radio ở Paris. Trong thời gian học, ông đã trở thành một người cộng sản và gia nhập Đảng cộng sản Pháp. Năm 1953, ông trở về Campuchia.

Lúc ấy, cuộc kháng chiến do cộng sản lãnh đạo đang diễn ra chống lại sự cai trị của Pháp ở Đông Dương. Trung tâm cuộc kháng chiến ở tại Việt Nam, nhưng cũng có các chi nhánh ở Campuchia và Lào. Saloth Sar gia nhập Việt Minh, nhưng thấy rằng tổ chức này chỉ chú trọng tới Việt Nam chứ không phải Lào hay Campuchia. Năm 1954, Pháp rời Đông Dương, nhưng Việt Minh cũng rút về Bắc Việt Nam, và Vua Norodom Sihanouk kêu gọi tổ chức bầu cử. Sihanouk thoái vị và lập ra một đảng chính trị. Sihanouk hất cẳng những người cộng sản đối lập và chiếm toàn bộ số ghế chính phủ.

Saloth Sar chạy trốn cảnh sát mật của Sihanouk và đã sống trong cảnh trốn tránh bảy năm trời, chiêu mộ binh lính. Tới cuối thập kỷ 1960, Lon Nol là giám đốc tổ chức an ninh nội bộ của Sihanouk tiến hành các hành động chống lại những người cộng sản, lúc ấy được gọi là Đảng Cộng sản Campuchia. Saloth Sar bắt đầu một cuộc khởi nghĩa vũ trang chống lại chính phủ, được Cộng hoà nhân dân Trung Hoa giúp đỡ.

Trước năm 1970, Đảng Cộng sản Campuchia là một tổ chức rất ít được biết đến trong đời sống chính trị Campuchia. Tuy nhiên, năm 1970, vị tướng được phương Tây ủng hộ là Lon Nol lật đổ Sihanouk, bởi vì Sihanouk bị coi là người ủng hộ Việt Cộng và Bắc Việt Nam.

Để phản kháng, Sihanouk quay sang ủng hộ phe của Saloth Sar. Cùng năm đó, Tổng thống Mỹ Richard Nixon ra lệnh tấn công quân sự vào Campuchia để tiêu diệt những nơi trú ẩn của Việt Cộng gần biên giới Nam Việt Nam. Cùng với sự yêu mến của dân chúng dành cho Sihanouk và cuộc tấn công của Mỹ vào Campuchia, phe Saloth Sar được nhiều người ủng hộ và chỉ trong thời gian ngắn chính phủ Lon Nol chỉ còn kiểm soát được các thành phố.

Khi Hoa Kỳ rời Việt Nam năm 1973, quân Bắc Việt rời Campuchia nhưng Khmer Đỏ tiếp tục chiến đấu với sự ủng hộ của họ. Không còn giữ được quyền kiểm soát đất nước nữa, chính phủ Lon Nol nhanh chóng sụp đổ. Ngày 17 tháng 4 năm 1975, Đảng cộng sản Campuchea chiếm Phnom Penh và Lon Nol bỏ chạy sang Mỹ. Chỉ chưa tới một tháng sau, ngày 12 tháng 5 năm 1975, các lực lượng hải quân Khmer Đỏ hoạt động trên vùng lãnh hải Campuchia đã bắt giữ chiếc tàu buôn S.S. Mayaguez của Mỹ, chiếc tàu Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam, gây ra Cuộc khủng hoảng Mayaguez. Saloth Sar đổi tên thành Pol Pot vào khoảng thời gian này, rõ ràng là không muốn lộ diện.

Norodom Sihanouk quay trở lại nắm quyền năm 1975, nhưng ông nhanh chóng nhận ra rằng ông đang bị các đồng minh cộng sản cấp tiến, những người không có nhiều quan tâm tới các kế hoạch khôi phục chế độ quân chủ của ông loại bỏ.


(Còn nữa)
 
S

scientists

Campuchia dân chủ

Chế độ Pol Pot đã giết hại từ 1,5 tới 2,3 triệu người trong giai đoạn 1975-1979, trong tổng dân số gần 8 triệu. Mục tiêu của chế độ là các nhà sư Phật giáo, những trí thức có ảnh hưởng phương tây, những người có vẻ là trí thức (như những người đeo kính), những người tàn tật, các dân tộc thiểu số như Lào và Việt Nam.

Ngay sau khi Phnom Penh sụp đổ, Khmer Đỏ bắt đầu tiến hành những cuộc cải cách cộng sản triệt để, và Sihanouk bị đặt vào vị trí lãnh đạo bù nhìn. Khmer Đỏ ra lệnh sơ tán toàn bộ khỏi Phnom Penh và tất cả các thành phố, thị xã chính của đất nước. Những người sơ tán được tuyên truyền rằng họ phải ra đi để tránh những cuộc ném bom của người Mỹ.

Tiến sĩ Gregory H. Stanton, đã viết trong cuốn Những chiếc khăn quàng xanh và những ngôi sao vàng: Sự xếp hạng và biểu tượng hoá trong Cuộc diệt chủng ở Campuchia:

"Những người lãnh đạo chính của chế độ Pol Pot đã đọc lý thuyết Marx của André Gunder Frank rằng các thành phố là những vật kí sinh vào nông thôn, rằng chỉ giá trị lao động là giá trị thật sự, rằng các thành phố chiếm đoạt giá trị thặng dư của những vùng nông thôn. Vì thế, ngay sau khi chiếm được quyền lực, Khmer Đỏ sơ tán toàn bộ các thành phố theo hình thức ép buộc, gồm cả những người không nên đi sơ tán như các bệnh nhân trong bệnh viện và những đứa trẻ mới sinh."

Năm 1976 mọi người được tái xếp hạng thành những người có đủ mọi quyền lợi (căn bản), ứng cử viên, và người mới đến - gọi thế vì đa số người thuộc loại này là người mới đến từ các thành phố. Những người mới đến được đánh dấu để tiêu diệt. Các khẩu phần của họ bị giảm xuống còn hai bát cháo, hay "juk" một ngày. Điều này khiến cho nạn đói xảy ra bên trong tầng lớp mới đến.

Lãnh đạo Khmer Đỏ khoe khoang trên đài rằng chỉ một hay hai triệu người trong số dân chúng toàn cuộc là cần thiết để xây dựng một xã hội điền địa cộng sản không tưởng. Đối với những người khác, thì theo câu châm ngôn, "sống cũng chẳng được gì; chết cũng chẳng mất gì."

Hàng trăm ngàn người mới đến đã bị xiềng xích, bị buộc phải đào mồ chôn chính mình. Sau đó các binh sĩ Khmer Đỏ đánh họ đến chết bằng những thanh sắt và những cái cuốc hay chôn sống họ. Một chỉ thị của Khmer Đỏ về việc giết chóc đã ra lệnh, "Không được làm phí đạn dược."

Khmer Đỏ cũng xếp hạng dân theo tôn giáo và dân tộc. Họ bãi bỏ mọi tôn giáo và giản tán các nhóm thiểu số, cấm họ nói những ngôn ngữ của họ cũng như thực hiện các lễ nghi theo phong tục.

Theo cuốn sách của Father Ponchaud Campuchia: Năm không:

bắt đầu từ năm 1972 những chiến binh du kích đã tống toàn bộ dân chúng ở các làng mạc và thị trấn họ chiếm được vào sống trong rừng và thường đốt nhà của họ để họ không còn gì để quay về.

Khmer Đỏ từ chối những lời đề nghị viện trợ nhân đạo, một quyết định cho thấy là một thảm hoạ nhân đạo, khi hàng triệu người đã chết đói và vì phải làm việc quá sức ở vùng nông thôn.

Sở hữu trở thành công cộng, và giáo dục chỉ được tiến hành ở các trường làng. Chế độ Pol Pot đặc biệt tàn bạo đối với bất đồng chính trị và đối lập. Tra tấn diễn ra khắp mọi nơi. Một số ví dụ, tù nhân bị trói vào khung sắt của giường nằm và bị cắt cổ.

Hàng nghìn chính trị gia và quan chức bị buộc tội hợp tác với chính phủ cũ bị giết hại trong khi Phnom Penh biến thành một thành phố ma với rất nhiều người chết đói, bệnh tật hay bị hành quyết. Mìn là thứ Pol Pot coi là "người lính tuyệt vời" và được rải khắp mọi vùng nông thôn. Danh sách thương vong thời Pol Pot hiện vẫn còn gây tranh cãi. Các nguồn đáng tin cậy ở Tây và Đông cho rằng số người chết dưới thời Khmer Đỏ là 1,6 triệu. Một con số cụ thể, là ba triệu người chết trong giai đoạn 1975 và 1979 được chế độ Phnom Penh là PRK đưa ra. Ponchaud cho rằng 2,3 triệu người—dù con số này có hàng trăm ngàn người chết trước khi CPK nắm quyền; Dự án về Diệt chủng tại Campuchia của Đại học Yale[8] ước tính 1,7 triệu người; Ân xá quốc tế ước tính 1,4 triệu; và Uỷ ban quốc gia Hoa Kỳ, 1,2 triệu. Khieu Samphan và Pol Pot, đưa ra con số 1 triệu và 800.000 nhưng con số này bị cho là thấp hơn thực tế. CIA ước tính rằng có 50.000 đến 100.000 người bị hành quyết.

Năm 1976, Sihanouk bị quản thúc tại gia và Pol Pot lên làm Thủ tướng và người cầm đầu nhà nước chính thức là Khieu Samphan bạn học của Pol Pot.

Tới năm 1978, thảm hoạ nhân đạo ở Campuchia dưới chế độ Pol Pot đã hiển hiện. Những cố gắng của chế độ nhằm thanh trừng những yếu tố Việt Nam ra khỏi Campuchia ngày càng tăng dẫn tới các cuộc tấn công vào lãnh thổ Việt Nam. Cuối năm 1978, để trả đũa những mối đe doạ ở biên giới và tới người dân Việt Nam, Việt Nam tấn công Campuchia lật đổ chế độ Khmer Đỏ.

Quân đội Campuchia dễ dàng bị đánh bại và Pol Pot chạy tới vùng biên giới Thái Lan. Tháng 1 năm 1979, Việt Nam hỗ trợ lập ra một chính phủ mới với người đứng đầu là Heng Samrin, gồm những người Khmer Đỏ đã chạy sang Việt Nam để tránh các cuộc thanh trừng. Pol Pot vẫn giữ được một vùng nhỏ ở phía tây đất nước. Lúc ấy, Trung Quốc, trước kia từng ủng hộ Pol Pot, tấn công Việt Nam, gây ra một cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung ngắn.

Pol Pot tán thành một thứ tập hợp các triết lý cấp tiến, được gọi là Học thuyết "Anka", được sửa đổi theo chủ nghĩa quốc gia Khmer. Muốn xây dựng một chủ nghĩa ruộng đất nguyên thuỷ, Khmer Đỏ tán thành một xã hội ruộng đất hoàn toàn theo đó tất cả các phát minh kỹ thuật hiện đại đều bị cấm ngặt. Pol Pot là kẻ đối lập lại với thuyết chính thống Xô viết. Bởi vì ông là người chống Xô viết nên Cộng hoà nhân dân Trung Hoa coi ông là thích hợp để chống Việt Nam (và vì thế cũng là chống Liên Xô). Các nước phương tây cũng có quan điểm gần tương tự, ủng hộ ngoại giao cho Khmer Đỏ sau khi họ bị người Việt Nam lật đổ năm 1979.

(Còn nữa)
 
S

scientists

Hậu quả
Hoa Kỳ phản đối sự mở rộng ảnh hưởng của Việt Nam ở Đông Dương, và vào giữa thập kỷ 1980 đã giúp đỡ cho những nhóm kháng chiến chống lại chế độ Heng Samrin, cung cấp hỗ trợ 5 triệu USD cho Mặt trận nhân dân giải phóng quốc gia Khmer (KPNLF) của cựu thủ tướng Son Sann và nhóm ủng hộ Sihanouk ANS năm 1985. Dù vậy chế độ Khmer Đỏ của Pol Pot vẫn là nhóm thiện chiến và có khả năng nhất trong số ba nhóm quân sự, và ba nhóm này dù có khác biệt về tư tưởng vẫn thành lập nên Chính phủ Campuchea dân chủ liên hiệp (CGDK) từ ba năm trước. Trung Quốc tiếp tục cung cấp hỗ trợ quân sự lớn cho Khmer Đỏ, và những người chỉ trích chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ buộc tội rằng Hoa Kỳ đã viện trợ trực tiếp cho Khmer Đỏ vì sự công nhận CGDK của họ.

Pol Pot chính thức từ chức năm 1985, nhưng trên thực tế vẫn là lãnh đạo Khmer Đỏ và là lực lượng chủ chốt bên trong liên minh chống Heng Samrin. Những đối thủ của Khmer Đỏ lên án họ thường hành động một cách phi nhân tính bên trong lãnh thổ do liên minh kiểm soát.

Năm 1989, Việt Nam rút quân khỏi Campuchia. Pol Pot từ chối hợp tác với tiến trình hoà bình, và vẫn tiếp tục chiến đấu với chính phủ liên hiệp mới. Khmer Đỏ tiếp tục chiến đấu tới tận năm 1996, khi quân đội của họ dần tan rã. Nhiều lãnh đạo Khmer Đỏ quan trọng bỏ đi.

