Phân tích một số tác phẩm [st]

C

congchualolem_b

“Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao”
Đó là tâm trạng của những ai xa quê. Trong mỗi khoảng trống tình cảm được chứa đâyd của con người, bao giờ quê hương cũng chiếm một phần quan trọng nhất. tình cảm thiêng ấy vun đắp từ những cái bình thường quen thuộc, tưởng rằng sẽ bị lãng quên và trong mỗi trái tim tha thiết của mỗi người xa quê đó, quê hương được gĩ gìn với nhưngc kỉ niệm khác nhau, nhưng rieng bằng việt hình ảnh bếp lửa vẫn luôn cháy sang trong lòng ông cùng với những kỉ niệm không thể quên bên người bà yêu dấu.
Bài thơ bếp lửa đã được bằng việt nhóm lên hơi ấm làm xao xuyến biết bao tâm hồn của hang triệu trái tim. Bài thơ là cả một hồi ức kỉ niệm hiện lên về trong tâm trí tác giả, suốt những năm tháng cùng bà vất vả và gắn bó bên nhau. Trong hoàn cảnh bố mẹ đi kháng chiến xa, tuổi thơ sống cùng bà, mỗi ngày mới của tác giả đều bắt đầu từ ngọn lửa bà nhen. Ngọn lửa ấy đã nhóm lên tình yêu, niềm tin và sự sống từ những thương yêu trong sự tần tảo, nhọc nhằn của bà. Đối với bằng việt mỗi bếp lửa bà nhen lên đều là cả một sự ấp ui nồng đượm.
“một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp ui nồng đượm”
Tình bà cháu thắm thiệt và tuyệt đẹp. những cảm xúc về tình bà cháu ấu đã đi và thấm sâu vào hồn người. rrồi những ngàu đói khổ mòn mỗi bố thì đi đánh xe khô rạc ngựa gầy và đứa cháu nhỏ bé ấy vẫn còn thấy cay sống mũi. “ nghĩ lại sống mũi vẫn còn cay”. Những kỉ niệm ấy vẫn êm đềm trôi mãi, trôi mãi trôi theo cái dai dẳng của nỗi nhớ mong về người bà yêu dấu. bà chăm lo cho cháu, bà dạy cháu làm bà chăm cháu học những vất vả bà đều chịu đựng, bà thật không khác gì một bà tiên hiền từ luôn ban phép màu của niềm yêu thương, hạnh phúc trong nhưngc câu chuyện xa xưa. Với bằng việt bà giống nư ngọn lửa sưởi ấm cho cháu lúc trời trở lạnh, là cây quạt lúc trời gắt nắng, là ánh cửa mở ra tương lai, một chân trời mới, rồi năm nọ giạc đốt làng cháy rụi, vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh, cho thấy bà cau cả và lúc nào cũng che chở tận tụy vì cháu nhỏ. Và bằng việt là ngọn lử chứa niềm tin dai dẳng, một ngọn lửa lòng bà luô ủ sẳn. tấm lòng của bà, tình thương của bà sang bừng từ ngọn lửa ấy. thức khuya, đậy sớm đã là một thói quen trong đời bà. Bà dậy sớm nhóm nồi xôi gạo, nhóm lên cả những tâm tình tuổi nhỏ và hoảng hốt trước những điều kì diệu, tác giả đã thốt lên: “ ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa”! và tất cả những đều đó, đều được nhóm lửa lên từ bếp lửa của bà. Không bà còn âm thầm và rất mãnh liệt. bếp lửa bà nhóm đã tạo nên một ngọn lửa của niềm tin, của tâm hồn dân tộc thật đẹp đẽ và thấm đượm. với tác giả tình cảm gia đình chan hào thấm sâu với tình yêu quê hương đất nước. tiếng tu hú, bếp lửa chờn vờn sương sớm, vị ngọn của khoai sắn của nồi xôi gạo, những hương vị âm thanh đó chính là hồn qur, là tình non nước, mà khi đi xa ông mới thấy lòng mình da diết nhớ. Khi đã lớn khôn, khi đúa cháu nhỏ ấu đã biết ngọn khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngã nhưng chảng bao giờ cháu quên “ sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?” đó chính là những kỉ niệm bên bà, qua những năm tháng ấu thơ của tác giả “ bếp lửa” đã gửi gắm đến chúng ta những tầm tình của tuồi thơ, những nổi nhớ nhung tha thiết đã làm cho tâm hồn mỗi người chúng ta bị rung động và bang khuâng. Vì vậy hỹa kính yêu những au đã nuôi dưỡng chúng ta, những ai đã vất vả để chúng ta thành người, đó chính là ông bà hay cha mẹ của chúng ta. Hãy yêu thương gia đình để một ngày nào đó, nếu mỗi chũng ta có xa quê thì cũng còn lại những kỉ niệm tuyệt đẹp bên người mẹ hiền hay người bà yêu dấu. và cũng đừng bao giờ quên quê hương nơi đã nuôi cho tâm hồn chúng ta những ting cảm tha thiết và thiêng liêng nhất.


==>bài này mình tự làm nhờ mấy bạn góp ý

Bn thân mến, tớ có 1 số nhận xét về bài viết của bn thế này,thứ nhất cách mở bài và dẫn dắt vào bài thơ của bn khá hay và ấn tượng tuy nhiên mình nghĩ nếu bn dùng từ “khoảng trống tình cảm” k hợp lí,bởi tình cảm trong lòng thì k có khỏang trống và chỉ có góc nhỏ thiêng liêng thôi, mỗi trái tim có nhiều góc và nhiều khía cạnh ,mỗi cạnh lại đc dành cho mỗi ng và mỗi sự vật mình yêu quý.Thứ 2
“Bài thơ bếp lửa đã được bằng việt nhóm lên hơi ấm làm xao xuyến biết bao tâm hồn của hang triệu trái tim”bài thơ thì k thể đc nhóm lên đc bn àh, dùng từ sai rồi, bn có thể nói “bài thơ Bếp lửa của nhà thơ Bằng Việt đã làm ấm lògn bao thế hệ những ng xa quê” , chính nội dung và ý nghĩa của bài thơ làm ng ta nhớ nhà hơn và làm lòng ng xao xuyến chứ bản thân bài thơ k thể đc “ai đó nhóm lên” mà do đầu óc và con tim làm nên, nó k nhóm mà chỉ đc sáng tác thôi. Thứ 3
“Những kỉ niệm ấy vẫn êm đềm trôi mãi, trôi mãi trôi theo cái dai dẳng của nỗi nhớ mong về người bà yêu dấu”,kỉ niệm k trôi mà chỉ có thời gian trôi, kỉ niệm nằm lại trong lòng ng và ngày qua ngày nó lại ấp ủ ,làm dâng thêm niềm thương nỗi nhớ, chính những kỉ niệm là niềm an ủi và là niềm vui mỗi khi nhớ về quê cha đất tổ.Thứ 4 “Với bằng việt bà giống nư ngọn lửa sưởi ấm cho cháu lúc trời trở lạnh, là cây quạt lúc trời gắt nắng, là ánh cửa mở ra tương lai, một chân trời mới” việc bn nói bà là cây quạt lúc trời nắng gắt ,là ánh mở cửa tương lai,một chân trời mới k đi liền với nội dung bài thơ, k tạo nên sự logic trong bài văn, rõ ràng bài của bn và cái mà bài thơ thể hiện hòan tòan xa nhau, đối với tác giả ng bà là cả tuổi thơ, là ngọn lửa luôn sưởi ấm niềm tin và hi vọng của ông khi đang ở đất khách,bà là ng yêu thương quan tâm và dạy dỗ ông hết lòng, theo mình nghĩ bn nên nói vai trò của ng bà theo những gì bài thơ thể hiện k nên lấy bên ngòai , có thể nó k sai nhưng nội dung 2 phần k gắn kết với nhau. Tiếp nữa, và bằng việt là ngọn lử chứa niềm tin dai dẳng, một ngọn lửa lòng bà luô ủ sẳn”,nhà thơ k phải là ngọn lửa chứa nìêm tin dai dẳng của bà, mà bà mới là ngọn lửa đó trong lòng nhà thơ, đồng thời cách diễn đạt và dùng từ của bn chưa chính xác khi nói về vai trò của 1 ng với 1 ng,trong lòng bà k phải chỉ có 1 ngọn lửa dành cho nhà thơ đâu mà còn dành cho cả dân tộc, cả đất nc, tất cả mọi ng trên đất nc VN, chính vì thế mới nói bà như ng mẹ việt nam anh hùng. Không bà còn âm thầm và rất mãnh liệt câu này hòan tòan k có ý nghĩa, k có chủ ngữ và cái mà bn bảo là k hòan tòan k có ý nghĩa, ng bà k mãnh liệt và âm thầm mà là sự hi sinh cùng với niềm tin của bà luôn âm thầm và niềm tin vẫn luôn mãnh liệt, tin vào đứa cháu của mình, tin vào những đứa con, tin vào đất nc, tin và tổ quốc ta 1 ngày kia sẽ đuổi đc giặc. 1 điều bn cần lưu ý
Vì vậy hỹa kính yêu những au đã nuôi dưỡng chúng ta, những ai đã vất vả để chúng ta thành người, đó chính là ông bà hay cha mẹ của chúng ta. Hãy yêu thương gia đình để một ngày nào đó, nếu mỗi chũng ta có xa quê thì cũng còn lại những kỉ niệm tuyệt đẹp bên người mẹ hiền hay người bà yêu dấu. và cũng đừng bao giờ quên quê hương nơi đã nuôi cho tâm hồn chúng ta những ting cảm tha thiết và thiêng liêng nhất, đọan kết bài của bn hòan tòan tách rời khỏi bài văn, tòan bài văn bn nói về bài thơ thì kết bài cũng phải đề cập tới bài thơ, muốn nói những điều đó bn phải có liên hệ từ bài thơ chứ k nói quá chung chung, kết bài là tổng hợp các ý chính của bài văn, dĩ nhiên sẽ có nội dung, nghệ thuật của tác phẩm và cả điều ta rút ra đc sau tác phẩm đó nữa.Đọan văn của bn tuy ngắn nhưng thể hịên ý rất đầy đủ, phân tích trọng tâm tác phẩm, mở đọan và phát triển đọan khá tốt, song cần lưu ý kết đọan, và lỗi dùng từ ,lỗi diễn đạt và lỗi chính tả nha.Mình nghĩ nếu bn làm kĩ bài này , sửa 1 vài lỗi thì bài của bn đạt lọai giỏi đó, nói đúng ý của tác phẩm là cái mà trong mỗi bài nghị luận văn học cần đạt đc. Chúc bn học giỏi và tiến bộ 
 
C

congchualolem_b

Còn đây là bài văn về “Bếp lửa” của Bằng Việt tớ làm năm lớp 9 bn tham khảo và cho ý kiến thử nha


Tuổi thơ đã bao kỉ niệm đẹp,khó quên trong lòng mỗi chúng ta về gia đình, quê hương, ng thân,bè bn.Có thể đó là những buổi chăn trâu ngòai đồng cùng lũ bn,những lần lầm lỗi với cha mẹ,những lần làm cha mẹ vui và tự hào về mình,những lời dạy của ông bà…còn đối với nhà thơ Bằng Việt, tuổi thơ của ông là những năm tháng đc sống bên bà,dấu khó khăn và gian khổ nhưng vẫn tràn ngập tình yêu thương giữa bà và cháu.Cho đến tận khi nhà thơ sang Liên XÔ du học vẫn k thể nào quên những kỉ niệm đó.Tâm sự ấy,nỗi nìêm ấy đc thể hiện rất rõ trong bài thơ “Bếp lửa”.
Mở đầu bài thơ là sự hồi tưởng của tác giả về bà của mình qua hình ảnh quen thuộc,:
“một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”
“Bếp lửa” là 1 hình ảnh k thể thiếu trong mỗi gia đình và ng nhóm bếp kl ai khác là ng bà ,ng mẹ.Cứ mỗi buổi sớm khi ông mặt trời vẫn còn say ngủ, bà đã thức dậy nhóm bếp.Từ láy “ chờn vờn” gợi lên dáng dấp thân thương của bà trong mỗi sớm sau màn sương mỏng.Trông bà gầy guộc,đôi bàn tay nhăn nheo của bà in bóng lên vách qua ánh lửa bập bùng.Một công việc quen thuộc hằng ngày nhưng k hề nhàm chán mà ngược lại công việc nhóm bếp lại rất thiêng liêng. Từ “ấp iu”gợi lên sự chăm chút,khéo léo và kiên nhẫn của ng nhóm bếp.Những hình ảnh đó đã khắc sâu trong lòng đứa cháu, 2 câu thơ đã làm điểm tựa cho những kỉ niệm tuổi thơ gian khó sống bên ng bà thân yêu,tần tảo, chịu khó, giàu lòng nhân hậu tự đáy lòng cháu cất lên lời nói chân thành mỗi khi nói về bà:
“cháu thương bà biết mấy nắng mưa”
Với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tự sự,miêu tả và trữ tình,tác giả đã làm ng đọc ,ng nghe k khỏi xúc động sâu sắc trước hòan cảnh sống của 2 bà cháu và tình cảm của đứa cháu dành cho bà trong 4 khổ thơ tiếp theo.Những dòng kỉ niệm cứ khóay sâu trogn tiềm thức của ng cháu,khi cháu lên 4 tuổi cháu đã quen với mùi khói bếp.Rồi nạn đói hòanh hành khắp nơi, “bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy”,cảnh sống lúc ấy mới khó khăn làm sao,Thời gian dần trôi đi, những ấn tựợng dần phai mờ trong kí ức của ng cháu, cháu chỉ nhớ lúc ấy khói hun làm “nhèm mắt cháu”, bây giờ nghĩ lại “sống mũi còn cay”.Ngôn ngữ thơ đc sử dụng rất giản dị nhưng lại đầy biểu cảm.Kháng chiến bùng lên, mẹ và cha đi đánh giặc “bận k về”, “tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa”. “Tám năm” ! 1 khỏang thời gian k dài nhưng lại chứa đầy bao kỉ niệm thân thương và ấm áp giữa bà và cháu.Xa cha, xa mẹ nưhng cháu lại đc sống trogn tình thương yêu, sự cưu mang ,dạy dỗ của ng bà:
“bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
….
Cháu ở cùng bà, bà bào cháu nghe
Bà dạy cháu làm bà chăm cháu học”
Dù còn nhỏ nhưng cháy đã bíêt tự lập ,biết lo toan cho bà:
“nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hòai trên những cánh đồng xa”
Tiếng tu hú kêu xuất hiện lần đầu thật gần gũi và tha thiết làm sao nhưng bây giờ nó như giục giã,khắc khỏai,dồn dập 1 đìêu gì tha thiết lắm khiến cho lòng ng trỗi dậy những hòai niệm ,nhớ mong.
Rồi năm ấy, giặc đốt làng, tất cả đều thành tro bụi, ngôi nhà của 2 bà cháu cũng k thóat khỏi, cuộc sống lại càng chật vật hơn, những ng hàng xóm đã trở về và “đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh”, bà k hề lo sợ, k nao núng dẫu trong hòan cảnh đó, bà hay bải cháu rằng:
“bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn đc bình yên”
Bà là ng rất dũng cảm , ng mẹ VN anh hùng, dù có gian nan và cực khổ bà vẫn k muốn nhữg ng con của mình ở tiền phương biết đc để họ yên lòng mà đánh giặc, bà đã làm tròn nhiệm vụ của 1 ng nơi hậu phương, bà còn là điểm tựa tinh thần của cháu, nâng bước chân cháu trên đường đời.Hằgng ngày, cứ mỗi buổi sớm rồi buổi chiều bà lại nhóm lên bếp lửa:
“rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”
Suốt cả bài thơ “bếp lửa” đc lặp đi lặp lại nhìều lần nhưng trog khổ thơ này k dùng là “bếp lửa” mà chuyển thành “ngọn lửa”. “Ngọn lửa” của bà là “ngọn lửa” tình thương, ngọn lửa niềm tin luôn tỏa sáng lung linh, là ngọn lửa mang tính biểu tượng. “ngọn lửa ấy”k chi đc thắp lên bằng nhiên liệu mà còn đc thắp lên bởi tấm lòng của ng bà
Khổ thơ thứ sáu là những suy nghĩ của ng cháu về ng bà, về cuộc đời lận đận “ biết mấy nắng mưa” của bà gắn với hình ảnh bếp lửa hồng quen thuộc.Bao tình cảm chân thành,nỗi nhớ thương, niềm kính phục và lòng biết ơn của ng cháu đối với bà đang dâng lên, xóay cuộn và thổn thức trong lòng.Hình ảnh của bà luôn hiện diện và sóng đôi với “bếp lửa”, “ ngọn lửa”.Bà k chỉ là ng nhóm lửa, giữ lửa mà còn là ng truyền lửa, lửa của sự sống, niềm tin cho các thế hệ nối tiếp. Sự tần tảo, đức hi sinh của bà đc thể hiện qua các câu:
“mấy chục năm rồi đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương , khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”
Bếp lửa luôn gắn với khó khăn, gian khổ của ng bà.Ngày ngày,bà nhóm lên bếp lửa cũng là nhóm lên niềm vui, sự sống , niềm yêu thương dành cho con cháu và cho mọi ng.Bà là ng phụ nữ tảo tần, nhẫn nại, đầy yêu thương.Bếp lửa là tình bà ấm áp, là nguồn sốg do tay bà chăm chút.Vì thế mà tác giả đã cảm nhận trong hình ảnh bếp lửa bình dị, thân thuộc và kì diệu,thiêng liêng : “ôi! Kì lạ và thiêng liêng- bếp lửa!”.Mạch thơ vượt qua cả sự kể lể thuần túy,khiến cho màu sắc trữ tình và màu sắc triết kí càng trở nên sâu sắc và có sức lan tỏa hơn/
Đứa cháu nhỏ hôm nào giờ đã khôn lớn, đc đi đây đi đó, biết đc nhiều đìêu , thấy đc “ngọn khói trăm tàu”, thấy “ lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” nhưng cháu vẫn k quên đc hình ảnh ng bà thân yêu, k quên bếp lửa và sự đùm bọc, ấp iu của bà.Nhịp điệu khổ thơ mới da diết, tha thiết và trầm lặng làm sao.Bếp lửa đã trở thành kỉ niệm ấm lòng, là niềm tin thiêng liêng,kì dịêu, nâng đỡ tâm hồn cháu trên đường đời.Từ tình yêu thương bà, thành lòng yêu đất nc , yêu quê hương của ng cháu.
Bằng cách kết hợp nhuần nhuyễn giữa kể, tả , biểu cảm và nghị luận, bài thơ “ bếp lửa” của nhà thơ Bằng Việt đã gợi lên bao kỉ niệm thân thương , đầy xúc động về ng bà và tình bà cháu.Qua đó, thể hiện tấm lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của ng cháu đối với bà và với quê hương đất nc.Sự sáng tại hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh ng bà làm điểm tựa khơi gợi lại những kỉ nịêm , cảm xúc và suy nghĩ về bà và tình bà cháu còn là điểm thành công của bài thơ.
 
