Phân tích một số tác phẩm [st]

D

doigiaythuytinh

Nói đến thơ trước hết là nói đến cảm xúc và sự chân thành. Không có cảm xúc, thơ sẽ không thể có sức lay động hồn người, không có sự chân thành chút hồn của thơ cũng chìm vào quên lãng. Một chút chân thành, một chút lãng mạn, một chút âm vang mà Chính Hữu đã gieo vào lòng người những cảm xúc khó quên. Bài thơ " Đồng chí" với nhịp điệu trầm lắng mà như ấm áp, tươi vui; với ngôn ngữ bình dị dường như đã trở thành những vần thơ của niềm tin yêu, sự hy vọng, lòng cảm thông sâu sắc của một nhà thơ cách mạng
Phải chăng, chất lính đã thấm dần vào chất thơ, sự mộc mạc đã hòa dần vào cái thi vị của thơ ca tạo nên những vần thơ nhẹ nhàng và đầy cảm xúc?

Trong những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp gian lao, lẽ đương nhiên,hình ảnh những người lính, những anh bộ đội sẽ trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến, trở thành niềm tin yêu và hy vọng của cả dân tộc. Mở đầu bài thơ"Đồng chí", Chính Hữu đã nhìn nhận, đã đi sâu vào cả xuất thân của những người lính:
"Quê hương anh đất mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá"
Sinh ra ở một đất nước vốn có truyền thống nông nghiệp, họ vốn là những người nông dân mặc áo lính theo bước chân anh hùng của những nghĩa sĩ Cần Giuộc năm xưa. đất nước bị kẻ thù xâm lược, Tổ quốc và nhân dân đứng dưới một tròng áp bức. "Anh" và "tôi", hai người bạn mới quen, đều xuất than từ những vùng quê nghèo khó. Hai câu thơ vừa như đối nhau, vừa như song hành, thể hiện tình cảm của những người lính. Từ những vùng quê nghèo khổ ấy, họp tạm biệt người thân, tạm biệt xóm làng, tạm biệt những bãi mía, bờ dâu, những thảm cỏ xanh mướt màu,họ ra đi chiến đấu để tìm lại, giành lại linh hồn cho Tổ quốc. Những khó khăn ấy dường như không thể làm cho những người lính chùn bước:
"Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ"
Họ đến với Cách mạng cũng vì lý tưởng muốn dâng hiến cho đời. "Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình". Chung một khát vọng, chung một lý tưởng, chung một niềm tin và khi chiến đấu, họ lại kề vai sát cánh chung một chiến hào....Dường như tình đồng đọi cũng xuất phát từ những cái chung nhỏ bé ấy. Lời thơ như nhanh hơn, nhịp thơ dồn dập hơn,câu thơ cũng trở nên gần gũi hơn:
"Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí !..."
Một loạt từ ngữ liệt kê với nghệ thuật điệp ngữ tài tình, nhà thơ không chỉ dưa bài thơ lên tận cùng của tình cảm mà sự ngắt nhịp đột ngột, âm điệu hơi trầm và cái âm vang lạ lùng cũng làm cho tình đồng chí đẹp hơn, cao quý hơn. Câu thơ chỉ có hai tiếng nhưng âm điệu lạ lùng đã tạo nên một nốt nhạc trầm ấm, thân thương trong lòng người đọc. Trong muôn vàn nốt nhạc của tình cảm con người phải chăng tình đồng chí là cái cung bậc cao đẹp nhất, lí tưởng nhất. Nhịp thở của bài thơ như nhẹ nhàng hơn, hơi thở của bài thơ cũng như mảnh mai hơn.. Dường như Chính Hữu đã thổi vào linh hồn của bài thơ tình đồng chí keo sơn, gắn bó và một âm vang bất diệt làm cho bài thơ mãi trở thành một phần đẹp nhất trong thơ Chính Hữu.
Hồi ức của những người lính, nhuwngxkir niệm riêng tư quả là bất tận:
"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay"
Cái chất nông dân thuần phác của những anh lính mới đáng quý làm sao ! Đối với những người nông dân, ruộng nương, nhà cuarwlaf những thứ quý giá nhất. Họ sống nhờ vào đồng ruộng,họ lớn lên theo câu hát ầu ơ của bà của mẹ.Họ lơn lên trong những "gian nhà không mặc kẹ gió lung lay". Tuy thế, họ vẫn yêu, yêu lắm chứ những mảnh đất thân quen, những mái nhà thân thuộc....Nhưng...họ đã vượt qua chân trời của cái tôi bé nhỏ để đến với chân trời của tất cả. Đi theop con đường ấy là đi theo khát vọng, đi theo tiếng gọi yêu thương của trái tim yêu nước. Bỏ lại sau lưng tất cả nhưng bóng hình của quê hương vẫn trở thành nỗi nhớ khôn nguôi của mỗi người lính. Dẫu răng" mặc kệ" nhưng trong lòng họp vị trí của quê hương vẫn bao trùm như muốn ôm ấp tất cả mọi kỉ niệm. Không liệt kê, cũng chẳng phải lối đảo ngữ thường thấy trong thơ văn,nhưng hai câu thơ cũng đủ sức lay đọng hồn thơ, hồn người:
"Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính"
Sự nhớ mong chờ đợi của quê hương với những chàng trai ra đi tạo cho hồn quê có sức sống mãnh liệt hơn. Nhà thơ nhân hóa"gieengs nước gốc đa" cũng có nỗi nhớ khôn nguôi với những người lính. Nhưng không kể những vật vô tri, tác giả còn sử dụng nghệ thuật hoán dụ để nói lên nỗi nhớ của những người ở nhà, nỗi ngóng trông của người mẹ đối với con, những người vợ đối với chòng và những đôi trai gái yêu nhau....

Bỏ lại nỗi nhớ, niềm thương, rời xa quê hương những người lính chiến đấu trong gian khổ:
"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán đẫm mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần anh có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày"
Câu thơ chầm chậm vang lên nhưng lại đứt quãng, phải chăng sự khó khăn, vất vả, thiếu thốn của những người lính đã làm cho nhịp thơ Chính Hữu sâu lắng hơn. Đất nước ta còn nghèo, những người linha còn thiếu thốn quân trang, quân dụng,phải đối mặt với sốt rét rừng,cái lạnh giá của màn đêm.....Chỉ đôi mảnh quần vá,cái áo rách vai, người lính vẫn vững lòng theo kháng chiến, mặc dù nụ cười ấy là nụ cười giá buốt, lặng câm. Tình đồng đội quả thật càng trong gian khổ lại càng tỏa sáng,nó gần gũi mà chân thực, không giả dối, cao xa....Tình cảm ấy lan tỏa trong lòng của tất cả những người lính. Tình đồng chí:
"Là hớp nước uống chung, năm cơm bẻ nửa
Là chia nhâu một trưa nắng, một chiều mưa
Chia khắp anh em một mẩu tin nhà
Chia nhau đứng trong chiến hào chặt hẹp
Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết"
( Nhớ- hồng Nguyên)
Một nụ cười lạc quan, một niềm tin tất thắng, một tình cảm chân thành đã được Chính Hữu cô lại chỉ với nụ cười - biểu tượng của người lính khi chiến đấu, trong hòa bình cũng như khi xây dựng Tổ quốc, một nụ cười ngạo nghễ, yêu thương, một nụ cười lạc quan chiến thắng...
"Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giác tới"
Nhịp thơ đều đều 2/2/2 - 2/2/3 cô đọng tất cả nét đẹp của những người lính. Đó cũng chính là vẻ đẹp ngời sáng trog gian khổ của người lính. Vượt lên trên tất cả, tình đồng đội, đồng chí như được sưởi ấm bằng những trái tim người lính đầy nhiệt huyết. Vẫn đứng canh giư cho bầu trời Việt Nam dù đêm đã khuya, sương đã xuống, màn đêm cũng chìm vào quên lãng. Hình ảnh người lính bỗng trở nên đẹp hơn, thơ mộng hơn. Đứng cạnh bên nhau sẵn sàng chiến đấu. Xem vào cái chân thực của cả bài thơ,câu thơ cuối cùng vẫn trở nên rất nên thơ:
" Đầu súng trăng treo"

Ánh trăng gần như gắn liền với người lính:
" Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ"
( Ánh trăng- nguyễn Duy)
Một hình ảnh nên thơ, lãng mạn nhưng cũng đậm chất chân thực, trữ tình. Một sự quyện hòa giữa không gian, thời gian,ánh trăng và người lính. Cái thực đan xen vào cái mộng, cái dũng khí chiến đấu đan xen vào tình yêu làm cho biểu tượng người lính không những chân thực mà còn rực rỡ đến lạ kì. Chất lính hòa vào chất thơ, chất trữ tình hòa vào chất Cách mạng, chất thép hòa vào chất thi ca. Độ rung động và xao xuyến của cả bài thơ có lẽ chỉ nhờ vào hình ảnh ánh trăng này. Tình đồng chí cũng thế, lan tỏa trong không gian, xoa dịu nỗi nhớ, làm vơi đi cái giá lạnh của màn đêm. người chiến sĩ như cất cao tiếng hát ngợi ca tình đồng chí. Thiêng liêng biết nhường nào, hình ảnh những người lính, những anh bộ đội cụ Hồ sát cạnh vai nhau " kề vai sát cánh" cùng chiến hào đấu tranh giành độc lập.

