Phân tích một số tác phẩm [st]

N

nhoccoi_1994

Ben que

BẾN (tiep....
Nhà văn Giắc Lân-đơn từng viết:
“Thiên nhiên có nhiều cái nhắc nhở con người về cái chết”.
Với Nhĩ có lẽ cũng vậy thôi. Có lẽ anh cũng hiểu rằng màu sắc của những chùm bằng lăng bỗng trở nên đậm sắcc hơn, những tảng đất đổ oà vào giấc ngủ, chúng cũng như cuộc đời anh, tàn tạ, héo hắt dần, chuẩn bị cho sự đứt lìa khỏi cuộc sống. Cảm giác về cái chết treo lơ lửng dường như thôi thúc cái khát khao trong anh cháy bỏng hơn, gấp gáp hơn trước khi những đốm tàn của ngọn lửa sự sống tắt lịm hẳn. Những ngày cuối cùng này anh chỉ có một khát khao duy nhất: được đặt chân lên bờ đất phía bên kia sông.Mới đây thôi anh đã khám phá ra cái vẻ đẹp diệu kì của cái bên kia song.Một miền đất của trù phú và mơ ước.Cái tưởng chừng dễ dàng nhất người ta thường hay bỏ qua và rồi sau này lại phải hối tiếc về điều đó. Rất nhiều, rất nhiều nơi xa xăm Nhĩ đã bước chân qua vậy mà, cái bãi bồi ngay bên kia thôi chưa một lần anh đặt bàn chân tới. Đến khi mơ ước, đến khi khát khao thì anh không thể cất bước để tiến về miền đất ấy nữa. Anh như một nhà thám hiểm, them khát khám phá chân trời mới nhưng con tàu đi tới thì đã mãi mãi ở lại với biển khơi. Mơ ước rồi cũng là vô vọng. Tuy khoảng trời kia chỉ cách ô cửa sổ của Nhĩ thôi nhưng dường như mãi mãi xa vô cùng tận. Có lẽ trong những lần khắc khoải hướng ánh mắt sang bãi bồi bên kia song, không ít lần Nhĩ mang trong lòng những suy ngẫm, những trải nghiệm về chính bản thân. Cái bờ bên kia không dừng lại ở ý nghĩa hiện thực nữa, nó hàm chứa những giá trị biểu tượng vô cùng thiêng liêng. Bến bờ ấy cũng có thể làcuộc đời chưa đi tới, phần cuộc mà mỗi con người đều muốn khám phá dù biết rằng nó là không giới hạn. bến bờ ấy cũng có thể là bến đậu quê hương, bến đậu cuộc đời, bến đậu của những giá trị tinh thần gẫn gũi mà ý nghĩa. Bãi bồi, bến song, con đò như một phần vẻ của cuộc sống, đơn sơ, giản dị gắn bó như chính gia đình, như chính quê hương. Khao khát tìm đến những giá trị gần gũi nhưng đích thực trong cuộc sống, nơi quê hương mà con người bồng bột với nhiều ham muốn thời trai trẻ đã bỏ qua. Nó là một sự thức tỉnh có xen niềm ân hận và nỗi xót xa. Niềm ân hận và xót xa khi con người đã nhận thức được quy luật khắc nghiệt của cuộc đời. Cánh buồn chỉ một lần duy nhất qua song. Đường đời cũng như thế, chỉ có ai không do dự, không chậm chạp dềnh dàng mới có thể bước vững vàng đi tới phía trưoiức. Nhĩ không thể đặt chân lên con đò đưa đến khát khao. Anh đành gửi gắm tất cả tình cảm, tất cả niềm tin vào Tuấn, nhờ Tuấn giúp anh đặt chân lên cái bên kia song ước mơ. Tiếng nện dép ra bờ xa dần mang theo bao háo hức của tâm hồn người cha tội nghiệp. Nhĩ đã hi cọng, đã tưởng tượng thấy Tuấn, như một nhà thám hiểm chậm rãi bước khoan thai trên cái bãi bồi trước khung cửa sổ. Nhưng ở đời người ta khó tránh khỏi những điều vòng vèo, chùng chình. Tuấn đâu có thể hiểu được ý nghĩa thiêng liêng chứa trong ước muốn của cha. Cậu sà vào ván cờ phá thế trên đường tự nhiên như cách con người vướng phải những cám dỗ trong cuộc sống. Nhĩ không trách Tuấn. Anh đã từng một thời như Tuấn, anh hiểu ở cái tuổi như Tuấn, Người ta chưa đủ chin chắn để nhận ra vẻ đẹp thưc sự, vẻ đẹp vẹn nguyên cả trong những nét tiêu sơ của cuộc đời. Chỉ có anh, đã từng trải, đã đi qua rất nhiều phương trời, đã nếm trải rất nhiều tình cảm, cảm xúc mới thấy yêu thấy quý, những giá trị bình dị giản đơn kia. Chỉ có anh mới hiểu nó ý nghĩa đến nhường nào với mỗi con người trong cuộc sống. Đó cũng là chân lí cuộc đời. Nhĩ đã phát hiện chân lí ấy để rồi hồi hộp và say mê chờ đợi được khám phá nó trong tấm gương cuộc đời. Với anh đó phải chăng là niềm hạnh phúc cuối cùng anh có thể hưởng trước khi nhắm mắt xuôi tay, một niềm hạnh phúc giản đơn chiêm nghiệm từ cả cuộc đời. Anh giữ trọn trong tâm hồn khao khát và ước mơ. Thu hết mọi sức tàn Nhĩ bấu chặt vả mười đầu ngón tay vào cái hậu cửa sổ, vừa run lẩy bẩy. anh dường như đang níu giữ cho mình một cái gì đó? Có thể là niềm hạnh phúc nhỏ nhoi mà tha thiết kia chăng? Hay đó còn là một lẽ sống, một giá trị tinh thần thiêng liêng anh đã rút ra trong những ngày cuối cùng trước khi giã từ cuộc sống. Nhưng kìa, Nhĩ đang đu mình ra ngoài, “giơ một cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát khoát y như đang khẩn thiết ra hiệu cho ai đó”. Hành động cuối cùng của giấc mơ. Ngay khi đó con đò ước mơ cập bến. Nhĩ dã cố hết sức để thúc giục đứa con giúp anh hoàn thành nốt cái khát khao còn dang dở. Nhĩ đã cố hết sức để gửi đến mọi người lời nhắn nhủ thức tỉnh, thoát khỏi sự vòng vèo, chùng chình chúng tax a vào để hướng đến những giá trị đích thực mà gần gũi trong cuộc sống. Lời nhắn nhủ của Nhĩ cũng có thể là lời cuối cùng của cuộc đời anh. Nó thiêng liêng như cô đúc cả cuộc đời con người vậy. Sẽ chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi Nguyễn Minh châu hoá thân vò nhân vật để nhắn nhủ những lời tha thiết chân thành đến như thế. Nó chứa trong biểu tượng nhung cũng đẹp, cũng gần gũi như chinh cuộc đời.
Có lẽ, qua “Bến quê”, Nguyễn Minh Châu đã gửi gắm những suy ngẫm là ttrải nghiệm của cả cuộc đời. Một cuộc đờia đã trải qua mưa bom bão đạn chiến tranh. Mot cuộc đời đã có những tháng ngày vất vả, nhọc nhằn giữa dòng đời bon chen. Suy nghĩ ấy hẳn sâu sắc lắm, hẳn thiết tha lắm, hẳn sẽ có những khoảng lặng trầm lắng chứa cả cay đắng lẫn giọt nước mắt sót xa. Bằng trái tim đầy xúc cảm của một nhà văn, Nguyễn Minh châu đã gửi gắm trải nghiệm ấy đến cả cuộc đời, đến tất cả mọi người như để thưc tỉnh, như để nhắc nhơ con người về tình cảm đẹp đẽ nhất. Đáng quý trọng biết bao một trái tim như thế, một trái tim chỉ biết tìm cái đẹp, cái hay tô điểm cho cuộc đời chung của chúng ta. Tại sao chúng ta không thể song đẹp hơn nữa, để tô điểm them cho cuộc đời mỗi chúng ta, cuộc đời chung và đáp lại những công hiến to lớn như thế?
 