Pol Pot ra lệnh hành quyết Son Sen, người trong nhiều năm là cánh tay phải và mười một thành viên trong gia đình mình ngày 10 tháng 6 năm 1997 vì họ muốn hoà giải với chính phủ (ba ngày sau tin tức về vụ này mới tới tai cộng đồng quốc tế). Sau đó Pol Pot chạy sang cứ điểm của hắn ở phía bắc, nhưng sau đó bị lãnh đạo quân sự Khmer Đỏ là Ta Mok bắt giữ, và kết án quản thúc tại gia suốt đời. Tháng 4 năm 1998, Ta Mok chạy vào rừng đem theo Pol Pot khi bị chính phủ mới tấn công. Vài ngày sau, ngày 15 tháng 4 năm 1998, Pol Pot chết, nguyên nhân theo thông báo là bệnh tim. Xác Pol Pot được thiêu tại vùng nông thôn Campuchia với khoảng vài chục thành viên Khmer Đỏ tham gia. Theo họ, khi xác bị đốt, tay phải Pol Pot đã đã nắm lại hình nắm đấm và giơ lên cao.

Xét xử tội ác diệt chủng
Pol Pot và các đồng sự được xem là đối tượng của Tòa án quốc tế về tội ác diệt chủng. Việc lập tòa án xét xử gặp nhiều khó khăn khách quan và chủ quan, một số thế lực từng ủng hộ Khmer Đỏ lấy làm tiếc về việc làm quá đáng của Pol Pot với người dân Khmer nhưng họ đều đã lớn tuổi và cái chết già sẽ là một sự dễ chịu cho các bên cũng như lịch sử.

Theo Wikipedia
 
S

scientists

Những trò giết người man rợ của bọn Pol Pot

(VTC News) - Cưỡng hiếp chị chán chê, chúng dùng gậy đâm vào vùng kín, khiến chị chết trong đau đớn.

Trong những ngày kỷ niệm 35 năm giải phóng Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng (7/1/1979), mảnh đất Ba Chúc (An Giang) đau thương đông khách thăm viếng hơn thường lệ.

Đến vùng đất này, ai cũng có cảm giác nặng nề, trầm mặc. Dường như, mỗi tấc đất nơi đây, đều có xương thịt người vô tội và những oan hồn ẩn khuất chưa thể siêu thoát.

Trong ngôi nhà kính chỉ rộng vài chục mét vuông được dựng tạm chờ xây dựng khu tưởng niệm mới, 1.159 bộ hài cốt người dân vô tội, trong tổng số 3.157 mạng người Ba Chúc bị Pol Pot sát hại, xếp chồng chất lên nhau.

Ông Nguyễn Văn Tiệm, dáng người gầy gò, đen xạm, khuôn mặt khắc khổ dẫn tôi đi một vòng quanh khu nhà mồ, giới thiệu về những hộp sọ, với những hốc mắt u uẩn nhìn ra ngoài. Quả thực, cảnh tượng ở khu di tích nhà mồ không dành cho những người yếu tim.


Phía trong gian nhà cũ, trưng bày những vật dụng mà bọn Pol Pot dùng để sát hại người dân vô tội. Tôi quả thực dựng tóc gáy khi ông Tiệm chỉ vào những khúc gỗ, con dao, cây tầm vông bày trong tủ kính và mô tả cách giết người của bọn “ác thú”. Những hình ảnh thảm khốc năm xưa treo trên tường không phải ai cũng dám nhìn.

Ông Nguyễn Văn Tiệm là nhân chứng sống của vụ thảm sát Ba Chúc năm xưa. Quê ông ở Tân Châu, lấy vợ, rồi ở rể tại Ba Chúc. Ông tham gia dân quân tự vệ, chiến đấu chống Pol Pot xâm nhập biên giới.

Khi Pol Pot tràn sang, ông đã sơ tán vợ con về quê nội, vì thế mà thoát nạn diệt chủng. Tuy nhiên, đại gia đình nhà vợ ông thì không được may mắn như thế.

Ông Tiệm lấy chiếc xe máy cũ kỹ, chở tôi đến chân núi Tượng tìm nhà anh vợ của ông, tức ông Ba Lê.

Ông Ba Lê dáng dấp văn nhân tao nhã, nhưng khuôn mặt lúc nào cũng buồn, ánh mắt u uẩn. sinh năm 1940. 19 tuổi đã lấy vợ. 20 tuổi có con đầu lòng. Năm 1978, khi Pol Pot thảm sát Ba Chúc, ông tròn 38 tuổi và đã có tới 5 mặt con.

Để an toàn, ông cũng như các hộ dân sống dưới chân núi Tượng đều tìm cho mình một cái hang trên núi. Hễ Pol Pot pháo kích, hoặc tấn công sang, thì dân làng trốn vào hang lánh nạn.

Ngày 18/4/1978, chập tối, nghe tiếng súng nổ, ông Ba Lê chạy ra đường, thấy lính Pol Pot tràn sang, ông đưa vợ, 5 con, cùng 2 người cô ruột trốn lên hang đá. Tổng cộng có 9 người trốn trong hang.

Ông Ba Lê nhớ lại: “Nằm trong hang, thi thoảng tui lại nghe tiếng la hét, tiếng súng nổ, tiếng lựu đạn rung cả núi. Đến chiều, nghe ngóng yên tĩnh, tui mò ra xem tình hình. Tui đếm được 80 cái xác người bị Pol Pot kéo ra khỏi hang đập chết, bắn chết, đau thương lắm. Nhiều hang bị chúng tung lựu đạn vào sập cả miệng hang, chết hết người trốn trong đó”.

Ông gom một số người còn sống, thất lạc trốn tiếp, rồi mới về hang nhà mình, tiếp tục nằm im. Thế nhưng, tiếng chó sủa lớn dần, rồi tiếng bọn Pol Pot quát tháo ngay cửa hang của mình.



phamngocduong%5Cba_chuc_4.jpg
phamngocduong%5Cba_chuc_3_1.jpg


Những hộp sọ trong nhà mồ Ba Chúc


Chúng gí súng vào miệng hang xả đạn liên hồi. Vợ con, người cô đều trúng đạn. Biết không thoát được, ông Ba Lê chui ra khỏi hang đầu hàng. Khi chúng vừa lên đạn, định bóp cò, thì ông phi thân xuống vách núi, mặc cơ thể lăn như hòn đá. Chúng xả đạn theo, nhưng chỉ trúng phần mềm ở chân.

Nghe tiếng lựu đạn nổ mà ông Ba Lê như đứt từng khúc ruột. Đợt chúng rút đi, ông vào hang kiểm tra, thì vợ, 5 người con, 2 người cô ruột đã chết cả, xương thịt trộn lẫn vào nhau, không còn rõ hình hài. Ông khóc lóc, rồi lấp hang lại, làm mồ tập thể chôn cả nhà.

Như sự tỉnh, ông Ba Lê đi khắp núi Tượng, gom được 50 người còn sống. Hôm đó, bọn Pot Pot xua chó đi khắp núi săn người, tìm được ai, giết người ấy, nên bằng mọi cách phải thoát khỏi quả núi trong đêm.

Chờ đến nửa đêm, cuộc trốn thoát khỏi núi Tượng bắt đầu. Ông Ba Lê nhớ lại: “Buổi chiều, tui đứng ở phía Tây núi nhìn cảnh bọn chúng dắt người dân ra cánh đồng giết hại mà xót xa, căm phẫn. Nửa đêm, khi bọn Pol Pot rút đi, tui kêu mọi người cùng bò dọc bờ ruộng, qua cánh đồng để trốn lên núi Dài, sẽ an toàn. Tuy nhiên, cánh đồng vắng vẻ, chẳng có cây cối gì, lại đông người nhốn nháo, nên bọn Pol Pot phát hiện.

Bọn chúng hò nhau vác súng đuổi theo. Đoàn người như chim vỡ tổ, mạnh ai nấy chạy về phía núi Dài. Chạy đến núi Dài thì đã 7 giờ tối, điểm lại chỉ còn 7 mạng người. Như vậy, đã có 43 người thiệt mạng.

Ông Nguyễn Văn Tiệm và ông Ba Lê dẫn tôi đi một vòng núi Tượng, chỉ cho tôi xem vô số hang đá. Có hang đã lấp làm mồ chôn tập thể, có hang đã được mở ra để lấy xương đem về nhà mồ.

Đến bây giờ, chính quyền địa phương vẫn chưa rõ có bao nhiêu người chết trên núi Tượng, nhưng con số phải đến cả ngàn người.

phamngocduong%5Ctham_sat_ba_chuc_2.jpg

phamngocduong%5Cba_chuc_2.jpg

Các nạn nhân Ba Chúc bị Pol Pot tàn sát ở cánh đồng
Đại gia đình nhà ông Ba Lê, cùng họ hàng gần như bị giết sạch, với ngót trăm mạng người ở trên núi Tượng. Gia đình, họ hàng bà Hà Thị Nga, cũng có độ 100 người bị bọn Pol Pot tàn sát ở trên quả núi này.

Suốt mấy ngày trời, bọn Pol Pot dắt chó đánh hơi, chà đi xát lại trên núi tìm kiếm người. Chúng lôi từng người trong hang ra ngoài. Già, trẻ, trai, gái bị giết bằng đủ trò man rợ. Người nào chống trả, chúng quăng lựu đạn vào hang. Hang trên núi Tượng đều nhỏ và nông, do người dân tự đào, hoặc khoét rộng các vách đá, nên chúng quăng lựu đạn vào là chết hết.

Nhiều hang sau khi bị trúng lựu đạn, chết cả nhà, chúng lấp lại, nên cũng mất dấu luôn, người thân không tìm thấy xác nữa.

Cách hang Ba Lê không xa, là di tích hang Cây Da, với những câu chuyện bi thương, rùng rợn.

Vì hang lộ thiên, nên bọn Pol Pot dễ dàng phát hiện. Chúng gí súng vào miệng hang bắt từng người chui ra. Tại cửa hang đó, chúng nã đạn giết 14 người.

Trong số những người trốn trong hang có chị Nguyễn Thị Chuột, có nhan sắc, nên chúng không giết ngay, mà thay nhau cưỡng hiếp chị ngay bên đống xác người.

Cưỡng hiếp chị chán chê, chúng dùng gậy đâm vào vùng kín, khiến chị chết trong đau đớn.

Ông Nguyễn Văn Tiệm xác nhận chuyện bọn Pol Pot cưỡng hiếp chị em phụ nữ ở Ba Chúc bên những đống xác người là có thật, và chuyện bọn ác thú Pol Pot dùng cây tầm vông vót nhọn xuyên vào vùng kín, lên tận cổ chị em sau khi cưỡng hiếp cũng là thật.

Ông chỉ Tiệm chỉ những cây tầm vông nằm im lìm trong tủ kính, rồi chỉ những tấm ảnh chụp thực tế nạn nhân, khiến người yếu vía không thể nào xem được.


 
S

scientists

Ám ảnh những vết máu loang trong chùa Phi Lai

VTC News
Những vết máu trong chùa

Ông Nguyễn Văn Tiệm dẫn tôi vào ngôi chùa Phi Lai, nằm ngay dưới chân núi Tượng, quả núi nằm trọn trong xã Ba Chúc (Tri Tôn, An Giang). Ngôi chùa nằm cách chân núi chỉ 300m, ngay phía sau Nhà trưng bày chứng tích tội ác của bọn Pol Pot, nơi chồng chất xương người.

Ông Tiệm bảo, ngôi chùa này có quá nhiều âm khí, nên không phải ai cũng dám bước chân vào. Có lẽ, do ám ảnh quá kinh hoàng, hoặc từ những lời thuyết minh của ông, mà không ít người yếu bóng vía đã đánh mất cả lý trí khi bước chân vào ngôi chùa này.

Chùa Phi Lai do ông Ngô Lợi, cùng với các tín đồ xây dựng vào đầu năm 1887. Ngôi chùa này mới chỉ tồn tại hơn thế kỷ, nhưng đã có vố số lần bị thực dân Pháp đốt phá, hoặc nã pháo tan tành.

phamngocduong%5Cba_chuc_7_1.jpg


Chùa Phi Lai, nơi từng diễn ra cuộc thảm sát người dân vô tội
Nhà văn Sơn Nam từng bỏ nhiều công sức nghiên cứu ngôi chùa này. Ông cho rằng, chùa Phi Lai vốn là điện, thờ đấng tối cao Ngọc Hoàng Huyền khung Cao thượng đế. Trong điện còn thờ “tứ đại thần châu”, tức 4 hòn đảo của cõi tiên.

Kim chỉ nam của những người tu trong chùa là Đạo Lão và Đạo Phật, lấy từ bi bác ái làm lành lánh dữ. Nhân dân Ba Chúc vốn coi ngôi chùa là nơi Phật ngự, tin rằng Phật sẽ bảo vệ tính mạng của họ, nên lấy làm nơi trú ngụ. Thế nhưng, tính mạng người dân Ba Chúc thật vô cùng thảm khốc.

Ông Nguyễn Văn Tiệm nhớ lại: “Ngày 30/4/1977, nhân dân Ba Chúc cùng nhân dân cả nước long trọng làm lễ kỷ niệm ngày miền Nam giải phóng lần thứ 2, thì bọn Pol Pot tấn công, nã pháo vào Ba Chúc, khiến người chết, nhà cháy, tiếng la khóc vang lên khắp nơi. Sau tui mới biết, đúng hôm đó, chúng tấn công cả 8 tỉnh biên giới nước ta”.