Quả thật, một bài thơ là một xúc cảm thiêng liêng, là một tình yêu rộng lớn, trong cái lớn lao nhất của đời người. Gặp nhau trên cungf một con đường Cách mạng, tình đồng chí như được thắt chặt hơn bằng một sợi dây yêu thương vô hình.

Bài thơ " Đồng chí" với ngôn ngữ chân thực, hình ảnh lãng mạn, nụ cười ngạo nghễ của các chiến sĩ đã lay động biết bao trái tim con người. Tình đồng chí ấy có lẽ sẽ sống mãi với quê hương, với Tổ quốc, với thế hệ hôm nay, ngày mai hay mãi mãi về sau.....
 
D

doigiaythuytinh

/ MỞ BÀI :
Nói đến Truyện Kiều là nói đến quyền sống của con người bị chà đạp. Tiêu biểu cho tình trạng bị chà đạp đó là cảnh mua bán người thật thương tam trong truyện. “ Mã Giám Sinh mua Kiều” là đoạn trích minh chứng cho điều trên. Ở đoạn trích, nhà thơ đã tố cáo thế lực đồng tiền tàn bạo, phơi bày tình trạng con người bị biến thành hàng hóa; bày tỏ niềm đau đớn, căm phẫn trước tình cảnh con người bị hạ thấp và chà đạp.
II/ THÂN BÀI:
Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du giới thiệu ngắn gọn quyết định bán mình của Kiều và âm hưởng của quyết định đó. Quyết định được giới thiệu dưới hình thức ý nghĩ đau đớn của Kiều về thân phận và tấm lòng hiếu thảo. Một tư tưởng đành phận chi phối hành động của nàng “ Hạt mưa sá nghĩ phận hèn/ Liều đem tất cỏ quyết đền ba xuân”
Tư tưởng này không phải của riêng Kiều mà là chung cho biết bao thân phận người phụ nữ phó mặc cuộc đời cho số phận may rủi như trong mấy câu ca dao “ Thân em như …ruộng cày”/ “ Thân em … vào vườn hoa” / Mấy câu thơ mở đầu đoạn trích đã khơi gợi một không khí chua sót khiến người đọc cảm nhận được toàn bộ cảnh mua người đau đớn đó.
Tiếp theo nhà thơ kẻ đến mua. Lời giới thiệu thật trang nhã “ Đưa người…vấn danh”/ Nhưng sự biểu hiện qua lời ăn tiếng nói của con người của nhân vật thì hoàn toàn trái ngược, cộc lốc, thiếu giáo dục “ Hỏi tên …cũng gần” / Mã Giám Sinh là học sinh trường Quốc Tử Giám – trường học lớn nhất kinh đô xưa nhưng ăn nói thì vô lễ thực chất là một kẻ vô học. Vừa gới thiệu lả mốt viễn khách thì bây giờ là cũng gần, thế nói dối, “tiền hậu bất nhất”.
Về ngoại hình, Mã Giám Sinh ăn mặt một cách trau chuốt, nhố nhăng : “ Quá niên …bảnh bao” / “ Trạc ngoại tứ tuần” là người đã lớn tuổi, không còn trẻ tuổi. Tuổi ấy lẽ ra phải để râu nhưng đây lại chẳng có dáng mày râu. Người xưa rất coi trọng hình thức mày râu. Hai chữ “ bảnh bao” là chỉ áo quần tử tế, chải chuốt, phẳng phiu. Có người nói “ bảnh bao” là từ dùng để chỉ quần áo trẻ em, nay dùng để khen người lớn do đó nó mang hàm ý m** mai. Vậy là ngay cả tư cách đàn ông, trượng phu của MGS cũng bị phủ định. Tuy nhiên, ca7u thơ cũng có thể hiểu một cách khác : mày râu nhẵn nhụi là được cắt xén t** tót, trai lơ, đi đôi với bộ cách bảnh bao ra dáng một chú rể.
Về hành vi, cử chỉ thì MGS càng thiếu văn hóa “ Trước thầy …sỗ sàng”/ “lao xao” là từ gợi tả âm thanh vang lên từi nhiều phía, lộn xộn l\không thứ tự: tớ thầy cùng nói, không ai nhường ai. “ ghế trên” là chỗ dành cho bậc trưởng gia , cao tuổi trong nhà, nay MGS đi hỏi vợ, bậc con cái lại dành ghế trên thật chướng mắt. Tóm lại, kẻ đi mua, dù được ngụy trang bằng danh hiệu “ giám sinh” nhưng bản chất vô học hèn hạ vẫn bọc lộ trọn vẹn.
Phần còn lại của đoạn tích , tả cảnh mua người thật hiếm có. Ở đây có kẻ mua người bán. Nhà thơ đã cực tả nỗi xót xanhu5c nhã của Kiều khi đem ra làm món hàng “ Nỗi mình …mặt dày” / “ Nỗi mình” là mối tình đối với Kim Trọng vẫn còn canh cánh. “ nỗi nhà” là việc cha, việc em bị hành hạ không thể không cứu. Hai nỗi đau chồng chéo đé nặng trong lòng. Cho nên mỗi bước đi của nàng làm rơi bao nhiêu hàng lệ : khóc cho mình , khóc cho tình, khóc cho cha và em. Ngoài nỗi đau và uất ức, Kiều còn có nỗi đau xót thẹn thùng. Một người con gái khuê các, nay ra chào khách, sao khỏi sượng súng xấu hổ. Nhà thơ dùng hình ảnh bông hoa với biện pháp ẩn dụ thật tái tình. Kiều ra với MGS ví như cành hoa đem ra ngoài sương gió. Cho nên “ ngại ngùng..” Vì sương gió làm cho hoa tàn hoa rụng. Vì tự ví mình là hoa nên Kiều nhìn hoa mà thấy thẹn, tự thấy mình không xứng với hoa. Đó là tình cảm là đạo đức cao đẹp, thầm kín của Kiều mà chỉ mình Kiều cảm thấy.
Trong khi đó, thì bà mối cứ giới thiệu Kiều như một món hàng một đồ vật. Mụ vén tóc bắt tay cho khách xem; ép nàng làm thơ đánh đàn cho khách thấy mà không hề biết gì đến nỗi đau bên trong đang giày vò nàng :’ Nét buồn như cúc , điệu gầy như mai” / Quả đúng là cảnh “ cành hoa đem bán cho phường lái buồn” hết sức đau xót. Khách xem xong hàng thì ngã giá “ cò kè…bốn trăm” / Giá mua bốn trăm là một con số không lớnmà người mua còn cò kè thêm bớt mất nhiều thời giờ. Từ đó người đọc cảm nhận được sự mua bán róng riết, chi li biết chừng nào! Câu thơ “ cò kè…hai” bộc lộ rõ nhất bản chất con buôn của MGS chứ không phải là người đi kiếm vợ lẽ, nàng hầu. Tính toán của hắn hoàn toàn đặt ở tiền, chứ không đặt ở người.
Kết thúc cảnh mua bán là lời tổng kết chua chát của Nguyễn Du về sức mạnh của đồng tiền chi phối số phận con người: “ Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong”
Bằng việc miêu tả ngoại hình, cử chỉ và ngôn ngữ đối thoại để khắc họa tính cách nhân vật, tác giả đạ vạch trần bản chất xấu xa, đê tiện của MGS qua đó lên án những thế lực tàn bạo chà đạp lên sắc đẹp tài năng và nhân phẩm của người phụ nữ.
III/ KẾT BÀI:
Đoạn thơ thật hay ; cạnh mua bán rất thật ; bộ mặt kẻ mua người bán cũng được khắc họa đậm nét ; phơi bày hết bản chất, địa vị , nỗi lòng của từng loại người. Đoạn thơ là tiếng khóc cho con người lương thiện, là một lời tố cáo công phẫn cháy bỏng
 
P

plasma000

Nói đến thơ trước hết là nói đến cảm xúc và sự chân thành. Không có cảm xúc, thơ sẽ không thể có sức lay động hồn người, không có sự chân thành chút hồn của thơ cũng chìm vào quên lãng. Một chút chân thành, một chút lãng mạn, một chút âm vang mà Chính Hữu đã gieo vào lòng người những cảm xúc khó quên. Bài thơ " Đồng chí" với nhịp điệu trầm lắng mà như ấm áp, tươi vui; với ngôn ngữ bình dị dường như đã trở thành những vần thơ của niềm tin yêu, sự hy vọng, lòng cảm thông sâu sắc của một nhà thơ cách mạng
Phải chăng, chất lính đã thấm dần vào chất thơ, sự mộc mạc đã hòa dần vào cái thi vị của thơ ca tạo nên những vần thơ nhẹ nhàng và đầy cảm xúc?