Last edited by a moderator:
N

nhoccoi_1994

Sang Thu
Mùa thu là một đề tài muôn thuở của các thi nhân Việt Nam. Nếu như Nguyễn Khuyến có chùm thơ thu với ba bài : « Thu vịnh », « Thu điếu », « Thu ẩm » ; Xuân Diệu có « Đây mùa thu tới » ; Lưu Trọng Lư có « Tiếng thu », tất cả đều là những bài thơ rất nổi tiếng, thì Hữu Thỉnh cũng có một chớm « Thu sang » rất nhẹ nhàng êm dịu. Ngay từ tiêu đề, tác giả đã tự xác định một thời điểm miêu tả: thời điểm giao mùa. Đó không phải là chính thu, khi bầu trời xanh ngắt lơ lửng những tầng cao, không phải cuối thu, khi nắng trời đã nhuộm đỏ lá bàng, hay khi cái rét mùa đông đã lẩn vào trong gió…Sang thu nghĩa là mới chớm thu thôi, cái tứ kết buộc hệ thống hình ảnh trong bài cũng chỉ gói gọn trong chút “chớm” mỏng manh đó.
Mùa thu của Hữu Thỉnh được mở ra không phải với sắc vàng tươi của hoa cúc, cũng không phải với vị thơm ngon của cốm làng Vòng, mà là với hương ổi thơm giòn ngọt phả vào trong gió thu.
« Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Dường như cái hương thơm dịu ấy chỉ thoang thoảng quanh quất đâu đây. Nó không mang cái mùi thơm hăng hắc như hoa sữa, cũng không quá nhẹ để người ta dễ lãng quên. Hương thơm ấy nhẹ nhàng thoảng qua theo gió, đề người ta chợt xốn xang trong lòng. Làn gió se se lạnh của mùa thu cũng rất khác với cái gió tê tái của mùa đông. Nó chỉ khiến ta hơi co người lại một chút và để rồi thảnh thơi đón nhận cả một lưồng khí thu mát rượt trong lòng. Một hương ổi thơm; một làn heo may; thu đã làm nên cái mở độc đáo cho bài thơ, thậm chí dường như còn độc đáo đến bất ngờ cho cả nhà thơ : “Bỗng nhận ra hương ổi”. Thu đến chẳng hề báo trước! Thu sang từ bao giờ Hữu Thỉnh cũng không biết nữa! Ông chỉ nhận ra một sự bất ngờ mà như đã đợi từ lâu lắm. Thu sang mang theo hơi thở của mình và mang theo cả cái vẻ thu mơ màng mờ ảo:

“Sương chùng chình qua ngõ”

Sương thu cũng có cái nét đặc biệt riêng của nó. Nó không tan nhanh như sương mùa hạ, cũng chẳng dầy đặc như sương mùa đông. Sương thu là những làn khói mong manh bay vờn nhẹ trên những nãi nhà, ngoài vườn. Sương ‘’chùng chình’’, sương chậm lại mang nét duyên dáng thướt tha . Sương đang đợi ai, sương đang chờ ai mà sao lưu luyến thế? Từ láy “chùng chình” tạo cho ta cảm giác “dùng dằng nửa ở nửa về”. Đến sương lúc này cũng là sương thu mà Hữu Thỉnh vẫn còn ngẩn ngơ mãi:
“Hình như thu đã về”
Ông thờ ơ quá chăng hay bởi lòng ông đang bối rỗi? Thu về tự bao giờ? Từ hương ổi hay từ làn gió heo may? Thu làm lòng người xao xuyến quá chừng để đến nỗi không biết thu đến thực hay mơ!
Sau một thoáng bỡ ngỡ, nhà thơ như chợt bừng tỉnh- thu đã về thật rồi! và trong lòng tác giả, cảm xúc đang dâng trào,thi vị:
“Sông được nước dềnh dàng,
Chim bắt đầu vội vã”.