Từ đó, đến đầu năm 1978, nhân dân Ba Chúc chẳng được một ngày yên bình. Trong vòng 8 tháng, bọn Pol Pot tấn công vào Ba Chúc tổng số 30 lần.
phamngocduong%5Cba_chuc_2.jpg


Xác người dân Ba Chúc bị Pol Pot giết hại bên hông chùa Phi Lai. Ảnh tư liệu

Ông Nguyễn Văn Tiệm rưng rưng nhớ lại: “Thời điểm đó bộ đội chủ lực của ta được huy động xuống Hà Tiên để chống đỡ bọn Pol Pot, nên ở khu vực Ba Chúc chỉ còn lại rất ít bộ đội, chủ yếu là dân quân địa phương.

Tui cùng anh em dân quân được trang bị súng ống đầy đủ, phục kích chặn đường chúng. Tuy nhiên, lực lượng Pol Pot rất đông, hỏa lực rất mạnh, mà người dân thì bị chúng bắt và khống chế rất nhiều, nên không thể tấn công tiêu diệt chúng.

Dân quân chúng tui thay vì đánh giặc, phải làm nhiệm vụ sơ tán người dân lên núi Dài, rồi bảo vệ nhân dân trên đó, chờ bộ đội chủ lực đến ứng cứu.

Trong khi nhiều người dân Ba Chúc đã được sơ tán, chạy lên núi Dài, thì còn rất nhiều người dân kẹt lại. Pháo kích khắp nơi, súng bắn như vãi đạn, không kịp chạy, nên cả trăm người vào chùa Phi Lai trú ẩn những mong được Đức Phật che chở. Nào ngờ…”.
phamngocduong%5Cba_chuc_6.jpg
phamngocduong%5Cba_chuc_4.jpg


Ông Tiệm chỉ vết máu thấm trên tường chùa Phi Lai
Ông Nguyễn Văn Tiệm dẫn tôi vào hậu cung chùa Phi Lai. Ông chỉ bức tường dài đến hơn chục mét. Dưới chân tường có những vết đỏ thẫm, chỗ cao, chỗ thấp. Tôi chợt lạnh người khi ông bảo, đó là vết máu của đồng bào Ba Chúc, thấm sâu vào bức tường vôi và ẩn trong tường đến nay.

Khoảng 3 giờ chiều ngày 18/4/1978, bọn Pol Pot tràn vào giữa làng, bao vây chùa Phi Lai. Bất chấp chốn thiền môn, cuộc hành quyết kinh thiên động địa đã diễn ra tại ngôi chùa này.

Bọn Pol Pot vây đặc quanh chùa, súng ống chĩa vào chùa tua tủa. Chúng gọi người dân ra hàng. Cả trăm con người sợ hãi không dám ra. Kêu gọi một lúc, không thấy ai ra, chúng xả súng, quăng lựu đạn bừa bãi vào trong chùa.
phamngocduong%5Cba_chuc_1.jpg


Xương cốt chồng chất bên chùa Phi Lai. Ảnh tư liệu

Cuộc bắn phá điên cuồng vào chùa Phi Lai, chỉ trong chớp mắt, đã cướp đi sinh mạng 80 người dân vô tội.

Biết rằng, nếu trốn ở trong chùa, chúng sẽ tiếp tục quăng lựu đạn đến sập chùa, thậm chí phóng hỏa đốt chùa nướng chín mọi người, nên 100 người giơ tay đầu hàng đi ra phía cửa.

Lần lượt từng người, vừa bước ra khỏi cửa chùa, đã bị nòng súng đen ngòm gí vào đầu. 100 người dân vô tội bị chúng trói gô, bắt quỳ mọp bên hông chùa. Đàn bà, phụ nữ bị bọn “ác thú” lột quần áo cưỡng hiếp tại chỗ. Cưỡng hiếp xong, chúng giở trò tiêu khiển man rợ: xẻo vú, xiên gậy vào người cho đến chết.

Đàn ông bị bọn “ác thú” này hành quyết bằng những cú đập trời giáng vào đỉnh sọ bằng gậy gỗ mun. Trẻ em bị chúng giết hại bằng gậy tầm vông. Người nào chống đối, chúng nã đạn chết tại chỗ.
phamngocduong%5Cba_chuc_5.jpg
40 người dân vô tội trốn trong căn hầm dưới bàn thờ Phật bị Pol Pot tung lựu đạn giết hại Ông Tiệm dẫn tôi đến ban thờ Phật trong hậu cung chùa. Ông bảo rằng, đã có 40 người trú dưới bàn thờ Phật mất mạng. Lịch sử nhà chùa ghi lại rõ rành như vậy, nhưng một số kẻ phản động chuyên bới lông tìm vết nói rằng, chuyện 40 người trốn dưới bàn thờ là bịa tạc, bởi chẳng có gầm bàn thờ nào chứa được tới 40 người!

Bọn phản động suy diễn nghe có vẻ có lý, nhưng với người Ba Chúc thì ai cũng biết rõ, gầm bàn thờ Phật trong chùa Phi Lai chứa được 40 người thật, và đã có 40 con người mất mạng dưới chân Đức Phật.

Thời kỳ chống Pháp, vùng đất Ba Chúc liên tục bị giặc Pháp tấn công. Nhà chùa đã xây dựng một phòng bí mật dưới bàn thờ Phật, để tăng ni, dân chúng trốn trong đó, mỗi khi giặc Pháp tấn công.

Khi bọn Pol Pot tràn vào, có tới 40 người dân chui vào căn hầm dưới bàn thời Phật. Sau khi giết 180 người trong chùa, bọn chúng vẫn không biết đến căn hầm bí mật này.
phamngocduong%5Cba_chuc_3.jpg
Những hộp sọ của người dân Ba Chúc cất giữ trong nhà mồ Thế nhưng, trốn trong hầm mấy ngày, không ăn, không uống, nên ai cũng đói khát. Một cháu bé không chịu nổi, đã khóc thét lên. Tên Pol Pot đứng gần chùa nghe tiếng khóc đã phát hiện căn phòng dưới bàn thờ Phật.

Toán Pol Pot kêu gọi đầu hàng, không thấy ai ra, đã quăng một trái lựu đạn vào trong hầm. Gian phòng nhỏ cỡ 10 mét vuông, có tới 40 người chen chúc, ngột ngạt, nên một quả lựu đạn đã tước đoạt đủ 40 mạng người.

Vài ngày sau, khi bọn Pol Pot bị bộ đội chủ lực của ta tấn công, tiêu diệt, đẩy lùi về bên kia biên giới, thì nhân dân Ba Chúc ở trên núi Dài tìm xuống, người dân di tản tìm về.

Cảnh tượng chết chóc bên trong và quanh ngôi chùa Phi Lai khiến không ai cầm nổi lòng mình. Rất nhiều vết bàn tay máu in trên tường, rồi vết máu hình người dựa vào tường. Cả một đoạn tường dài cả chục mét thấm đẫm máu người. Một vòng máu búng lên tường cao đến 4 mét. Máu đọng thành vũng dưới nền chùa, thấm dọc ven tường đến 20cm.

Bà con xã Ba Chúc gánh không biết bao nhiêu thùng nước mới rửa sạch được nền chùa. Những vết máu thấm sâu vào bức tường vữa, nên còn giữ được đến ngày nay.
 
S

scientists

Chuyện chưa biết ở nơi bị 'tập đoàn ác thú' tàn sát
(VTC News) - Tội ác như thế này, loài người trên thế gian, có thể tin được không?

Kỹ nghệ giết người tàn ác

Lịch sử nước Việt thời kỳ nào cũng nhiều nước mắt, đau thương, với rất nhiều vụ mà kẻ thù thảm sát người dân. Trong đó, vụ thảm sát Ba Chúc của “tập đoàn ác thú” Pol Pot, gây rúng động cả thế giới loài người. PV Báo điện tử VTC News đã dành nhiều ngày cùng sống với những người còn sót lại của vụ thảm sát ở vùng đất này, để ghi lại tội ác tày trời mà bọn ác thú Pol Pot đã gây ra cho người dân vô tội.

Mảnh đất lạnh

Đến vùng đất Ba Chúc, quả thực, không còn nhận ra nơi đây từng có vụ thảm sát kinh hoàng. Nhà cửa san sát, phố xá đông người. Trong hình dung của tôi, vùng đất Ba Chúc xác xơ, u tịch, nơi từng là một biển lửa, biển máu, biển xác người.

35 năm trôi qua, giờ chứng tích tội ác của bọn “ác thú”, và sự đau thương mất mát chỉ còn hiện diện ở khu nhà mồ, với chồng chất xương người.

Nhưng, bước chân vào mảnh đất này, vẫn có một cảm giác lành lạnh, u ám, khiến đôi chân như ríu lại. Dường như, mỗi tấc đất nơi đây, đều có xương thịt người vô tội và những oan hồn ẩn khuất chưa thể siêu thoát.

Có lẽ, ở Việt Nam, đây là thị trấn duy nhất, vùng đất duy nhất chẳng có rượu, bia, chẳng có nơi hát hò, giải trí. Vài quán ăn lèo tèo, chủ yếu là cơm chay.

phamngocduong%5Cba_chuc_1.jpg

Xác người dân vô tội do Pol Pot giết hại ở cánh đồng Ba Chúc

Bóng đêm buông, ít người đi lại. Đây đó, từ ngôi nhà sang trọng đến những túp lều gianh, phát ra tiếng tụng kinh, tiếng mõ. Nhà nào ở vùng đất này cũng có người chết thảm, thậm chí chết cả nhà, cả họ, nên bao nhiêu năm nay, người còn sống tụng kinh để những oan hồn được siêu sinh tịnh độ.

Nhà mồ Ba Chúc mới bị phá, để xây dựng lại khang trang hơn. Nơi nhà mồ ấy, xương cốt sẽ được trưng bày từng bộ, rồi nhiều vật chứng cũng được bày biện để thế hệ sau thấy được sự mất mát, đau thương của thế hệ trước, là cái giá cho những ngày yên bình này.

Những hộp sọ u buồn

Một ngôi nhà nhỏ, cỡ 30 mét vuông, tường kính được dựng tạm trước chùa Phi Lai. Trong ngôi nhà ấy, chất chồng xương cốt.

Ông Nguyễn Văn Tiệm, dáng người mảnh khảnh, khuôn mặt u buồn, dẫn tôi đi một vòng quanh ngôi nhà tạm chứa xương. 1.159 bộ hài cốt, trong tổng số 3.157 mạng người Ba Chúc bị Pol Pot sát hại, xếp chồng chất trong nhà mồ.
phamngocduong%5Cba_chuc_6_1.jpg

Ông Nguyễn Văn Tiệm trở thành người kể chuyện ở khu di tích Ba Chúc
Đủ 1.159 hộp sọ được phân loại theo độ tuổi, bày biện trên giá thép. Trên hộp sọ in một dãy số ký hiệu. Những hộp sọ to nhỏ, với 2 hốc mắt nhìn ra ngoài u uẩn.

Ông Tiệm kể, nhiều người yếu tim, đến khu nhà mồ, nhìn những hình ảnh sọ người, đã ngất xỉu, thậm chí mất kiểm soát tâm trí như thể bị ma nhập, nên phải khênh đi nơi khác.

Ông Tiệm là cựu chiến binh, là nhân chứng sống của vụ thảm sát năm xưa. Gia đình ông ở mãi huyện Tân Châu, nằm sâu trong nội địa.

Ông lấy vợ ở Ba Chúc, rồi ở rể, tham gia dân quân chiến đấu chống Pol Pot ở vùng biên giới. Ngày đó, gia cảnh nhà ông khá giả, nên ông sắm được xe Honda 67 và cũng chính nhờ chiếc xe đó, mà gia đình ông thoát chết.

Khi quân Pol Pot quấy nhiễu dọc biên giới, bộ đội đã sơ tán dân. Đã có cả ngàn cư dân Ba Chúc được sơ tán vào trong, nhưng đi được thời gian, thấy tình hình yên ổn, người dân lại tìm về.
phamngocduong%5Cba_chuc_5.jpg
Những hộp sọ trong nhà mồ


Quê ông ở Tân Châu, bố mẹ vẫn ở đó, nên ông dùng xe máy chở vợ con về quê nội, rồi tiếp tục cầm súng quay lại Ba Chúc. Đó chính là lý do gia đình ông được vẹn toàn.

Nhưng, phía nhà vợ ông thì thực sự thảm khốc. Gần như đại gia đình bên vợ đều bị bọn “ác thú” Pol Pot giết sạch. Cả họ bên vợ chỉ còn lại vài mống người.

Là người chứng kiến toàn bộ cuộc thảm sát của bọn Pol Pot, nên ông được hội cựu chiến binh và chính quyền chọn làm “người kể chuyện” ở khu vực nhà mồ cho khách tham quan.

Kỹ nghệ giết người


Ông Tiệm từng tham gia gom xác, đốt xác để lấy xương, rồi cuốc đất tìm xương, lặn ngụp dưới sông vớt cốt, nên ông hiểu rất rõ về những bộ cốt trong nhà mồ. Nhìn vào mỗi hộp sọ, dù không biết đó là của ai, nhưng ông có thể thấy rõ hành động của bọn “ác thú” với những nạn nhân.