Trong những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp gian lao, lẽ đương nhiên,hình ảnh những người lính, những anh bộ đội sẽ trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến, trở thành niềm tin yêu và hy vọng của cả dân tộc. Mở đầu bài thơ"Đồng chí", Chính Hữu đã nhìn nhận, đã đi sâu vào cả xuất thân của những người lính:
"Quê hương anh đất mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá"
Sinh ra ở một đất nước vốn có truyền thống nông nghiệp, họ vốn là những người nông dân mặc áo lính theo bước chân anh hùng của những nghĩa sĩ Cần Giuộc năm xưa. đất nước bị kẻ thù xâm lược, Tổ quốc và nhân dân đứng dưới một tròng áp bức. "Anh" và "tôi", hai người bạn mới quen, đều xuất than từ những vùng quê nghèo khó. Hai câu thơ vừa như đối nhau, vừa như song hành, thể hiện tình cảm của những người lính. Từ những vùng quê nghèo khổ ấy, họp tạm biệt người thân, tạm biệt xóm làng, tạm biệt những bãi mía, bờ dâu, những thảm cỏ xanh mướt màu,họ ra đi chiến đấu để tìm lại, giành lại linh hồn cho Tổ quốc. Những khó khăn ấy dường như không thể làm cho những người lính chùn bước:
"Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ"
Họ đến với Cách mạng cũng vì lý tưởng muốn dâng hiến cho đời. "Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình". Chung một khát vọng, chung một lý tưởng, chung một niềm tin và khi chiến đấu, họ lại kề vai sát cánh chung một chiến hào....Dường như tình đồng đọi cũng xuất phát từ những cái chung nhỏ bé ấy. Lời thơ như nhanh hơn, nhịp thơ dồn dập hơn,câu thơ cũng trở nên gần gũi hơn:
"Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí !..."
Một loạt từ ngữ liệt kê với nghệ thuật điệp ngữ tài tình, nhà thơ không chỉ dưa bài thơ lên tận cùng của tình cảm mà sự ngắt nhịp đột ngột, âm điệu hơi trầm và cái âm vang lạ lùng cũng làm cho tình đồng chí đẹp hơn, cao quý hơn. Câu thơ chỉ có hai tiếng nhưng âm điệu lạ lùng đã tạo nên một nốt nhạc trầm ấm, thân thương trong lòng người đọc. Trong muôn vàn nốt nhạc của tình cảm con người phải chăng tình đồng chí là cái cung bậc cao đẹp nhất, lí tưởng nhất. Nhịp thở của bài thơ như nhẹ nhàng hơn, hơi thở của bài thơ cũng như mảnh mai hơn.. Dường như Chính Hữu đã thổi vào linh hồn của bài thơ tình đồng chí keo sơn, gắn bó và một âm vang bất diệt làm cho bài thơ mãi trở thành một phần đẹp nhất trong thơ Chính Hữu.
Hồi ức của những người lính, nhuwngxkir niệm riêng tư quả là bất tận:
"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay"
Cái chất nông dân thuần phác của những anh lính mới đáng quý làm sao ! Đối với những người nông dân, ruộng nương, nhà cuarwlaf những thứ quý giá nhất. Họ sống nhờ vào đồng ruộng,họ lớn lên theo câu hát ầu ơ của bà của mẹ.Họ lơn lên trong những "gian nhà không mặc kẹ gió lung lay". Tuy thế, họ vẫn yêu, yêu lắm chứ những mảnh đất thân quen, những mái nhà thân thuộc....Nhưng...họ đã vượt qua chân trời của cái tôi bé nhỏ để đến với chân trời của tất cả. Đi theop con đường ấy là đi theo khát vọng, đi theo tiếng gọi yêu thương của trái tim yêu nước. Bỏ lại sau lưng tất cả nhưng bóng hình của quê hương vẫn trở thành nỗi nhớ khôn nguôi của mỗi người lính. Dẫu răng" mặc kệ" nhưng trong lòng họp vị trí của quê hương vẫn bao trùm như muốn ôm ấp tất cả mọi kỉ niệm. Không liệt kê, cũng chẳng phải lối đảo ngữ thường thấy trong thơ văn,nhưng hai câu thơ cũng đủ sức lay đọng hồn thơ, hồn người:
"Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính"
Sự nhớ mong chờ đợi của quê hương với những chàng trai ra đi tạo cho hồn quê có sức sống mãnh liệt hơn. Nhà thơ nhân hóa"gieengs nước gốc đa" cũng có nỗi nhớ khôn nguôi với những người lính. Nhưng không kể những vật vô tri, tác giả còn sử dụng nghệ thuật hoán dụ để nói lên nỗi nhớ của những người ở nhà, nỗi ngóng trông của người mẹ đối với con, những người vợ đối với chòng và những đôi trai gái yêu nhau....

Bỏ lại nỗi nhớ, niềm thương, rời xa quê hương những người lính chiến đấu trong gian khổ:
"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán đẫm mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần anh có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày"
Câu thơ chầm chậm vang lên nhưng lại đứt quãng, phải chăng sự khó khăn, vất vả, thiếu thốn của những người lính đã làm cho nhịp thơ Chính Hữu sâu lắng hơn. Đất nước ta còn nghèo, những người linha còn thiếu thốn quân trang, quân dụng,phải đối mặt với sốt rét rừng,cái lạnh giá của màn đêm.....Chỉ đôi mảnh quần vá,cái áo rách vai, người lính vẫn vững lòng theo kháng chiến, mặc dù nụ cười ấy là nụ cười giá buốt, lặng câm. Tình đồng đội quả thật càng trong gian khổ lại càng tỏa sáng,nó gần gũi mà chân thực, không giả dối, cao xa....Tình cảm ấy lan tỏa trong lòng của tất cả những người lính. Tình đồng chí:
"Là hớp nước uống chung, năm cơm bẻ nửa
Là chia nhâu một trưa nắng, một chiều mưa
Chia khắp anh em một mẩu tin nhà
Chia nhau đứng trong chiến hào chặt hẹp
Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết"
( Nhớ- hồng Nguyên)
Một nụ cười lạc quan, một niềm tin tất thắng, một tình cảm chân thành đã được Chính Hữu cô lại chỉ với nụ cười - biểu tượng của người lính khi chiến đấu, trong hòa bình cũng như khi xây dựng Tổ quốc, một nụ cười ngạo nghễ, yêu thương, một nụ cười lạc quan chiến thắng...
"Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giác tới"
Nhịp thơ đều đều 2/2/2 - 2/2/3 cô đọng tất cả nét đẹp của những người lính. Đó cũng chính là vẻ đẹp ngời sáng trog gian khổ của người lính. Vượt lên trên tất cả, tình đồng đội, đồng chí như được sưởi ấm bằng những trái tim người lính đầy nhiệt huyết. Vẫn đứng canh giư cho bầu trời Việt Nam dù đêm đã khuya, sương đã xuống, màn đêm cũng chìm vào quên lãng. Hình ảnh người lính bỗng trở nên đẹp hơn, thơ mộng hơn. Đứng cạnh bên nhau sẵn sàng chiến đấu. Xem vào cái chân thực của cả bài thơ,câu thơ cuối cùng vẫn trở nên rất nên thơ:
" Đầu súng trăng treo"

Ánh trăng gần như gắn liền với người lính:
" Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ"
( Ánh trăng- nguyễn Duy)
Một hình ảnh nên thơ, lãng mạn nhưng cũng đậm chất chân thực, trữ tình. Một sự quyện hòa giữa không gian, thời gian,ánh trăng và người lính. Cái thực đan xen vào cái mộng, cái dũng khí chiến đấu đan xen vào tình yêu làm cho biểu tượng người lính không những chân thực mà còn rực rỡ đến lạ kì. Chất lính hòa vào chất thơ, chất trữ tình hòa vào chất Cách mạng, chất thép hòa vào chất thi ca. Độ rung động và xao xuyến của cả bài thơ có lẽ chỉ nhờ vào hình ảnh ánh trăng này. Tình đồng chí cũng thế, lan tỏa trong không gian, xoa dịu nỗi nhớ, làm vơi đi cái giá lạnh của màn đêm. người chiến sĩ như cất cao tiếng hát ngợi ca tình đồng chí. Thiêng liêng biết nhường nào, hình ảnh những người lính, những anh bộ đội cụ Hồ sát cạnh vai nhau " kề vai sát cánh" cùng chiến hào đấu tranh giành độc lập.

Quả thật, một bài thơ là một xúc cảm thiêng liêng, là một tình yêu rộng lớn, trong cái lớn lao nhất của đời người. Gặp nhau trên cungf một con đường Cách mạng, tình đồng chí như được thắt chặt hơn bằng một sợi dây yêu thương vô hình.