Nhịp thơ nhanh và gấp cũng như hơi thở của mùa thu đã bắt đầu đập mạnh. Sông vào mùa này chẳng có mưa to gió lớn nên nước cứ “dềnh dàng”. Con sông tràn trề nước mà hình như cứ không chịu chảy, cứ cố nán lại để đợi chờ ai. Sông chờ nước mùa thu chăng? Một hình ảnh nhân hoá thật lãng mạn. Nhưng đàn chim thì không thể dềnh dàng được nữa, chúng phải vội vã bay về phương Nam tránh rét. Tất cả đều đang chuyển mình, đang thay đổi. Thậm chí ngay cả đám mây mùa hạ cũng thấy sốt ruột, phải “Vắt nửa mình sang thu”. Đám mây, như lưu luyến cái mùa hè rực lửa,nửa lại háo hức mong chờ một mùa thu đến hay chính nhà thơ đang mong chờ mùa Thu mà vẫn lưu luyến mùa Hạ đây? Điêu này thì Hữu Thỉnh thật khác với các nhà thơ khác. Cũng viết về mùa thu, Nguyễn Khuyến viết: “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” – có nghĩa là thu của Nguyễn Khuyến đã thực là thu, nó không còn vương vấn chút gì của mùa hè rực lửa. Còn Hữu Thỉnh, ông viết mùa thu nhưng lại là vào lúc giao mùa. Chắc hản phải yêu mùa thu lắm Hữu Thỉnh mới vẽ ra được một bức tranh thu nồng đượm hơi ấm đất trời, nồng đượm hơi ấm quê nhà như thế.
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi
Con người cảm thấy biết bao biểu hiện khác biệt của thời tiết khi mùa thu tới: mưa và sấm thưa dần, không còn dữ dội nữa. Sang thu, tất cả các dấu hiệu của mùa hạ vẫn còn nhưng đã giảm dần mức độ, cường độ… Hàng cây như đã quá quen với nắng lửa mưa giông, được gọi một cách hình ảnh là “hàng cây đứng tuổi”. Chính các từ “bất ngờ”, “đứng tuổi” khiến ý nghĩa của câu thơ không dừng lại ở nét nghĩa tả thực mà có chiều sâu hơn. Nắng, mưa, sấm chớp… hay là những vang động, những biến chuyển khắc nghiệt của cuộc đời? Trong tương quan ấy, hàng cây tượng trưng cho con người từng trải luôn vững vàng trước những biến động bất thường của cuộc đời . Cảnh như sâu lắng hơn bởi liên tưởng suy tư về mùa thu đời người.
Sang thu được viết theo thể thơ năm chữ , nhịp thơ khoan thai trầm lắng, thoáng chút suy tư,hình ảnh thơ sáng tạo thú vị giàu ý nghĩa biểu cảm, hệ thống từ láy gợi hình kết hợp nghệ thuật nhân hoá, ẩn dụ đã tạo nên nét độc đáo riêng biệt của bài thơ, thể hiện những cảm nhận tinh tế của Hữu thỉnh về sự biến chuyển của đất trời cuối hạ sang đầu thu.
Trong làng thơ dân tộc, đã và sẽ có nhiều bài thơ thu hay. Nhưng có lẽ sẽ chẳng ai biết mà lại quên được một chớm “Thu sang” của Hữu Thỉnh - một mùa thu nhẹ nhàng, nữ tính, trông qua như một cô thôn nữ mộc mạc mà sao lại đằm thắm khó quên đến thế!
 