P

pedung94

Mình cũng sẽ đóng góp 1 bài nhá

"Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nc
Mà lòng phơi phới dậy tương lai"
Đó là những giai đoạn hào hùng của lịch sử dân tộc ta trên đường đánh Mĩ. Chính trong lúc này hình ảnh của người chiến sĩ trường sơn đã trở thành đề tài tiêu biểu đc phản ánh trong các tp văn học . Một trong những nhà thơ khắc hoạ thành công nhất về người lính đó là Phạm Tiến Duật (PTD). Với đề tài về người lính ông đã cho ra đời những bài thơ nổi tiếng như lửa đèn, trường sơn đông trường sơn tây và đặc biệt là bài thơ bài thơ về tiểu đội xe ko kính đc viết vào năm 1969 đã để lại ấn tuợng sâu sắc trong lòng người đọc
Mở đầu bài thơ PTD đã giới thiệu với người đọc một hình ảnh độc đáo đó là những chiếc xe ko kính.
"ko có kính ko phải vì xe ko có kính
bon giật bom rung kính vỡ đi rồi "
đây ko phải là lần đầu tiên h/a xe pháo đc đưa vào trong văn học. Nhưng trước đó thường được mĩ lệ hoá như hình ảnh con tàu của chế lan viên, bộ retam của piskin. đến với PTD bằng những câu thơ hết sức chân thật , giản dị, tự nhiên,với lời giải thích ngắn gọn ông đã đưa người đọc đến với những chiếc xe trần trụi, méo mó, dị dạng mang đầy thương tích. Đó là những chiếc xe thường vào sinh, ra tử chịu nhiều mưa bom, bão đạn trong những điểm khốc liệt của chiến tranh. Trên tuyến đường Trường Sơn chống mĩ ta bắt gặp 1 chiếc xe ko kính, không đèn, ko còn là chuyện lạ mà thậm chí còn là hàng trăm, hàng ngàn chiếc xe như vậy được tập hợp với nhau trở thành những đơn vị vận tải vẫn hiên ngang chạy. Để làm nổi bật h/a độc đáo trên t/g đã sử dụng hàng loạt động từ mạnh như "giật","rung ". Có 3 từ ko nối liền trong bài thơ làm cho h/a những chiếc xe hiện lên khá rõ ràng, cụ thể trước mắt người đọc .
Giới thiệu những chiếc xe ko kính là nhhà thơ muốn giới thiệu với mọi người h/a những người chiến sĩ lái xe, đó là những con người trẻ tuổi, nhiệt tình, yêu nước. Họ đến với những chiếc xe ko kính như chuyện bình thường, ko có gì đặc biệt với thái độ ung dung, lạc quan, tự tin, tự chủ với công việc của mình.
"ung dung buồng lái ta ngồi
nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng "
hàng loạt động từ "nhìn trong các câu thơ đã nhằm nói lên sự tập trung cao độ của những người lính đang làm nhiệm vụ. Họ đến với những chiếc xe với 1 sự tự nguyện mặc dù họ biết trước mắt mình sẽ gặp vô vàn khó khăn, gian khổ, bất trắc. Từ"ừ " trong bài thơ ko thể hiện sự miễn cưỡng như ràng buộc họ với những thử thách mới mà ngược lại còn trẻ trung, lạc quan. Khi lái xe 1 ấn tượng sâu sắc, 1 cảm giác mạnh đặc biệt trong đêm tối bạt ngàn rừng núi h/a sao trời, gió, cánh chim tạo cho họ một cảm giác lãng mạn mà ko phải nguời nào cũng đc tận hưởng.
"Bụi phun tóc trắng như nguời già "
trong những ngày nắng nóng những làm bụi phun lên làm trắng cả toc người lính cũng là một trong n~ khó khăn của người lính. tác gỉa đã có sự liên tưởng độc đáo tình huống ngộ nghĩnh đậm chất lính trẻ khi họ nhìn khuôn mặt nhau bên bờ suối phì phèo châm thuốc với một nụ cười sáng loá bậ ra
"chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
nhìn nhau mặt lấm cười ha ha "
hết nắng bụi mùa khô đến mùa lũ làm cho h/a nguời lính thêm vất vả vì những đợt mưa rừng"mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời" Mưa rừng trường sơn mạnh chợt đến , chợt đi làm ngừoi lính uớt đẫm vì xe ko có kính. Khó khăn đó rồi cũng qua đi, công việc vẫn ko dừng lại người lính vẫn giữ vững tay lái, vì miền nam phía trước. Vẻ đẹp của nguowif lính còn đc khắc hoạ qua t/c đồng chí, đồng đội. Họ sinh hoạt cùng nhau và rồi gắn bó chặt chẽ với nhaudù chỉ một lầm gặp mặt. Với khoảnh khắc đó họ vẫn quên đi tất cả gian lao để cảm nhận sự đầm ấm, yên vui ở chiến trường.
"bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi
bếp hoàng cẩm ta dựgn giữa trời
chung bát đĩa nghĩa là gia đình đaays
võng mắc chông chênh trên đường xe chạy
lại đi, lại đi trời xanh thêm "
Thành công nhất bài thơ phải nói đến việc khẳng định lòng yêu nc, lòng nhiệt tình của tuổi trẻ của nguời chiến sĩ lái xe. Dù phải làm bạn với n~ chiếc xe ko kính rồi ko có đèn, ko có mui xe , thùng xe có xước nhưg đối với họ chỉ cần có một trái tim, trái tim yêu nc , trái tim lạc quan, lãng mạn hướng về miền nam thế là đủ.
câu thơ cuối cùg đc coi là con mắt, là nhãn tự của bài thơ làm nổi bật chủ đề, góp phần toả sáng hình tuợng người liính trong bài thơ. Huớng người đọc tới 1 chân lý "sức mạnh chiến thắng ko nằm ở vũ khí mà nằm ở vẻ đẹp tâm hồn của con người , ở thái độ dũng cảm, lạc quan tin tưởng của con người.

bài của mình còn n` sai sót. các bạn thông cảm
 
A

anh_anh_1321

Mình cũng xin góp 1 bài, các bạn cho ý kiến nha:D:D
Huy cận là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ mới. trước cách mạng thơ Huy Cận thường buồn, một nỗi buồn mênh mang sâu lắng. sau cách mạng, thơ ông tràn đầy niềm vui, niềm tin yêu về cuộc sống mới. thơ Huy Cận có vẻ đẹp tráng lệ độc đáo khi viết về thiên nhiên và vũ trụ. Vào năm 1958, trong chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Quảng Ninh, Huy Cận đã viết bài thơ “Đoàn thuyên đánh cá”. Bài thơ là khúc hát ca ngợi biển quê hương giàu đẹp và ng` lđ đang ngày đêm làm chủ biển khơi.
Trước đây nửa thế kỉ, HC có những vần thơ viết về song nc thật đặc sắc:
“Sóng gơn Tràng Giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nc song song
Thuyền về nc lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Những câu thơ gợi nên cái mênh mông rộng dài của song nc, gửi gắm sau đó là những bang khuâng, những nỗi buồn sâu lắng. hôm nay, HC cũng viết những vần thơ về thiên nhiên, về song nc nhưng có lẽ tâm hồn ti sĩ đã có nhiều thay đổi. cảm hứng dạt dào, tình yêu quê hương đất nc đã tạo nên nguồn cảm hứng vô tận để nhà thơ vẽ nên bức tranh tuyệt đẹp về biển quê hương.
Cảnh biển vào lúc hoàng hôn đc t/giả m/tả = những vần thơ thú vị:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa”
Cảnh biển vào lúc này thật lộng lẫy. ở phía tây, mặt trời đang từ từ xuống biển. nhà thơ HC đã so sánh MT như hòn lửa. cách so sánh này thật độc đáo và sang tạo. trong hoàng hôn, ánh MT vẫn rực rỡ nhuộm hồng cả ko gian. Câu thơ tiếp theo HC tả cảnh biển khơi. Tác giả đã ví biển như 1 ngôi nhà rộng lớn đi vào giấc ngủ êm đềm. những động từ “cài, sập” đc use thật tài tình. Cái tài tình đc thể hiện ở chỗ “song, đêm” là những sự vật vốn vô hình lại bỗng trở thành 1 cái hữu hình. Vũ trụ lúc này thật đẹp, 1 vẻ đẹp rực rỡ, kì vĩ nhưng cũng huyền bí, êm ả. Hoàng hôn trên biển lại càng them đẹp, them thơ với những cánh buồm of những đoàm thuyền đánh cá.
Vào đêm trăng, biển rực rỡ muôn màu sắc: màu sắc lấp lánh of muôn ngàn loài cá”
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng”
Và màu vàng of ánh trăng. Bằng tính từ “vàng chóe”, chúng ta như đc cảm nhận đc ánh trăng vàng rực rỡ, lan tỏa, trăng như nhuộm vàng cả trời nc Hạ Long.
Ngoài ra còn có màu sắc lung linh of muôn ngàn vì sao trên bầu trời Hạ Long phản chiếu xuống mặt nc. Những câu thơ có ngôn ngữ giàu màu sắc, hình ảnh thơ đậm chất hội họa, giàu đường nét, hình khối. đúng là “thi trung hữu họa”.
Vào đêm trăng, biển tràn ngập âm thanh. Âm vang tiếng hát vút cao trên biển hòa vào với âm thanh, nhịp gõ thuyền gọi cá:
“Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”
Nhà thơ còn cảm nhận trong đêm trăng hơi thở nồng nàn of biển:
“Đêm thở: sao lùa nc Hạ long”
Hình ảnh thơ vừa hiên thực vừa lãng mạn. nhà thơ cảm nhận, lắng nghe âm thanh of biển ko chỉ = tai mà = cả tâm hồn. âm thanh trên biển rộn rang, náo nức như 1 bản nhac.
Cảnh biển vào đêm trăng rực rỡ, lung linh, huyền ảo như 1 bức sơn mài lộng lẫy.
Hai câu thơ cuối, nhà thơ HC đã khắc họa vẻ đẹp of biển vào buổi bình minh. Bình minh đến, biển lại tràn đầy ánh sang:
“Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”
Những màu sắc thật tươi tắn: màu bạc, màu vàng of muôn ngàn loài cá, màu of rạng đông tươi tắn, màu hồng of nắng đã hòa lại với nhau làm cho bức tranh buổi bình minh bừng sang.
Đẹp hơn nữa là hình ảnh:
“Mặt trời đội biển nhô màu mới”
MT lên sau 1 đêm dài thật mạnh mẽ và tráng lệ. ở đây HC đã use thành công phép cường điệu. cách viết of nhà thơ rất độc đáo, sang tạo, gây ấn tượng. tất cả đã vẽ nệ 1 bức tranh thiên nhiên vào buổi bình minh thật tráng lệ, lộng lẫy, tươi tắn.
Hình ảnh ng` lđ trên biển quê hương đc đặt vào ko gian rộng lớn of biển trời. con ng` ở đây ko bé nhỏ, cô đơn mà hài hòa giữa biển khơi rộng lớn.
Tinh thần lạc quan là 1 nét đep rạng ngời of ng` lđ. Tinh thần lạc quan of ng` lđ đc gửi gắm qua âm vang câu hát cất lên từ đầu đến cuối bài thơ.
Khi đoàn thuyền ra khơi: “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”. Câu hát nâng cánh buồm, tạo sức mạnh đẩy con thuyền lướt sóng. Câu hát cũng vang lên ca ngợi biển quê hương giàu đẹp:
“Hát rằng: cá bạc biển đông lặng
Cá thu biển đông như đoàn thoi”
Khi lđ trên biển, câu hát gọi đàn cá đến, câu hát vang lên bày tỏ long biêt ơn biển quê hương:
“ Biển cho ta cá như long mẹ
Nuôi lớn long ta tự buổi nào”
Câu hát vang lên xua tan bao mệt nhọc đem đến những niềm vui chon g` lđ
Khi đoàn thuyền trở về:
“ Câu hát căng buồm với gió khơi”
Câu hát vang lên chứa đựng niềm phấn khởi, niềm tin chiến thắng. nhũng câu thơ tha thiết như dâng trào cảm xúc. Điệp ngữ “ câu hát” như 1 nốt nhạc trong bài ca of ng` lđ trên biển quê hương.
Xưa kia, khi đ/nc ta chìm đóng trong bong đem x/lược, con ng` thường hãi hung trước cái bao la rộng lớn of vũ trụ. Ngày nay, con ng` lđ phấn khởi chủ động trong công việc. lúc vũ trụ đi vào nghỉ ngơi là lúc “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi”. Những ng` lđ trên biển làm việc với tư thế:
“ Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển =
Ra đậu dặm xa dò bụng bể
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”
Đoạn thơ use hang loạt các động từ : “lái, lướt, đậu, dàn đan, vây, giăng” tạo nê âm hưởng mạnh mẽ, rắn rỏi. những ngư dân trên biển chủ động đi tìm nguồn cá, giăng những mẻ lưới làm giàu cho quê hương
Hình ảnh ng` lđ trên biển nổi bật trong tư thế khỏe khoắn:
“ Sao mờ, kéo lưới kịp trời sang
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng”
Với động từ ”kéo” kết hợp với tính từ “ xoăn”, chúng ta như cảm nhạn đc những cánh tay rắn rỏi, vững chãi of những ngư dân trên biển. họ dồn sức mạnh vào đôi tay kéo lên những mẻ lưới nặng.
Hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trở về với nhịp điệu khẩn trương:
“ Đoàn thuyền chạy đua cùng MT”
Hình ảnh cường điệu, độc đáo, ấn tượng đã thể hiên khí thế of những đoàn thuyền đánh cá thắng lợi trở về.
 
H

ha31596

Cùng đọc một bài thơ mà cùng có nhiều suy nghĩ,có khi cái suy nghĩ ấy trái với người khác.Tôi thích đọc thơ vì thơ hay, thơ đọc dễ thuộc,thơ nhiều hình ảnh sâu sắc.Tôi thích đọc thơ của Hồ Chí Minh.Người đã từng nói"Thơ ca ta vốn không ham"nhưng trong con đường đấu tranh giành độc lập Người lại thấy thơ ca chính là một vũ khí đấu tranh.Người viết rất nhiều bài hay nhưng tôi thích nhất là bài "Cảnh khuya" được sáng tác vào Thu Đông năm 1947.
Bài thơ được bắt đầu bằng câu thơ:
"Tiếng suối trong như tiếng hát xa"
Tiếng suối nghe thường róc rách,rì rầm...nhưng có lẽ trong đêm khuya tĩnh lặng tiếng suối trở nên trong trẻo như tiếng hát ai xa xa.Trong cái nền im lặng ấy nổi bật lên âm thanh êm dịu của tiếng suối chảy.Cách ví ấy gợi lên những tình cảm thân thiết,gần gũi giữa con người với thiên nhiên...
"Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa"
Từ "lồng" ở đây có nghĩa là bao phủ,trùm lên hoặc hoà hợp vào nhau.Đây chính là cảnh trăng chiếu xuống vòm cây,chiếu xuống mặt suối loang loáng ánh bạc.Cảnh tượng chập chờn,mờ mờ ảo ảo,vừa mộng vừa ảo...Bóng cây,bóng hoa,bóng trăng hoà lại với nhau tạo thành một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp.
"Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ."
Gỉữa cái cảnh khuya ấy còn có một người,có một bóng hình,có một người chưa ngủ được vì đang còn ngắm cảnh đẹp đêm khuya của núi rừng,của đất nước mình.
Phải chăng con người đó thức vì yêu trăng,yêu hoa,yêu sông,yêu suối,yêu núi,yêu rừng hay còn vì một lí do nào khác.
"Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà."
Có lẽ con người đó đang thức vì lo cho nước nhà...
Yêu thiên nhiên là yêu đất nước,nhưng ở đây không phài vì yêu thiên nhiên mà mới thức mà trước hết là người đó lo cho nước nhà..Và trong cái đêm không ngủ ấy Người bắt gặp một cảnh trăng đẹp giữa núi rừng khuya.
Tôi nghĩ rằng khi các bạn đọc bài thơ này,các bạn cũng như tôi thấy được một tinh yêu thiên nhiên đất nước vô bờ bến ấy.
 