Bài thơ " Đồng chí" với ngôn ngữ chân thực, hình ảnh lãng mạn, nụ cười ngạo nghễ của các chiến sĩ đã lay động biết bao trái tim con người. Tình đồng chí ấy có lẽ sẽ sống mãi với quê hương, với Tổ quốc, với thế hệ hôm nay, ngày mai hay mãi mãi về sau.....
cho em hỏi,chị doigiaythuytinh hay chị quinhmei ơi,bài này là tự làm hay là sưu tầm ạ???
 
B

banhdaukute

phân tích bài thơ đồng chí nè mấy bạn cho ý kiến nha ^^




Văn nghị luận PT bài thơ 'Đồng chí" của Chính Hữu
Năm 1945, Cách mạng thành công, nước ta đã giành được độc lập. Nhưng thực dân Pháp quyết tâm cướp nước ta lần nữa một lần nữa. Hồ Chủ tịch đã ra lời kêu gọi toàn dân kháng chiến chống giặc Pháp xâm lược (1946). Nhân dân ta đã hưởng ứng lời hịch cứu nước đã tập hợp nhau lại và tình cảm mới nảy nở: tình đồng chí. Nhà thơ Chính Hữu, với sự nhạy cảm của tâm hồn nghệ sĩ đã sáng tác bài thơ “Đồng chí”(1948) để ca ngợi tình cảm tốt đẹp, cao quý của những người lính kháng chiến. Bài thơ đã được truyền tụng, được ca hát và trở thanhg một trong những bài thơ nổi tiếng nhất trong nền thơ ca hiện đại của nước nhà.

Bài thơ có kết cấu lạ. Hai chữ “Đồng chí” đứng riêng thành một dòng thơ, gần như ở giữa bài thơ, riết cái thân bài thơ thành một cái lưng ong (tác giả Chính Hữu gọi là HÌNH BÓ MẠ). Nửa trên là một mảng quy nạp (như thế là đồng chí), nửa dưới là một mảng diễn dịch (đồng chí là như thế này nữa). Một cấu trúc chính luận cho một bài thơ trữ tình không lạ lắm sao.

Chủ đề đồng chí hiện lên trên từng cấu trúc ngôn ngữ, nghĩa là trong từng tế bào thơ. Tôi với anh khi thì xếp dọc:

“Quê hương tôi nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”

Khi thì xếp ngang (đều là hàng ngũ của lính):

“Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
khi thì điệp điệp:

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu”

Súng là nét thẳng, cứng rắn (thép mà lại!), đường nét của ý chí. Đầu là nét cong (tròn), đường nét của tình cảm. Đầu cũng cứng (cứng đầu mà lại!) nhưng khi “đầu sát bên đầu” thì lại rất mềm, rất thân ái. Họ đã đến bên nhau, “súng bên súng, đầu sát bên đầu” là vì họ cùng chung lí tưởng cứu nước cao đẹp.

Đến đêm rét trùm chung một cái chăn (vì hồi đó bộ đội rất thiếu thốn) thì nhập lại thành “đồng chí”.

“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

Đồng chí!”

Cái chăn đắp lại thì tâm tư mở ra. Họ soi vào nhau. Anh hiểu tôi. Tôi hiểu đến nỗi lòng sâu kín của anh:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không, mặc gió lung lay”.

Giải thích sao đây hai chữ “mặc kệ”? Có gì giống với thái dộ này không:

“Người đi, ừ nhỉ, người đi thực

Mẹ thà coi như chiếc lá bay

Chị thà coi như là hạt bụi

Em thà coi như hơi rượu say”

(Tống biệt hành – Thâm Tâm)

Không! Nó đâu có khinh bạc và phiêu du như thế. Ở ngoài mặt trận mà biết gió lay từng gốc cột của ngôi nhà mình thì không còn chữ nào để diễn tả nổi tình cảm thiết tha của họ đối với gia đình. Nhưng trước hết phải vì nghĩa lớn. Thái độ nghĩa hiệp ấy gần giống với Hồng Nguyên (tác giả bài thơ “Nhớ” nổi tiếng), gần với Trần Mai Ninh (tác giả bài thơ Tình sông núi rất hay) trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp; gần với Lê Anh Xuân ( tác giả bài thơ Dáng đứng Việt Nam, kiệt tác), Nguyễn Mĩ (tác giả bài thơ Thưa mẹ trái tim, bi tráng và cảm động)…trong kháng chiến chống Mĩ.

“Gian nhà không mặc kệ gió lung lay”

Là nhà thơ của một tâm hồn “ hiệp sĩ” mà cũng là sử thi của một thời gian khổ và oanh liệt.

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.

Nói lên những nỗi gian khổ của cuộc kháng chiến, nhưng không phải tác giả định kể khổ mà chỉ cốt để khắc đậm thêm tình đồng chí. Không phải cái khổ mà là sự đồng khổ mới là điều đáng nói ở đây (Anh với tôi..,Áo anh…Quần tôi…). Và điều gì đã tạo ra sức mạnh như phép lạ cho những người lính vượt qua những gian truân khổ ải đó? Điều đã tạo ra sức mạnh như phép lạ đó chính là tình đồng chí. Gian khổ không làm tắt nụ cười trên môi người chiến sĩ:

“Miệng cười buốt giá”

Trong thơ kháng chiến, ta đã từng gặp những nụ cười tràn đầy lạc quan như thế:

“Lũ chúng tôi

Bọn người tứ xứ

Trời lạnh, ở rừng núi mà “chân không giày” thì tội lắm, thương lắm!Biết làm sao? Chỉ còn tình đồng chí sưởi ấm họ:

“ Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”

Nắm đôi bàn tay mà ấm cả đôi chân (không giày), chỉ có tình đồng chí mới tạo ra được phép lạ đó!

Họ hiểu nhau đến chiều sâu như thế là để nương tựa vào nahu mà đi đến chiều cao nay:

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo”

Chung nhau một cái chăn là một cặp đòng chí, “áo anh rách vai, quần tôi có vài miếng vá” là một cặp đồng chí, nắm đôi bàn tay mà ấm cả đôi bàn chân là một cặp đồng chí, và đêm nay giữa “rừng hoang sương muối”.

“Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”

là một cặp đồng chí, là đỉnh cao của tình đồng chí. Vì nếu đêm nay giữa “rừng hoang sương muối” mà anh hoặc tôi không “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới” thì mọi hành vi thân ái kia, như “chung chăn”, như áo rách quần vá, “thương nhau tay nắm lấy bàn tay” còn có ý nghĩa gì? Cau thơ này có một từ bình thường nhưng không thay thế được đó là từ”đứng”. Có một nhạc sĩ đã phổ nhạc bài thơ này và sửa lại thành “ngồi”. “Đứng” là thưòng trực chiến đấu mà ngồi là nghỉ ngơi. Với lại từ “đứng” có âm “đ” cứng, thanh trắc (dấu sắc) mạnh phô diễn được sức mạnh của tình đồng chí ở đỉnh cao.

Nói như thế, nhà thơ cảm thấy hãy còn hữu hạn nên đã chọn một biểu tượng cho cái vô cùng của tình đồng chí:
“Đầu súng trăng treo”

Lãng mạn thay, súng và trăng cũng là một cặp đồng chí! Cặp đồng chí này ( súng và trăng) nói về cặp đồng chí (tôi và anh),nói được cái cụ thể và gợi đến vô cùng. Súng và trăng, gần và xa ”Anh với tôi đôi người xa lạ, Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”. Súng và trăng, cứng rắn và dịu hiền: súng và trăng, chiến sĩ và thi sĩ; súng và trăng..là biểu hiện cao cả của tình đồng chí.

Sự kết hợp yếu tố hiện thực tươi rói với tính chất lãng mạn trong trẻo là màu sắc mới mẻ mà Chính Hữu đã sớm mang lại cho thơ ca kháng chiến, thi ca cách mạng.
 