Last edited by a moderator:
N

nhoccoi_1994

Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ
Bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm ra đời ngay tại chiến khu Trị – Thiên, trong những ngày kháng chiến chống Mĩ đang dần đến thắng lợi nhưng vẫn còn vô cùng gian khổ. Nhà thơ đã tận mắt chứng kiến hình ảnh những bà mẹ Tà-ôi giã gạo nuôi bộ đội đánh Mĩ, để cảm xúc từ hiện thực thăng hoa thành những vần thơ có sức lay động mãnh liệt. Bài thơ “thể hiện tình yêu thương con gắn với lòng yêu nước, với tinh thần chiến đấu của người mẹ miền tây Thừa Thiên bằng những khúc ru nhịp nhàng, mang giọng điệu ngọt ngào trìu mến”.
Người mẹ trong thi ca từ sau cách mạng tháng Tám luôn là hình tượng trung tâm, có sự phát triển về tầm vóc và chiều sâu tình cảm tư tưởng, hài hoà riêng chung. Từ những người mẹ trong thơ Tố Hữu thời kì kháng chiến chống Pháp như bà Bầm, bà Bủ, bà mẹ Việt Bắc đến người mẹ trong Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên, chúng ta đã từng được cảm nhận sự gắn kết giữa người mẹ với cách mạng và kháng chiến. Đến thời kì kháng chiến chống Mĩ, với tính chất quyết liệt gian khổ, chúng ta từng gặp những vẻ đẹp như hình tượng người mẹ đào hầm giấu hàng sư đoàn dưới đất ở Đất quê ta mênh mông của nhà thơ Dương Hương Ly. Có thể nói hình tượng người mẹ trong bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm là sự kế thừa tốt đẹp những đặc trưng người mẹ quê hương – người mẹ chiến sĩ, tập trung những cảm xúc trong trẻo nhất của nhà thơ, gợi về vẻ đẹp tâm hồn của đồng bào dân tộc theo kháng chiến. Không phải ngẫu nhiên khi phổ nhạc bài thơ này, nhạc sĩ Trần Hoàn đã đặt lại tựa đề là Lời ru trên nương, bởi lẽ chính những lời ru đã làm thành cấu tứ của bài thơ, dẫn dắt ta vào một thế giới mang đậm bản sắc riêng của người Tà-ôi. Bài thơ như là minh chứng của tấm lòng đồng bào dân tộc một lòng tin theo Đảng, , thương con thương bộ đội, thương yêu núi rừng nương rẫy làng bản, thương đất nước. Tình thương thành điệp khúc xuyên suốt theo nhịp chày của mẹ :
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ
Có lẽ đây là lời của nhà thơ, hàm chứa bao trìu mến dành cho chú bé Tà-ôi như muốn góp thêm bao thương mến hoà cùng khúc ru của mẹ. Hình ảnh ấy khiến người đọc bồi hồi nhớ lại những câu thơ viết về người mẹ Việt Bắc trong kháng chiến chống Pháp của nhà thơ Tố Hữu :
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Người mẹ chống Pháp và người mẹ chống Mĩ có những điểm tương đồng trong công việc. Nhưng ở Nguyễn Khoa Điềm, hình ảnh thơ này không xuất phát từ nỗi nhớ mà được cất lên ngay giữa hiện thực chống Mĩ. Nét đẹp của hình tượng được khơi lên từ tính chất công việc “Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội”. Người mẹ được khắc hoạ trong từng chi tiết sống động nhất, nổi bật với tứ thơ thật đẹp :
Nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em nghiêng.
Tưởng như trong động tác của mẹ cũng đã ngân lên nhịp điệu ru ngọt ngào và nhịp đưa em đều đặn an bình như trên một cánh võng êm. Tác giả hoàn toàn không thi vị hoá mà bằng ngòi bút tả thực giúp người đọc nhận ra : mồ hôi mẹ nóng hổi, vai mẹ gầy – bao vất vả như đọng cả trên đôi vai mẹ. Mỗi khúc ru hiện lên hình ảnh mẹ trong nhiều tư thế cũng như công việc khác nhau : giã gạo, tỉa bắp, chuyển lán, đạp rừng… như hoàn chỉnh bức chân dung lao động khoẻ khoắn cũng như niềm hân hoan được hoà vào những công việc kháng chiến. Không những thế, qua những hình ảnh này, ta còn hình dung một nhịp sống bình thản của những người dân và cán bộ chiến sĩ ở chiến khu chống Mĩ. Mặc dù, trong thực tế, đây là nơi hứng chịu rất nhiều bom đạn kẻ thù và luôn phải đương đầu với những cuộc hành quân lùng sục “tìm và diệt”, càn quét hòng xóa sạch dấu tích của vùng chiến khu đầu mối Bắc – Nam này. Cuộc sống khó khăn thiếu thốn đòi hỏi phải tự cấp tự túc, tăng gia sản xuất, bảo đảm nuôi quân đánh giặc. Hình ảnh người mẹ giã gạo khiến ta lại liên tưởng đến những nhịp chày trong bài hát Tiếng chày trên sóc Bom Bo của cố nhạc sĩ Xuân Hồng. Ở đâu cũng vậy, khi cách mạng được bao bọc, chăm chút bằng tất cả tình cảm yêu nước của nhân dân, khi biết dựa vào dân thì không sức mạnh tàn bạo nào của kẻ thù có thể khuất phục.
Gạo dành để nuôi quân, mẹ lại lên nương tỉa bắp, cùng với a-kay. Đàng sau hành động đó ẩn chứa vẻ đẹp của sự hi sinh, nhường cơm sẻ áo cho người cách mạng. Lòng mẹ bao dung lại được cảm nhận bằng bao tình cảm thương mến của nhà thơ :
Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ
Em ngủ ngoan em đừng làm mẹ mỏi
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ, con nằm trên lưng
Lời thơ thật dịu dàng như ru sâu thêm giấc ngủ cho em cu Tai, như muốn sẻ chia những vất vả nhọc nhằn trong công việc của mẹ. Không gian mênh mang của vùng núi rừng tây Thừa Thiên như mở ra với ánh mặt trời lan toả khắp núi đồi. Nổi bật giữa khung cảnh là người mẹ Tà-ôi với công việc cần mẫn. Nhưng mẹ không hề đơn độc chính vì có mặt trời của mẹ – em cu Tai đang ngon giấc. Với cách ví von đặc sắc này, nhà thơ đã tạo nên liên tưởng về mối quan hệ mật thiết của con người với núi rừng, nương rẫy. Không có tình cảm gắn bó, không thể tạo được liên tưởng thú vị giữa hạt bắp với con nằm trên lưng. Mặt trời không gợi ra cảm giác về độ nóng, độ chói mà trở thành hình tượng biểu trưng cho nguồn sống mạnh mẽ. Mặt trời của bắp đem lại hạt mẩy hạt chắc. Mặt trời của mẹ – em cu Tai là hạnh phúc, nguồn sống của mẹ. Những chú bé Tà-ôi được tắm trong ánh sáng sẽ trở nên vạm vỡ săn chắc, ánh mặt trời hào phóng ban tặng cho mẹ những đứa con khoẻ mạnh của núi rừng. Hình tượng sáng tạo của Nguyễn Khoa Điềm đã đem lại những rung cảm thẩm mĩ đặc biệt.