H

ha31596

Các bạn thử đọc bài này của mình nha..Nếu có chỗ nào không hay góp ý cho mình

Cùng đọc một bài thơ mà cùng có nhiều suy nghĩ,có khi cái suy nghĩ ấy trái với người khác.Tôi thích đọc thơ vì thơ hay, thơ đọc dễ thuộc,thơ nhiều hình ảnh sâu sắc.Tôi thích đọc thơ của Hồ Chí Minh.Người đã từng nói"Thơ ca ta vốn không ham"nhưng trong con đường đấu tranh giành độc lập Người lại thấy thơ ca chính là một vũ khí đấu tranh.Người viết rất nhiều bài hay nhưng tôi thích nhất là bài "Cảnh khuya" được sáng tác vào Thu Đông năm 1947.
Bài thơ được bắt đầu bằng câu thơ:
"Tiếng suối trong như tiếng hát xa"
Tiếng suối nghe thường róc rách,rì rầm...nhưng có lẽ trong đêm khuya tĩnh lặng tiếng suối trở nên trong trẻo như tiếng hát ai xa xa.Trong cái nền im lặng ấy nổi bật lên âm thanh êm dịu của tiếng suối chảy.Cách ví ấy gợi lên những tình cảm thân thiết,gần gũi giữa con người với thiên nhiên...
"Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa"
Từ "lồng" ở đây có nghĩa là bao phủ,trùm lên hoặc hoà hợp vào nhau.Đây chính là cảnh trăng chiếu xuống vòm cây,chiếu xuống mặt suối loang loáng ánh bạc.Cảnh tượng chập chờn,mờ mờ ảo ảo,vừa mộng vừa ảo...Bóng cây,bóng hoa,bóng trăng hoà lại với nhau tạo thành một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp.
"Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ."
Gỉữa cái cảnh khuya ấy còn có một người,có một bóng hình,có một người chưa ngủ được vì đang còn ngắm cảnh đẹp đêm khuya của núi rừng,của đất nước mình.
Phải chăng con người đó thức vì yêu trăng,yêu hoa,yêu sông,yêu suối,yêu núi,yêu rừng hay còn vì một lí do nào khác.
"Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà."
Có lẽ con người đó đang thức vì lo cho nước nhà...
Yêu thiên nhiên là yêu đất nước,nhưng ở đây không phài vì yêu thiên nhiên mà mới thức mà trước hết là người đó lo cho nước nhà..Và trong cái đêm không ngủ ấy Người bắt gặp một cảnh trăng đẹp giữa núi rừng khuya.
Tôi nghĩ rằng khi các bạn đọc bài thơ này,các bạn cũng như tôi thấy được một tinh yêu thiên nhiên đất nước vô bờ bến ấy.
 
M

madocthan

post thêm nữa đi bạn. Bài này mình đã ôn từ hồi lớp 9 rất nhiều mà giờ đọc lại vẫn thấy hayhay!
 
S

seagirl_41119

Phân tích bài thơ "Đồng Chí"

Không biết bao mùa thu đã trôi qua kể từ mùa thu Tháng Tám của dân tộc. Chiến tranh đã đi qua trên mảnh đất Việt thân yêu, để lại với đời mùa thu nay tươi đẹp của hòa bình, hạnh phúc và để lại với lòng người bao chiến công của những chiến sĩ mùa thu xưa – những mùa thu của cuộc kháng chiến chống Pháp với những con người “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”(Tây Tiến_Quang Dũng). Họ đã dựng nên tượng đài bất hủ trong thơ ca về người chiến sĩ Cách mạng.Hình ảnh người lính năm xưa đi vào thơ ca một cách tự nhiên chân thực như chính họ_những con người quê hương mộc mạc,giản dị."Đồng cí" là một trong những bài thơ như vậy!

Chính Hữu tên thật là Trần Đình Đắc sinh năm 1926 tại Cam Lộc-Hà Tĩnh, là một trong những nhà thơ trưởng thành qua 2 cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc.Ngôn ngữ chọn lọc,hàm súc với cảm xúc dồn nén là những gì ta thường bắt gặp trong những sáng tác của ông.Bài thơ "Đồng chí" (1948)_tác phẩm được sáng tác bằng chính những trải nghiệm của thơ trong những năm KC với những cảm xúc sâu xa,mạnh mẽ.Cùngvới "Nhớ" của Hồng Nguyên,"Tây Tiến" của Quang Dũng,"Đồng chí" được coi là một trong những bài thơ xuất sắc nhất về đề tài người lính.

"Đồng chí"_nhan đề giàu ý nghĩa."Đôgchíkhông chỉ đơn thuần là những người cùng chung lý tưởng ,chí hướng mà với nhan đề này nhà thơ đã ca ngợi tình cảm gắn bó keo sơn,sự sẻ chia ngọt bùi giữa những người lính từ nông dân,tình đồng chí giúp họ vượt qua khó khăn gian khổ.TÌnh đồng chí luôn tỏa sáng trên mọi bước đường,mọi hoàn cảnh đã làm nên vẻ đẹp tâm hồn người lính."Đồng chí " còn là kết tinh cao đẹp nhất của mọi tình cảm thiêng liêng khác.

Cơ sở tạo dựng nên tình đồng chí giữa những người lính đã được nhà thơ thể hiện rất rõ ở khổ thơ đầu.Thật vậy, họ là những người lính chân lấm tay bùn,khoác lên mình chiếc áo lính ra đi từ những miền quê nghèo lam lũ "Quê hương anh nước mặn đồng chua/Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá".Đất nước có chiến tranh,lòng yêu nước tiềm ẩn trong mỗi con ngừoi trỗi dậy, họ cầm súng lên đường theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc.Tiếng gọi thiêng liêng ấy như sợi dây vô hình đã kéo những người lính gần lại với nhau, để họ từ những người "xa lạ" về đây chung một chiến hào, để rồi từ đó gắn bo thâ thiết với nhau"Súng bên súng,đầu sát bên đầu", những "đêm rét chung chăn" họ bộc bạch , thủ thỉ tâ tình và đôi bạn "tri kỉ" bắt nguồn từ đó.Câu thơ đối xứng với nhau diễn tả sâu sắc sự giao hòa giao cảm giữa những người bnj tri âm tri kỉ và trên nữa là tình "đồng chí".Câu thơ thứ bảy chỉ vẹn vẹn có một từ mà như một hơi thở tạo nên sự trầm lắng tha thiết, nó như thể một nút nhấm trong bản đàn dưới đôi bàn tay tài hoa của người nghệ sĩ."Đồng chí" đã lí giải sâu sắc cho tất cả những gì mà trước đây từng "xa lạ" "ự phương trời chẳng hẹn quen nhau", giờ đây lại trở thành những người bạn gắn bó máu thịt. "Đồng chí" _ hai tiếng sao àm thân thương thế, mỗi lần họ goi nhau bằng hai tiếng hết đỗi thân thương trìu mến ấy thì mọi khoảng cách , ranh giời bị xóa nhòa, họ trở thành những người bạn, người thân và trên hết là nhưnữg chiến sĩ cùng chung lí tưởng : đứng lên giải phóng quê hương giải phóng ách nô lệ. Phải chăng tình đồng chí vang lên là kết tinh đẹp đẽ nhất của tình bạn , tình thân , tình người? Hai tiếng "đồng chí" tưởng chừng như ngắn ngủi ấy lại ẩn chứa bao ý nghĩa sâu xa, đặc biệt nó có vai trò như một chiếc bản lề khép lại khổ thơ đầu mở ra trước mắt người đọc khổ thơ tiếp theo.

Đồng chí còn là cảm thông sâu sắc tâm tư nỗi niềm của nhau,những người lính họ hiẻu nhau đến từng nỗi niềm sâu xa,thầm kín của đồng đội mình "Ruộng nương anh gửi bạn thân cày/Gian nhà không mặc kệ gió lung lay".Từ "mặc kệ" trong câu thơ đã thể hiện sâu sắc chiều sâu trong tâm hồn người lính,mang dáng dấp của một bậc trượng phu vì nghĩa lớn dứt áo ra đi bỏ lại sau lưng quê hương với bộn bề công việc cùng nỗi nhớ của mẹ già,vợ trẻ,đứa con thơ,nhưng không đằng sau hành động tưởng chừng như dứt khoát ấy là biết bao những bịn dịn,vấn vương.Gác bỏ tình riêng vì nghĩa lớn,họ quyết chí lên đường nhưng vẫn nặng lòng với quê hương làng xóm,có lẽ vì vậy mà hình ảnh "giếng nước gốc đa" như làm sống lại trong lòng người lính cái bóng dáng quê nhà thân thương để rồi tình yêu và nỗi nhớ quê da diết cùng trỗi dậy tiếp thêm sức mạnh để người chiến sĩ tiếp tục chiến đấu.Đó phải chăng chỉ là tình cảm của người lính nơi chiến hào gửi về hậu phương hay đó còn là tình cảm của quê hương,của những người ở lại gửi ra tiền tuyến?Bước chân vào cuộc chiến đấu,họ đã phải đối mặt với bao chông gai thử thách,khó khăn gian khổ,ai đi lính chẳng từng ít nhất một lần bị cơn sốt rét rừng hành hạ, dày vò tàn phá cơ thể "Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh/Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi",câu thơ như nhắc lại một kỉ niệm của người lính nơi chiến hào,chắc hẳn bạn đọc vẫn chưa quên hình ảnh người lính Tây Tiến với cơn sốt rét đến xanh da,trụi tóc"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc/Quân xanh màu lá giữ oai hùm".Những người lính ,họ không những phải vật lộn chiến thắng bệnh tật mà họ còn phải đối mặt với sự thiếu thốn về quân trang quân dụng "áo anh rách vai",quần tôi lại có "vài mảnh vá","chân không giày" hay trong "Nhớ" của Hồng Nguyên ta lại bắt gặp hình ảnh người lính đang "Lột sắt đường tàu/Rèn thêm đao kiếm/Áo vải chân không/Đi lùng giặc đánh",có thế ta mới thấm thía nỗi gian lao vất vả của người lính.Trong khó khăn gian khổ họ vẫn nở nụ"cười"của niềm lạc quan,yêu đời,chính cuộc sống khó khăn thiếu thốn ấy đã làm ngời sáng lên vẻ đẹp phẩm chất của anh bộ đội cụ Hồ.Trong cái lạnh của rừng đêm,hai người lính trận mạc chẳng có gì cả,họ chỉ có đôi bàn tay "nắm lấy bàn tay",trong cử chỉ thân thương ấy ẩn chứa bao xúc động nghẹn ngào không nói lên lời của người lính, họ truyền cho nhau sức mạnh của niềm tin,nghị lực để vượt qua mọi khó khăn gian khổ. Và dường như hơi ấm từ đôi bàn tay ấy như lan tỏa rồi làm ấm dần cả bài thơ.Có thể nói,bằng những câu thơ miêu tả chân thực, nhà thơ Chính Hữu đã phản ánh sự khốc liệt cùng bao gian nan thử thách của chiến tranh,đồng thời cũng cho ta thấy được chất thơ trong những gì bình dị,đời thường nhất mà nổi bật lên đó là biểu hiện của tình đồng chí , đồng đội thiêng liêng và cao cả.

Tình đồng chí,đồng đội là sợi chỉ dỏ xuyên suốt trong mạch cảm xúc của bài thơ và tạo nên những nốt ngân tuyệt vời ở ba câu thơ cuối. Bứoc vào cuộc chiến tranh,người líng đã phải trải qua bao khó khăn,với thực tại khốc liệt ,nghiệt ngã.Những người lính họ quên sao những đêm dông giá rét phải đối mặt với sự giá lạnh đến tê người của "rừng hoang sương muối" nhưng chính ở cái nơi mà sự sống và cái chết chỉ còn là gang tấc,họ vẫn "Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới" vẫn luôn kề vai sát cánh bên nhau, vẫn chủ động đón nhận thử thách thậm chí cả sự hinh sinh, trong cái lạnh của rừng đêm có cái ấm áp ,nồng hậu của tình đồng chí,cái trong trẻo của lí tưởng cách mạng.Tác giả Chính Hữu đã bất ngờ khép lại bài thơ của mình bằng hình ảnh "Đầu súng trăng treo", hai hình ảnh tưởng chừng như trái ngược nhau nhưng không , đó là sự kết hợp hài hòa giữa cảm ứng hiện thực và lãng mạn,thể hiện cái tài tình của nhà thơ.Đọc câu thơ , ta như cảm nhận được sự đối lập giữa "súng" và "trăng",đằng sau khẩu súng trường ấy,người ta thấy được cái khốc liệt nghiệt ngã của chiến tranh , vẫn câu thơ ấy ta cũng đồng thời thấy được vẻ đẹp êm ái dịu hiền của "trăng" hòa bình."Súng" và "trăng" đi liền kề trong câu thơ gợi lên trong lòng người đọc biết bao liên tưởng thú vị về sự hòa quện giữa "súng" và "trăng",giữa hiện thực và lãng mạn,giữa thực tại và mộng mơ,giữa cứng rắn và dịu hiền, giữa chiến sĩ và thi sĩ.Đó như một biểu tượng đẹp đẽ của tâm hồn con người Việt Nam ,vừa can trường quả cảm nhưng cũng rất đỗi lãng mạn và đầy mộng mơ.Những người lính cầm súng chiến đấu cho vầng trăng hòa bình , hơn ai hết họ hiểu rằng bảo vệ que hương đât nước chính là bảo vệ gia đình người thân.Phải chăng chính vì thế, mà người lính sẵn lòng cháp nhận và đối mặt vớimọi khó khăn thử thách để giành lại cuộc sống ấm no hạnh phúc?

Trang thơ của Chính Hữu đã khép lại từ rất lâu rồi nhưng người đọc vẫn thấy đâu đây cái dư vị ngân nga về bức tranh và nhất là biểu tượng của tình đồngchí đồng đội thiêng liêng cao đẹp.
 
B

betot00

Phân tich bài mùa xuân nho nhỏ:
Giây phút đầu tiên khi năm mới gõ cửa, hãy hòa mình vào những vẻ đẹp của mùa xuân qua bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải - cũng là một trong những trọng tâm ôn thi tốt nghiệp của các bạn học sinh lớp 9.
Mùa xuân đã về trên đất nước Việt Nam tươi đẹp của chúng ta. Đâu đây dặt dìu lời ca êm dịu về “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải:
Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ôi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng

Mùa xuân xứ Huế thơ mộng hiển hiện trước mắt ta. Chỉ một bông hoa tím mỏng manh, mọc giữa dòng sông Hương xanh biếc mà sao sức sống lại dồi dào mãnh liệt đến vậy ? Và cũng chỉ một con chim chiền chiện cất lời, mà sao tiếng hót vang xa bay bổng đến thế ? Từng giọt âm thanh tiếng chim thả vào không gian, hội tụ tất cả ánh sáng, sự thanh khiết trong lành của đất trời mùa xuân nên nó cứ long lanh, long lanh. Không cầm lòng được, nhà thơ bất chợt đưa tay ra hứng lấy âm thanh ấy, những mong nắm bắt điều diệu kỳ của thiên nhiên tươi đẹp trên quê hương. Sự chuyển đổi cảm giác trong ông diễn ra thật nhanh chóng, bất ngờ, mà cũng thật tinh tế. Rồi ông đưa mắt nhìn những chồi non lộc biếc đậu trên vành lá ngụy trang của người ra trận, trải dài theo bước chân người ra đồng, trên khắp đất nước mình. Mặc dù chúng ta vừa ngưng nghỉ tiếng súng ở hai đầu biên cương. Mặc dù thời bao cấp vẫn in hằn dấu vết trong mỗi gia đình Việt Nam. Nhưng thành quả chiến đấu và lao động suốt 4.000 năm lịch sử đã ngời ngời trong mùa xuân 1980 ấy.



Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước

Quả thực là “chẳng kẻ thù nào ngăn nổi bước ta đi”.



Bằng sự mẫn cảm, bằng niềm tin son sắt, Thanh Hải đã nhận ra sức sống bền bỉ và tư thế luôn vững vàng thăng tiến của dân tộc ta. Đến hôm nay, mùa xuân 2006 đã về, ta càng khẳng định rằng điều Thanh Hải dự báo từ 26 năm trước đã, đang và mãi mãi là hiện thực trên Tổ quốc thân yêu của chúng ta. Đáng trân trọng biết bao, tấm lòng của một người con đất Việt ! Khi đang lâm bệnh nặng, sắp từ giã cõi đời, còn phải sống trong thiếu thốn khó khăn, ông vẫn có những cảm nhận vô cùng tươi trẻ về thiên nhiên, về đất nước, về cuộc sống. Phải chăng, có sự đồng điệu trong tâm hồn thi sĩ:



“Tôi lại nhìn như đôi mắt trẻ thơ

Tổ quốc tôi, chưa đẹp thế bao giờ”.

(Tố Hữu)



Từ niềm say sưa trước mùa xuân thiên nhiên và cuộc sống trên đất nước, Thanh Hải đã chân thành bộc lộ ước nguyện của bản thân:



Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến

Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc.