B

banhdaukute

Phân tích bài thơ :
1) Hình ảnh những chiếc xe không kính.
Đề tài xe cộ hiếm xuất hiện trong thơ ca từ cổ chí kim. Nếu có thì đó là những chiếc xe tam mã trong thơ của us-kin một cách đầy lãng mạn. Còn với Phạm Tiến Duật lại đưa một hình ảnh thực là những chiếc xe không kính vào thơ. Với hai câu mở đầu tác giả đã giải thích nguyên nhân về việc xe không có kính " Không có kính không phải ví xe không có kính/ Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi". Hai câu thơ này có vẻ giống như văn xuôi vì từ cách đặt câu cho đến số lượng từ ngữ đều không vần. Hai câu này được viết với một giọng thản nhiên. Câu thơ thứ nhất có tới ba từ không:" Không có kính không phải vì xe không có kính" chỉ để thông báo một điều là hiện nay xe không có kính. Nguyên nhân của việc không có kính này được giải thích ngay o câu thơ thứ hai. Không có kính vì bom giật bom rung. Hai câu thơ không chỉ nhằm miêu tả một chiếc xe khác lạ mà còn diễn tả sự dữ dội của chiến tranh. Chiến tranh là bom đạn, là mất mát. Các động từ mạng giật, rung, vỡ diễn đạt sự khốc liệt của chiến tranh theo cấp số nhân.---Xe không chi không kính mà còn không có đèn. Chắc hẳn những chiếc xe chở hàng ra chiến trường không chỉ bị bom giật bom rung bởi vậy xe không chỉ không có kình mà còn không có đèn. Cuộc kháng chiến chống Mĩ thời kì đầu của đất nước ta rất ác liệt. Từ việc hành quân đến việc chở hàng, vận chuyển vũ khí đều phải tiến hành vào ban đêm. Khí thế ấy được Tô Hữu viết trong câu thơ:" Đêm đêm rầm rập như là đất rung". Chính vì thws mà việc không có đèn khiến cho việc chuyên chở bằng xe càng gian khổ hơn.--- Thế rồi bom rơi đạn lạc làm cho xe lại không có mui. Như vậy chiếc xe đã trở nên biến dạng. Xe không có kính, không có đèn, không có mui thế nhưng thùng xe thì chỉ bị xước bởi đơn giản những chiếc xe vận tải mà không có thùng xe thì không thể chở đựoc đạn dược, lương thực ra chiến trường. Bởi vậy thùng xe chỉ đựoc miêu tả là có vết xước mà thôi. Có nhà phê bình đã bình luận đây là vết xước đáng yêu chứ không phải là thủng, là không có. Có thwr nói rằng hình ảnh chiếc xe không kinh, không đèn, không mui không phải là hiếm trong chiến tranh nhưng không phải nhà thơ nào cũng nhận ra được va biến nó thành hình ảnh thơ độc đáo.

2) Hình ảnh những người lính.
So với những câu thơ viết về những chiếc xe thì số lưượng những câu thơ viết về người lính nhiều hơn nhưng hình ảnh những chiếc xe không kính đã làm nổi bật những hình ảnh của người chiến sĩ lái xe. Những chiếc xe không kinh, không đèn, không mui là hình ảnh để người lính bộc lộ những phẩm chất hiên ngang, yêu đời, tinh nghịch, giàu ý chí chiến đấu. Trước hết là tinh thần hiên ngang cho thấy thái độ coi thường hiểm nguy của người lính. Trên những chiếc xe không kính, không đèn, không mui người lính vẫn vững tay lái:" Ung dung buồng lái ta ngồi". Không chỉ hiên ngang chấp nhận khó khăn mà người lính còn hiên ngang chấp nhận nguy hiểm. Nào là gió vào xoa mắt đắng, nào là sao trời và cánh chim ùa vào buồng lái. Song những người chiến sĩ không hề run sợ mà vẫn đối mặt với những thử thách, giữ vững trận địa là buồng lái. Tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ. Vị ngữ ung dung được đảo lên đầu câu để nhấn mạnh sự tự tin, bình than của những người lính lái xe. Ngoài ra còn các điệp từ" nhìn thấy" được nhắc lại nhiều lần biểu hiện 1 nét đặc trưng của ngươif chiến sĩ, thi sĩ vừa tập trung hoàn thành nhiệm vụ vừa không quên hưống tới vẻ đẹp thiên nhiên. Thiên nhiên không phải lúc nào cũng có vẻ đẹp lãng mạn: bầu trời có sao, có cánh chim mà cón có sự khốc liệt của bụi, của gió, của mưa như là 1 sự thách thức. Không cú kính đương nhiên là có bụi, có mưa, có gió. Chỉ có điều cách diễn đạt của tác giả làm cho chúng ta thây thía độ ngang tàng, bất chấp của người lính lái xe đó là " ừ thì", là "chưa cần". Như vậy trước khó khăn gian khổ mà người lính không 1 lời kêu ca. Lời thơ lúc này nhẹ nhõm, trôi chảy, nhịp nhàng giống như hình ảnh chiếc xe bon vun vút ra chiến trường. Tâm hồn sôi nổi, tình đồng chí đồng đội sâu sắc được thể hiện qua những câu thơ khổ 3,5,6. Ta thấy những chiến sĩ lái xe là những chàng trai trẻ vui tính. Bom đạn không làm mất đi sự tinh nghịch. hóm hỉnh. Họ đã " phì phèo châm điếu thuốc/ Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha". Tiếng cười của những chàng trai như 1 khúc nhạn vui xua đi khó khăn, gian khổ và giựo cảm giác nhẹ nhõm, thanh thản. Họ hồn nhiên tếu táo nhưng ho cũng thậy đoàn kết. Càng khó khăn gian khổi họ càng gắn bó keo sơn. Không chỉ chia nhau từng điếu thuốc mà trong bom đạn nguy hiểm những người lính lái những chiếc xe không kình đã tụ hopk lại thành 1 tiểu đội. Tiếu đội này không phải là tiểu đội 1 hay tiểu đội 2 mà là tiểu đội xe không kính. Nếu trong bài thơ đồng chí những người lính thương nhau tay nắm lấy bàn tay thù những người lính trong bài thơ này bắt tay qua cửa kính vỡ rồi. 1 cái bắt tay qua cửa kính đã vỡ không chỉ là 1 chút đùa vui mà còn đủ làm ấm lòng, đủ động viên nhau. Cái bắt tay giúp con người xít lại gần nhau trong nhiều cái chung: chung hoàn cảnh, chung bếp lửa, chung bát đũa và nhất là chung con đường nơi vô vàn thách thức hiểm nguy phía trước. Ta thấy dù trong khoảng khắc nào của cuộc hành quân những người lính cũng luôn dộng viên, cháo hỏi nhau. Trên dường đi họ bắt tay nhau qua cửa kính, lúc nghỉ cùng nhau châm điếu thuốc, đén bữa chung bát đũa. Tất cả nhận nhau là người cùng 1 gia đình, để rồi họ lại cùng nhau lên đường:" lại đi lại đi trời xanh thêm". Câu thơ này không chỉ chan chứa hy vọng về 1 tương lai tốt đẹp đang tới gần mà còn thể hiện tinh thần lạc quan của người lính. Một số biện pháp tu từ trong bài thơ như: đảo vị trí các từ trong cụm từ ( phì phèo châm điếu thuốc), hoán dụ ( Những chiến xe từ trong bom rơi/ Đã về đây họp thành tiểu đội), điệp ngữ ( lại đi lại đi) đã góp phần khảng định vẻ đẹp tâm hồn của những người lính trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Ngoài ra họ còn là những con người có ý chí chiến đấu để giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Cúng với những người lính, những chiến xe chở hàng ra chiến trường trải qua mưa bom bão đạn không có kính rồi không có đèn rồi thùng xe có xứôc. Chỉ trong 2 câu thơi mà điệp từ không đưộc nhắc lại 3 lần, 1 mặt để nhấn mạnh sự khó khăn, mức độ ác liệt của chiên trường, mặt khác lại khảng định quyết tâm của những người lính. Xe dù không có kính, dù không có đèn thì xe vẫn bon ra chiến trường. Bom đạn quân thù có thể làm biến dạng xe nhưng không thể đè bẹp được tinh thần chiến đấu của những người lính lái xe. Xe chạy không chỉ vì có 1 động cơ máy móc mà còn có 1 động cơ tinh thần " vì miên Nam phía trước". Đối lập với tất cả những cái không có ở trên là 1 cái có dó là trài tim. là sức manhj tinh thần đã giuúp người lính chiến thắng bom đạn kẻ thù. Trái tim ấy đã thay thế cho tất cả những thiếu thốn: không kính, không đèn, không mui để tiến lên phía trưốc cho miền Nam thân yêu. Hầu như trong tất cả những bài thơ đều có 1 từ quan trọng neu lên chủ đề bài thơ gọi là nhãn tự của bài thơ. Trong bài thơ này từ trái tim cũng được coi là nhãn tự của bài thơ. Tử này hội tụ vẻ đẹp, sức mạnh của người lính. Như vậy trái tim người lính là sức mạnh tinh thân tỏa sáng rực rỡ cho người lính thêm sức mạnh để hướng tới miền Nam. ( HẾT).
 
B

banhdaukute

phân tích bài thơ đoàn thuyền đánh cá nè mấy bạn tham khão nha ^^


Bài thơ 7 khổ được viết với giọng vui,
phấn chấn nhịp vừa phải. Bài thơ được bố
cục theo hành trình một chuyến ra khơi của
đoàn thuyền đánh cá. Có thể chia bố cục bài thơ
thành ba phần:
Hai khổ đầu: cảnh lên đường và tâm trạng náo nức
của con người.
Bốn khổ tiếp: cảnh Hoạt động của đoàn thuyền
đánh cá giữa khung cảnh biển trời ban đêm.
Khổ cuối: cảnh đoàn thuyền trở về trong
cảnh bình minh lên.