Người đọc còn nhận ra tấm lòng mẹ mênh mông trong hình ảnh mẹ con không cách xa : Lưng đưa nôi và tim hát thành lời . Lời tim ngân nga suốt ba đoạn thơ thành điệp khúc dạt dào thương mến :
Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi
Mẹ thương a-kay…
Khởi nguồn của mọi hành động cao cả bắt đầu từ tình yêu bình dị nhất. Điểm xuất phát của lời ru chính từ tấm lòng mẹ thương a-kay vô bờ bến này ! Còn tình thương nào bình dị, gần gũi mà sâu sắc bằng tình mẹ thương con ? Âm vang lòng mẹ cất thành lời ru, thành lời thơ đầy xúc cảm của Nguyễn Khoa Điềm, với những chiều liên tưởng gắn bó trực tiếp với từng công việc của mẹ, bộc lộ vẻ đẹp rất giản dị mà cao cả. Mẹ thương a-kay ! – rất ngắn gọn nhưng cũng rất đầy đủ, đẹp đẽ vẻ đẹp tâm hồn mẹ. Hơn thế nữa, đó là xuất phát điểm của những tình cảm thời đại : mẹ thương bộ đội. Có ranh giới nào của tình thương rất đầm ấm ấy không ?
Sự sống của a-kay cũng là tương lai của buôn làng. Bởi thế cũng rất tự nhiên khi mẹ thương a-kay, mẹ thương làng đói. Cuộc sống của người Tà-ôi những năm chống Mĩ còn bao cơ cực thiếu thốn nhưng sức mạnh của tình thương sẽ giúp người mẹ vượt lên tất cả. Bàn tay mẹ cần mẫn tỉa bắp, gieo mầm sự sống với niềm mong mỏi thật bình dị : hạt bắp lên đều. Núi rừng, làng buôn và đứa con thân thương vô cùng với tâm hồn mẹ. Tình cảm yêu thương ấy còn thăng hoa trong những ước mơ về sự sống buôn làng. Đẹp thay và cũng dạt dào thương mến là lời thơ : Con mơ cho mẹ…hạt gạo trắng ngần, hạt bắp lên đều. Giấc mơ giản dị truyền sang em cu Tai còn chứa đựng niềm mong ước về tương lai của con :
Mai sau con lớn vung chày lún sân
… Mai sau con lớn phát mười kalưi
Hình ảnh gắn với tương lai của con thật kì vĩ, như mang theo sức mạnh của các nhân vật sử thi huyền thoại. Ước vọng về con làm nên sức mạnh, sự bền bỉ của mẹ. Đồng thời còn hội tụ cả sức mạnh cộng đồng từ quá khứ đến hiện tại gắn với tinh thần cuộc chiến đấu lâu dài, vượt qua bao sóng gió thử thách.
Cảm hứng của khúc ru cuối gắn liền với hiện thực khốc liệt và khẩn trương của cuộc kháng chiến chống Mĩ, với nhịp sống chiến khu Trị – Thiên. Hình ảnh của mẹ trong đoạn thơ này có một sự thay đổi, không phải trong một dáng chênh chao trong nhịp chày nghiêng, không lặng thầm nhẫn nại gieo từng hạt giống mà rất dứt khoát mạnh mẽ :
Mẹ đi chuyển lán, mẹ đi đạp rừng
Dáng vẻ con người được tô đậm qua hai động từ “đi” gợi tư thế chủ động với những công việc tiếp sức chiến đấu : chuyển lán, đạp rừng như hàm chứa ý thức tự hào của người Tà-ôi làm chủ vùng núi rừng của ta. Con người trong tư thế đối mặt với kẻ thù, quyết tâm chiến đấu giữ đất giữ rừng. Kẻ thù với dã tâm “đuổi ta phải rời con suối”, người Tà-ôi vẫn một dạ kiên trung ! Không chỉ có mẹ, mà anh trai cầm súng, chị gái cầm chông và em cu Tai cũng theo mẹ vào trận cuối. Những câu thơ hừng hực tinh thần bất khuất của người dân tộc miền tây Thừa Thiên, đem lại cảm hứng lạc quan của cuộc chiến đấu chống Mĩ. Sự trưởng thành của mỗi con người từ nhận thức đến hành động đã được khẳng định bằng hai câu thơ thật khoẻ khoắn :
Từ trên lưng mẹ, em đến chiến trường
Từ trong đói khổ, em vào Trường Sơn
Tinh thần của bao thế hệ người Tà-ôi theo cách mạng đã truyền cả sang a-kay, dạt dào một niềm tin, khẳng định dứt khoát con đường em đi sẽ hoà vào đội ngũ chiến đấu với ý chí quyết thắng. Đó là cơ sở cho ước mơ thật đẹp :
Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ
Mai sau con lớn làm người Tự do
Trong tình cảm của người Tà-ôi cũng như của những đứa con miền Nam chiến đấu chống Mĩ, Bác Hồ luôn là nguồn động viên, là biểu tượng sáng chói của cách mạng, của chiến thắng. Bởi vậy, mong ước được gặp Bác luôn là cảm xúc thường trực, dù cho thời điểm viết bài thơ này là 1971. Bởi lẽ, chỉ có thống nhất, mẹ mới được ra với Bác. Giấc mơ đẹp gắn liền với ước nguyện giành lại trọn vẹn non sông, thoả lòng Bác mong. Lời ru kết lại cùng hình tượng em cu Tai của tương lai là người Tự do của một đất nước hoà bình. Đó cũng là mong ước chung của nhân dân, của những người Việt Nam yêu nước.
Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm đã tạo được những cảm xúc đồng điệu với bao người con miền Nam anh dũng thời chống Mĩ, nói lên trọn vẹn vẻ đẹp và tâm tư của người dân tộc miền tây Thừa Thiên trung dũng kiên cường, thủy chung với cách mạng. Cảm xúc bình dị trong sáng với hình tượng người mẹ đã làm nên sức hấp dẫn riêng của tác phẩm. Từ ngôn ngữ đến hình ảnh thơ đều đậm chất dân tộc, đem đến cho người đọc những cảm nhận đặc biệt thương mến cùng hoà theo lời ru cho giấc ngủ thanh bình của em bé Tà-ôi. Bài thơ toát lên tinh thần lạc quan cách mạng, kết đọng những ân tình sâu lắng của nhà thơ về nhân dân đất nước cũng như niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mĩ.
Niềm tin ngày ấy giờ đây đã thành hiện thực. Em cu Tai ngày ấy giờ đây cũng đã trưởng thành và sống làm người Tự do như niềm mong mỏi ngày nào thiết tha trong lời ru của mẹ. Nhưng lời ru ngày ấy mãi còn sức vang ngân trong lòng bao thế hệ, bồi đắp tình yêu quê hương đất nước, con người Việt Nam.
 