Tuy đó là ước nguyện khiêm nhường (muốn hóa thân làm những thứ bé nhỏ : Một con chim, một cành hoa, một nốt trầm, một mùa xuân nho nhỏ để “lặng lẽ dâng cho đời”). Nhưng đó là ước nguyện rất tự nhiên, đẹp đẽ, sáng trong như thiên nhiên tươi đẹp, trong sáng (con chim, cành hoa), rất bền bỉ, thiết tha:



Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc.



Đó cũng là ước nguyện hết sức chân thành của Thanh Hải. Bởi vì cả cuộc đời ông đã bám trụ ở quê hương (vùng Thừa Thiên Huế) cùng đồng bào, đồng chí đánh giặc qua hai cuộc kháng chiến ác liệt trường kì. Từ vùng đất này, những bài thơ “Mồ anh hoa nở”, “Cháu nhớ Bác Hồ” của ông đã có sức lay động sâu xa tâm hồn bao bạn đọc. Rồi đến giờ phút cuối cùng, ông vẫn như con tằm rút ruột nhả tơ, dâng cho đời “mùa xuân nho nhỏ” thiết tha nồng thắm từ đáy tâm can. Những “nốt trầm” ấy sao mà “xao xuyến”, sao mà đắm say!



Và bạn ơi, bạn có thấy Thanh Hải đã nói hộ chúng ta ước nguyện của mỗi người bằng cách chuyển đổi đại từ “tôi” sang “ta” đó không?



Bài thơ của Thanh Hải đề cập đến vấn đề nhân sinh quan. Sống có ích, sống đẹp là có cống hiến cho đời. Vậy mà nó không hề khô cứng như lời giáo huấn đạo lý. Bởi vì, tác giả đã nói bằng cảm xúc thực, bằng những điều tâm niệm chân thành, thiết tha, bằng giọng thơ nhẹ nhàng và hình ảnh thơ bình dị. Chính vì thế những dòng thơ của ông thấm sâu vào lòng người, thức tỉnh những ước nguyện, những cách sống đẹp của mỗi con người.

Mùa xuân nay đi trong dìu dặt lời ca :

Mùa xuân ta xin hát

Câu Nam ai, Nam bình

Nước non ngàn dặm tình...
Ta thấy nhớ Thanh Hải - nhớ một “Mùa xuân nho nhỏ” của dân tộc thiết tha!
 
S

seagirl_41119

KHÚC HÁT RU NHỮNG EM BÉ LỚN TRÊN LƯNG MẸ
__________Nguyeen Khoa Điềm_____________(sưu tầm)
Bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm ra đời ngay tại chiến khu Trị – Thiên, trong những ngày kháng chiến chống Mĩ đang dần đến thắng lợi nhưng vẫn còn vô cùng gian khổ. Nhà thơ đã tận mắt chứng kiến hình ảnh những bà mẹ Tà-ôi giã gạo nuôi bộ đội đánh Mĩ, để cảm xúc từ hiện thực thăng hoa thành những vần thơ có sức lay động mãnh liệt. Bài thơ “thể hiện tình yêu thương con gắn với lòng yêu nước, với tinh thần chiến đấu của người mẹ miền tây Thừa Thiên bằng những khúc ru nhịp nhàng, mang giọng điệu ngọt ngào trìu mến”.
Người mẹ trong thi ca từ sau cách mạng tháng Tám luôn là hình tượng trung tâm, có sự phát triển về tầm vóc và chiều sâu tình cảm tư tưởng, hài hoà riêng chung. Từ những người mẹ trong thơ Tố Hữu thời kì kháng chiến chống Pháp như bà Bầm, bà Bủ, bà mẹ Việt Bắc đến người mẹ trong Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên, chúng ta đã từng được cảm nhận sự gắn kết giữa người mẹ với cách mạng và kháng chiến. Đến thời kì kháng chiến chống Mĩ, với tính chất quyết liệt gian khổ, chúng ta từng gặp những vẻ đẹp như hình tượng người mẹ đào hầm giấu hàng sư đoàn dưới đất ở Đất quê ta mênh mông của nhà thơ Dương Hương Ly. Có thể nói hình tượng người mẹ trong bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm là sự kế thừa tốt đẹp những đặc trưng người mẹ quê hương – người mẹ chiến sĩ, tập trung những cảm xúc trong trẻo nhất của nhà thơ, gợi về vẻ đẹp tâm hồn của đồng bào dân tộc theo kháng chiến. Không phải ngẫu nhiên khi phổ nhạc bài thơ này, nhạc sĩ Trần Hoàn đã đặt lại tựa đề là Lời ru trên nương, bởi lẽ chính những lời ru đã làm thành cấu tứ của bài thơ, dẫn dắt ta vào một thế giới mang đậm bản sắc riêng của người Tà-ôi. Bài thơ như là minh chứng của tấm lòng đồng bào dân tộc một lòng tin theo Đảng, , thương con thương bộ đội, thương yêu núi rừng nương rẫy làng bản, thương đất nước. Tình thương thành điệp khúc xuyên suốt theo nhịp chày của mẹ :
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ
Có lẽ đây là lời của nhà thơ, hàm chứa bao trìu mến dành cho chú bé Tà-ôi như muốn góp thêm bao thương mến hoà cùng khúc ru của mẹ. Hình ảnh ấy khiến người đọc bồi hồi nhớ lại những câu thơ viết về người mẹ Việt Bắc trong kháng chiến chống Pháp của nhà thơ Tố Hữu :
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Người mẹ chống Pháp và người mẹ chống Mĩ có những điểm tương đồng trong công việc. Nhưng ở Nguyễn Khoa Điềm, hình ảnh thơ này không xuất phát từ nỗi nhớ mà được cất lên ngay giữa hiện thực chống Mĩ. Nét đẹp của hình tượng được khơi lên từ tính chất công việc “Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội”. Người mẹ được khắc hoạ trong từng chi tiết sống động nhất, nổi bật với tứ thơ thật đẹp :
Nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em nghiêng.
Tưởng như trong động tác của mẹ cũng đã ngân lên nhịp điệu ru ngọt ngào và nhịp đưa em đều đặn an bình như trên một cánh võng êm. Tác giả hoàn toàn không thi vị hoá mà bằng ngòi bút tả thực giúp người đọc nhận ra : mồ hôi mẹ nóng hổi, vai mẹ gầy – bao vất vả như đọng cả trên đôi vai mẹ. Mỗi khúc ru hiện lên hình ảnh mẹ trong nhiều tư thế cũng như công việc khác nhau : giã gạo, tỉa bắp, chuyển lán, đạp rừng… như hoàn chỉnh bức chân dung lao động khoẻ khoắn cũng như niềm hân hoan được hoà vào những công việc kháng chiến. Không những thế, qua những hình ảnh này, ta còn hình dung một nhịp sống bình thản của những người dân và cán bộ chiến sĩ ở chiến khu chống Mĩ. Mặc dù, trong thực tế, đây là nơi hứng chịu rất nhiều bom đạn kẻ thù và luôn phải đương đầu với những cuộc hành quân lùng sục “tìm và diệt”, càn quét hòng xóa sạch dấu tích của vùng chiến khu đầu mối Bắc – Nam này. Cuộc sống khó khăn thiếu thốn đòi hỏi phải tự cấp tự túc, tăng gia sản xuất, bảo đảm nuôi quân đánh giặc. Hình ảnh người mẹ giã gạo khiến ta lại liên tưởng đến những nhịp chày trong bài hát Tiếng chày trên sóc Bom Bo của cố nhạc sĩ Xuân Hồng. Ở đâu cũng vậy, khi cách mạng được bao bọc, chăm chút bằng tất cả tình cảm yêu nước của nhân dân, khi biết dựa vào dân thì không sức mạnh tàn bạo nào của kẻ thù có thể khuất phục.
Gạo dành để nuôi quân, mẹ lại lên nương tỉa bắp, cùng với a-kay. Đàng sau hành động đó ẩn chứa vẻ đẹp của sự hi sinh, nhường cơm sẻ áo cho người cách mạng. Lòng mẹ bao dung lại được cảm nhận bằng bao tình cảm thương mến của nhà thơ :
Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ
Em ngủ ngoan em đừng làm mẹ mỏi
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ, con nằm trên lưng
Lời thơ thật dịu dàng như ru sâu thêm giấc ngủ cho em cu Tai, như muốn sẻ chia những vất vả nhọc nhằn trong công việc của mẹ. Không gian mênh mang của vùng núi rừng tây Thừa Thiên như mở ra với ánh mặt trời lan toả khắp núi đồi. Nổi bật giữa khung cảnh là người mẹ Tà-ôi với công việc cần mẫn. Nhưng mẹ không hề đơn độc chính vì có mặt trời của mẹ – em cu Tai đang ngon giấc. Với cách ví von đặc sắc này, nhà thơ đã tạo nên liên tưởng về mối quan hệ mật thiết của con người với núi rừng, nương rẫy. Không có tình cảm gắn bó, không thể tạo được liên tưởng thú vị giữa hạt bắp với con nằm trên lưng. Mặt trời không gợi ra cảm giác về độ nóng, độ chói mà trở thành hình tượng biểu trưng cho nguồn sống mạnh mẽ. Mặt trời của bắp đem lại hạt mẩy hạt chắc. Mặt trời của mẹ – em cu Tai là hạnh phúc, nguồn sống của mẹ. Những chú bé Tà-ôi được tắm trong ánh sáng sẽ trở nên vạm vỡ săn chắc, ánh mặt trời hào phóng ban tặng cho mẹ những đứa con khoẻ mạnh của núi rừng. Hình tượng sáng tạo của Nguyễn Khoa Điềm đã đem lại những rung cảm thẩm mĩ đặc biệt.
Người đọc còn nhận ra tấm lòng mẹ mênh mông trong hình ảnh mẹ con không cách xa : Lưng đưa nôi và tim hát thành lời . Lời tim ngân nga suốt ba đoạn thơ thành điệp khúc dạt dào thương mến :
Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi
Mẹ thương a-kay…
Khởi nguồn của mọi hành động cao cả bắt đầu từ tình yêu bình dị nhất. Điểm xuất phát của lời ru chính từ tấm lòng mẹ thương a-kay vô bờ bến này ! Còn tình thương nào bình dị, gần gũi mà sâu sắc bằng tình mẹ thương con ? Âm vang lòng mẹ cất thành lời ru, thành lời thơ đầy xúc cảm của Nguyễn Khoa Điềm, với những chiều liên tưởng gắn bó trực tiếp với từng công việc của mẹ, bộc lộ vẻ đẹp rất giản dị mà cao cả. Mẹ thương a-kay ! – rất ngắn gọn nhưng cũng rất đầy đủ, đẹp đẽ vẻ đẹp tâm hồn mẹ. Hơn thế nữa, đó là xuất phát điểm của những tình cảm thời đại : mẹ thương bộ đội. Có ranh giới nào của tình thương rất đầm ấm ấy không ?
Sự sống của a-kay cũng là tương lai của buôn làng. Bởi thế cũng rất tự nhiên khi mẹ thương a-kay, mẹ thương làng đói. Cuộc sống của người Tà-ôi những năm chống Mĩ còn bao cơ cực thiếu thốn nhưng sức mạnh của tình thương sẽ giúp người mẹ vượt lên tất cả. Bàn tay mẹ cần mẫn tỉa bắp, gieo mầm sự sống với niềm mong mỏi thật bình dị : hạt bắp lên đều. Núi rừng, làng buôn và đứa con thân thương vô cùng với tâm hồn mẹ. Tình cảm yêu thương ấy còn thăng hoa trong những ước mơ về sự sống buôn làng. Đẹp thay và cũng dạt dào thương mến là lời thơ : Con mơ cho mẹ…hạt gạo trắng ngần, hạt bắp lên đều. Giấc mơ giản dị truyền sang em cu Tai còn chứa đựng niềm mong ước về tương lai của con :
Mai sau con lớn vung chày lún sân
… Mai sau con lớn phát mười kalưi
Hình ảnh gắn với tương lai của con thật kì vĩ, như mang theo sức mạnh của các nhân vật sử thi huyền thoại. Ước vọng về con làm nên sức mạnh, sự bền bỉ của mẹ. Đồng thời còn hội tụ cả sức mạnh cộng đồng từ quá khứ đến hiện tại gắn với tinh thần cuộc chiến đấu lâu dài, vượt qua bao sóng gió thử thách.
Cảm hứng của khúc ru cuối gắn liền với hiện thực khốc liệt và khẩn trương của cuộc kháng chiến chống Mĩ, với nhịp sống chiến khu Trị – Thiên. Hình ảnh của mẹ trong đoạn thơ này có một sự thay đổi, không phải trong một dáng chênh chao trong nhịp chày nghiêng, không lặng thầm nhẫn nại gieo từng hạt giống mà rất dứt khoát mạnh mẽ :
Mẹ đi chuyển lán, mẹ đi đạp rừng
Dáng vẻ con người được tô đậm qua hai động từ “đi” gợi tư thế chủ động với những công việc tiếp sức chiến đấu : chuyển lán, đạp rừng như hàm chứa ý thức tự hào của người Tà-ôi làm chủ vùng núi rừng của ta. Con người trong tư thế đối mặt với kẻ thù, quyết tâm chiến đấu giữ đất giữ rừng. Kẻ thù với dã tâm “đuổi ta phải rời con suối”, người Tà-ôi vẫn một dạ kiên trung ! Không chỉ có mẹ, mà anh trai cầm súng, chị gái cầm chông và em cu Tai cũng theo mẹ vào trận cuối. Những câu thơ hừng hực tinh thần bất khuất của người dân tộc miền tây Thừa Thiên, đem lại cảm hứng lạc quan của cuộc chiến đấu chống Mĩ. Sự trưởng thành của mỗi con người từ nhận thức đến hành động đã được khẳng định bằng hai câu thơ thật khoẻ khoắn :
Từ trên lưng mẹ, em đến chiến trường
Từ trong đói khổ, em vào Trường Sơn
Tinh thần của bao thế hệ người Tà-ôi theo cách mạng đã truyền cả sang a-kay, dạt dào một niềm tin, khẳng định dứt khoát con đường em đi sẽ hoà vào đội ngũ chiến đấu với ý chí quyết thắng. Đó là cơ sở cho ước mơ thật đẹp :
Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ
Mai sau con lớn làm người Tự do
Trong tình cảm của người Tà-ôi cũng như của những đứa con miền Nam chiến đấu chống Mĩ, Bác Hồ luôn là nguồn động viên, là biểu tượng sáng chói của cách mạng, của chiến thắng. Bởi vậy, mong ước được gặp Bác luôn là cảm xúc thường trực, dù cho thời điểm viết bài thơ này là 1971. Bởi lẽ, chỉ có thống nhất, mẹ mới được ra với Bác. Giấc mơ đẹp gắn liền với ước nguyện giành lại trọn vẹn non sông, thoả lòng Bác mong. Lời ru kết lại cùng hình tượng em cu Tai của tương lai là người Tự do của một đất nước hoà bình. Đó cũng là mong ước chung của nhân dân, của những người Việt Nam yêu nước.
Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm đã tạo được những cảm xúc đồng điệu với bao người con miền Nam anh dũng thời chống Mĩ, nói lên trọn vẹn vẻ đẹp và tâm tư của người dân tộc miền tây Thừa Thiên trung dũng kiên cường, thủy chung với cách mạng. Cảm xúc bình dị trong sáng với hình tượng người mẹ đã làm nên sức hấp dẫn riêng của tác phẩm. Từ ngôn ngữ đến hình ảnh thơ đều đậm chất dân tộc, đem đến cho người đọc những cảm nhận đặc biệt thương mến cùng hoà theo lời ru cho giấc ngủ thanh bình của em bé Tà-ôi. Bài thơ toát lên tinh thần lạc quan cách mạng, kết đọng những ân tình sâu lắng của nhà thơ về nhân dân đất nước cũng như niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mĩ.
Niềm tin ngày ấy giờ đây đã thành hiện thực. Em cu Tai ngày ấy giờ đây cũng đã trưởng thành và sống làm người Tự do như niềm mong mỏi ngày nào thiết tha trong lời ru của mẹ. Nhưng lời ru ngày ấy mãi còn sức vang ngân trong lòng bao thế hệ, bồi đắp tình yêu quê hương đất nước, con người Việt Nam
 
B

betot00

Anh thanh niên (Lặng lẽ Sa Pa)


Phân tích những phẩm chất cao đẹp, đáng quý ở anh thanh niên.


Phân tích những phẩm chất cao đẹp, đáng quý ở anh thanh niên.
Anh thanh niên có những suy nghĩ và quan niệm đúng đắn về công việc và cuộc sống.
+ Công việc là niềm vui, niềm đam mê cháy bỏng.

+ Cuộc sống chỉ có ý nghĩa khi mang lại niềm vui, hạnh phúc cho mọi người.

Anh thanh niên có những hành động cao đẹp.
+ Vượt qua mọi khó khăn thử thách để làm quen với cuộc sống chỉ có một mình trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2.600 m.

+ Dồn tất cả thời gian công sức, tự nguyện tự giác hoàn thành xuất sắc công việc vốn hết sức vất vả và đơn điệu.

Anh thanh niên có phong cách sống rất đáng quý, đáng trân trọng.
+ Tổ chức cuộc sống ngăn nắp, khoa học, phong phú cả về vật chất và tinh thần.

+ Khiêm tốn, cởi mở, chân thành với mọi người.