Có thể tìm hiểu bài thơ theo bố cục hoặc theo
hệ thống hình ảnh thiên nhiên, con người dọc
cả bài thơ.


Với bố cục như trên, bài thơ Đoàn thuyền đánh cá đã
tạo ra một khung cảnh không gian và thời gian rất
đáng chú ý: không gian rộng lớn bao la với mặt trời,
biển, trăng, sao, mây, gió; thời gian là nhịp tuần hoàn
của vũ trụ từ lúc hoàng hôn đến bình minh, cũng là
thời gian của một chuyến ra biển rồi trở về của đoàn
thuyền đánh cá: mặt trời xuống biển, cả trời đất vào
đêm, trăng lên cao, đêm thở, sao lùa. rồi sao mờ,
mặt trời đội biển nhô lên trong một ngày mới. Điểm
nhịp thời gian cho công việc của đoàn thuyền đánh
cá là nhịp tuần hoàn của thiên nhiên,
vũ trụ.
1, Hình ảnh thơ về thiên nhiên
Bài thơ là những bức tranh đẹp, rộng lớn,
lộng lẫy, kế tiếp nhau về thiên nhiên
vùng biển.
a, Cảnh biển vào đêm

Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa

Trong hình ảnh liên tưởng này, vũ trụ như một ngôi nhà lớn, với
đêm buông xuống là tấm cửa khổng lồ, những lượn sóng là then
cửa. Chi tiết Mặt trời xuống biển có thể gây ra sự thắc mắc của
người đọc vì bài thơ tả cảnh đoàn thuyền đánh cá ở vùng biển
miền Bắc, mà ở bờ biển nước ta, trừ vùng Tây Nam thường chỉ
thấy cảnh mặt trời mọc trên biển chứ không thể thấy cảnh mặt
trời lặn xuống biển. Thực ra hình ảnh mặt trời xuống biển là
được nhìn từ trên con thuyền đang ra biển hoặc từ một hòn đảo
vào lúc hoàng hôn, nhìn về phía tây, qua một khoảng biển thì
vẫn có thể thấy như là mặt trời xuống biển.
b, Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển

Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Những câu thơ miêu tả cảnh đánh cá trên biển?


Cảm hứng lãng mạn đã giúp nhà thơ phát hiện những
vẻ đẹp của cảnh đánh cá giữa biển đêm, trong niềm
vui phơi phới, khỏe khoắn của người lao động làm
chủ công việc của mình.
con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao la
đã trở thành con thuyền kì vĩ, khổng lồ, hòa nhập với
kích thước rộng lớn của thiên nhiên, vũ trụ. Lãng
mạn hơn, công việc lao động nặng nhọc của người
đánh cá đã thành bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng
cùng thiên nhiên.

2, Hình ảnh con người lao động
Thơ Huy Cận trước CM thường thiên về thiên nhiên kì vĩ,
là một thứ không gian bao la, rộng lớn đối lập với sự nhỏ
bé đơn côi của con người.
Sau CM, hình ảnh thơ của Huy Cận có sự đổi mới.Thiên
nhiên như một người bạn đồng hành, nâng cao, làm nổi
bật vẻ đẹp và sức mạnh của con người trong sự hài hòa
đẹp đẽ với khung cảnh thiên nhiên.
c, Vẻ đẹp của các loài cá trên b iển

Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
- Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Những hình ảnh này có vẻ đẹp của tranh sơn mài lung linh, huyền ảo, được sáng tạo bằng liên tưởng, tưởng tượng bay bổng từ sự quan sát hiện thực. ở đây trí tưởng tượng đã nối dài, chắp cánh cho hiện thực trở nên kì ảo, làm giảu thêm cái đẹp vốn có trong tự nhiên,
Bài thơ là sự kết hợp hai nguồn cảm hứng: về
lao động và về thiên nhiên vũ trụ. Hình ảnh
người lao động và công việc của họ được đặt
vào không gian rộng lớn của biển trời, trăng
sao, để làm tăng thêm kích thước, tầm vóc và
vị thế con người. Thủ pháp phóng cùng với
những liên tưởng nạnh bạo bất ngờ đã tạo nên
hình ảnh người lao động khỏe khoắn biết bao!
Câu hát căng buồm với gió khơi
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời



Sự hài hòa giữa con người lao động và thiên nhiên,
vũ trụ còn thể hiện giữa nhịp điệu vận hành của vũ
trụ và trình tự công việc lao động của đoàn thuyền
đánh cá. Khi mặt trời xuống biển, vũ trụ vào đêm
cũng là lúc khởi đầu một chuyến ra khơi của đoàn
thuyền đánh cá - một công việc quen thuộc, đều
đặn thường ngày. Con thuyền ra khơi có gió làm lái
trăng làm buồm, gõ thuyền đuổi cá vào lưới cũng
theo nhịp trăng, sao. Đến lúc sao mờ, tức là đêm
sắp tàn thì cũng là lúc kéo lưới kịp trời sáng. Bình
minh lên, mặt trời đội biển cũng là lúc đoàn thuyền
trở về, nặng khoang cá đầy mà lướt đi
phơi phới như chạy đua
cùng mặt trời.
III, Kết luận chung
Về âm hưởng, giọng điệu của bài thơ


Bài thơ tạo được âm hưởng vừa khỏe khoắn sôi nổi lại
vừa phơi phới, bay bổng. Góp phần tạo nên âm hưởng
ấy là các yếu tố lời thơ, nhịp điệu, vần. Lời thơ dõng
dạc, điệu thơ như khúc hát say mê, hào hứng, phơi phới
(4 lần điệp từ "hát"). Cách gieo vần trong bài thơ biến
hóa, linh hoạt, các vần trắc xen lẫn vần bằng, vần liền
xen với vần cách. Các vần trắc tạo sức dội, sức mạnh,
các vần bằng tạo sự vang xa, bay bổng, tạo nên những
vần thơ khoáng đạt, kì vĩ, phơi
phới niềm vui.

Bài thơ là những bức tranh đẹp, rộng lớn
kế tiếp nhau về hình ảnh thiên nhiên và
đoàn thuyền đánh cá. Thiên nhiên như
một người bạn thân thiết, đồng hành
cùng cuốc sống của con người.
Hình ảnh người lao động trong bài thơ
được sáng tạo với cảm hứng lãng mạn,
thể hiện niềm tin, niềm vui trước cuộc
sống mới. Đoàn thuyền đánh cá là một
bài thơ hay, thể hiện rõ nét sự thay đổi
của hồn thơ Huy Cận
sau Cách Mạng.

Đoàn thuyền đánh cá - bức tranh biển đêm tuyệt đẹp

Có một không gian tưởng như thật buồn, mà trở nên tươi đẹp hoành tráng, tràn đầy sự sống. Đó là không gian biển đêm trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận. Có bao nhà thơ viết về biển, nhưng có lẽ chưa ai có bức tranh biển đẹp như trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá. Không gian trong lòng biển luôn biến ảo sinh động, nhà thơ hình dung nước biển như những sợi tơ xanh mềm buông rũ. Những con cá thu như con thoi bạc qua lại đi về trong vùng tơ xanh ấy. Rồi nhà thơ lại thấy nước biển sóng sánh vàng như màu trăng. Đàn cá đủ loại bơi lội trong nước trăng vàng. Nhà thơ liệt kê "cá nhụ, cá chim cùng cá đé", chỉ miêu tả hai chi tiết làm cho bức tranh như sống hẳn dậy, có linh hồn: "Cá song lấp lánh đuốc đen hồng" và "cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe". Cái đuôi cá quẫy nước, làm tung lên những giọt nước lóe sáng màu trăng giống như người họa sĩ vẩy ngọn bút tài hoa bay bướm để lại một vùng bụi trăng lóe sáng trên mặt nước bằng phẳng. Rồi mặt biển như trở lại yên bình, có thể nhìn thấy những bóng sao trong đáy nước. Biển xao động, bóng sao trong nước chênh chao, lòa nhòa "Đêm thở sao lùa nước Hạ Long".

Trên mặt biển đẹp như tranh ấy, đoàn thuyền lấy gió làm sức, lấy trăng làm buồm, không phải đi trên mặt biển mà như bay trong không gian bát ngát "lướt giữa mây cao với biển bằng" thật hùng vĩ.

Thời gian trên biển là cả thời gian lao động không ngừng suy nghĩ, tính toán "dò bụng biển", tổ chức đánh bắt cá "dàn đan thế trận", gõ thuyền đuổi cá vào lưới…. Thu hoạch cá "Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng". Là một hình ảnh thơ đẹp vừa diễn tả sự bội thu của quá trình đánh bắt cá, nỗi khó nhọc của quá trình lao động mà còn như tạo hình khắc chạm đôi tay chắc khỏe của những người thợ biển. Là quá trình lao động có suy nghĩ, chủ ý của những người lao động mới. Con người gắn với thiên nhiên đẹp và hùng vĩ dường như trở nên đẹp và hùng vĩ hơn.