Last edited by a moderator:
L

lapham

bạn ơi post cả bài phân tích làm nổi bật vẻ đẹp của người đồng mình trong bài thơ :Nói với con " của Y Phương
 
L

luvship

bạn nào có post nhiều nhiều lên cho mình tham khảo với!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!
 
H

hoabattu1072000

hoabattu có bài viết về suy nghĩ về hình ảnh người mẹ trong bài thơ "Con cò" của Chế Lan Viên.
bài này hoabattu làm, các bạn góp ý nha. thanks nhiều.

Bay từ cửa phủ, bay về đồng đăng.
Câu ca dao khá quen thuộc với người Việt Nam. hình ảnh con cò cũng được mươn để ví cho hình ảnh những người phụ nữ. Đặc biệt là hình ảnh người mẹ, tình mẹ. cũng có lẽ vì thế mà năm 1962, nhà thơ trữ tình Chế Lan Viênđã sử dụng hình ảnh cánh có trong những câu ca dao để ca ngợi tình mẹ thiêng liêng, cao cả qua bài thơ "Con cò"- một trong những bài thơ tiêu biểu và nổi tiếng của ông.
con còn bế trên tay
........
sữa mẹ nhiều con ngủ chẳng phân vân.
những dòng thơ thật nhẹ nhàng, êm ái, thấm đẫm tình thương của mẹ. khi con còn nằm trong vòng tay của mẹ, con nào biết đến "con cò", "con vạc", con nào biết đến "những cành mềm mẹ hát" nhưng mẹ đã mang cánh cò đến với con trong những lời ru ấm êm của mẹ. ở các câu bốn và câu tám chữ, điệp ngữ "con cò" được nhắc đi nhắc lại như là lời ru ngân nga, dịu dàng, như là lời mẹ muốn kể cho con nghe về hình ảnh con cò bằng chất giọng mượt mà, êm ái.
hình ảnh con cò đã được chế lan viên sử dụng làm hình tượng bao trùm lên toàn bài thơ mà đâu đó thấp thoáng có hình ảnh của mẹ, có hình ảnh của một người một đời tần tảo sớm khuya nuôi con khôn lớn. hình ảnh con cò "ăn đêm", cò "xa tổ", cò "sợ gặp cành mềm", cò "sợ xáo măng" gợi lên cho ta biết bao hình ảnh. hình ảnh cò lẻ loi một mình kiếm ăn trong đêm tối nhưng phải chăng đó cũng lả hình ảnh của mẹ, của người phụ nữ một đời vất vả với cuộc sống miêu sinh đầy khó khăn, gian khổ. thế nhưng mẹ vẫn luôn muốn hát cho con nghe về tình yêu quê hương, đất nước và rồi con sẽ hiểu được tình yêu mà mẹ dành cho con bao la, vô tận đến nhường nào. mẹ luôn muốn con yên tâm chìm vào giấc ngủ, mẹ muốn con hãy ngủ ngon để luôn nhìn thấy cánh cò bay lượn không biết mỏi vì đã có mẹ mãi ở bên vỗ về, che chở: "Sữa mẹ nhiều con ngủ chẳng phân vân".
mẹ luôn mong con được hưởng trọn tình yêu thương của tuổi ấu thơ. trong lời ru của mẹ không chỉ mang đến cho con những cánh cò mà nó còn mang đến cho con hơi xuân ấm áp, dòng sữa trắng trong ngọt ngào của mẹ đưa con vào giấc ngủ say nồng. Và mẹ lại vỗ về và chắp cánh cho những ước mơ của con trong câu hát ru ấy và trong cả những suy nghĩ của con.
ngủ yên! ngủ yên! ngủ yên
cho cò trắng đến làm quen
…….
cánh của cò hai đứa đắp chung đôi.
mẹ nâng niu con trong từng câu hát và cũng là ấp iu nâng giấc con thơ. Một sự nhân hoá ở cánh cò để diễn tả cho sự chăm chút, ân cần của mẹ đối với con. Con và cò là bạn và cũng là con của mẹ, sẽ cùng nhau sánh bước trên đường đời tương lai.
Mai khôn lớn con theo cò đi học
……..
………
trước hiên nhà và trong hơi mát câu văn.
mẹ là người cho con sự sống, nuôi con lớn khôn cả về thể xác lẫn tâm hồn: “Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ” - và cánh cò ở đây lại là khát vọng sáng tạo, ý chí vươn lên. Cánh cò trong những lời ru lại mang những suy nghĩ triết lý sâu sắc. con sẽ lớn lên và đi trên con đường của chính mình. Con sẽ không ở bên mẹ nữa nhưng con biết có 1 chân lý cuộc đời không bao giờ thay đổi:
dù ở gần con
dù ở xa con
…….
Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con.