Đánh giá nhân vật, phát biểu cảm nghĩ.
Nhân vật anh thanh niên tiêu biểu cho những con người lao động mới, sống có lý tưởng, vô tư, lặng thầm, cống hiến hết mình cho đất nước.
Nhân vật anh thanh niên giúp ta hiểu thêm về thế hệ cha anh đi trước trong một giai đoạn lịch sử của dân tộc.
Trân trọng, khâm phục những nhân vật đáng quý, đáng mến trong “Lặng lẽ Sa Pa”, ta nghĩ tới trách nhiệm, hành động của thanh niên chúng ta trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước thời kỳ đổi mới.
 
S

seagirl_41119

Phân tích tình cmar cha con trong bài "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng


Có câu nói:”Những tình cảm đẹp sẽ là động lực mạnh mẽ trong tâm hồn mỗi người!”Vì lòng yêu cha,một cô bé nhỏ mới tám tuổi nhưng nhất quyết không nhận người khác làm bố,cho dù bị đánh.Vì lòng thương con,một người chiến sỹ dù ở sa trường vẫn luôn cặm cụi làm một chiếc lược để tặng đứa con gái bé bỏng.Có người nhận xét rằng “tình phụ tử không thể ấm áp và đẹp đẽ như tình mẫu tử”.Song nếu đọc truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng ,có thể bạn sẽ phải có cái nhìn khác mới mẻ và chân thực hơn.Câu chuyện khắc họa hình ảnh một nhân vật bé Thu đầy ấn tượng và tinh tế, hơn thế lại ca ngợi tình cha con thiêng liêng,vĩnh cửu dù trong chiến tranh.

Nguyễn Quáng Sáng sinh năm 1933 ở An Giang.Thời kỳ kháng chiến chống Pháp ông tham gia bộ đội và hoạt động ở chiến trường Nam Bộ.Sau năm 1945, ông tập kết ra Bắc và bắt đầu viết vănn.Có lẽ vì sinh ra va hoạt động chủ yếu ở miền Nam nên các tác phẩm của ông hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ.Các tác phẩm chính là Chiếc lược ngà(1968),Mùa gió chướng(1975),Dòng sông thơ ấu(1985),…Nguyễn Quang Sáng có lỗi viết văn giản dị,mộc mạc nhưng sâu sắc,xoay quanh những câu truyện đời thường nhưng ý nghĩa.Chiếc lược ngà viết năm 1966 tại chiến trường Nam Bộ chống Mỹ ,là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Quang Sáng, khẳng định nghệ thuật miêu tả tâm lý đặc sắc,xây dựng tình huống bất ngờ và ca ngợi tình cha con thắm thiết.Vẫn viết về một đề tài dường như đã cũ song truyện mang nhiều giá trị nhân văn sâu sắc.

Câu truyện xoay quanh tình huống gặp mặt của bé Thu và ông Sáu.Khi ông Sáu đi kháng chiên chống Pháp,lúc đó bé Thu chưa đầy một tuổi.Khi ông có dịp thăm nhà thì con gái đã lên 8 tuổi.Song bé Thu lại không chịu nhận cha vì vết thẹo trên má làm ông Sáu không giống như bức ảnh chụp chung với má.Trong ba ngày ở nhà, ông Sáu dùng mọi cách để gần gũi nhưng con bé vẫn không chịu gọi một tiếng “Ba”. Đến khi bé Thu nhận ra cha mình thì cũng là khi ông Sáu phải ra đi. Ông hứa sẽ mang về tặng con một cái lược ngà.Những ngày chiến đầu trong rứng, ông cặm cụi làm chiếc lược cho con gái.Chiếc lược làm xong chưa kịp trao cho con gái thì ông đã hi sinh.Trước khi nhắm mắt ông chỉ kịp trao cây lược cho người bạn nhờ chuyển lại cho con mình.

Hình ảnh bé Thu là nhân vật trọng tâm của câu chuyện, được tác giả khắc họa hết sức tinh tế và nhạy bén,là một cô bé giàu cá tính,bướng bỉnh và gan góc.Bé Thu gây ấn tượng cho người đọc về một cô bé dường như lì lợm đến ghê gớm,khi mà trong mọi tình huống em cũng nhất quyết không gọi tiếng “Ba” ,hay khi hất cái trứng mà ông Sáu gắp cho xuống,cuối cùng khi ông Sáu tức giận đánh một cái thì bỏ về nhà bà ngoại.Nguyễn Quang Sáng đã khéo léo xây dựng nhiều tình huống thử thách cá tính của bé Thu,nhưng điều khiến người đọc phải bất ngờ là sự nhất quán trong tính cách của bé,dù là bị mẹ quơ đũa dọa đánh,dù là bị dồn vào thế bí,dù là bị ông Sáu đánh,bé Thu luôn bộc lộ một con người kiên quyết ,mạng mẽ.Có người cho rằng tác giả đã xây dựng tính cách bé Thu hơi “thái quá”,song thiết nghĩ chính thái độ ngang ngạnh đó lại là biểu hiện vô cùng đẹp đẽ mà đứa con dành cho người cha yêu quý.Trong tâm trí bé Thu chỉ có duy nhất hình ảnh của một người cha “chụp chung trong bức ảnh với má”.Người cha ấy không giống ông Sáu,không phải bởi thời gian đã làm ông Sáu già đi mà do cái thẹo trên má.Vết thẹo, dấu tích của chiến tranh đã hằn sâu làm biến dạng khuôn mặt ông Sáu.Có lẽ trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh,nó còn quá bé để có thể biết đến sự khốc liệt của bom lửa đạn,biết đến cái cay xè của mùi thuốc súng và sự khắc nghiệt của cuộc sống người chiến sỹ.Cái cảm giác đó không đơn thuần là sự bướng bỉnh của một cô bé đỏng đảnh,nhiễu sách mà là sự kiên định,thẳng thắn ,có lập trường bền chặt,bộc lộ phần nào đó tính cách cứng cỏi ngoan cường của cô gian liên giải phóng sau này.

Nhưng xét cho cùng,cô bé ấy có bướng bỉnh,gan góc,tình cảm có sâu sắc,mạnh mẽ thế nào thì Thu vẫn chỉ là một đứa trẻ mới 8 tuổi,với tất cả nét hồn nhiên, ngây thơ của con trẻ.Nhà văn tỏ ra rất am hiểu tâm lý của trẻ thơ và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến và trân trọng một cách đẹp đẽ,thiêng liêng những tâm tư tình cảm vô giá ấy.Khi bị ba đánh,bé Thu “cầm đũa gắp lại cái trứng cá để vào chén rồi lặng lẽ đứng dậy,bước ra khỏi mâm”.Có cảm giác bé Thu sợ ông Sáu sẽ nhìn thấy những giot nước mắt trong chính tâm tư của mình? Hay bé Thu dường như lờ mờ nhận ra mình có lỗi?Lại một loạt hành động tiếp theo “Xuống bến nó nhảy xuống xuồng,mở lòi tói,cố làm cho dây lòi tói khua rổn rang ,khua thật to,rồi lấy dầm bơi qua sông”.Bé Thu bỏ đi lúc bữa cơm nhưng lại có ý tạo tiếng động gây sự chú ý.Có lẽ co bé muốn mọi người trong nhà biết bé sắp đi ,mà chạy ra vỗ về,dỗ dành.Có một sự đối lập trong những hành động của bé Thu,giữa một bên là sự cứng cỏi,già giặn hơn tuổi,nhưng ở khía cạnh khác cô bé vẫn mong được yêu quý vỗ về.Song khi “Chiều đó,mẹ nó sang dỗ dành mấy nó cũng không chịu về”,cái cá tính cố chấp một cách trẻ con của bé Thu được tác giả khắc họa vừa gần gũi,vừa tinh tế.Dù như thế thì bé Thu vẫn chỉ là một đứa trẻ 8 tuổi hồn nhiên,dẫu có vẻ như cứng rắn và mạnh mẽ trước tuổi.

Ở đoạn cuối,khi mà bé Thu nhận ra cha,thật khó để phủ nhận bé Thu là đứa bé giàu tính cảm.Tình cha con trong Thu giữ gìn bấy lâu nay,giờ trỗi dậy,vào cái giây phút mà cha con phải tạm biệt nhau.Có ai ngờ một cô bé không được gặp cha từ năm 1 tuổi vẫn luôn vun đắp một tình yêu bền bỉ và mãnh liệt với cha mình,dù người cha ấy chưa hề bồng bế nó,cưng nựng nó,săn sóc,chăm lo cho nó,làm cho nó một món đồ chơi kể từ khi nó bắt đầu làm quen với cuộc sống.Nó gần như chưa có chú ấn tượng nào về cha,song chắc không ít lần nó đã tự tưởng tượng hình ảnh người cha nó tài giỏi nhường nào,cao lớn nhường nào,có vòng tay rộng để ôm nó vào lòng ra sao?Tình cảm mãnh liệt trong nó ngăn không cho nó nhận một người đàn ông lại kia làm bố.Khi đến ngày ông Sáu phải đi,con bé cứng cỏi mạnh mẽ ngày hôm nào lại “như thể bị bỏ rơi”,”lúc đứng ở góc nhà,lúc đứng tựa cửa và cứ nìn mọi người vây quanh ba nó,dường như nó thèm khát cái sự ấm áp của tình cảm gia đình ,nó cũng muốn chạy lại và ôm hôn cha nó lắm chứ,nhưng lại có cái gì chặn ngang cổ họng nó,làm nó cứ đứng nguyên ở ấy, ước mong cha nó sẽ nhận ra sự có mặt của nó.Và rồi đến khi cha nó chào nó trước khi đi,có cảm giác mọi tình cảm trong lòng bé Thu bỗng trào dâng.Nó không nén nổi tình cảm như trước đây nữa,nó bỗng kêu hét lên “Ba…”,”vừa kêu vừa chạy xô đến nhanh như một con sóc,nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó”,”Nó hôn ba nó cùng khắp.Nó hôn tóc,hôn cổ,hôn vai,hôn cả vết thẹo dài trên má của ba nó nữa”.Tiếng kêu “Ba” từ sâu thẳm trái tim bé Thu,tiếng gọi mà ba nó đã dùng mọi cách để ép nó gọi trong mấy ngày qua,tiếng gọi ba gần gũi lần đầu tiên trong đời nó như thể nó là đứa trẻ mới bi bô tập nói,tiếng gọi mà ba nó tha thiết được nghe một lần.Bao nhiêu mơ ước,khao khát như muốn vỡ òa ra tring một tiếng gọi cha.Tiếng gọi ấy không chỉ khiến ba nó bật khóc mà còn mang một giá trị thiêng liêng với nó.Lần đầu tiên nó cảm nhận mơ hồ về niềm sung sướng của một đứa con có cha.Dường như bé Thu đã lớn lên trong đầu óc non nớt của nó.Ngòi bút nhà văn khẳng định một nhân vật giảu tình cảm,có cá tính mạnh mẽ,kiên quyết nhưng vẫn hồn nhiên,ngây thơ:Nhân vật bé Thu.
 
S

seagirl_41119

Không chỉ khắc họa thành công nhân vật bé Thu,truyện ngắn “Chiếc lược ngà” ca ngợi tình cha con sâu đậm mà đẹp đẽ.Bên cạnh hình ảnh bé Thu,hình ảnh ông Sáu được giới thiệu là người lính chiến tranh,vì nhiệm vụ cao cả mà phải tham gia chiến đấu,bỏ lại gia đình,quê hương;và đặc biệt ông là người yêu con tha thiết.Sau ngần ấy năm tham gia kháng chiến, ông Sáu vẫn luôn nung nấu khao khát cháy bỏng là được gặp con và nghe con gọi một tiếng cha.Nhưng cái ngày gặp lại con thì lại nảy sinh một nỗi éo le là bé Thu không nhận cha. Ông Sáu càng muốn gần gũi thì dường như sự lạnh lùng,bướng bỉnh của con bé làm tổn thương những tình cảm da diết nhất trong lòng ông.Còn gì đau đớn hơn một người cha giàu lòng thương con mà bị chính đứa con gái ấy từ chối.Có thể coi việc bé Thu hất cái trứng ra khỏi chén như một ngòi nổ làm bùng lên những tình cảm mà bấy lâu nay ông dồn nén,chứa chất trong lòng.Có lẽ ông biết rằng mình cũng không đúng vì suốt bảy năm trời chẳng thể về thăm con,chẳng làm gì được cho con,nên nhân những ngày này ông muốn bù đắp cho con phần nào.Giá gì không có cái bi kịch ấy,giá gì bé Thu nhận ra ông Sáu sớm hơn,thì có thể ông Sáu và bé Thu sẽ có nhiều thời gian vui vẻ,hạnh phúc.Nhưng sợ rằng một câu truyện như vậy sẽ chẳng thể gây được cảm động cho người đọc với những xúc cảm khác nhau,có lúc dồn nén,có lúc lại thương xót,có lúc lại “mừng mừng tủi tủi” cho ông Sáu khi mà bé Thu cất tiếng gọi “Ba”,tiếng gọi muộn màng nhưng lại có ý nghĩa đẹp đẽ!Ai có thể ngờ được một người lính dạn dày nơi chiến trường,quen với cái chết cận kề lại là người vô cùng yếu mền trước con gái mình.Những giọt nước mắt hiếm hoi của một cuộc đời từng trải nhiều gian khổ vất vả,song lại rơi khi lần đầu tiên ông cảm nhận được sự ấm áp của cha con thực sự!(“Không ghìm được xúc động và không muôn cho con thấy mình khóc,anh Sáu một tày ôm con,một tay rút khăn lau nước mắt”).”Ba về!Ba mua cho con một cây lược nghe ba!”, đó là mong ước đơn sơ của con gái bé bỏng trong giây pút cha con từ biệt.Nhưng đối với người cha thì đó là mơ ước đầu tiên và duy nhất,cho nên nó cứ thôi thúc trong lòng ông.Tình cảm ông Sáu dành cho bé Thu trở nên thiêng liêng,cao cả và mãnh liệt hơn biết bao khi ông tự tay làm chiếc lược ngà cho con.”Khi ông Sáu tùm được khúc ngà sung sướng như trẻ con vớ được quà”,” Ông thận trọng tỉ,mỉ…”,”Ông gò lưng khắc từng nét…”Một loạt hành động cảm động như khẳng định tình cha con sâu đậm.Tất cả tình yêu,nỗi nhớ con dồn cả vào công việc làm chiếc lược ấy. Ông nâng niu chiếc lược như nâng niu đứa con bé nhỏ của mình.Lòng yêu con đã biến một người chiến sỹ trở thành một nghệ nhân sáng tạo tài tình,dù chỉ sáng tạo môt tác phẩm duy nhất trong đời.Cuối truyện có chi tiết ông Sáu đưa tay vào túi,móc lấy cây lược,đưa cho bác Ba và nhìn một hồi lâu. Ông Sáu hi sinh mà không kịp trăn trối điều gì,chỉ có một ánh mắt với niềm ước nguyện cháy bỏng mong người bạn của mình sẽ là người thực hiện nốt lời hứa duy nhất của mình với con.Tình cảm của ông sáu khiến người ta phải thấy ấm lòng và cảm động sâu sắc.

Người mất,người còn nhưng kỷ vật duy nhất,gạch nối giữa cái mất mát và sự tồn tại,chiếc lược ngà vẫn còn ở đây.Chiếc lược ngà là kết tinh tình phụ tử mộc mạc, đơn sơ mà đằm thắm,kỳ diệu,là hiện hữu của tình cha con bất tử giữa ông Sáu và bé Thu;và là minh chứng chứng kiến lòng yêu thương vô bờ bến của ông Sáu với con.Có thể chiếc lược ấy chưa chải đượcmais tóc của bé Thu nhưng lại gỡ rối được tâm trạng của ông. Chiếc lược ngà xuất hiện đánh dấu một kết cấu vòng tròn cho câu chuyện,và cũng là bài ca đẹp tồn tại vĩnh cửu của tình cha con. (Nhan đề của chuyện cũng là “Chiếc lược ngà”!)

Cái mất mát lớn nhất mà thiên truyện ngắn đề cập là những người đã khuất,là tổ ấm gia đình không còn trọn vẹn.(Người đọc có thể bắt gặp tình huống này một lần nữa ở truyện “Chuyện người con gái Nam Xương”). Đó thật sự là tội ác,những đau thương mất mát mà chiến tranh tàn bạo đã gây ra.Chính chiến tranh đã làm cho con người phải xa nhau,chiến tranh làm khuôn mặt ông Sáu biến dạng,chiến tranh khiến cuộc gặp gỡ của hai cha con vô cùng éo le,bị thử thác,rồi một lần nữa chiến tranh lại khắc nghiệt để ông Sáu chưa kịp trao chiếc lược ngà đến tận tay cho con mà đã phải hi sinh trên chiến trường.Câu chuyện như một lời tố cáo chiến tranh phi nghĩa gây đổ máu vô ích,làm nhà nhà li tán,người người xa nhau vĩnh viễn.Song cái chúng ta thấy lại không có sự bi lụy ma là sức mạnh,lòng căm thù đã biến Thu trở thành một cô giao liên dũng cảm,mạnh mẽ, đã gắn bó với cuộc đời con người mất mát xích lại gần nhau để cung đứng lên hát tiếp bài ca chiến thắng,

“Chiếc lược ngà” như một câu chuyện cổ tích hiện đại,thành công trong việc xây dựng hình thượng bé Thu và gửi gắm thông điệp đẹp về tình cha con.Nhân vật ông Ba-người kể chuyện hay chính là nhà văn Nguyễn Quang Sáng,phải là người từng trải,sống hết minh vì cách mạng kháng chiến của quê hương,gắn bó máu thịt với những con người giàu tình yêu,nhân hậu mà rất kiên cường,bất khuất,nha văn mới có thể nhập hồn được vào các nhân vật,sáng tạo nhiều hình tượng với các chi tiết sinh động,bất ngờ,hơn nữa lại có giọng văn dung di,cảm động!