Đoàn thuyền trở về trong một vũ trụ mới. Một rạng đông, một bình minh, một buổi sáng đang lên từ chân trời hay đâu trong đoàn thuyền kia, nơi những con cá "Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông". Trong không gian mới mẻ, huy hoàng, mặt trời như mang cánh thời gian bay đi "Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời", vũ trụ đang chuyển động trong sức người và tạo hóa. Có thể nói Huy Cận đã lấy tình yêu của mình đối với cuộc sống mới của nhân dân khám phá ra vẻ đẹp hùng vĩ. Thay vào không gian vũ trụ buồn hiu hắt của thơ ông trước cách mạng tháng Tám.
 
D

doigiaythuytinh

cho em hỏi,chị doigiaythuytinh hay chị quinhmei ơi,bài này là tự làm hay là sưu tầm ạ???

Bài này mình sưu tầm đấy.
Mình nghĩ bạn nên thêm nhiều ý vào phần mở bài và kết bài
Còn phần thân bài thì mình nghĩ cũng tương đối
 
S

sayura

có ai có bài nói với con ko vậy
sắp thi rồi mình dang cần gấp
mọi ng` giúp nha!
 
I

iloveg8

"MÌNH vừa sưu tầm đc một ít, các bạn có thể tham khảo"
Cảm nhận tình cha con trong bài thơ "Nói với con" của Y Phương
DÀN BÀI GỢI Ý
A. Mở bài
- Giới thiệu Y Phương : nhà thơ dân tộc Tày, góp vào thơ Việt Nam một giọng thơ lạ, đậm chất miền núi, lối tư duy bằng hình ảnh.
- "Nói với con" là thi phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ của Y Phương.
- Khái quát bài thơ : Bài thơ có hai mươi tám dòng với những câu thơ dài ngắn đan xen nhau tạo sự linh hoạt về nhịp điệu , thể hiện thế giới tình cảm muôn màu , muôn điệu của người miền núi.Bài thơ là khúc tâm tình của một người cha dành cho con, cho bản làng quê hương.....
B. Thân bài
1. Đoạn thơ thứ nhất
NIỀM HÂN HOAN CỦA CHA MẸ KHI ĐÓN NHẬN NHỮNG BƯỚC CHÂN ĐẦU ĐỜI CỦA CON . TỪ ĐÓ NGƯỜI CHA TRAO CHO CON BÀI HỌC LÀM NGƯỜI ĐẦU TIÊN - BÀI HỌC VỀ NGUỒN CỘI .
- Bằng cách sử dụng những hình ảnh mộc mạc "chân phải, chân trái", cụ thể "một bước, hai bước" và giọng điệu thiết tha, lời thơ mở đầu gợi không khí gia đình đầm ấm :
"Chân phải bứơc tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười."
-> Đoạn thơ vẽ lên một hình ảnh thật cảm động, đứa bé đang chập chững bước đi trong sự chờ đón hân hoan của mẹ cha. Thế là sau bao ngày đợi mong, cuối cùng con cũng đã bước đi trên chính đôi chân của mình, đó cũng là bước đầu tiên con khẳng định được mình.Có niềm vui nào hơn đối với cha mẹ lúc này ....
- Chân phải con bước tới cha, được cha truyền cho sức mạnh , niềm tin. Để mai này, bàn chân con mạnh mẽ vượt suối băng rừng. Chân trái con bước đến mẹ, mẹ là nguồn suối mát dịu êm sẽ ban cho con lòng nhân hậu , để mai con khôn lớn trưởng thành một người Tày biết gìn giữ quê hương.Các động từ "chạm", "tới" diễn tả được sự ấm áp, chở che .
-> Bàn chân con tiến về phía cha , được cha đón ; hứơng về mẹ, được mẹ nâng. Vây bọc quanh con là tình yêu thương của mẹ cha. Mái nhà sàn đơn sơ tràn ngập tiếng nói, tiếng cười, còn hạnh phúc nào hơn .
- Trong niềm vui, niềm hạnh phúc đó, người cha trao cho con bài học làm người đầu tiên dẫu con còn bế trên tay, còn nằm trong nôi. Rằng :
"Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát"
* Ba chữ "người đồng mình" cất lên thiết tha trìu mến để gọi những người cùng chung quê hương bản quán. Đây cũng là sự sáng tạo trong ngôn ngữ của Y Phương.Bao nhiêu cảm xúc chất chứa trong từ "yêu", yêu mến và quí trọng người đồng mình; người cha muốn truyền cho con tình yêu ấy qua lời gọi "con ơi".
* Vẫn cách nói bằng hình ảnh, cuộc sống người đồng mình được gợi một cách rõ nét "Đan lờ cài nan hoa". Đó là cuộc sống nhọc nhằn, mặn mồ hôi, kiếm sống còn khó khăn vất vả. Nhưng tuyệt vời thay, "người đồng mình" vẫn rất lạc quan và yêu cuộc sống của mình bằng tình yêu đơn sơ mộc mạc. Dưới bàn tay khéo léo, óc thẩm mĩ của họ , những chiếc lờ dùng bắt cá đơn sơ cũng trở nên tinh xảo với những hoa văn mang dấu ấn vùng miền.Chính tình yêu cuộc sống mà "Vách nhà ken câu hát". Dù khó khăn trong đời sống thường nhật, điệu hát "then", hát "lượn" vẫn bay lên từ mái nhà sàn, trên thang gác, bên bờ suối...hoà cùng tiếng khèn, tiếng sáo vấn vương mời gọi trong những đêm trăng, đêm xuân....
=> Nhà thơ Y Phương đã khéo léo thổi hồn văn hoá dân tộc mình vào những câu thơ mộc mạc như thế.Chính từ đó, người cha muốn con nhận thức rằng :Con không chỉ lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ mà còn sẽ trưởng thành trong cuộc sống lao động , trong cái nôi văn hoá của "ngừoi đồng mình".
- "Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng"
Vì yêu con, người cha mong muốn con tiếp nhận đầy đủ những điều tốt đẹp nhất từ cái nơi con sinh ra và sẽ lớn lên. Người cha tiếp tục "nói với con" rằng : Rừng núi thiên nhiên với vô vàn sắc hoa sẽ nuôi dưỡng tâm hồn con, đi bất kì đâu con cũng được đón nhận bằng những tấm lòng đôn hậu chở che không chỉ của buôn làng mà cả núi rừng thơ mộng nghĩa tình. Nhân hoá "rừng" và "con đường", nhằm diễn tả sự hào phóng , bao dung của con người và thiên nhiên vùng Cao Bằng .
- Kết thúc đoạn thơ thứ nhất là hai câu thơ tưởng chừng như lạc mạch cảm xúc nhưng thực ra ý nhị vô cùng, sâu sắc vô cùng :
"Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời."
Đúc kết tình yêu thương con bằng cách nhắc con về cội nguồn sinh dưỡng, nơi mà mầm sống con được bắt đầu, nơi cho con sự sống, cho con tình yêu....
2 Đoạn thơ thứ hai ( sẽ gởi sau)
 
S

sayura

cũg đựoc nhưng nếu chi tiết hơn thì càng tốt
post fần hai đi bạn , càng nhanh càng tốt
rồi cảm ơn luôn thể ^^!:khi (195):
 
Last edited by a moderator:
T

tonghia

Đề: Phân tích khổ thơ sau trong bài Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lười vây giang.

Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em vẫy trăng vàng choé.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.

Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyển đã có nhịp trăng cao
Biên cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.​

Viết khôgn quá 1 trang giấy thi
 
R

ruoi_vip

Dàn ý bài "Đoàn Thuyền Đánh Cá"
I - MB:
-Huy Cận, nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ mới sau CMT8, ông tiếp tục sáng tác và giữ nhiều trọng trách trong chính quyền CM
-Giữa năm 1958 sau chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Quảng Ninh, hồn thơ Huy Cận mới thực sự nảy nở trở lại & dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động & niềm vui trước cuộc sống mới. Đoàn thuyền đánh cá được ra đời trong khoảng thời gian ấy.
II- Thân bài
-Cũng vẫn là tiếng hát, khổ thơ tiếp theo đã làm bật lên được niềm lạc quan , sự tin tưởng đầy phấn chấn của đoàn thuyền đánh cá. Lời hát ấy là niềm mơ ước mong gặt hái được những thành quả lao động tốt đẹp, là mơ ước thuận buồm xuôi gió, là vẻ đẹp cuộc sống
-Bằng cảm hứng lãng mạn, tác giả đã phát hiện những vẻ đẹp of cảnh đánh cá giữa biển đêm trong niềm vui fơi fới, khỏe khoắn.
-Bằng sức tưởng tượng fong fú, sáng tạo nên những hình ảnh thật đẹ
"Thuyền ta lái gió với buồm trăng..................
..........biển bằng"
--> con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao la đã trở tàánh con thuyền kì vĩ, khổng lồ, hòa nhập vào thiên nhiên, vũ trụ rộng lớn.
-Còn con người đánh bắt cá trở nên mạnh mẽ, cao lớn, ngang tầm vũ trụ có thể khai thác, chế ngự thiên nhiên.
Bút pháp lãng mạn của nhà thơ kết hợp với biện pháp liệt kệ, nhân hóa đã trở nên 1 bức tranh sơn mài lung linh huyền ảo. Cảnh biển đêm kì ảo huyền bí......
Cũng từ cảm hứng bay bổng, lẵng mạn, nhà thơ cảm nhận công việccủa đoàn thuyền đánh cá
-Hình ảnh so sánh biển .... buổi nào
 