Trong số những hộp sọ trong nhà mồ, có rất nhiều hộp sọ nứt, lún, vỡ nham nhở. Chỉ từng hộp sọ, ông Tiệm có thể biết người đó chết vì bị bắn, hay bị đập bằng gậy gỗ mun, thậm chí đập kiểu gì, đập mấy nhát, lực đập và hướng đập.
phamngocduong%5Cba_chuc_4.jpg
phamngocduong%5Cba_chuc_3.jpg
Hộp sọ của những nạn nhân bị sát hại bởi gậy gỗ mun

Ngày đó, mỗi nhóm Pol Pot có vài tên được trang bị gậy hoặc vồ bằng gỗ mun, thứ gỗ cứng như thép, nặng như thép, dai như thép. Bọn chún*g n*ó đó luôn kè kè cây gậy bên mình. Cây gậy đó lấy được càng nhiều mạng người, thì chủ nhân của nó càng được tôn trọng và trong con mắt của chúng, cây gậy đó mới đáng quý.

Những cây gậy gỗ mun là thứ ám ảnh kinh hoàng với 2 triệu đồng bào Campuchia vô tội, bị bọn Pol Pot hành hình. Chủ nhân của những cây gậy này chỉ cần vung lên một lần, là một mạng người bị cướp đi một cách oan khốc.

Ông Nguyễn Văn Tiệm lọ mọ mở cánh cửa căn nhà cấp 4, gọi là Nhà trưng bày chứng tích tội ác của bọn Pol Pot. Bước vào ngôi nhà, dường như, đôi chân tôi muốn khụy xuống. Trên 4 bức tường là những hình ảnh không dành cho người yếu tim. Những xác người chất chồng chết theo tư thế thảm khốc nhất.
phamngocduong%5Cba_chuc_2.jpg
Gậy gỗ mun dùng để giết người vô tội của bọn Pol Pot Cây gậy gỗ mun được tiện cầu kỳ nằm im lìm trong tủ kính với dòng chữ: “Dùi: bọn Pol Pot dùng đập đầu tàn sát nhân dân Ba Chúc năm 1978”. Cây gậy gỗ mun nặng trịch này giải mã cho cái chết của hàng ngàn nạn nhân Ba Chúc, hàng triệu người dân vô tội Campuchia, mà chứng tích để lại là những hộp sọ với 3 vết nứt chạy đều gặp nhau ở đỉnh sọ.

Trong chiếc tủ kính ấy, còn nhiều gậy nữa. Khúc tầm vông chỉ bằng cổ tay người lớn, dài cỡ 1m, nhưng nó đã giết hại vô số trẻ em vô tội. Bọn ác thú dùng khúc tầm vông vụt vào gáy, khiến những em nhỏ chết ngay tức khắc. Cú vụt của chúng mạnh đến nỗi, những hộp sọ trẻ em đều nứt một đường ngang, làm vỡ đôi hộp sọ, tách nửa trên với nửa dưới.

Nhưng, đau xót và căm phẫn nhất, là cây gậy tầm vông nhọn hoắt một đầu. Bất cứ một con người lương tri nào trên thế giới này, khi nhìn cây gậy, nhìn những tấm hình treo trên tường, và nghe lời thuyết minh của ông Tiệm, đều không khỏi phẫn uất, rùng mình. Những kẻ lạc loài ở bên kia biên giới đã dùng những cây gậy nhọn này thọc vào chỗ kín của phụ nữ, xuyên tận lên đến cổ.

Tội ác như thế này, loài người trên thế gian, có thể tin được không? Một cảm giác uất hận cứ nghèn nghẹn nơi cổ họng.
 
S

scientists

Cuộc hành quyết 800 người vô tội bên cây cầu sắt



(VTC News) - Trong một ngày, những kẻ ác thú không còn tính người, đã giết hại 800 đồng bào vô tội.

Cuộc hành quyết 800 người vô tội

Đối diện chùa Phi Lai, là ngôi chùa Tam Bửu, tổ đình của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Đây là tự viện danh tiếng, di tích lịch sử cấp quốc gia tại làng Ba Chúc (Tri Tôn, An Giang).

Nhưng, tại ngôi chùa này, đã diễn ra cuộc thảm sát kinh thiên động địa. Trong một ngày, bọn “ác thú” không còn tính người, đã giết 800 đồng bào vô tội.

Cựu chiến binh Nguyễn Văn Tiệm dẫn tôi vào Nhà trưng bày chứng tích tội ác của bọn Pol Pot, lật giở từng tấm ảnh đen trắng chụp cảnh hoang tàn, đổ nát của chùa Tam Bửu 35 năm trước. Những xác chết chất chồng, khô quắt, nằm sấp, nằm ngửa, miệng há, mắt trợn quá thương tâm.

phamngocduong%5Ctham_sat_ba_chuc_7.jpg

Chùa Tam Bửu
Chùa Tam Bửu được nhân dân đóng góp, xây dựng lại khang trang. Những dấu vết của cuộc thảm sát tàn khốc giờ không còn ở ngôi chùa này nữa, nhưng ký ức của người dân Ba Chúc về những tháng ngày kinh hãi ở ngôi chùa này thì vẫn y nguyên.

Chùa Tam Bửu là ngôi chùa đầu tiên của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, xây dựng trước chùa Phi Lai 5 năm. Giáo chủ Ngô Lợi cùng tín đồ dựng ngôi chùa này vào năm 1882 làm nơi tu tập.

Lịch sử ngôi chùa ghi lại rằng, ông Ngô Lợi khai sáng đạo từ năm 1867 tại Ba Chúc. Trước khi dựng chùa, ông Lợi sống trong một am nhỏ dựng bằng cây lá.

Dựng chùa xong, ông Ngô Lợi cùng nhân dân lên núi Dài còn gọi là Ngọa Long Sơn đốn cây cam đàn, loại gỗ cực tốt, đục Long Đình (còn gọi là Long Vị), với kích thước cao 3m, một cạnh ngang 2m, một cạnh ngang 1,5m. Đây được coi là báu vật của tổ đình.
phamngocduong%5Ctham_sat_ba_chuc_1.jpg

Xác người bên chùa Tam Bửu
Long Đình thờ Đức Phật Vương, một nhân vật mà đến nay những người tiếp nối trông coi chùa vẫn chưa sáng tỏ. Ông Ngô Lợi mất đi, Long Đình được tín đồ gọi là Khánh Tổ, thờ Đức Bổn Sư, tức Ngô Lợi.

Ông Ngô Lợi là một sĩ phu yêu nước của phong trào Cần Vương. Ông bị thực dân Pháp truy sát từ Mỹ Tho về Ba Chúc. Ông tá túc ở đây, dựng chùa tu hành để che mắt giặc.

Tại Ba Chúc, ông vẫn lãnh đạo môn đồ tiến hành nhiều cuộc nổi dậy chống thực dân Pháp, nên thực dân Pháp rất ghét, liên tục vây ráp, đốt phá chùa.

Ông Dương Văn Giàu, thủ nhang chùa Tam Bửu bần thần nhớ lại những ngày đưa vợ con trốn chui trốn lủi trên núi Dài, còn họ hàng, xóm làng bị bọn Pol Pot giết sạch. Ông cùng mọi người đứng trên quả núi, nhìn xuống chùa Tam Bửu, thấy lửa cháy ngùn ngụt, tiếng người la khóc, mà lực bất tòng tâm.
phamngocduong%5Ctham_sat_ba_chuc_4.jpg

Xương cốt chất chồng trong nhà mồ Ba Chúc
Theo ông Giàu, từ giữa năm 1977 đến đầu năm 1978, nhân dân Ba Chúc chẳng được một ngày yên bình. Trong vòng 8 tháng, bọn Pol Pot tấn công vào Ba Chúc tổng số 30 lần.

Bọn chúng cứ tấn công đột ngột, nã pháo, rồi lại rút về phía bên kia biên giới. Bộ đội cùng chính quyền đã tổ chức di dời dân vào sâu nội địa. Tuy nhiên, khi đó, dọc tuyến biên giới đều bị tấn công, nên công tác di dời có phần chậm chạp.

Bọn chúng tấn công rời rạc, không thọc sâu, nên người dân đi được một thời gian lại kéo về làng. Người dân đào hầm trong nhà, đào hang trong núi, hễ nghe thấy tiếng súng, tiếng pháo thì ẩn nấp, hết tiếng nổ lại ra ngoài hoạt động sản xuất.

Từ ngày 15/4/1978, mỗi ngày ông cùng dân làng đếm được từ 1.000 – 2.000 quả pháo do bọn Pol Pot nã vào Ba Chúc.
phamngocduong%5Ctham_sat_ba_chuc_5.jpg

Du khách thắp hương tại nhà mồ
Ngày 17/4/1978, bọn Pol Pot bắn pháo như mưa vào Ba Chúc. Hết loạt pháo, chúng chia làm 2 cánh quân đánh sâu vào Ba Chúc. Một cánh quân chiếm xã An Lập (phía đông Ba Chúc), một cánh quân đánh chiếm ấp An Bình dưới chân núi Dài.

Hai cánh quân này đã khóa chặt xã Ba Chúc. Gia đình nào nhanh chân thì chạy thoát được lên núi Dài, còn lại phần lớn mắc kẹt trong vòng vây của bọn khát máu.

Những gia đình không chạy kịp lên núi Dài, đã kéo cả vào chùa Tam Bửu mong sống sót trong sự bao dung của Đức Phật. Nhiều gia đình kéo cả nhà, thậm chí cả họ cùng trốn vào chùa, nên đã bị tuyệt tự.

Ông Giàu nhớ lại: “Tui vẫn nhớ rõ, hôm đó là ngày rằm tháng 3 âm lịch (17/4/1978), lúc tui đang đào củ nừng (một loài củ dại có trên núi Dài) cho cả nhà ăn chống đói, thì một tiếng nổ vang trời, tiếng người la hét vang lên.

Tui trèo lên cây nhòm về làng, thấy chùa Tam Bửu cháy ngùn ngụt. Biết người dân trú trong chùa, bọn Pol Pot đã bắn pháo vào hậu liêu chùa, làm chết 40 người, xác chồng chất lên nhau.

Lúc đó, trong chùa vẫn có hơn 800 người trú ngụ. Mọi người đưa 20 người bị thương ra ngoài, tìm cách đưa đi chữa trị, nhưng bọn Pol Pot bao vây kín mít, không còn đường thoát, nên lại quay về chùa.
phamngocduong%5Ctham_sat_ba_chuc_6.jpg

Ông Dương Văn Giàu kể lại cuộc tàn sát 800 người dân ẩn náu trong chùa Tam Bửu
Hôm sau, chúng khép kín vòng vây chùa, bắt 800 người, phân thành từng nhóm, dắt đi nơi khác thủ tiêu. Có 4 người già yếu, thương nặng không đi được, thì chúng bắn chết luôn trong chùa, rồi phóng hỏa đốt chùa”.

Ông Ba Lê, nhân chứng sống của vụ thảm sát man rợ dẫn tôi ra chỗ cầu sắt Vĩnh Thông. Đây là cây cầu do thực dân Pháp xây dựng, cách trung tâm xã Ba Chúc chưa đầy 1 km về phía biên giới.

Cạnh cây cầu sắt có tượng đài chiến thắng. Vào tháng 6/1949, lực lượng võ trang tỉnh Long Châu Hà đã tiêu diệt một tiểu đoàn lính Lê dương của Pháp. Cầu sắt Vĩnh Thông là biểu tượng hào hùng của người dân An Giang.

Thế nhưng, ngày định mệnh 18/4/1978, tại cánh đồng cạnh cây cầu này, bọn Pol Pot đã thực hiện cuộc hành quyết nhân dân ta vô cùng man rợ.
phamngocduong%5Ctham_sat_ba_chuc_2.jpg
phamngocduong%5Ctham_sat_ba_chuc_3.jpg

Xác chết chất chồng ở cánh đồng, cạnh cầu sắt Vĩnh Thông
Chúng áp tải nhân dân từ chùa Tam Bửu ra cầu sắt Vĩnh Thông, bắt bà con lột hết nữ trang, rồi đẩy từng tốp 20-30 người đến gò đất gần cây cầu để giết hại.

Chúng đập chết đàn ông, người già bằng gậy gỗ mun, bắn chết bằng súng. Phụ nữ có chút nhan sắc bị chúng cưỡng hiếp tại cánh đồng, cạnh các xác chết. Cưỡng hiếp xong, thì cũng giết luôn bằng cây gậy xiên qua người.

Bọn “ác thú” không còn tính người này còn chơi trò giết hại trẻ em theo kiểu tàn khốc nhất. Chúng tung trẻ em lên cao, rồi giơ lưỡi lê hứng. Thậm chí, chúng còn cầm tay chân xé các em nhỏ đứt làm đôi. Không còn hành động man rợ nào mà chúng không đem ra làm trò tiêu khiển.

Trong cuộc hành quyết vô cùng thảm khốc với 800 đồng bào trốn trong chùa Tam Bửu, chỉ có 2 người thoát chết một cách kỳ diệu.
phamngocduong%5Ctham_sat_ba_chuc_8.jpg

Cầu sắt Vĩnh Thông

phamngocduong%5Ctham_sat_ba_chuc_9.jpg

Ông Ba Lê chỉ cánh đồng cạnh cầu sắt Vĩnh Thông, nơi bọn Pol Pot giết hại 800 người
Ông Nguyễn Văn Kỉnh bị bọn Pol Pot dẫn giải trong nhóm 30 người. Đến gò đất cạnh cầu sắt Vĩnh Thông, nhìn thấy xác chết chất chồng, ông hoảng hốt tột độ.