ôi! tình mẹ bao la biết mấy. cho dù khi con còn tấm bé cho đến lúc trưởng thành, mẹ vẫn luôn dõi theo những bước đi của con trên đường đời. mỗi lần con vấp ngã, mẹ sẽ luôn ở bên con, sẽ là động lực để con đứng dậy và tiếp tục bước đi trên chính đôi chân của mình.
nhưng dù con có khôn lớn, con có đi hết trăm núi, ngàn khe nhưng có bao giờ con hiểu hết lòng của mẹ:
con đi trăm núi ngàn khe
chưa bằng muôn nỗi tái tê lòng bầm.
trước tình mẹ bao la vô tận đến thế, ta đã cảm động biết bao. nhưng bất chợt lại cảm thấy hối hận biết bao. hối hận vì những lần đã hiểu lầm mẹ. thật ra, trong mỗi chúng ta cũng đã không ít lần hiểu lầm mẹ. vậy mà mẹ luôn vì con. vì con mà mẹ phải chịu đựng tất cả. vì con mà đã nhiều đêm mẹ khóc thầm không ngủ. nhưng chúng ta ai nào có biết tâm trạng mẹ lúc ấy, ai nào có biết mẹ đã khóc nhiều như thế. lại một lần nữa ta đã hiểu được sự chịu đựng của mẹ như thế nào.
rồi có những ngày con đau ốm, mẹ luôn túc trực suốt đêm không chợp mắt. mẹ lại khóc, mẹ khóc vì thương cho đứa con bé bỏng, tội nghiệp. mẹ luôn mong người bị ốm hôm nay không phải là con mà chính là mẹ. mẹ luôn muốn nhận những gì đau khổ và vất vả nhất về mình vì con. thế nhưng, ai đã biết, ai đã hiểu cho tình thương của mẹ.
không chỉ có thế, mẹ luôn là người có tấm lòng bao dung và độ lượng nhất. mẹ luôn tha thứ cho những lỗi lầm của con để mong con có thể vững bước trên đường đời. tất cả, tất cả những gì mẹ mang đến cho con đều là những tình thương sâu thẳm tận đấy lòng của mẹ.
Cho dù con đã trưởng thành, đã từng nếm trải nhiều lẽ của cuộc đời thì bao giờ con cũng là con của mẹ và mẹ luôn mong muốn che chở, bao dung con như khi con còn thơ bé. một triết lý của cuộc sống nhưng sao vẫn rất nhẹ nhàng.
À ơi!
một con cò thôi
…….
đến hát
quanh nôi.
Hai tiếng “à ơi” quen thuộc trong những lời ru được cất lên thật mượt mà. chỉ là một con cò trong lời mẹ hát thôi thế nhưng có biết bao điều vừa gần gũi vừa sâu xa. Khi cất lên những lời hát ru, là lúc mẹ gửi gắm trong cánh cò cả cuộc đời mẹ, có những cay đắng lẫn ngọt bùi. mặc dù CLV không nhắc đến những nếm trải của cuộc đời mẹ song những câu thơ của ông cho ta hiểu thêm rằng trong cánh cò kia chất chứa những nỗi nông sâu của cuộc đời mẹ.
lời ru là một khúc hát yêu thương mà mẹ dành cho con. m ẹ đã hoá thân thành cánh cò mang nhiều ý nghĩa sâu xa, kết tụ sự hi sinh, gian khổ để những lời yêu thương càng thêm sâu sắc. và hình ảnh cò đã dần đi vào tầm thức của tuổi thơ con, nó sẽ theo con suốt cuộc đời bởi vì đâu đó trong hình ảnh cánh cò kia đó là hình ảnh của người mẹ con kính yêu

thế đấy, tình mẹ thật thiêng liêng, cao đẹp. hình ảnh mẹ luôn đẹp nhất và rực rỡ trong lòng chúng con.
hình ảnh những con cò thật giản dị nhưng nhờ sự khéo léo của mình, chế lan viên đã mượn hình ảnh ấy ví cho hình tượng của người mẹ, người phụ nữ việt nam - một hình tượng bất tử.
 
T

thuyan9i

tơd thấy đọc tổng thể thì đc
nhưng 1 số chỗ dùng từ hơi thô
khi con còn nằm trong vòng tay của mẹ, con nào biết đến "con cò", "con vạc", con nào biết đến "những cành mềm mẹ hát" nhưng mẹ đã mang cánh cò đến với con trong những lời ru ấm êm của mẹ.câu này dài nhưung ý dc có vẻ hơi miên man
trước tình mẹ bao la vô tận đến thế, ta đã cảm động biết bao. nhưng bất chợt lại cảm thấy hối hận biết bao. hối hận vì những lần đã hiểu lầm mẹ. thật ra, trong mỗi chúng ta cũng đã không ít lần hiểu lầm mẹ. vậy mà mẹ luôn vì con. vì con mà mẹ phải chịu đựng tất cả. vì con mà đã nhiều đêm mẹ khóc thầm không ngủ. nhưng chúng ta ai nào có biết tâm trạng mẹ lúc ấy, ai nào có biết mẹ đã khóc nhiều như thế. lại một lần nữa ta đã hiểu được sự chịu đựng của mẹ như thế nào.
tớ bít đoạn này mưỏ rộng nhưung hình nhưu ko ăn nhập với Đi hết đời lòng mự vẫn theo con
hic
tớ chỉ mún nói vậy thui
có thể là ko đúng
 