T

tonghia

Dàn ý bài "Đoàn Thuyền Đánh Cá"
I - MB:
-Huy Cận, nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ mới sau CMT8, ông tiếp tục sáng tác và giữ nhiều trọng trách trong chính quyền CM
-Giữa năm 1958 sau chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Quảng Ninh, hồn thơ Huy Cận mới thực sự nảy nở trở lại & dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động & niềm vui trước cuộc sống mới. Đoàn thuyền đánh cá được ra đời trong khoảng thời gian ấy.
II- Thân bài
-Cũng vẫn là tiếng hát, khổ thơ tiếp theo đã làm bật lên được niềm lạc quan , sự tin tưởng đầy phấn chấn của đoàn thuyền đánh cá. Lời hát ấy là niềm mơ ước mong gặt hái được những thành quả lao động tốt đẹp, là mơ ước thuận buồm xuôi gió, là vẻ đẹp cuộc sống
-Bằng cảm hứng lãng mạn, tác giả đã phát hiện những vẻ đẹp of cảnh đánh cá giữa biển đêm trong niềm vui fơi fới, khỏe khoắn.
-Bằng sức tưởng tượng fong fú, sáng tạo nên những hình ảnh thật đẹ
"Thuyền ta lái gió với buồm trăng..................
..........biển bằng"
--> con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao la đã trở tàánh con thuyền kì vĩ, khổng lồ, hòa nhập vào thiên nhiên, vũ trụ rộng lớn.
-Còn con người đánh bắt cá trở nên mạnh mẽ, cao lớn, ngang tầm vũ trụ có thể khai thác, chế ngự thiên nhiên.
Bút pháp lãng mạn của nhà thơ kết hợp với biện pháp liệt kệ, nhân hóa đã trở nên 1 bức tranh sơn mài lung linh huyền ảo. Cảnh biển đêm kì ảo huyền bí......
Cũng từ cảm hứng bay bổng, lẵng mạn, nhà thơ cảm nhận công việccủa đoàn thuyền đánh cá
-Hình ảnh so sánh biển .... buổi nào

bạn nào vào làm thêm khúc sau này đi... bị cụt rùi :eek:
 
S

sayura

cgắc là chưa nghĩ ra khúc sau
các bạn tìm ở mấy trang trứoc ấy , có phân tích bài đoàn thuyền dánh cá đấy , minh cũng vừa xem xong mà
 
D

doigiaythuytinh

[COLOR="Red"]Mình cũng có dàn ý phân tích baì Nói với con ne` ( bài mình tự làm). bạn xem thử thế nào
1. Mở bài:
- y Phuơng là người dân tộc tày tỉnh cao bằng. Thơ ông thể hiệntâm hồn chân thật, mạnh mẽ avf trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của ocn người miền núi.
- Tác phẩm “ Nói với con” được trích từ tậpt hơ Việt năm 1945-1985
- Lời thơ giàu hình ảnh, gợi cảm
- Thể hiện tình cảm thắm thiết của cha mẹ đv con cái, tìng yêu quê hương sâu nặng, cùng niềm tự hào với sức sống bền bỉ, mạnh mẽ cảu quê hương
2. Thân bài:
-Bài thơ có 28 câu thơ tự do, câu nagứn nhất 2 chứ, câu dài nhất 10 chữ, phần nhiều là những câu thơ 4, 5chữ, lại có câu thơ cất lên như một khẩu ngữ, nhưng rất đậm đà, thấm đẫm tình cha và lời thơ có cáhc biểu cảm chân tình, mộc mạc.
-Mởđầu bài thơ là một khung cảnh ấm áp của một gia đình hạnh phúc tràn đầy niềm vui và tiếng cười:
“ Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười”
- Hiện lên trước mắt ta là khung cảnh một gai đình hạnh phúc với đứa con thơ và đôi vợ chồng trẻ
- Một em bs đang chập chứng tập đi, đang bi bô tập nói. Lúc thì sad vào lòng mẹ, khi lại níu lấy tay cha. Khổ thơ từ “bước” được nhắc lại nhiều lần, hình thức điệp ngữ nhue thể nhấn mạnhvà làm nổi bật vì bức tranh của một gia đình hạnh phúc: dôi vợ chồng trẻ và đứa con thơ đầu lòng
- Trabf ngập những vần thơ là niềm tình yêu thương con là niềm tự hòa với quê hương, xứ sở:
“ Người đồng mình…….tấm lòng”
- “ Đan lờ” đề đánh cá, đó là dụng cụ của người dân miền núi. Dưới bàn tay khéo léo, cần mẫn cảu người tày, những nan nứa, nan trúc đã trở thành “nan hoa”; vách nhà không chỉ ken bằng gỗ mà còn đc ken bằng “câu hát”; rừng đau chỉ cho nhiều khoáng sản, gỗ quí mà còn “ cho hoa”; con đường đauc hỉ đi ngược về xuôi , lên non xuống bê rmà con “ cho những tấm lòng” nhân hậu bao dung, đó là con đường quê hương tình nghĩa . Tất cả nhưngc điều đó là những hình ảnhđẹp, con trưởng thành trong cuộc sống lao động vui tươi, trong nghĩa tình của quê hương gắn bó.
- Sung sướng ôm con thơ vào lòng, nhìn con khôn lớn, suy ngẫm vê ftình nghĩa làng bản quê nhà, nhà thơ nghĩ về cội nguôn fhạnh phúc:
“ Cha mẹ mãi nhớ vê ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹo nhất trên đời”
-Trong bao khó khăn, gian khổ, thử thách, bao niểm vui, nỗi buồn của cuộc đời, trải dài thoe năm tháng, bà con quê hương “ người đông mình” đã rèn luyện hun đúc ý chí:
“ Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn”
-Câu thơ có 4 chữ đúc kết một thái độ , một phương châm ứng xử cao quí. Các từ” cao đo”, “xa nuôi” đẽ thê rhiện một bản lĩnh sống đpẹ cảu dân tộc tày, cảu con người VN
- Cha nói với con cũng là khuyên con bài học đạo lsi làm người. Quê hương sau những năm chiến tranh chưa giàu đẹp nên con phải biết gắn bó với quê hương, phải lao động siêng năng , cần cù, sáng tạo để xây dựng, đề” kê cao quê hương”
“ Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đoi
Sống như sông như suôi
Lên thác xuống ghènh không lo cực nhọc”
-Đọan thơ sử dụng nhiều hìnhảnh ss, ẩn dụ , những thành ngữ dân gian, điệp ngư “ sống” ba lần vang lên kahửng định một tâm thế, một bản lĩnh, một dáng đứng, điều mà cha “vẫn muốn”, vẫn mong, vẫn hy vọng ở con
- Để phản ánh bản chất giản dị, mộc mạc của người dân quê chan lấm tay bùn quanh năm. Với cách nói cụ thể, hình ảnh giản dị, tác gải đã khẳng định avf ca ngợi tinh thần cần cù, chịu khó tỏng lao động, sống giản dị, chất phác, thật thà:
“ Người đồng mình tuy thô sơ da thit
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đã kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”
- Lời cuôí “Nói với con” càng trở nên tha thiết. Cha nhăc con khi lên đường không bao giờ đc sống tầm thường, sống nhỏ bé trước thiên hạ. Phải biết giữ lấy cốt cách giản dị, mộc mạc của người dân lao động:
“ Con ơi
Tuy thô sơ da thit
Lên đưong
Không bào giờ nhỏ bé đc
Nghe con”
- Gợi lên trước mắt ta là một không khí gia đình ấm áp, tình cha con. Chính lưói khuyên cảu cha là 1 niềm tin, một hành trang vững chắc để con bc vào đời
3. Kết bài:
- Bài thơ có bố cục chặt chẽ, cách dẫn dắt lời tự nhiên, nhân đề bài thơ bình dị, lưòi thơ và chất thơ rất hồn nhiên đã cho người đọc cảm nhận đc tình cảm cha con thật thắm thiết, sâu đậm và đặc biệt là niềm tự hào đv truyền thống cảu quê hương
- Nâng nội dung bài thơ lên ýnghĩa khái quát
[/COLOR]
 
Last edited by a moderator:
Top Bottom