Bọn Pol Pot hành quyết bằng gậy gỗ mỏi tay quá, nên chuyển sang bắn. Khi súng nổ vang rền, cả nhóm ông đổ ập xuống. Ông sợ quá, ngã vật xuống đất, ngất xỉu, bị 6 xác chết đè lên, máu nhuộm đỏ ối. Ai còn ngắc ngoải, chúng nã thêm viên đạn nữa vào đầu. Ông nằm dưới đống xác, tưởng ông đã chết, bọn chúng không bắn nữa.

Đêm xuống, ông bàng hoàng tỉnh dậy. Mò mẫm trong đống xác, thấy con cháu, người thân chết la liệt.

Ông Kỉnh bò về núi Tượng, cách cầu sắt Vĩnh Thông khoảng 300m, trốn trong khe đá. Cả đêm hôm đó, đến rạng sáng hôm sau, ông nằm trên núi nghe tiếng gậy gỗ mun đập đầu dân làng và người thân “bịch bịch”. Toàn gia đình và dòng họ ông có 79 mạng người bị bọn Pol Pot giết hại trong ngày rằm tháng 3 đầy máu và nước mắt.

Người sống sót kỳ diệu thứ 2 trong cuộc hành quyết 800 người ở cầu sắt Vĩnh Thông là cô bé Nguyễn Thị Ngọc Sương, khi đó 11 tuổi. Bé Sương đã trở thành nhân chứng sống về tội ác diệt chủng kinh hoàng của bọn Pol Pot.
 
S

scientists

Tận cùng tội ác của chế độ diệt chủng Pol Pot


Với sự giúp đỡ to lớn, kịp thời, có hiệu quả của quân tình nguyện Việt Nam, Mặt trận Đoàn kết Dân tộc Cứu nước Campuchia đã lật đổ chế độ diệt chủng.



polpot-%20%281%29.jpg

Lực lượng quân đội tình nguyện Việt Nam phản kích quân Pol Pot.

polpot-1.jpg


Chị Dương Thị Niên (Tây Ninh, Việt Nam) đau xót nhìn nhà cửa, tài sản bị khơ me đỏ sang đốt phá, cướp bóc (1978).

polpot-2.jpg


Người dân Campuchia chạy sang lánh nạn trên vùng biên giới Tây - Nam của Việt Nam để tránh bị khơ me đỏ hành quyết.

polpot-3.jpg


Những hố chôn người tập thể được khai quật ở Campuchia sau ngày 7/1. Hơn 3 triệu người Campuchia đã bị giết hại một cách man rợ dưới chế độ cai trị của Pol Pot.

polpot-4.jpg


polpot-5.jpg


Lực lượng vũ trang Cách mạng Campuchia tiến vào Hoàng cung giải phóng Phnom Penh.

polpot-6.jpg


Lực lượng quân đội tình nguyện Việt Nam liên tiếp làm nên những chiến thắng: Giải phóng Kro chê, Xtung Treng, Bát tam boong, Xiêm Riệp, hải cảng Công pông Xom...ở Campuchia.

polpot-7.jpg


Người dân Campuchia bị đày đọa trong chế độ diệt chủng Pônpốt. Hàng triệu người Campuchia đã bị giết trong những năm cầm quyền của khơ me đỏ tại nước này.

polpot-8.jpg


Chứng tích tội ác dã man của khơ me đỏ ở xã Ba Chúc, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Từ 18 đến 30/4/1978, 3.157 dân thường Việt Nam ở xã này đã bị chúng giết hại dã man bằng cách: bắn, chém và chặt đầu.

polpot-9.jpg


Người dân Campuchia bị đày đọa trong chế độ diệt chủng Pônpốt. Hàng triệu người Campuchia đã bị giết trong những năm cầm quyền của khơ me đỏ tại nước này.

polpot-10.jpg


Hàng trăm binh sĩ khơ me đỏ bị quân ta bắt khi chúng xâm lấn biên giới Việt Nam ở 2 huyện Bảy Núi và Tịnh Biên, tỉnh An Giang (19/1/1978).

Theo TTXVN
 
S

scientists

Ký ức kinh hoàng nạn diệt chủng Pol Pot

Đã 35 năm trôi qua kể từ khi Campuchia thoát khỏi chế độ diệt chủng Pol Pot, nhưng ký ức kinh hoàng của nó vẫn được nhắc đến tận bây giờ.

Tội ác tột cùng
Dưới thời cầm quyền của Đảng Khmer Đỏ từ năm 1975-1979 do Pol Pot đứng đầu, đất nước Campuchia thực sự tàn khốc khi đối diện với nạn diệt chủng ghê rợn nhất trong lịch sử loài người.
Chỉ trong khoảng thời gian 3 năm 8 tháng 20 ngày, tập đoàn tội ác đã giết hại hơn 2,3 triệu người dân Campuchia, khoảng một phần ba dân số gần 8 triệu người ngày đó, chỉ để thực hiện tham vọng không tưởng là xây dựng một chủ nghĩa xã hội thuần túy, trong sạch.
4_qpes_jpg_ashx_width_6000.jpg

Khoảng 2,3 triệu người Campuchia đã bị giết hại man rợ dưới chế độ cai trị của Pol Pot
Sau khi chiếm được thủ đô Phnôm Pênh vào tháng 4.1975, Pol Pot đã ngay lập tức lùa dân ra khỏi thành phố, đến các công trường lao động khổ sai ở các vùng nông thôn. Tại đây, người dân phải tự đào hố chôn mình vì có thể bị xử tử vì bị nghi là phản động, gián điệp hay đơn giản bị cuốc bổ vào đầu chỉ vì bị coi là lười lao động hay bị bỏ đói.
3_xnlc_jpg_ashx_width_6001.jpg

Những hố chôn người tập thể được khai quật ở Campuchia sau ngày 7.1
Không những thế, mục tiêu của chúng là diệt hết các nhà sư Phật giáo, những trí thức có ảnh hưởng phương tây, những người có vẻ là trí thức (như những người đeo kính), những người tàn tật, các dân tộc thiểu số như Lào và Việt Nam.
Lãnh đạo Khmer Đỏ tuyên bố rằng chỉ một hay hai triệu người trong số dân chúng toàn cuộc là cần thiết để xây dựng một xã hội điền địa cộng sản không tưởng. Đối với những người khác, thì theo họ, "sống cũng chẳng được gì và chết cũng chẳng mất gì."
Theo đó, mìn là thứ Pol Pot coi là "người lính tuyệt vời" và được rải khắp mọi vùng nông thôn, đẩy xã hội Campuchia ngày đó hầu như bị hủy diệt khi không có cả chợ búa, trường học, bệnh viện, hoạt động tôn giáo và cũng không có cả tiền tệ.
Cứu tinh từ Việt Nam và diễn biến…
Khi người dân Campuchia đang rên xiết và tuyệt vọng trong địa ngục trần gian, quân tình nguyện Việt Nam đến Campuchia để đáp lại lời kêu gọi khẩn thiết cứu người dân nước này thoát khỏi nạn diệt chủng.
Đầu tháng 12.1978, quân đội Việt Nam được hỗ trợ bởi một số tiểu đoàn Khmer thân Việt Nam, đơn vị quân đội Campuchia yêu nước chống lại chính quyền Khmer đỏ, đã kiểm soát một vùng đệm dọc biên giới trong lãnh thổ Campuchia, từ Kampong Cham đến Kratié. Ở phía Bắc, quân Việt Nam cũng kiểm soát một vùng rộng thuộc lãnh thổ Campuchia dọc theo đường 19.
Ngày 23.12.1978, với 80.000 quân được tăng viện, quân đội Việt Nam đã tiến hành phản công trên toàn bộ mặt trận, đẩy lùi quân Khmer Đỏ ra khỏi các vị trí dọc theo tỉnh lộ 13 sát biên giới.
Sáng ngày 31.12, được pháo binh bắn yểm trợ, xe tăng và bộ binh Quân đoàn 3, Việt Nam tiến công và nhanh chóng đánh tan quân Khmer Đỏ trên toàn tuyến phòng thủ dọc theo biên giới ở tỉnh Kampong Cham.
Sáng ngày 1.1.1979, Quân đoàn 3 Việt Nam đánh chiếm sở chỉ huy Khmer Đỏ sau một giờ đồng hồ.
pnompenh_pol_pot_7_zlkp_jpg_ashx_width_6002.jpg

Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia năm 1979
Tuyến phòng thủ Svay Rieng bị vỡ vào ngày 2.1.1979, quân Khmer Đỏ phải rút về Prey Veng và Neak Luong. Cùng ngày, quân đội Việt Nam đánh tan các sư đoàn chủ lực của Khmer Đỏ án ngữ các trục đường số 1, 7 và 2 lối vào Phnom Penh.
Ngày 3.1.1979, Sư đoàn 320 đã tiến tới bờ đông của bến phà Kampong Cham trên sông Mekong. Tại đây, 2 đại đội xe bọc thép mở đường đánh về phía nam, chiếm thủ phủ tỉnh Prey Veng. Và tới ngày 4 tháng 1 đã làm chủ toàn bộ vùng phía đông sông Mekong.
Tới ngày 5.1, Sư đoàn 7, thuộc quân đoàn 4 tiến đến Neak Luong và đến ngày 6.1 chiếm được bến phà Neak Luong. Trong đêm, cách bến phà khoảng hai cây số về phía nam, Trung đoàn 113 cùng Trung đoàn 14 của Sư đoàn 7 được tàu đổ bộ đưa sang bên kia sông, tiến chiếm bờ phía tây của bến phà.
Đến 7.1, hành trình vượt sông hoàn tất, quân đội Việt Nam tiến vào Phnom Penh từ Neak Luong mà không gặp sức chống cự đáng kể nào do do sự tan rã nhanh chóng của lực lượng phòng thủ biên giới và sự chủ quan của Pol Pot. Trưa ngày 7.1, Quân đoàn 4 đã có thể bắt tay với Quân đoàn 3 ở ngoại ô phía bắc Phnom Penh.
5_lgej_jpg_ashx_width_6003.jpg

Hoàng cung ở Phnom Penh được giải phóng.
Thắng lợi vĩ đại ngày 7.1.1979 đánh bật chế độ diệt chủng ra khỏi Campuchia, một trong những chế độ hung bạo nhất thế kỷ 20. Chiến thắng này cũng đánh dấu một nghệ thuật tác chiến giữa các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam và các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia để đưa đất nước chùa tháp hồi sinh và phát triển.
tu_binh_pol_pot_13_rctl_jpg_ashx_width_6004.jpg

Tù binh Khmer đỏ bị bắt giữ

dau-lau1.jpg

Theo Một thế giới

 
Last edited by a moderator:
S

scientists

Chủ đề tiếp theo đây :


Adolf Hitler và thế chiến thứ hai

500px-Bundesarchiv_Bild_183-S33882%2C_Adolf_Hitler_retouched.jpg


200px-Hitler_signature.svg.png

Hitler năm 1937


Adolf Hitler (20 tháng 4 năm 1889 – 30 tháng 4 năm 1945) là Chủ tịch Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa (Nationalsozialistische Deutsche Arbeiterpartei, viết tắt NSDAP) từ năm 1921, Thủ tướng Đức từ năm 1933, là "Lãnh tụ và Thủ tướng đế quốc" (Führer und Reichskanzler) kiêm nguyên thủ quốc gia nắm quyền Đế quốc Đức kể từ năm 1934.

Ông thiết lập chế độ độc quyền quốc gia xã hội của Đệ tam Đế quốc, cấm chỉ tất cả các đảng đối lập và bức hại các đối thủ chính trị. Ông đã gây ra Đệ nhị thế chiến, thúc đẩy một cách có hệ thống quá trình tước đoạt quyền lợi và sát hại khoảng sáu triệu người Do Thái châu Âu cùng một số nhóm chủng tộc, tôn giáo, chính trị khác, được gọi là cuộc Đại đồ sát dân Do Thái (Holocaust).

Thời trẻ, Hitler muốn trở thành một họa sĩ, nhưng chưa từng được thành công. Về sau, Hitler trở thành một người theo chủ nghĩa dân tộc Đức cấp tiến. Trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Hitler phục vụ trong Quân đội Đế quốc Đức, từng bị thương, từng nhận hai tấm huân chương do chiến đấu anh dũng.

Thất bại của Đế chế Đức làm cho Hitler cảm thấy kinh ngạc và vô cùng phẫn nộ. Năm 1919, khi 30 tuổi, Hitler đã tham gia vào một nhóm cánh hữu nhỏ ở München. Không lâu sau, nhóm này đổi tên thành Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa, gọi tắt là Đảng Nazi. Hai năm sau, Hitler trở thành người lãnh đạo của Đảng này. Dưới sự lãnh đạo của Hitler, lực lượng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa lớn mạnh rất nhanh. Vào năm 1923, Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa phát động một đợt chính biến được sử sách gọi là "Khởi nghĩa quán bia Munich". Sau khi thất bại Hitler bị bắt và bị xét xử, nhưng trên thực tế ngồi tù chưa được một tháng, thì Hitler được phóng thích.

Năm 1928, Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa vẫn chưa đủ mạnh; nhưng do công chúng cực kỳ bất mãn đối với các chính đảng đang tồn tại, Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa thừa cơ phát triển lên. Năm 1933, Hitler làm Thủ tướng Đức ở tuổi 44, đạt được mục tiêu của ông ta. Sau khi lên nắm quyền, Hitler đã đàn áp các phe phản đối và xây dựng một nền thống trị độc tài. Nhiều nhân vật của phe chống đối bị giết không cần xét xử. Trong vài năm trước cuộc Đại chiến thế giới lần thứ hai, sự thống trị của Hitler đã được đại đa số người Đức ủng hộ nhiệt tình, vì đã giảm bớt thất nghiệp, nền kinh tế được phục hồi.