Chiến tranh là hiện thực đau xót của nhân loại,nhưng từ chính trong gian khổ khốc liệt,có những thứ tình cảm đẹp vẫn nảy nở: tình đồng chí,tình yêu đôi lứa,tình cảm gia đình,và cả tình của một người cha với con gái.Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” là một áng văn bất hủ ca ngợi tình phụ tử giản dị mà thiêng liêng,với những con người giàu tình cảm và đẹp đẽ,như nhân vật bé Thu.

Không phải spam mà vì bài dai wa' nên nó yêu cầu thế
 
B

betot00

DÀN Ý phân tích diễn biến cốt truyện trong truyện ngắn "Làng" của Kim Lân:

a/MỞ BÀI
_Giới thiệu tác giả Kim Lân và truyện ngắn “Làng”
_Giới thiệu ông Hai , người nông dân có lòng yêu làng gắn bó với tình yêu đất nước .
b/THÂN BÀI
+HCNV :Ông Hai , một người nông dân cần cù ,cuộc đời gắn bó với làng Chợ Dầu .Từ ngày tản cư xa làng ,ông rất buồn , hay sang nhà bác Thứ nói chuyện .
+PTĐĐNV
a.Ông Hai yêu làng tha thiết say đắm,thể hiện bằng việc khoe làng.
_Trước cách mạng :khoe làng giàu đẹp,sầm uất ,lăng cụ Thượng to ,đẹp …
_Sau cách mạng : không khoe lăng mà khoe những ngày khởi nghĩa dồn dập ở làng…
_Khi sống xa làng : luôn luôn nhớ ,nghĩ về làng .
•bTình yêu làng cuả ông Hai gắn bó với lòng yêu nước .
_Ông hồ hởi khi nghe những tin tức chiến thắng cuả quân ta.
_Ông đau khổ ,nhục nhã lúc nghe tin làng mình theo giặc…
_Ông sung sướng ,tự hào khi nghe tin làng Dầu vẫn trung thành với cách mạng ,khoe nhà mình bị giặc đốt.
+ĐGNV
_Ông Hai có tình yêu làng say đắm.Tình yêu làng cuả ông mở rộng thành tình yêu nước khi gặp thử thách.
_ Ông tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp .
C/ KẾT BÀI
_ Tác giả xây dựng thành công hình tượng điển hình người nông dân trong kháng chiến chống Pháp .
_Lòng yêu nước không phải là một tình cảm chung chung ,phải được biểu hiện cụ thể
 
B

betot00

Mã Giám Sinh mua Kiều
I/ MỞ BÀI :
Nói đến Truyện Kiều là nói đến quyền sống của con người bị chà đạp. Tiêu biểu cho tình trạng bị chà đạp đó là cảnh mua bán người thật thương tam trong truyện. “ Mã Giám Sinh mua Kiều” là đoạn trích minh chứng cho điều trên. Ở đoạn trích, nhà thơ đã tố cáo thế lực đồng tiền tàn bạo, phơi bày tình trạng con người bị biến thành hàng hóa; bày tỏ niềm đau đớn, căm phẫn trước tình cảnh con người bị hạ thấp và chà đạp.
II/ THÂN BÀI:
Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du giới thiệu ngắn gọn quyết định bán mình của Kiều và âm hưởng của quyết định đó. Quyết định được giới thiệu dưới hình thức ý nghĩ đau đớn của Kiều về thân phận và tấm lòng hiếu thảo. Một tư tưởng đành phận chi phối hành động của nàng “ Hạt mưa sá nghĩ phận hèn/ Liều đem tất cỏ quyết đền ba xuân”
Tư tưởng này không phải của riêng Kiều mà là chung cho biết bao thân phận người phụ nữ phó mặc cuộc đời cho số phận may rủi như trong mấy câu ca dao “ Thân em như …ruộng cày”/ “ Thân em … vào vườn hoa” / Mấy câu thơ mở đầu đoạn trích đã khơi gợi một không khí chua sót khiến người đọc cảm nhận được toàn bộ cảnh mua người đau đớn đó.
Tiếp theo nhà thơ kẻ đến mua. Lời giới thiệu thật trang nhã “ Đưa người…vấn danh”/ Nhưng sự biểu hiện qua lời ăn tiếng nói của con người của nhân vật thì hoàn toàn trái ngược, cộc lốc, thiếu giáo dục “ Hỏi tên …cũng gần” / Mã Giám Sinh là học sinh trường Quốc Tử Giám – trường học lớn nhất kinh đô xưa nhưng ăn nói thì vô lễ thực chất là một kẻ vô học. Vừa gới thiệu lả mốt viễn khách thì bây giờ là cũng gần, thế nói dối, “tiền hậu bất nhất”.
Về ngoại hình, Mã Giám Sinh ăn mặt một cách trau chuốt, nhố nhăng : “ Quá niên …bảnh bao” / “ Trạc ngoại tứ tuần” là người đã lớn tuổi, không còn trẻ tuổi. Tuổi ấy lẽ ra phải để râu nhưng đây lại chẳng có dáng mày râu. Người xưa rất coi trọng hình thức mày râu. Hai chữ “ bảnh bao” là chỉ áo quần tử tế, chải chuốt, phẳng phiu. Có người nói “ bảnh bao” là từ dùng để chỉ quần áo trẻ em, nay dùng để khen người lớn do đó nó mang hàm ý m** mai. Vậy là ngay cả tư cách đàn ông, trượng phu của MGS cũng bị phủ định. Tuy nhiên, ca7u thơ cũng có thể hiểu một cách khác : mày râu nhẵn nhụi là được cắt xén t** tót, trai lơ, đi đôi với bộ cách bảnh bao ra dáng một chú rể.
Về hành vi, cử chỉ thì MGS càng thiếu văn hóa “ Trước thầy …sỗ sàng”/ “lao xao” là từ gợi tả âm thanh vang lên từi nhiều phía, lộn xộn l\không thứ tự: tớ thầy cùng nói, không ai nhường ai. “ ghế trên” là chỗ dành cho bậc trưởng gia , cao tuổi trong nhà, nay MGS đi hỏi vợ, bậc con cái lại dành ghế trên thật chướng mắt. Tóm lại, kẻ đi mua, dù được ngụy trang bằng danh hiệu “ giám sinh” nhưng bản chất vô học hèn hạ vẫn bọc lộ trọn vẹn.
Phần còn lại của đoạn tích , tả cảnh mua người thật hiếm có. Ở đây có kẻ mua người bán. Nhà thơ đã cực tả nỗi xót xanhu5c nhã của Kiều khi đem ra làm món hàng “ Nỗi mình …mặt dày” / “ Nỗi mình” là mối tình đối với Kim Trọng vẫn còn canh cánh. “ nỗi nhà” là việc cha, việc em bị hành hạ không thể không cứu. Hai nỗi đau chồng chéo đé nặng trong lòng. Cho nên mỗi bước đi của nàng làm rơi bao nhiêu hàng lệ : khóc cho mình , khóc cho tình, khóc cho cha và em. Ngoài nỗi đau và uất ức, Kiều còn có nỗi đau xót thẹn thùng. Một người con gái khuê các, nay ra chào khách, sao khỏi sượng súng xấu hổ. Nhà thơ dùng hình ảnh bông hoa với biện pháp ẩn dụ thật tái tình. Kiều ra với MGS ví như cành hoa đem ra ngoài sương gió. Cho nên “ ngại ngùng..” Vì sương gió làm cho hoa tàn hoa rụng. Vì tự ví mình là hoa nên Kiều nhìn hoa mà thấy thẹn, tự thấy mình không xứng với hoa. Đó là tình cảm là đạo đức cao đẹp, thầm kín của Kiều mà chỉ mình Kiều cảm thấy.
Trong khi đó, thì bà mối cứ giới thiệu Kiều như một món hàng một đồ vật. Mụ vén tóc bắt tay cho khách xem; ép nàng làm thơ đánh đàn cho khách thấy mà không hề biết gì đến nỗi đau bên trong đang giày vò nàng :’ Nét buồn như cúc , điệu gầy như mai” / Quả đúng là cảnh “ cành hoa đem bán cho phường lái buồn” hết sức đau xót. Khách xem xong hàng thì ngã giá “ cò kè…bốn trăm” / Giá mua bốn trăm là một con số không lớnmà người mua còn cò kè thêm bớt mất nhiều thời giờ. Từ đó người đọc cảm nhận được sự mua bán róng riết, chi li biết chừng nào! Câu thơ “ cò kè…hai” bộc lộ rõ nhất bản chất con buôn của MGS chứ không phải là người đi kiếm vợ lẽ, nàng hầu. Tính toán của hắn hoàn toàn đặt ở tiền, chứ không đặt ở người.
Kết thúc cảnh mua bán là lời tổng kết chua chát của Nguyễn Du về sức mạnh của đồng tiền chi phối số phận con người: “ Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong”
Bằng việc miêu tả ngoại hình, cử chỉ và ngôn ngữ đối thoại để khắc họa tính cách nhân vật, tác giả đạ vạch trần bản chất xấu xa, đê tiện của MGS qua đó lên án những thế lực tàn bạo chà đạp lên sắc đẹp tài năng và nhân phẩm của người phụ nữ.
III/ KẾT BÀI:
Đoạn thơ thật hay ; cạnh mua bán rất thật ; bộ mặt kẻ mua người bán cũng được khắc họa đậm nét ; phơi bày hết bản chất, địa vị , nỗi lòng của từng loại người. Đoạn thơ là tiếng khóc cho con người lương thiện, là một lời tố cáo công phẫn cháy bỏng
 
3

3b_2l

có ai có bài phân tích tác phẩm "Bến Quê" của Nguyễn Minh Châu ko? send mình với, mốt viết bài òi :(( (ko phải phân tích nhân vật đâu nha^^ )
 
N

nhoccoi_1994

Em có vài bai, post len cho moi nguoi tham khao nha
:)Phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải

Sinh ra, lớn lên, hoạt động cách mạng và tham gia công tác văn nghệ suốt hai thời kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ngay chính trên quê hương ruột thịt của mình. Ở địa diểm nào, hoàn cảnh nào Thanh Hải cũng thể hiện được lẽ sống của mình. Đó là sự giản dị, chân thành, yêu người và khát vọng dâng hiến sức mạnh cho đời như chính cuộc sống và tâm hồn ông. có thể nói bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là món quà cuối cùng mà Thanh Hải dâng tặng cho đời trước lúc về cõi vĩnh hằng. Chính vì vậy nó bâng khuâng, tha thiết và sâu lắng hơn tất cả để cuối cùng thể hiện một Thanh Hải yêu người, yêu cuộc sống, yêu quê hương đất nước và còn là một Thanh Hải sống cho thơ và sống cho đời.
Trước lúc vĩnh viễn ra đi ông cũng để lại cho đời những vần thơ thật nhân hậu, thiết tha và thanh thản, không hề gợn một nét u buồn nào của một cuộc đời sắp tắt. Khi cuộc đời mình đã bước vào cuối đông, nhà thơ vẫn nghĩ đến một mùa xuân bất diệt, muôn thuở và nguyện dâng hiến cho đời.
Hình ảnh của một mùa xuân rất Huế đã được tác giả mở đầu cho bài thơ:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc.
Một nét đặc trưng nơi xứ Huế là hình ảnh màu tím. Một màu tím thật gợn nhẹ như màu tím hoa sim mọc giữa con sông xanh biếc hay như những tà áo dài với màu tím thật nhẹ nhàng của những cô gái Huế. Cảm xúc về mùa xuân mở ra thật ngỡ ngàng, bất ngờ, không gian như tươi tắn hơn, trẻ trung hơn, thánh thoát hơn:
“Ơi con chim chiền chiện
Hót cho mà vang trời,
Trong không gian vang vang vui tươi của tiếng chim càng đậm đà chất Huế hơn . Một từ “Ơi” đặt ở đầu câu, một từ “chi” đứng sau động từ “hát” đã đưa cách nói ngọt ngào, thân thương của Huế vào nhạc điệu của thơ.
Trước khung cảnh màu xuân ấy, Thanh Hải không giấu nổi cả xúc của mình
Từng giọt long lanh rơi,
Tôi đưa tay tôi hứng”.
Từ “giọt long lanh” không chỉ hiểu là giọt mưa xuân trong anh sáng của sắc xuân mà còn được hiểu là giọt âm thanh, giọt sắc màu, giọt thời gian khiến tác giả say sưa ngây ngất . Một từ “hứng” cũng đủ diễn tả sự trân trọng của nhà thơ đối với vẻ đẹp của trời, của sông, của chim muông hoa lá; đồng thời cũng thể hiện cảm xúc trọn vẹn của Thanh Hải trước mùa xuân của thiên nhiên đất trời.
chỉ bằng vài nét điẻm xuyến phác hoạ tác giả đã vẽ ra một không gian cao rộng, sắc màu tươi thắm, âm thanh vang vọng tươi vui của mùa xuân, của thiên nhiên đất trời.
Từ mùa xuân của thiên nhiên đất trời, tác giả đã chuyển cảm nhận về mùa xuân của cuộc sống, nhân dân và đất nước. Với hình ảnh “người cầm súng” và “người ra đồng”, biểu tượng của hai nhiệm vụ: chiến đấu bảo vệ tổ quốc và lao động tăng gia để xây dựng đất nước với những câu thơ giàu hình ảnh và mang tính gợi cảm:
“Mùa xuân người cầm súng,
Lộc giắt đầy trên lưng.
Mùa xuân người ra đồng,
Lộc trãi dài nương mạ.
Tất cả như hối hả,
Tất cả như xôn xao…”
Hình ảnh mùa xuân của đất trời đọng lại trong lộc non đã theo người cầm súng và người ra đồng, hay chính họ đã đem mùa xuân đến cho mọi miền của tổ quốc thân yêu.
Tác giả đã sử dụng biện pháp điệp từ, điệp ngữ như nhấn mạnh và kết thúc một khổ thơ bằng dấu ba chấm. Phải chăng dấu ba chấm như còn muốn thể hiện rằng: đất nước sẽ còn đi lên, sẽ phát triển, sẽ đến với một tầm cao mới mà không có sự dừng chân ngơi nghỉ.
Sức sống của “mùa xuân đất nước” còn được cảm nhận qua nhịp điệu hối hả, những âm thanh xôn xao của đất nước bốn ngàn năm, trải qua biết bao vất vả và gian lao để vươn lên phía trước và mãi khi mùa xuân về lại được tiếp thêm sức sống để bừng dậy, được hình dung qua hình ảnh so sánh rất đẹp:


“Đất nước bốn ngàn năm
Vất và vào gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”
Cùng với động từ Cứ đặt ở đầu câu, tác giả đã khẳng định một sự khẩn trương, hói h, náo nức vào xuân của đất nước với vẻ đẹp lung linh, lấp lánh đang vững bước về phía trước khiến không một thế lực thù địch nào có thể ngăn cản nổi.
Đó chính là lòng tự hào, lạc quan, tin yêu của Thanh Hải đối với đất nước, dân tộc. Những giọng thơ ấy rất giàu sức suy tưởng và làm say đắm lòng người.
Từ cảm xúc của thiên nhiên, đất nước, mạch thơ đã chuyển một cách tự nhiên sang bày tỏ suy ngẫm và tâm niệm của nhà thơ trước mùa xuân của đất nước. Mùa xuân của thiên nhiên, đất nước thường gợi lên ở mỗi con người niềm khát khao và hi vọng; với Thanh Hải cũng thế, đây chính là thời điểm mà ông nhìn lại cuộc đời và bộc bạch tâm niệm thiết tha của một nhà cách mạng, một nhà thơ đã gắn bó trọn đời với đất nước, quê hương với một khát vọng cân thành và tha thiết:
“Ta làm con chim hót,
Ta làm một cành hoa.
Ta nhập vào hoà ca,
Một nốt trầm xao xuyến”
Lời thơ như ngân lên thành lời ca. Nếu như đoạn đầu Thanh Hải xưng tôi kín đáo và lặng lẽ thì đến đoạn này ông chuyển giọng xưng ta. Vì sao có sự thay đổi như vậy? Ta ở đây là nhà thơ và cũng chính là tất cả mọi người. Khát vọng của ông là được làm con chim hót dâng tiếng ca lảnh lót , một cành hoa toả hương khoe sắc để hoà nhập vào “mùa xuân lớn” của đất nước, góp một nốt trầm vào bản hoà ca bất tận của cuộc đời. Hiến dâng “mùa xuân nho nhỏ” nghĩa là tất cả những gì tốt đẹp nhất, dù nhỏ bé của mỗi người cho cuộc đời chung cho đất nước. Điều tâm niệm đó thật chân thành, giản dị và tha thiết – xin được làm một nốt trầm trong bản hoà ca của cuộc đời nhưng là “một nốt trầm xao xuyến”.
Điều tâm niệm của tác giả: “lặng lẽ dâng cho đời” chính là khát vọng chung của mọi người, ở mọi lứa tuổi, chứ đâu phải của riêng ai. Thanh Hải đã thể hiện hết mình vì lòng tin yêu cuộc sống và khiêm tốn hiến dâng cho đất nước, cho cuộc đời, bởi vậy, xuất phát từ tiếng lòng thiết tha, nhỏ nhẹ, chân thành của tác giả nên lời thơ dễ dàng được mọi người tiếp nhận và chia sẻ
“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”.