Sau đó, Hitler đã đẩy nước Đức vào con đường chinh phục bên ngoài, dẫn đến cuộc đại chiến thế giới lần thứ hai bùng nổ. Trên thực tế, Hitler không cần dùng vũ lực đã đạt được tham vọng lãnh thổ đầu tiên của mình. Khi đó, Anh và Pháp đang bị khốn đốn bởi các vấn đề kinh tế, một mực cầu hòa. Hitler hủy bỏ Hòa ước Versailles, tổ chức lại quân đội Đức. Năm 1936, quân Đức chiếm lĩnh khu vực Rheiland và thiết lập phòng thủ trong ba tháng; năm 1938, Hitler dùng vũ lực thôn tính nước Áo. Hai nước Anh và Pháp không có sự can thiệp nào đối với hành động đó của Hitler, thậm chí khi Hitler thôn tính khu vực phòng thủ trọng điểm của Tiệp Khắc tháng 9 năm 1938, Anh và Pháp cũng ngầm thừa nhận.

Năm 1940 là thời kỷ đỉnh cao của Hitler; quân đội Đức đánh chiếm Đan Mạch và Na Uy vào tháng 4, tháng 5 đánh chiếm Hà Lan, Bỉ và Luýchxămbua. Tháng 6 Pháp đầu hàng. Tháng 6 năm 1941, Hitler xé bỏ điều ước không xâm phạm Liên Xô, bắt đầu tấn công Liên Xô và chiếm được một vùng rộng lớn của Liên Xô; nhưng không tiêu diệt được quân đội Liên Xô.

Theo tác giả Panphilov (Giáo viên lịch sử Liên Xô của trường MGIMO Maxcva - Liên Xô) viết trong một cuốn sách của mình như là một sử gia đã từng tham gia cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai thì trước khi quyết định xâm lược Liên Bang Xô Viết thì Hitler đã viết một bức thư cho trùm phát xít Ý là Benito Mussolini, qua đó ông cho rằng quyết định tấn công Liên Bang Xô Viết là quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời của ông ta vì Liên Xô là một quốc gia khổng lồ. Vì lẽ đó nếu như năm 1941 khi tấn công Liên Xô theo kế hoạch của chiến dịch Barbarosa, kể cả khi Hitler đồng ý với ý kiến của các tướng lĩnh dưới quyền tấn công thẳng đến Moskva thì cũng không nhanh chóng đánh gục được Liên Xô bởi vì Ban Lãnh đạo Liên Xô lúc đó sẽ nhanh chóng sơ tán về miền Đông, dãy Uran để tiếp tục chỉ đạo cuộc kháng chiến. Sự sai lầm dẫn tới thất bại của Hitler khi tấn công Liên Xô là Hitler đã quá tự cao tự đại, coi thường người bạn đồng minh trong phe Trục của mình là Đế quốc Nhật Bản. Vì thế Nhật Bản đã không đưa quân lên phía Bắc, hiệp đồng với Quân đội Đức để tấn công Liên Xô ở mặt trận phía Đông mà dồn quân xuống phía Nam chiếm vùng Đông Á, để mặc một mình Hitler cố gắng xâm chiếm Liên Xô rộng lớn. Những nhà tình báo vĩ đại đã nắm được ý đồ đơn phương tiến hành chiến tranh của Hitler và giúp cho Ban Lãnh đạo Liên Xô có những phương án thích ứng để đối phó với Hitler.

Cuối năm 1942, Hitler đã thất bại trong hai chiến dịch ở Ai Cập và Stalingrad, đây là bước ngoặt của đại chiến thế giới lần thứ hai. Lực lượng quân đội Đức bắt đầu suy yếu; mặc dù thất bại là không tránh khỏi, nhưng Hitler kiên quyết không đầu hàng. Sau trận đánh tại Stalingrad, Hitler hạ lệnh cho làm lễ quốc tang 4 ngày. Nhưng ông ta còn chịu đựng được hơn hai năm nữa. Mùa xuân năm 1945, ngày tận thế của Hitler đã đến. Ngày 30 tháng 4 năm 1945, Adolf Hitler tự sát ở thủ đô Berlin; vài ngày sau, phát xít Đức tuyên bố đầu hàng.

Hầu như tất cả các nhà viết tiểu sử Hitler đều nhấn mạnh sự khác nhau rất rõ giữa hai phần đời của ông ta. Đoạn đời trước tuổi ba mươi của ông, nếu so với mức bình dân thời đó chỉ được xem là khoảng đời không thành đạt, bởi Adolf Hitler không được đào tạo nghề nghiệp, không có mối quan hệ nào đáng kể, sau thất bại của nước Đức trong chiến tranh thế giới thứ nhất ông là một người lính không có triển vọng và hơn hết là ông không có những cá tính đặc thù để có thể giải thích một cách thuyết phục được sự thăng tiến sau đó của mình. Mặc dù vậy, nhân vật này chỉ trong vòng vài năm đã bước lên ngôi Thủ tướng Đức và cuối cùng, đã trở thành người cầm quyền độc tài, cai trị phần lớn châu Âu. Adolf Hitler là một trong số ít các nhân vật trong lịch sử nhân loại đã phát huy một năng lực hủy hoại hiếm thấy.



(Còn nữa)
 
S

scientists

Từng có truyền đơn nổi tiếng của Đức Quốc Xã coi Adolf Hitler là chính khách mới nhất trong chuỗi một loạt các chính khác tài năng của nước Đức kể từ thời vua Friedrich II Đại Đế, tới Thủ tướng Otto von Bismarck, rồi lại đến Tổng thống Hindenburg.Bản thân vị Lãnh tụ cũng luôn luôn ví von ông ta với vua Friedrich II Đại Đế (trị vì: 1740 - 1786), nhân dân Phổ có truyền thống lịch sử hào hùng gắn liền với chủ nghĩa anh hùng của vị vua này. Adolf Hitler cũng rất vui khi ông ta nghe nói rằng vua Friedrich II Đại Đế cứng rắn với các võ quan, từ đó ông ta có lý lẽ để biện minh cho những hành vi của chính mình.

Thực chất, chế độ độc tài Đức Quốc Xã của ông ta không hề là sự nối tiếp của truyền thống Phổ. Những người lên nắm quyền thường phải tự bảo mình là "con cháu người xưa" để có được quyền thống trị hợp pháp. Đảng Quốc Xã đọc về lịch sử vinh quang của nước Phổ, của vị vua - chiến binh Friedrich II Đại Đế cũng thường không đến nơi đến chốn, móp méo. Vị vua này bị những người Quốc Xã phóng đại.
Gia thế

Hitler luôn giữ bí mật gia thế và cuộc sống của mình trước khi tham gia chính trị. Ông nói các đối thủ chính trị của mình vào năm 1930: "Các vị không được biết tôi từ đâu đến và xuất xứ từ gia đình nào" (nguyên văn tiếng Đức "Sie dürfen nicht wissen, woher ich komme und aus welcher Familie ich stamme"). Vào năm 1938, ngay sau khi sáp nhập Áo vào Đức, chính Hitler đã ra lệnh tản cư và sau đó san bằng các ngôi làng Döllersheim và Strones, là hương quán của ông bà cũng như bố mẹ ông nằm tại Waldviertel, khu vực phía Tây Bắc của tiểu bang Hạ Áo (Niederösterreich), để xây một doanh trại đào tạo lính (Allentsteig). Theo Krockow, Kershaw và những nhà viết tiểu sử Hitler, nguyên nhân có thể là những bí ẩn của khả năng loạn luân trong gốc gác của Adolf Hitler. Tự truyện Mein Kampf (Cuộc tranh đấu của tôi) của Adolf Hitler được nhiều học giả đánh giá là một nguồn thông tin không tin cậy về cuộc đời của ông, vì nó mang nhiều bịa đặt và nhiều nhận định thổi phồng.
Tiểu sử

500px-Bundesarchiv_Bild_183-1989-0322-506%2C_Adolf_Hitler%2C_Kinderbild.jpg


Hitler khi còn là đứa trẻ.
Adolf Hitler sinh ngày 20 tháng 4 năm 1889 tại Gasthof zum Pommer, một quán trọ ở Ranshofen, một ngôi làng được sáp nhập vào năm 1938 với 1 thành phố của Braunan, Áo-Hung. Ông là người con thứ tư trong sáu người con của Alois Hitler, một viên chức hải quan với bà Klara Hitler, là vợ thứ ba gốc Áo và cũng là cháu gái cột chèo hệ thứ hai với chồng, Alois Hitler.

Trong sáu anh chị em gồm Gustav, Ida, và Otto – chết khi sơ sinh thì chỉ Adolf Hitler và em gái Paula Hitler là sống đến tuổi thành niên. Cha của Adolf Hitler là con trai ngoài giá thú giữa một cô gái nhà nông, bà Anna Maria Schicklgruber và ông Johann Georg Hiedler, người không bao giờ công nhận đứa con này. Sau một khoảng thời gian lâu sau khi cha mẹ mất, vào năm 1876 khi được 40 tuổi Alois đổi họ thành Hitler, việc mà Adolf Hitler luôn đề cao ở cha mình. Nepomuk, em trai của Johann Georg Hiedler đã tuyên thệ tại văn phòng công chứng, rằng anh mình, chồng kế của bà Anna Maria Schicklgruber là cha của Alois.

Alois Hitler còn có một con trai ngoài gia thú, Alois Hitler con và một con gái từ đời vợ thứ hai. Năm Hitler lên 3 tuổi, gia đình chuyển tới Passau, Đức. Trong tự truyện "Cuộc tranh đấu của tôi", Hitler miêu tả cha mình là một người chuyên quyền, nóng tính. Nhưng thực thế, không có một bằng chứng nào cho thấy Alois Hitler giáo dục con mình nghiêm khắc hơn với mặt bằng xã hội thời đó.

Có thể kết luận rằng Hitler không biết chắc ai là ông nội của mình. Đây là một vấn đề nguy hiểm, có thể đe dọa vị trí chính trị của Hitler, một chính trị gia ngày càng được nhiều người biết đến từ thập niên 1920 nhờ các tuyên truyền ý thức hệ chủng tộc của ông. Các đối thủ chính trị của Hitler lúc đó cũng đã cố tìm cách chứng minh rằng người lãnh đạo tối cao của đảng Quốc xã, Adolf Hitler lại chính là người có gốc gác Do Thái hoặc người Séc. Theo những kết quả nghiên cứu hiện nay, việc này khó có thể là sự thật và những lời đồn đại này chưa từng được chứng minh rõ ràng. Nhưng đối với Hitler, các vấn đề này rất có thể là nguyên nhân bắt ông ra sức che giấu lí lịch của mình.



150px-Karte_Aut_Noe_Bezirke.png

Gia đình Hitler có gốc từ vùng Waldviertel, Hạ Áo, cạnh biên giới với Tiệp Khắc. Nguồn gốc của dòng họ Hitler không được rõ và trong thế kỷ 19 cách viết họ này còn thay đổi lẫn nhau giữa Hüttler, Hiedler và Hitler.



Học vấn
Vào năm 1895 ở tuổi 58 cha ông nghỉ hưu, khi đó Adolf Hitler được sáu tuổi, ông theo học một trường công lập ở gần thị trấn Linz, nước Áo. Đến năm 11 tuổi, ông học trường trung học ở Linz. Cha ông hy sinh về mặt tài chính vì con và trông mong Adolf Hitler sẽ trở thành một công chức, nhưng ông luôn chống lại ý tưởng này một cách quyết liệt. Ông kể trong quyển "Cuộc tranh đấu của tôi": "Tôi không muốn trở thành công chức, không, ngàn lần không... Tôi... ớn đến tận cổ với ý nghĩ ngồi trong một văn phòng, đánh mất mọi tự do; không còn làm chủ cho thời gian của mình..."

Điểm số của Adolf Hitler ở trường trung học Linz kém đến nỗi ông phải chuyển qua học trường công lập ở Steyr. Ông chỉ theo học trường này một thời gian ngắn rồi bỏ dở, trước khi học xong chương trình. Thất bại ở trường học dày vò Hitler trong đoạn đời về sau, khi ông dùng nhiều từ nhục mạ để nói về những người thầy dạy mình ở trường học thời tuổi nhỏ. Sau này Hitler giải thích, một trong những nguyên do khiến ông học hành kém cỏi, rồi cuối cùng bỏ học là vì muốn chống lại ý muốn của cha ông: "Tôi nghĩ rằng khi cha tôi thấy tôi không tiến bộ ở trường học, ông sẽ cho tôi dồn thời gian vào giấc mơ của tôi, dù cho ông thích hay không."

400px-Klara_Hitler.jpg

Mẹ của Hitler

Cha của Hitler qua đời năm 1903, hưởng thọ 65 tuổi khi Adolf Hitler được mười ba tuổi. Mẹ ông lúc này đã 42 tuổi, bà cố gắng nuôi hai con là Adolf và Paula bằng số tiền dành dụm ít ỏi và khoản lương hưu nhỏ nhoi. Bà vẫn muốn con trai mình trở thành một công chức, nhưng người con vẫn chống đối. Vì thế, dù giữa hai mẹ con có sợi dây tình cảm thân thương thì gia đình vẫn có xung đột, và Adolf tiếp tục lười học. Sau này, Hitler xem quãng đời từ 16 đến 19 tuổi của mình là những ngày đẹp nhất trong cuộc đời ông. Dù cho mẹ ông gợi ý và những người thân động viên để ông học nghề và tìm việc làm, ông vẫn chỉ muốn rong chơi và mơ đến ngày nào sẽ trở thành một họa sĩ. Tuy bà mẹ hay đau yếu và túng quẫn, Adolf vẫn không muốn đỡ đần. Ông luôn căm ghét ý tưởng làm một nghề cố định nào đấy để sinh sống. Chính trong khoảng thời gian này, ông chán nản học hành nhưng lại đọc rất nhiều sách, sau khi đăng ký làm thành viên của thư viện và bảo tàng địa phương.


Thời niên thiếu ở Viên và Munich

Năm 1906, khi vừa lên 17 tuổi, với một khoản tiền do bà mẹ và những người thân khác cung cấp, Hitler đi đến sống ở thủ đô Viên của nước Áo. Anh dò hỏi việc theo học Viện Hàn lâm Nghệ thuật Viên, và năm sau dự kỳ thi tuyển sinh trong ước vọng trở thành họa sĩ. Nhưng mộng không thành: bài dự thi của anh không đủ điểm. Hitler cố dự thi lần nữa vào năm sau, nhưng lần này vẫn không đạt. Trong lúc ấy, bà mẹ đang hấp hối vì chứng ung thư. Trong ba năm, bà và dòng họ đã cố gắng chu cấp cho người trai trẻ mà không thấy kết quả gì. Ngày 21 tháng 12 năm 1908, bà qua đời. Bốn năm kế tiếp, từ năm 1909 đến 1913, là giai đoạn khốn khó cùng cực đối với Hitler. Ông không thiết tha việc học nghề chuyên môn hoặc nhận bất kỳ việc làm thường xuyên nào. Thay vào đấy, ông nhận công việc lặt vặt: quét tuyết, di chuyển hành lý ở ga tàu hỏa, đôi lúc làm công nhân xây dựng trong vài ngày. Tháng 11 năm 1909, không đầy một năm sau khi đến thành Viên, ông phải rời bỏ căn hộ cho thuê có nội thất để sống 4 năm kế tiếp trong một phòng trọ rẻ tiền hoặc trong khu nhà trọ lụp xụp, và phải dùng bữa ở bếp ăn từ thiện cho qua cơn đói.

Từ việc đọc sách ở thành Viên, Hitler đã tiếp nhận những ý tưởng nông cạn và xoàng xĩnh, thường là phi lý và lố bịch, lại bị đầu độc bởi những thiên kiến kỳ dị. Những ý tưởng ấy tạo thành một phần nền tảng cho Đế chế Thứ Ba mà Hitler trẻ, ham đọc sách sắp gây dựng nên. Dù không trực tiếp can dự vào chính trị, Hitler theo dõi sát sao hoạt động của ba đảng phái chính của Áo. Việc này đã nảy sinh đầu óc sắc sảo về chính trị giúp Hitler nhìn rõ mặt mạnh và mặt yếu của những phong trào chính trị đương thời. Theo thời gian, đầu óc trưởng thành như thế đã biến Hitler thành một chính trị gia bậc thầy của nước Đức. Ông nghiên cứu những hoạt động của Đảng Dân chủ Xã hội Áo, rồi đi đến 3 kết luận giải thích tại sao đảng này đã thành công: họ biết tạo ra phong trào quần chúng mà nếu thiếu nó, đảng sẽ không có thực quyền; họ đã lĩnh hội được nghệ thuật tuyên truyền trong quần chúng và họ hiểu được giá trị của phương pháp mà ông gọi là "sự khủng bố tâm linh và thể chất".

Ông bắt đầu tập luyện tài hùng biện đối với những cử tọa ông tìm được ở khu nhà trọ, bếp ăn từ thiện, góc đường phố. Dần dà, việc này phát triển thành một kỹ năng đáng sợ hơn là bất kỳ kỹ năng nào giữa hai trận thế chiến, và đóng góp phần lớn vào thành công đáng kinh ngạc của Hitler. Và cuối cùng, Hitler đã có kinh nghiệm về người Do Thái trong thời gian sống ở Viên. Dù Hitler sau này kể lại là ông không để ý gì đến người Do Thái lúc còn sống ở Linz, nhưng theo một người bạn thời tuổi trẻ của Hitler thì sự thật khác hẳn. Lúc từ Linz đi đến Viên, Hitler đã sẵn mang tư tưởng bài Do Thái.

Mùa xuân 1913, Hitler vĩnh viễn rời xa thành Viên để đến sống ở nước Đức. Lúc này Hitler được 24 tuổi, và mọi người đều thấy là ông hoàn toàn thất bại trong cuộc đời. Ông đã không thể trở thành một họa sĩ, hoặc một nhà kiến trúc. Dưới con mắt của mọi người, ông chẳng là gì cả mà chỉ là một gã lông bông, không có bạn bè, không gia đình, không công ăn việc làm, không có mái ấm. Tuy nhiên, ông có một thứ: lòng tự tin không gì dập tắt được và một ý thức về sứ mệnh nung nấu trong tim

(Còn nữa)
 
S

scientists

Những thành công của Hitler

Xét qua một người không có học vấn, chỉ mang cấp bậc hạ sĩ trong Đệ nhất thế chiến, không có nhân thân tốt, không người đỡ đầu, không gia sản, những thành tựu mà Hitler đạt được trong các lĩnh vực ngoại giao, kinh tế và quân sự là không thể giải thích nổi.

Sự hồi phục kinh tế của Đức sau chiến tranh là thành tựu nổi bật, mà trong đảng cũng như các nhà kinh tế nước ngoài ca ngợi là phép lạ. Số người thất nghiệp từ 6 triệu năm 1932 giảm còn không đến 1 triệu bốn năm sau. Sản lượng và thu nhập quốc nội tăng gấp đôi trong thời gian 1932 - 1937. Tuy Hitler không giỏi về kinh tế, ông quy tụ được những kinh tế gia giỏi, đặc biệt là tiến sĩ Hjalmar Schacht, được coi như là nhà phù thủy kinh tế. Về quân sự, từ quân đội bị Hòa ước Versailles hạn chế ở mức 100.000 người, Hitler tăng quân số lên gấp ba vào cuối năm 1934. Khi phát động tiến công Liên bang Xô viết năm 1941, Đức huy động 3,2 triệu quân tiến theo trận tuyến dài 1.600 kilômét.
540px-Benito_Mussolini_and_Adolf_Hitler.jpg


Hitler (phải) và Mussolini năm 1937

Trước đó, sau khi Quân đội Đức tràn sang Ba Lan, chỉ trong vòng 48 giờ, Không quân Ba Lan đã bị hủy diệt, phần lớn trong số 500 máy bay hiện đại trúng bom của máy bay Đức trước khi có thể cất cánh. Quân đội Ba Lan tan nát chỉ sau một tuần. Thủ đô Warszawa thất thủ trong vòng 4 tuần. Vào ngày 6 tháng 10 năm 1939, tại Kock, quân Ba Lan đại bại buông súng. Vào ngày 3 tháng 9 năm ấy, Anh Quốc và Pháp tuyên chiến với Đức. Dù hứa hẹn là sẽ xâm lược miền Tây Đức vào ngày 17 tháng 9 để hỗ trợ Ba Lan nhưng Pháp đã thất hứa. Quân Ba Lan một thời lừng vang đã tiêu tùng trước quân đội hùng mạnh của Hitler. Sau khi đại thắng quân Ba Lan thì Hitler bắt đầu chuyển tầm hướng của ông về phương Tây. Vào ngày 23 tháng 10 năm 1939, ông nói với các tướng soái của mình là sẽ "tấn công Pháp và Anh ở một thời điểm thuận lợi và nhanh chóng nhất".

Toàn thắng ở phía Đông rồi thì Hitler quyết tâm đánh Bắc Âu. Trách nhiệm được thực hiện bởi OKW (Oberkommando der Wehrmacht - Bộ Tư lệnh lực lượng vũ trang), vì vị Lãnh tụ lo sợ rằng việc Anh - Pháp ủng hộ Phần Lan (đang bị quân Liên Xô tấn công) sẽ gây tổn hại cho tiếp tế của Đức. Ngày 9 tháng 4 năm 1940, Quân đội Đức đồng loạt tấn công Đan Mạch và Na Uy. Quân Đan Mạch nhanh chóng đầu hàng, nhưng quân Na Uy vẫn còn ngoan cố kháng cự. Cùng lúc ấy, hạm đội Anh xuất hiện ở bờ biển Na Uy. Tuy lực lượng quân Đức ở đây thật yếu ớt, quân Anh vẫn không thể tấn công và về nước. Sau đó, hạm đội Anh quay trở lại thì người Đức đã xây dựng được khu vực chiếm đóng được trên đất địch và dễ dàng cho quân đổ bộ lên Vương quốc Na Uy. Từ ngày 14 tháng 4 cho đến ngày 20 tháng 4 năm ấy, liên quân Anh - Pháp - Ba Lan đổ bộ lên Andalsnes, Harstadt, Namsos và Narvik. Hai cuộc đổ bộ đầu tiên là để tạo gọng kìm đánh về Trondheim. Tuy nhiên, cuộc tấn công thất bại và vào đầu tháng 5 quân Đồng Minh phải rút lui. Quân Đồng Minh chiếm cứ được Narvik trong một thời gian ngắn, và rút lui vào tháng 6 khi tình hình Pháp trở nên nguy kịch. Vào ngày 9 tháng 7 năm 1940, nhà vua Na Uy là Haakon VII phải xin hàng.

Sau khi quân Đức thắng lớn trong cuộc chiến với Đan Mạch và Na Uy thì họ bắt đầu tiến đánh Pháp và Vùng đất thấp vào ngày 10 tháng 5 năm 1940. Trong lần này, ông sẽ không thực hiện kế hoạch "chích máu giặc Pháp" như hồi trận Verdun trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất vào năm 1916. Phe Đồng Minh bị choáng váng. Thủ tướng Anh Quốc là Neville Chamberlain phải từ chức và Winston Churchill lên thay. Quân Đức dội bom, Hà Lan đại bại tơi bời. Chỉ trong vòng 10 ngày thôi mà gần 30 vạn quân Đồng Minh bị mắc bẫy tại bờ biển nước Bỉ và Pháp. Từ ngày 27 tháng 5 cho đến ngày 4 tháng 6, 338 000 binh lính được cứu vớt khỏi biển cả và cảng tại Dunkirk. Vào ngày 5 tháng 6 năm 1940, Quân đội Đức quyết định tiêu diệt 65 Tập đòan quân Pháp cách 650 cây số về phía trước. Năm ngày sau, Mussolini tuyên chiến với Pháp. Vào ngày 14 tháng 6 năm 1940, Quân đội Đức ca khúc khải hoàn tiến vào Paris. Hai ngày hôm sau, Chính phủ Pháp phải cầu hòa. Đáp lại, Hitler tổ chức ký kết thỏa ước ngừng bắn. Ông chọn nơi ký kết là toa tàu hỏa Compiègne - nơi nước Đức đầu hàng vào năm 1918. Nếu hồi ấy nước Đức đại bại và bị phân rã, thì Pháp đã phải chịu số phận tương tự vào năm 1940. Để đạt được chiến thắng huy hoàng này, Hitler chỉ mất 27.000 binh sĩ Đức.

Cuộc tấn công thần tốc qua Pháp một phần là từ quyết định của Hitler. Trong phương án tấn công ban đầu, mũi tiến công chính của Quận đội Đức cũng giống như trong Đệ nhất thế chiến: đánh qua Bỉ và miền bắc nước Pháp vì địa hình bằng phẳng thuận lợi cho xe tăng. Vì thế Quân đội Đồng Minh tập trung quân phòng ngự vùng này. Riêng tướng Erich von Manstein, Tham mưu trưởng Tập đoàn quân A đề xuất mũi tiến công chính của Đức phải là qua vùng Ardennes bằng một lực lượng cơ giới mạnh mẽ. Vốn luôn để ý đến những giải pháp táo bạo và ngay cả khinh suất, Hitler quan tâm đến phương án mới. Kết quả là Đức đánh qua nơi mà Đồng Minh bị bất ngờ nhất, vì lẽ tướng lĩnh của họ – cũng như phần lớn tướng lĩnh Đức – đều xem vùng đồi núi này là không thích hợp cho xe tăng. Bằng chiến thuật Blitzkrieg (sấm sét), quân Đức tiến thần tốc đi vòng qua quân chủ lực của Đồng minh. Hầu như toàn bộ quân đội Pháp bị sụp đổ.

Nhưng rồi Quân đội Đức thất bại trong trận không chiến tại Anh Quốc (1940), là chiến bại quân sự thực sự đầu tiên của Hitler. Song, đến giữa năm 1942, Đức Quốc Xã đã thôn tính khoảng 90% diện tích Tây Âu, chỉ trừ Thụy Điển, Anh, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Thụy Sĩ; còn ở Bắc Phi, Đức đang chiếm đóng Tunisia, Libya và một phần Ai Cập. Có vài điểm pha trộn trong lĩnh vực chỉ huy quân sự của Hitler. Nhờ quyết định của ông, Đức đánh chiếm thần tốc các nước Bắc Âu với thiệt hại không đáng kể, chỉ một nhóm nhỏ bính sĩ Đức chiếm được pháo đài hiện đại Eben Emael của Bỉ, được xem là có cấu trúc kiên cố nhất Châu Âu, và đánh thần tốc qua Pháp.