Một mùa xuân nho nhỏ hay phải chăng cũng là một ẩn dụ cho chính cuộc đời của tác giả: sống là cống hiến, cống hiến chính là mùa xuân của cuộc đời?Mà mùa xuân ấy thì là mãi mái: “Dù là tuổi hai mươi” khi mới tham gia kháng chiến cho đến khi tóc bạc, khi sức cùng lực kiệt vẫn lặng lẽ dâng hiến cho đời . và, dù Thanh Hải cũng có đi xa thì những lời ca tiếng hát mà ông để lại cho đời mãi mãi vẫn có giá trị, mãi mãi vẫn tô điểm cho đất nước đẹp xinh. Điệp ngữ dù là được tác giả nhác lại hai lần như một lời hứa, một lời khẳng định của nhà thơ: sống là phải cống hiếntuyệt đối.nNhư nhà thơ Tố Hữu đã từng viết :

“Nếu là con chim, chiếc lá,
Con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không trả,
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình.”
Tác giả Kết thúc bài thơ bằng một âm điệu xứ Huế: điệu Nam ai, Nam Bình mênh mang tha thiết, là lời ngợi ca đất nước, biểu hiện niềm tin yêu và gắn bó sâu nặng của tác giả với quê hương, đất nước, một câu chân tình thắm thiết
“Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai, Nam Bình
Nước non ngàn dặm tình
Nước non ngàn dặm mình
Nhịp phách tiền đất Huế”

Những lời tâm sự cuối cùng của người sắp mất luôn là những lời thực sự, luôn chứa chan tình cảm, ước nguyện sâu lắng nhất… và bài thơ này cũng chính là những điều đúc kết cả cuộc đời của Thanh Hải. Ông đã giải bày, tâm tình những điều sâu kín nhất trong lòng, và chính lúc đó Thanh Hải đã thả hồn vào thơ, cùng chung một nhịp đập với thơ để ông và thơ luôn được cùng nhau, hiểu nhau và giải bày cho nhau.
Với thể thơ năm chữ, mang âm hưởng dân ca nhẹ nhàng tha thiết, giàu hình ảnh, nhạc điệu, cất trúc thơ chặt chẽ, ‘’Mùa xuân nho nhỏ’’ mang một nét đặc sắc riêng Nét đặc sắc đó là ở chỗ nó đề cập đến một vấn đề lớn và quan trọng “nhân sinh”, vấn đề ý nghĩa cuộc sống của mỗi cá nhân được Thanh Hải thể hiện một cách chân thành, thiết tha, bằng giọng văn nhỏ nhẹ như một lời tâm sự, gửi gắm của mình với cuộc đời. Nhà thơ ước nguyện làm một “mùa xuân” nghĩa là sống đẹp, sống với tất cả sức sống tươi trẻ của mình nhưng rất khiêm nhường; là “một mùa xuân nho nhỏ” góp vào “mùa xuân lớn” của đất nước của cuộc đời chung .Bài thơ cũng có ý nghĩa hơn khi Thanh Hải nói về “mùa xuân nho nhỏ” nhưng nói được tình cảm lớn, những xúc động của chính tác giả và của cả chúng ta.:cool:
 
N

nhoccoi_1994

Bai nay em suu tam thoi
CON CÒ
Đã là người Việt nam, ai lớn lên mà chẳng mang theo, dù ít, dù nhiều hơi ấm của những lời ru, những lời yêu thương êm đềm khi xưa mẹ hát. Đã mang trong mình dòng máu Việt, ai mà chẳng có một góc tuổi thơ trong sang, hồn nhiên, chập chờn theo đôi cánh cò trắng ở nơi sâu thẳm hoài niệm, tâm hồn. Chế Lan Viên cũng vậy, ông cũng là người Việt Nam, dòng máu chảy trong huyết quản ông cũng mang tên Lạc Hồng, có lẽ vì thế, trong thơ ông, dù là suy ngẫm, dù là triết lí, ta vẫn gặp lời ru ầu ơ của mẹ, ta vẫn thấy kỉ niệm tuổi thơ nồng cháy, ta vẫn nghe trong gió thong thả nhịp vỗ cánh cò. Và “Con cò” là bài thơ tiêu biểu cho một hồn thơ như thế, một bài thơ mà chất triết lí, suy tưởng đã hoà làm một với những lời ca đẹp đẽ nhất ca ngợi tình mẹ, ca ngợi ý nghĩa của những lời hát ru với cuộc đời mỗi con người.
Trong trang thơ, cánh cò không tự có, không tự hiện hữu bất di bất dịch như muôn vàn câu chữ của thi ca, nó phải bay ra từ một miền xa xôi lắm. Chế Lan Viên đã đánh thức cánh cò yên ngủ, gọi cò về với những lời ru ấp ủ trong tâm hồn thi nhân để rồi, qua lời ru của mẹ trên trang thơ, con cò bắt đầu đến với tuổi thơ diệu kì của đứa trẻ. Dịu dàng, ên ái, người mẹ bắt đầu thủ thỉ, tâm tình với niềm yêu thương tha thiết: “Con cò bế trên tay
Con chưa biết cánh cò
Nhưng trong lời mẹ hát
Có cánh cò đang bay”
Rất tự nhiên, mẹ thấy con vẫn còn bé bỏng lắm, vẫn còn phải bế trên tay mẹ. Con đã biết cánh cò trắng là gì đâu, con đã biết cuộc đời xung quanh là gì đâu, con chỉ đón nhận cuộc đời một cách vô thức. Vô thhức thôi nhưng dường như đứa trẻ đã cảm nhận được cánh cò trắng đang bay đến bên mình, đã nghe thấy âm điệu ngọt ngào trong trẻo của lời ru. Em chưa hiểu tình mẹ, nhưng mơ hồ, em đã thấy bên em một sự che chở, vỗ về thiêng liêng, một tình yêu thương êm đềm, trìu mến. Và cánh cò, cánh cò bắt đầu chao lượn trong lời hát ru con:
Con cò bay la
Con cò bay lả
Con cò cổng phủ
Con cò Đồng Đăng
Thi sĩ không trích hết lời ca dao, chỉ gợi thôi mà cả một bầu không khí đã rất xa xăm bỗng trở về nguyên vẹn. Nơi thanh bình và yên ả. Nơi ấy có cánh cò, có những hình ảnh rất đẹp đã đi vào tiềm thức không biết bao thế hệ con người. Ở nơi ấy, ta vẫn nghe được tiếng cuộc đời vất vả, nhọc nhằn của người nông dân và đặc biệt là những người phụ nữ, những người chị, người mẹ Việt Nam, tiếng những đứa con yêu thương tha thiết, sẵn sang hi sinh cho con tất cả những cánh cò kia, dù sa cơ, dù chết cũng xin được “xáo nước trong” để khỏi mang tiếng xấu cho đàn con nhỏ. Dẫu rằng đó là lời hát ru, lời ca dao cách tân trong thơ hiên đại, cánh cò vẫn mang theo cả nỗi buồn, niềm vui hoà lẫn, khiến người đọc phải nghĩ, phải suy. Người mẹ ru con trong vất vả, nhọc nhằn càng gieo thêm đắng cay, cái vị đẵng cay mà Xuân Quỳnh từng không giấu nổi xúc động khi nghe câu hát ấy trong “gió Lào” và “cát trắng” miền Trung:
“Trong gió nóng những trưa hè ngột ngạt
Mẹ ru tôi hạt cát sạn hàm răng”
Lời ru của mẹ có đứa con bé bỏng, có cánh cò yếu đuối, nó không còn là lời hát ru nữa, nó là lời tâm tình của trái tim người mẹ nhân từ, bao dung. Khi thì mẹ thương con, khi thì mẹ thương cánh cò cả cuộc đời yếu đuối. Dù rằng lời ru có mang theo bao điều như thế, em bé vẫn say ngủ ngon lành. Tình mẹ hoà vào lời ru vẫn vỗ về tâm hồn non nớt, vẫn cho con niềm yêu thương và che chở tuyệt vời. Bầu không khí của hoài niệm quá khứ dần dần khép lại, đưa con người trở về với thực tại, với mẹ, với em:
Ngủ yên! Ngủ yên! Cò ơi, chớ sợ!
Cánh cò mềm mẹ đã sẵn tay nâng
Lời mẹ trứoc kia còn trầm, buồn vang lên trong cái âm điệu dài, xa vắng vậy mà giờ đây sao trìu mến, sao tha thiết đến lạ lung, vỗ về, nâng giấc tình yêu, thi nhân bước đến khoảng trời vời vợi chân lí, nơi ấy có một sự thực mà cả đời người kiếm tìm mới chợt hiểu, nó ở bên ta, nó ở giữa cuộc đời:
Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi suốt đời lòng mẹ vẫn theo con.
“Dù”, “vẫn”, sự khẳng định chắc chắn hơn bao giờ hết. Nó hiển nhiên như chính cuộc đời. Con dù lớn khôn, dù trưởng thành đến đâu, trước long mẹ bao la con vẫn luôn bé bỏng. Mặt trời con luôn sưởi ấm trái tim mẹ, còn mẹ, mẹ mãi yêu con, yêu con bằng tình yêu theo bé bước đi mãi mãi. Tình mẹ là thế, bao la, lời ru của mẹ là thế, êm đềm, tha thiết, suốt đời con được hưởng, suốt đời con tìm thấy, nhưng chắc gì con đã thấu hiểu, cả cuộc đời mẹ đã gửi vào trong đó tất cả tình cảm, tất cả sự chở che, tất cả tình yêu thương êm đềm tha thiết:
Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru
( Nguyễn Duy )
Nhà thơ Nguyễn Duy đã viết những vần thơ như thế vì bằng trải ngiệm ông đã hiểu cái bao la bất tận của tình mẹ yêu con. Còn Chế Lan Viên, thi sĩ tìm thấy trong cánh cò yêu thương bay ra từ câu hát, một triết lí thiêng liêng đủ soi rọi mọi tâm hồn tận ngóc ngách sâu thẳm nhất. Có lẽ phút hiểu ra cái điều cả đời mình tìm kiếm, nhà thơ phải nén lại niềm xúc động đến rưng rưng trực tuôn trào ra khoé mắt để viết lên cái điều ấp ủ bấy lâu, rằng tình mẹ là vĩnh hằng, bất diệt, luôn tìm thấy bên cuộc đời chúng ta, rằng long mẹ là bao la, vô bờ bến, luôn ôm ấp tâm hồn mỗi con người. Với mẹ, con là hơi ấm nồng nàn, là sự sinh tồn, sự sống, con đem lại cho mẹ hơi sống, niềm hạnh phúc yêu thương lớn nhất cuộc đời. Ta chỉ có thể nói như vậy về cái quy luật bất biến ấy, vì tự nó đã nói lên tất cả những điều thấm thía nhất trong cuộc đời. Biểu tượng của long mẹ thì thiêng liêng, biểu tượng của cuộc đời thì ấm áp:
À ơi
Một con cò thôi
Con cò mẹ hát
Còng là cuộc đời
Vỗ cánh qua nôi

Đúng như lời nhà phê bình Phạm Thu Yến viết:
“Sau lời à ơi ban đầu, người hát quên mình đang trò chuyện với đứa con, … Người mẹ dường như đang đối thoại với chính long mình”
lời hát chỉ là lời ru qua cái “à ơi” quen thuộc, còn tất cả, chúng đã thuộc về tâm sự của cả đời người mẹ, nghĩa là thuộc về cái thế giới nội tâm trong sâu thẳm tâm hồn. Mẹ ru con từ lúc tóc còn xanh đến khi đầu bạc, nào ai đếm được nỗi buồn vui cuộc đời mẹ đã gửi vào lời hát. Cánh cò cũng thế, nó mang theo sự phát triển cuối cùng, trở thành cuộc đời, cũng buồn, cũng vui, còng nông sâu như lßng mẹ, mẹ mang cả vào giấc ngủ của con. Nó là tiếng long của một người phụ nữ mà cũng là tất cả những người phụ nữ trên dất nước Việt Nam. Nó là âm thanh của một cuộc đời khắc khổ, một kiếp sống nghèo nhưng chan chứa niềm hạnh phúc, yêu thương chân thành mộc mạc con người Việt Nam đã ôm ấp từ muôn thủa ngày xưa, sau luỹ tre làng, bên cây đa, bến nước, mái đình thân thuộc. khi con cò “vỗ cánh qua nôi’ em bé đâu có biết, cò đã chở theo cả một đời người về bên câu hát, đời người như mẹ, như chị, như cuộc đời tất cả nhũng người phụ nữ Việt Nam chỉ biết sống, sống và hi sinh hết thảy, trong lặng lẽ, âm thầm. Cuộc đời ấy, dù đắng, dù cay, dù khổ đau, dù mất mát vẫn muôn đời là vậy. son sắt, thuỷ chung, cho đến khi nhắm mắt xuôi tay, cho đến khi ngọn gió cuộc đời ngừng thổi vào cái kiếp người đã thuộc về yêu thương và nước mắt:
Cánh của cò hai đứa đắp chung đôi
Có bao giờ cánh cò đẹp và thân thiết đến vậy không? Có bao giờ sự liên tưởng của con người lại trong và tinh kh«i đến vậy ko? để một cánh cò bay ra từ câu hát gợi lên cả niềm yêu thương và tấm lßng của con người? Cò và em bé như đôi bạn thân thiết, nghĩa là cũng trong s¸ng cũng hồn nhiên cũng chan chứa biết bao ước mơ và hi vọng như màu cánh cò trắng, thong thả nhịp bay trên bầu trời xanh thẳm tương lai. Hai người bạn hai tâm hồn non nớt, Đắp chung đôi cánh ấm áp của cò. Hình ảnh thơ có cái hiện thực của cuộc đời quanh em bé vừa có cái huyền ảo, lấp lánh của một thế giới cổ tích xa xăm, gợi lên sự gắn bó thân thiết, cùng chia ngọt sẻ bùi, cùng bên nhau dù là trong giấc ngủ tuổi thơ, dù là trên con đường tương lai rộng bước. cánh cò bay ra từ câu hát ru con cũng như lời ru, cũng như tình mẹ sẽ theo con dù hết cuộc đời. Ôi, với mỗi người, đâu có niềm hạnh phúc nào bằng niềm hạnh phúc được che chở yêu thương trong tình mẹ bao la, vô bờ bến, đâu có sự chuẩn bị quý giá nào bằnh tâm hồn trong s¸ng, tinh khôi mẹ ấp ủ cho con bằng cả trái tim mình. Từ tuổi thơ, mẹ trông thấy trên bước đường con đi , những buổi cắp sách đến trường đầy niềm vui, hi vọng. Ở n¬i ấy vẫn có cánh cò tuổi thơ, vẫn có tình mẹ đi theo dìu dắt. Tình mẹ cứ theo con đi suốt năm tháng, trở thành hành trang cho đứa con bé bỏng bước vào đời. Con sẽ bước đi trong niềm tin mạnh mÏ vì:
Cánh cò trắng bay theo gót đôi chân
Cánh cò tuổi thơ sẽ chắp cánh giấc mơ đẹp đẽ, đưa em đến những phương trời xa. Như cánh cò trong thơ Trần Đăng Khoa khiêng nắng về đánh thức ngày mới:
“ Cánh cò trắng khiêng nắng qua s«ng…”
Cánh cò cña Chế Lan Viên biết đánh thức cả bầu trời lấp lánh hi vọng những vì sao mơ ước, cho em thơ tương lai đẹp đẽ, sáng rực lên muôn vạn sắc màu. Và trong muôn vàn sắc màu rực rỡ ấy, rất nhẹ nhàng đọng lại một thứ màu dìu dịu yêu thương, màu của tình mẫu tử, để rồi cho con. Đâu rồi cái cánh cò trắc trờ, hiểm nguy trong câu hát thủa xưa, chỉ còn cánh cò em,, ngủ ngon trong vòng tay mẹ. Em và cò hoá thân vào nhau trong vòng tay ấm áp yêu thương. Cứ như vậy, em bé ngủ yên trong tình mẹ dạt dào, trong sự che chở, chăm sóc, nâng niu ẩn chứa yêu thương vô bờ bến. Đứa bé đón nhận tình yêu, đón nhận lời ru vô thức để rồi mang hơi ấm của lời ru vô thức ấy đi theo suốt cuộc đời. Lời ru - giọt mật đầu tiên mẹ rót cho em bé trong cuộc đời nó sóng sánh tình mẹ, sóng sánh không khí của đất tròi thấm vào lời ru. Em ngủ say, ngủ say trong tình mẹ, ngủ say trong tình yêu thương của đất trời bao la ban cho những thiên thần cho những tâm hồn bé nhỏ. Và khi ấy, dù:
“ Con chưa biết con cò, con vạc
Con chưa biết những cành mền mẹ hát
Sữa mẹ nhiều con ngủ cgẳng phân vân”
mẹ vẫn gọi con mẹ vẫn nhắc tên con, sự lặp lại những lời yêu thương ấy là lời nhắn nhủ, lời giãi tỏ tâm tình, tràn đầy tình yêu con. Cánh cò, cánh vạc bay, ngân xa mãi tình yêu vô tận ấy. Em bé có hiểu tình mẹ ko nhỉ? Nhưng thôi, cứ ngủ đi em ạ, vì còn gì em ả, thanh bình bằng giấc ngủ của em trong lời ru ầu ơ tha thiết.
Cánh cò đến, trong lời ru tuổi thơ, dịu dàng, êm ái là vậy mà theo ta đi mãi, đi suốt những chặng đường dài, gắn bó bền bỉ, thân thương cho con người tựa vững chắc nhất

“ Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên!”
Lời ru của mẹ vỗ về cho em ngon giấc, nó ngọt lịm, thanh bình như tình mẹ bao thủa vẫn vậy, vẫn nhẹ nhàng nâng đỡ đời con. Và cánh cò, từ một miền xa xăm nào đó, lại đến cùng lời mẹ hát ru, chở theo cả niềm yêu thương ấm áp về cùng giấc ngủ trẻ thơ:
Cho cò trắng đến làm quen
Cò đứng ở quanh nôi, rồi cò vào trong tổ
Con ngủ yên thì cò cũng ngủ
Lý muôn đời of tình mẹ, of lời hát ru con. Chẳng cần phải rút ra một châm nghiệm to tát, chẳng cần phải trau chuốt lời văn, ý thơ đâu, nhẹ nhàng thôi, giản đơn thôi, thi sĩ làm xao xác tận sâu thẳm tâm hồn người đọc;
“ Dù ở gần con
Dù ở xa con
Lên rừng xuỗng bể
Cò sẽ tìm con
Cò mãi yêu con”
 
N

nhoccoi_1994

Ta tự hỏi lòng chẳng lẽ còn thứ tình cảm tha thiết, mãnh liệt hơn thứ tình cảm kia nữa? Một tình cảm vượt lên trên tất cả khó khăn, ngăn cách, nối liền những nẻo xa xăm, một tình cảm có sức lay động, ám ảnh tâm can dù mới chỉ làn đầu nhìn thấy. ôi! Tình mẫu tử… có lẽ còn thiêng liêng hơn mọi điÒu thiêng liêng nhất. Lặp cấu trúc ngữ pháp ư? đối ư? Và còn cả điệp từ nữa? đừng hỏi vỉ sao thi sĩ lại viết như thế, vì đâu còn cách nào khác diễn tả hết sự thiêng liêng cao quý of tình mẹ, of tấm lòng ăm ắp nhân hậu đầy yêu thương trong trái tim người mẹ dành cho con. Con có thể ngủ yên, có thể vui sướng cắp sách đến trường, có thể vững bước chắc trên đường đời song gió, tất cả vì đã có tình mẹ chở che, nâng bước con đi. Dù ở đâu, dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, lòng mẹ cũng như cánh cò kia, vẫn bên con, vẫn lặn lội đi tìm, lặn lội sưởi ấm trái tim con, cho con sức mạnh, cho con niềm tin vào cuộc sống. Mẹ có thể làm tất cả vì con như cánh cò kia một đời hi sinh ko mệt mỏi. Lời thơ ẩn chứa một sức mạnh tiềm tàng, một sự khẳng định chắc chắn: tình mẹ bền chặt sẽ theo con đi suốt cuộc đời, sẽ trở thành một phần tâm hồm ko thể thiếu, soi rọi mọi nẻo đường con sẽ bước chân qua. Tình mẹ, lònh yêu thương bao la của mẹ sẽ gửi trọn vào cuộc đời con mãi mãi, vì với mẹ đâu còn thứ gỉ thiêng liêng và gần gũi hơn con, hơn vầng mặt trời ấm ý nghĩa nhất đời mẹ, hơn lẽ sống mà vì nó mẹ có thể dâng trọn cuộc đời. Từ gấp lại trang sách, em bé sẽ theo cò bước thẳng vào cuộc đời mai sau. Kì thực em bé vẫn còn bé bỏng lắm, vẫn còn đang ngủ ngon lành trong cánh nôi tuổi thơ nhưng ước mơ of mẹ về một tương lai đẹp mai sau cứ theo tình yêu cháy lên mãi. mẹ độc thoại với chính lònh mình, tự soi long mình trong tình cảm yêu con tha thiết:
“ Lớn lên, lớn lên, lớn lên…
Con làm gì?
Con làm thi sĩ
Cánh cò trắng lại bay hoài kh«ng nghỉ
Trước hiên nhà
Và trong hơi mát câu văn…”
Chưa bao giờ ước mơ cháy bỏng, tha thiết đến như thế, mẹ ước mơ và gửi trọn ước mơ ấy vào đôi chân con mai này sẽ bước trên đường đời, sẽ vươn tới những khát khao mẹ ấp ủ bằng cả niềm tin. mẹ hỏi lòng và tự trả lời cho câu hỏi: mẹ muốn con làm thi sĩ, mang cái đẹp đến cho cuộc đời qua những vần thơ về mẹ, về con, về cuộc sống xung quanh đang từng ngày nuôi con lớn khôn. Mẹ muốn cuộc đời con mãi mãi đẹp. mãi mãi trong sáng như bài thơ đẹp đẽ nhất. Và bên con, cánh cò vẫn còn đó, vẫn bền bỉ chở ý thơ theo đôi cánh bay bổng. cò mãi mãi hồn nhiên trong sáng, mãi mãi đem theo ý thơ gắn kết cuộc đời, cò sẽ còn mãi mãi dịu nhẹ, khẽ lướt trong hơi mát câu văn tô điểm thêm giá trị tinh thần of cuộc sống, nuôi lớn những tâm hồn đẹp đẽ biết ước mơ. Cánh cò cứ lớn dần, cứ đẹp dần trong lời ru of mẹ, chở yêu thương đi khắp nẻo thế gian. Cánh cò đã đuợc hình tượng hoá thành tình mẹ, yêu thương, che chở, nuôi dưỡng tâm hồn con. Phải sống trong cái nôi yêu thương ấy, phải để lêi ru thấm vào từng hơi thở, ta mới chợt hiểu tình mẹ cao đẹp, bao la quý giá biÕt nhường nào. Mẹ ru con đó là sự yên ổn thanh bình. Từ lâu lời ru rất đỗi bình dị, từ cánh cò rất đỗi thân quen, thi sĩ đã khái quát thành triết cảm, of tình mẫu tử thiêng liêng…
 
N

nhoccoi_1994

Bai Ben que day ne, nhung to chi suu tam thoi day
BẾN QUÊ​
Bước ra khỏi chiến tranh, mỗi người lính có một ngã rẽ riêng để trở về với cuộc đời thường nhật. Trong vô vàn cái bãng lặng lẽ trở về ấy, ta bắt gặp như vô tình cái bãng hình nhà văn Nguyễn Minh Châu. Trở về lặng lẽ, tiếp tục tìm tòi lặng lẽ, ngòi bút Nguyễn Minh Châu vẫn chứa đựng những khám phá mới mẻ, sâu sắc, vẫn mang cái nhìn từng trải chắc chắn của con người đã tôi luyện qua lò lửa chiến tranh. Chính bằng ngòi bút ấy, nhà văn đã dựng lên một “Bến quê” mang ý nghĩa triết lí, mang đầy trải nghiệm về một đời người. Có lẽ sẽ chẳng ai gấp lại trang sách “Bến quê” mà không cảm thấy một nỗi buồn bồi hồi, xúc động trào dâng. Có chút gì đó se sẽ buồn, có chút gì đó se sẽ xót xa, ân hận nhưng những cảm nhận sâu sắc về vẻ đẹp bình dị, gần gũi của quê hương thì vẫn còn lắng đọng mãi mãi trong sâu thẳm tâm hồn mỗi người đọc chúng ta.
Cũng như nhiều tác phẩm của mình, trong “Bến quê”, Nguyễn Minh Châu đã khai thác rất thành công tình huống truyện mang đầy nghịch lí. Có lẽ những nghịch lí ấy, dưới ngòi bút tài hoa là thứ công cụ đắc lực nhất, thể hiện một chiều sâu triết lí, tư tưởng. Mở đầu trang truyện, hình ảnh Nhĩ -nhân vật chính- hiện lên trong hoàn cảnh thật đáng thương.”Suốt cuộc đời, Nhĩ đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên Trái Đất. Vậy mà, gần một năm nay căn bệnh quái ác đã cột chặt lấy anh vào giường bệnh. Liệt toàn thân, tự nhích người di chuyển vài chục phân trên tấm nệm khó bằng bay nửa vòng Trái Đất, sinh hoạt chủ yếu nhờ vào sự giúp đỡ của Liên. Anh giờ đây dâu có khác một đứa trẻ là mấy. Chiếc giường bệnh dường như là chiếc nôi, còn đôi bàn tay người vợ tần tảo dường như là đôi bàn tay người mẹ thủa nào, vẫn hiện về trong miªn man kí ức. §ã có lần anh nhận ra trong một dòng suy nghĩ hài hước cái hoàn cảnh không biết phải gọi là bi kịch hay hài kịch của bản thân:“Nhĩ nhận thấy hoàn cảnh của mình thật buồn cười, y như một đứa bé mới đẻ đang toa toét cười với tất cả, tận hưởng sự thích thú được chăm sóc và chơi với”
Đó là nghịch lí hay số mệnh? Đã là số mệnh sao lại phũ phàng đến thế?Có lẽ nào nghịch lí cuộc đời đã nhiều lần bắt anh day dứt thế chăng? Trong những ngày như thế, anh có nhiều thời gian hơn để suy ngẫm và chiªm nghiệm về cuộc đời trong những ngày tháng đã qua. Và số mệnh lại một lần nữa cất cao tiếng nói, vẫn là nghịch lí, nhưng là một nghịch lí con người đã quên bẵng bấy lâu. Nhĩ nhận ra vẻ đẹp của cái bãi bồi bên kia s«ng Hồng, ngay trước khung cửa sổ. “Cả một vùng phù sa lâu đời của bãi bồi ở bên kia sông Hồng, lúc này đang phô ra trước cửa sổ gian gác nhà Nhĩ một thứ màu vàng thau xen lẫn với màu xanh non-Những sắc màu quen thuộc quá, như da thịt, hơi thở của đất màu mỡ”.
Có ngờ đâu cả cuộc đời Nhĩ đã từng in gót khắp năm châu mà chưa tùng một lần đặt chân lên cái bờ sông trước mặt mình. Như một định mệnh, miền đất cuộc đời anh mãi mãi chẳng thể đặt chân lên. Nghịch lí cuộc đời, bất chấp lời khẩn khoản tha thiết nhất của Nhĩ, vẫn sắp đặt một ®ịnh mệnh để Tuấn- con anh- sà vào đám cờ phá thế ven đường và m¬ ước cháy bỏng đến cuối cuộc đời anh mới chiêm nghiệm ra tắt vụt trong vô vọng. Đó có lẽ cũng là một nhận thức về cuộc đời mà nhà văn lặng lẽ gửi vào tình huống mang nghịch lí phũ phàng với cái tâm hồn khắc khoải trong những ngày tháng cuối cuộc sống và số phận con người chứa đầy những ngẫu nhiên, những nghịch lí vượt khỏi dự định, ước muốn, sự hiểu biết và cả toan tính của con người. Bằng suy ngẫm, bằng tổng kết qua biết bao trải nghiệm con người mới nhận ra triết lí mà cuộc đời nào rồi cũng phải đón nhận : Con người ta, bước trên đường đời khó tránh khỏi những vòng vèo, chùng chình cuộc sống giăng ra trước lối. Chỉ có những vẻ đẹp gần gũi thiêng liêng là có thể cho ta chỗ dựa, nâng cho ta tiếp bước trên đường đời. Với Nhĩ, đó là cái bãi bồi bên kia s«ng, là người vợ tần tảo giàu đức hi sinh, đến lúc này anh mới thấm thía.
“Bến quê” được viết theo cách nhìn và tâm trạng của nhân vật Nhĩ, nó mang màu sắc và chiều sâu nội tâm rất chủ quan của cá nhân nhân vật trữ tình. Ngòi bút Nguyễn Minh Châu đã tạo nên một sức hút mạnh mẽ khi xây dựng nhân vật Nhĩ mang những tình cảm, suy ngẫm sâu sắc, chan chứa trải nghiệm, triết lí về đời người, về ý nghĩa của những điều ta chiêm nghiệm được từ cuộc sống và cuộc đời mỗi con người. Những ngày cuối cuộc đời, trong cái dòng chảy của suy ngẫm và tình cảm mới xuất hiện nơi Nhĩ, thiên nhiên như đẹp hơn, chiếu vào cuộc đời Nhĩ cái nhìn gần gũi, trìu mến hơn tất cả những gì anh đã từng được biết. Sáng đầu thu hiện lên trong không gian gần xa như một bức tranh lên cái thần của cảnh sắc. Đó là những b«ng hoa bằng lăng nở muộn sắc đang phai giữa không gian vời vợi trong vắt của bầu trời. Nắng soi lên dòng s«ng uốn lượn mềm mại, đỏ nhàn nhạt màu nước phù sa, soi lên cái chiều rộng, chiều sâu của bãi bồi ngay trước khung cửa sổ. Nó là tâm điÓm cũng là cái thần sắc của bức tranh… Nhĩ say sưa chiêm ngưỡng vẻ đẹp đến kì lạ áy, chiêm ngưỡng trong sự bất ngờ, ngạc nhiên đến thích thú. Cũng phải thôi, sau bao ngày in gót khắp năm châu, đây là những phút cuối cùng anh được sống thanh thản giữa quê hương, giữa những cảnh vật, con người đã ngàn lần phô ra trước mắt. Anh thấy nó đẹp đến kì lạ, bởi vì đó là lần đầu tiên anh say sưa chiêm ngưỡng nó, say sưa khám phá cái ẩn mình bên trong lớp vỏ gần gũi, hiền lành đã quen thuộc bấy lâu.
Có lẽ anh đã yêu, yêu tha thiết sự giàu có, đơn sơ, gần gũi mà vô cùng mới mẻ của thiên nhhiên. Nhưng khi tình yêu ấy chớm nở, cũng là lúc con người Nhĩ nhận ra nó đã nhen lên trong vô vọng. Anh có thời gian để ngắm nhìn nó nhưng thời gian để bước đi, số phận đã cướp đoạt khỏi tay anh. Cay đắng nào bằng khi nhận ra cảnh vật kia, dù chỉ cách đôi bờ ngầu đỏ của con song quen thuộc mãi mãi là miền đất xa lắc. Đến với nó chỉ là giấc mơ xa vời tầm tay. Nếu thiên nhiên khiến Nhĩ say mê và thất vọng thì những người thân gợi lên trong anh nỗi buỗn xen lẫn những mặc cảm, xót xa tê tái. “Lần đầu tiên Nhĩ để ý thấy Liên đang mặc tấm áo vá” đó cũng là lần đầu tiên nỗi buồn về gia đình quặn lên trong anh. Cái nghèo khó của gia đình không giấu được qua mảnh vá trên chiếc áo Liên đang mặc, trên đôi tay gầy gò. Nhĩ đã thấu hiểu sự vất vả, hi sinh thầm lặng của người vợ hiền thảo. Trong câu nói của anh với Liên có sự bỏ lửng như sự tắc nghẽn của tâm hồn, của trái tim:
“Suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm…mà em vẫn nín thinh” Nhĩ không nói mà cũng không dám nói. Cái ngắt quãng ấy là bao vất vả, khó khăn Liên lặng lẽ gánh vác để lo cho gia đình. Nó âm thầm như cái âm điệu câm lặng của dấu ba chấm. Trong có dường như còn chứa chan cả mồ hôi, nước mắt đắng cay Liên đã nuốt thầm, đã chịu đựng. Nhĩ không dám nói điều đó, vì nó là lưỡi dao cứa vào long anh, cứa cả vào long vợ. Anh là trụ cột của gia đình mà chưa một lần anh làm cho gia đình ấy được sung sướng. Cuộc đời Liên từ khi sống với anh cũng đâu có khác trước. Qua những lời dịu dàng của Liên anh đã hiểu tình yêu Liên dành cho mình nhưng điều đó càng khiến anh day dứt vì trách nhiệm của người chồng, người cha chưa bao giờ trọn ven. Ở nơi anh trào dâng bao xúc cảm. Đó là sự thương cảm với cuộc đời tần tảo, lặng lẽ của vợ, “Một đời người đàn bà trên những bậc gỗ mòn lõm”, Đó là sự xúc động khi anh tìm được cho mình nơi nương tựa là gia đình, là người vợ tần tảo, giàu đức hi sinh, mãi mãi trọn vẹn nguyên phẩm chất: :Cũng như cánh bãi bồi đang nằm phơi mình bên kia , tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tần tảo và chịu đựng hi sinh từ bao đời xưa”. Vào cái buổi sáng đầu thu ấy, khi đã nhận ra vẻ đẹp rất đỡi bình dị gần gũi của cảnh vật, trong tâm hồn Nhĩ cháy lên một cái gì đó mơ hồ như một dự cảm, một cái gì đó cháy bỏng như một khát khao. Dường như bằng trực giác Nhĩ đã nhận ra thời gian của đời mình chẳng còn bao lâu nữa. Câu hỏi anh bất chợt hỏi vợ như một sự tính toán thời gian vể cái ngày anh biết chắc sẽ đến nay mai.
 
Top Bottom