Quyết định nhất quán của Hitler là quân Đức phải trụ lại nơi tiến quân chứ không được rút lui. Các tướng lĩnh Đức mâu thuẫn nhau về việc này. Một số chống đối, cho rằng đó là quyết định gây thêm thiệt hại cho Đức, nhưng một số tán thành, cho rằng trên chiến trường đầy băng tuyết, lệnh rút lui chỉ làm cho binh sĩ tháo chạy mà không có căn cứ ở phía sau để họ có thể lui về trú ẩn, và cũng không có phòng tuyến nào để trụ lại.
(Còn nữa)
 
S

scientists

Đời sống riêng tư

Một vài người bạn thân được phép gọi ông là Sói (Wolf), âm hưởng như tên Adolf của ông ta.
Giữa năm 1926 và 1931 ông có liên lạc mật thiết với Maria Reiter, một người quen khi đi nghỉ hè, tuy nhiên bà ta không muốn lấy ông. Năm 1928 ông ta có mướn một nhà nghỉ mát ở làng Obersalzberg tỉnh Berchtesgaden cho người em gái cùng mẹ khác cha Angela Raubal và 2 đứa con gái bà ở. 1929 ông cho phép cháu gái mình Angelika Raubal, còn gọi là Geli, dọn tới nhà ông ở Prinzregentenplatz thuộc München ở và và bắt cô ta thôi không lui tới với người tài xế của ông nữa. Ngày 19/09/1931 cô ta được tìm thấy chết bên cạnh khẩu súng của ông, người ta cho là tự tử. Sau đó cả tuần ông ta suy nghĩ xem có nên từ bỏ con đường chính trị của mình không.
Từ tháng giêng năm 1932 Hitler có liên hệ tình cảm mật thiết với Eva Braun, một nhân viên của người thợ chụp ảnh của ông Heinrich Hoffmann. Tuy nhiên ông không muốn làm đám cưới, với lý do là để dành thời giờ cho nhân dân Đức, chấp nhận bổn phận và từ bỏ hạnh phúc cá nhân. Đó là một hình thức để che giấu những liên hệ tình cảm. Bà Braun đã nhiều lần tự tử hụt trong năm đó. Sau đó ông chấp nhận một liên hệ gắn bó với bà, tuy nhiên cho tới chết vẫn giữ bí mật về cuộc tình này.
Hitler từ thời thiếu niên đã không hút thuốc và uống rượu, sau đó không uống cả cà phê và trà đen. Kể từ năm 1932 ông ta vì sợ bị ung thư bao tử nên hay ăn chay. Ông ta tiếp tục lối dinh dưỡng này khi làm thủ tướng và độc thoại trước nhóm hâm mộ thân cận và cho đó cũng là một chính sách sức khỏe cộng hòa xã hội. Nhiều sử gia giải thích việc Hitler ăn chay là phản ứng tâm lý đối với cuộc tự sát của người cháu gái Geli Raubal. Nhiều sử gia khác thì cho đó là do sự hâm mộ Richard Wagner của ông, người mà biện hộ cho những ý tưởng ăn chay một cách kỳ thị chủng tộc. Cộng đồng ăn chay Deutsche Vegetarierbund tuy nhiên không hưởng được lợi ích gì về lối ăn uống của Hitler và đã tự giải tán trước sự đe dọa là sẽ bị dành mất quyền điều động.
Từ Đệ nhất thế chiến Hitler đã thích và có nuôi chó. Ông ta thường để cho chụp hình với con chó Schäferhündin Blondi của mình trước những phong cảnh thơ mộng, để cho thấy mình là con người yêu súc vật và gần gũi với thiên nhiên. Và như vậy tạo cho người Đức một cái đặc tính chung, cũng như một sự mơ ước hòa hợp giữa lãnh tụ và những người đi theo.


(Còn nữa)
 
S

scientists

Những tố chất trong con người Hitler

Trong con người của Hitler có nhiều tố chất đặc biệt, mỗi tố chất phụ trợ và kết hợp với những tố chất khác giúp cho ông đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, đánh bại hoặc dẹp tan những thể chế chính trị cộng hòa, quân đội, nghiệp đoàn.

Tinh thần ái quốc cực đoan

Tinh thần này vừa giúp Hitler chiếm được con tim của người dân Đức và tranh thủ được sự ủng hộ của quân đội. Ban đầu, các nước Đồng Minh chỉ nhận ra khía cạnh "ái quốc" trong con người Hitler, còn khía cạnh "cực đoan" thì được che giấu bởi tài hùng biện. Như đã nói, ông ta tự coi mình là người kế thừa của vua Friedrich II Đại Đế - một vị vua lớn của Vương quốc Phổ xưa, dù chế độ độc tài của ông ta thực ra chẳng mấy giống với vua Friedrich II Đại Đế.

Việc làm đi đôi với lời nói

Một khi đã định hình tư tưởng, xuyên suốt qua cương lĩnh đảng, quyển sách Mein Kampf và những bài phát biểu, Hitler đều mang ra thực hiện những gì ông nói. Cũng có nhiều điều ông không làm như đã hứa, nhưng đấy là chiến thuật mị dân trong bước đầu khi Quốc xã muốn chiếm quyền lực bằng lá phiếu dân chủ. Còn lại, Hitler đều thi hành những sách lược chủ chốt đúng như ông đã nói.

Bản chất độc tài, chuyên chế

Bản chất này đã bộc lộ ngay trong giai đoạn Hitler mới gia nhập Đảng Lao động Đức, tiền thân của Quốc xã. Cũng nói là làm, Hitler đã trình bày rất rõ ý định thiết lập một nước Đức dưới chế độ chuyên chế, độc đảng, và đảng này dưới quyền một lãnh tụ chuyên chế.

Lừa dối

Tố chất này không đi ngược lại mà là bổ sung việc thi hành những gì đã nói. Có nghĩa là Hitler sẵn sàng lừa dối để nhằm thi hành những điều chủ chốt trong tư tưởng của ông. Cũng nhờ những tố chất này, Hitler đã chinh phục được giới thương mại và công nghiệp trong nước. Riêng hai cường quốc Anh và Pháp, ban đầu muốn trấn áp Đức nhưng kế tiếp lại muốn xoa dịu Hitler, mở đường cho ông thôn tính Áo và Tiệp Khắc. Đến khi Hitler hung hăng xâm lăng Ba Lan thì họ mới nhận ra tham vọng vô bờ bến của Hitler, nhưng đã quá muộn: Đệ nhị thế chiến xảy ra là điều tất yếu.

Tài hùng biện

Đây là một vũ khí rất lợi hại của Hitler. Nhờ tài hùng biện cộng với tính lừa dối, Hitler đã chinh phục được người dân Đức, giới quân đội, ngay cả giới truyền thông và các nhà lãnh đạo nước ngoài.

(Còn nữa)
 
S

scientists

Tinh thần ái quốc cực đoan

Hitler: chiến binh dũng cảm

Vào mùa hè 1914, Đệ nhất thế chiến bùng nổ, và Hitler phải làm nghĩa vụ như hàng triệu thanh niên khác. Ông đầu quân cho một trung đoàn của vương quốc Bayern. Giống như hàng triệu người Đức khác, Hitler là một chiến binh can đảm. Sau này có vài đối thủ chính trị kết án ông là kẻ hèn nhát trong chiến tranh, nhưng không có chứng cứ nào trong hồ sơ hậu thuẫn lời kết án này. Hitler được thưởng huy chương hai lần vì tinh thần dũng cảm. Tháng 12 năm 1914 ông được thưởng huy chương Chữ thập Sắt hạng Nhì, và tháng 8 năm 1918 nhận huy chương Chữ thập Sắt hạng Nhất vốn ít khi được ban thưởng cho cấp binh sĩ trong Quân đội Đế chế cũ. Ông luôn mang tấm huy chương này một cách hãnh diện cho đến lúc chết.
250px-Hitler_Mannerheim_2.jpg


Hitler và Mannerheim, nhà lãnh đạo Phần Lan

Tuy thế, Hitler là một người lính kỳ lạ. Không có thư từ hoặc quà tiếp tế từ gia đình gửi đến như thường thấy ở những binh sĩ khác. Ông không bao giờ xin nghỉ phép; ông không hề để ý đến phụ nữ như những người lính khác. Giống như những chiến binh quả cảm nhất, ông không bao giờ phàn nàn về tình trạng hôi thối, chấy rận, bùn lầy nơi chiến trường. Ông tỏ ra là một chiến binh hăng say, luôn luôn cực kỳ nghiêm túc trong mọi mục đích của chiến tranh và vận mệnh của nước Đức.

Hitler kể rằng từ lúc đứng trước ngôi mộ bà mẹ mới mất, ông mới bật khóc lần nữa, khi nghe tin Đức thất trận. Giống như hàng triệu người Đức khác lúc ấy và mãi về sau, Hitler không thể chấp nhận thực tế khốc liệt là nước Đức đã chiến bại. Ông càng không thể chịu đựng được tấn thảm kịch ập xuống quê hương thân yêu của ông vào tháng 11 năm 1918. Đối với ông, cũng như đối với mọi người Đức, Quân đội Đức không thua trên trận tuyến, mà bị kẻ phản quốc ở hậu phương (bị gán bằng cụm từ "tội đồ Tháng Mười một") đâm sau lưng. Vì thế mà trong thâm tâm của Hitler cũng như của nhiều người Đức, sự tin tưởng quá khích đối với "truyền thuyết đâm sau lưng" dần dà làm suy yếu nền Cộng hòa và dọn đường cho Hitler cuối cùng lên nắm chính quyền.

Cố dằn lòng vì bị cấm phát biểu trước công chúng, Hitler hùng hục lao vào công việc tái lập Đảng Quốc xã và biến nó thành một tổ chức mà Đức chưa hề thấy từ trước đến giờ. Ông có ý đồ tổ chức đảng như là một quân đội – một nhà nước trong một nhà nước. Công tác đầu tiên là thu hút đảng viên nộp phí gia nhập. Vào cuối năm 1925, chỉ có 27.000 đảng viên. Đảng Quốc xã phát triển một cách chậm chạp, nhưng mỗi năm đều có tiến bộ: 49.000 đảng viên năm 1926; 72.000 năm 1927; 108.000 năm 1928; 178.000 năm 1929. Hitler thành lập cơ sở đảng hoàn chỉnh tương ứng với tổ chức hành chính của Đức và cũng giống với xã hội Đức. Nước Đức được chia ra thành vùng (gaue), tương đương với 34 đơn vị trong các kỳ bầu cử Nghị viện, và Hitler đích thân bổ nhiệm đảng viên làm gauleiter (tương đương với xứ ủy) đứng đầu mỗi vùng. Mỗi vùng được chia ra thành những cấp nhỏ hơn. Riêng thành phố được chia nhỏ thêm thành cấp khu phố và cấp tổ dân phố.
Tái vũ trang nước Đức

Vì tinh thần ái quốc cực đoan, Hitler theo đuổi một cách không mệt mỏi chương trình tái vũ trang, qua đó được sự hậu thuẫn mạnh mẽ của Quân đội. Bước đầu tiên là tăng quân số lên gấp ba – từ 100.000 (giới hạn của Hòa ước Versailles) lên 300.000 quân tính đến ngày 1 tháng 10 năm 1934. Trong thời gian này, Hải quân Đức bắt đầu đóng tàu thiết giáp và tàu ngầm, vi phạm Hòa ước Versailles. Không quân Đức đặt hàng thiết kế máy bay chiến đấu và đào tạo phi công quân sự. Các khu tất bật sản xuất súng đạn, tổng hợp nitrát từ không khí, sản xuất xăng tổng hợp và cao su nhân tạo từ than đá. Các cường quốc, dẫn đầu là Anh, đành phải chấp nhận chuyện đã rồi.

Ngày 16 tháng 3 năm 1935, Hitler ban hành nghị định thiết lập nghĩa vụ quân sự và một quân đội thời bình gồm có 12 quân đoàn và 36 sư đoàn – khoảng nửa triệu người. Các cường quốc chỉ có một số động thái rỗng tuếch để cảnh cáo Hitler.

Ngày 21 tháng 5 năm 1935, Hitler bí mật ban hành Luật Bảo vệ Đế chế, tổ chức lại quân lực; Bộ Quốc phòng đổi thành Bộ Chiến tranh. Quân đội Đức từ danh hiệu Reichswehr (Quân Phòng vệ Đế chế) dưới thời Cộng hòa bây giờ được chuyển thành Wehrmacht (Lực lượng Phòng vệ). Hitler kiêm thêm Tư lệnh Tối cao Quân lực. Mỗi binh chủng hải lục không quân có Tư lệnh và Bộ Tư lệnh riêng.

Hitler đề xuất hải quân mới của Đức ở mức 35% tải trọng lực lượng Hải quân Hoàng gia Anh, và như thế vẫn còn khiến cho Đức 15% thấp hơn tải trọng của Hải quân Pháp. Anh nhanh chóng chấp nhận đề xuất này mà không tham khảo với Pháp, vô hình chung cho phép Đức tự do đóng tàu cho hạm đội càng nhanh càng tốt theo khả năng có thể – ngang bằng khả năng huy động tối đa các xưởng đóng tàu và nhà máy thép trong 10 năm. Vì thế, đây không phải là giới hạn tái vũ trang của Đức mà là khuyến khích bành trướng binh chủng hải quân nhanh chóng theo khả năng của Đức.

(Còn nữa)
 
Top Bottom