T

tonghia

Bạn nào còn bài thơ nói với con nào khác không :)
Thứ 2 là thi òi :eek:
Mình cần bài Nói Với Con
 
H

hoabattu1072000

hoabattu có bài bình luận về bài thơ "Mây và sóng" của R.Tago.
cùng bàn luận về bài viết này của hoabattu nữa nhé.
trong cuộc sống này, chắc rằng ai cũng có nhiều tình thương dành cho mẹ. Và R.Tago đã thể hiện tình mẹ con thiêng liêng qua lời thủ thỉ chân thành của em bé với mẹ về cuộc đối thoại giữa em và những người sống trên mây và sóng trong bài thơ "Mây và sóng".
Những người sống trên mây đã mời gọi em rằng: "Bọn tớ chơi từ khi thức dậy cho đến lúc chiều tà. Bọn tớ chơi với bình minh vàng, bọn tờ chơi với vầng trăng bạc". Những lời mời gọi của mây thật hấp dẫn nhưng lời mời của sóng cũng lí thú không kém. "Bọn tớ ca hát từ sáng sớm cho đến lúc hoàng hôn. Bọn tớ ngao du từ nơi này đến nơi nọ mà không biết từng đi đến nơi nao". Lời mời gọi thật li kì và thú vị của những người sống trên mây và trong sóng . Em bé cảm thấy thích thú và em đã thủ thỉ điều này với mẹ.
Những lời mời của "mây và sóng" dù có hấp dẫn như thế nào chăng nữa thì em vẫn một mực từ chối. Nhiều người ngạc nhiên vì sao em lại từ chối cuộc dạo chơi thú vị như thế? Em từ chối không phải vì phải đi thật xa, đến nơi tận cùng trái đất ahy đến rìa biển cả mà là vì mẹ. Chính tình cảm mẹ dành cho em như trời cao, biển cả đã níu kéo em về với mẹ và không đến với những trò chơi, lời rủ rê của mây và sóng . Em đã nói với họ rằng: "Mẹ đang đợi mình ở nhà. Làm sao có thể rời mẹ mà đến được?" Và " buổi chiều mẹ luôn muốn mình ở nhà, làm sao có thể rời mẹ mà đi được?" Chỉ thế thôi, ta cũng đã thấy tình cảm của em dành cho mẹ nhiều biết nhường nào.
Em đã từ chối mọi lời mời gọi, rủ rê của những người sống trên mây và sóng. Em từ chối những cuộc vui, những trò chơi mà họ từng kể. và em đã tự tạo ra cho mình và mẹ một trò chơi mới hấp dẫn hơn, ấm áp hơn nhiều.
Em là mây, mẹ là trăng. Hai bàn tay của em sẽ ôm lấy mẹ, và mái nhà kia sẽ là bầu trời xanh thẳm.
Em là sóng và mẹ sẽ là bến bờ kì lạ. Em lăn, lăn, lăn mãi rồi sẽ cười vang vỡ tan vào lòng mẹ.
Lúc ấy, những trò chơi của mây và sóng sẽ không còn hấp dẫn và thú vị trong mắt em nữa. Vì em đã có trò chơi mới - trò chơi mà em và mẹ sẽ cùng hoà vào một, trò chơi mà ở đó thấm đậm tình mẹ con thiêng liêng.
Những lời mời của mây và sóng, những lời từ chối và trò chơi em tạo ra cho mình đã nói lên được tình cảm của em dành cho mẹ thật đỗi thân thương, ấm áp. Nhưng đối với Tago, ông sáng tác bài thơ này không chỉ ở ý nghĩa ấy mà còn nhiều điều khiến độc giả phải suy ngẫm. Trong cuộc sống này có biết bao ccám dỗ phía trước và để vượt qua những điều ấy con người cần có một điểm tựa vững chắc. Điểm tựa ấy chính là tình mẫu tử thiêng liêng. Hạnh phúc không phải là điều bí ẩn, xa xôi, nó luôn ở quanh ta và do chúng ta tạo dựng nên. Em bé trong bài thơ "Mây và sóng" của Tago đã biết tạo ra hạnh phúc cho mình và mẹ khi em đã từ chối mọi sự cám dỗ, lời mời gọi của mây và sóng để được ở bên cạnh mẹ, để được chơi cùng mẹ.
Với hình thức đối thoại được lồng ghép trong lời kể của em với mẹ, qua những hình ảnh thiên nhiên sinh động giàu tình cảm đã giúp ta càng thêm thấm thía về tình mẫu tử thiêng liêng bất diệt.
 
N

ngayngaydihoc12

cả nhà ui sao hổng ai post truyện kiều hít trơn vậy trời.choa em hỏi cái nì nha năm rồi,năm rồi,năm của năm rồi ra đề gì vậy mọi người,mổi người post 1 cái đê khác nhau mà ghi cùng năm mới ác chứ em chịu luôn.anh chị nào có cái Mã giám sinh mua chị kiều post em gấp gấp nha thanks :p:p:p:p:p
 
N

ngayngaydihoc12

Ai post lên dùm mình bài Những ngôi sao xa xôi với bài Nói với con
Những ngôi sao xa xôi :Nv chị Định ^^!
cả 3 cô gái cô nào cũng đáng mến đáng phục nhưng phương định là cô gái để lại nhìu ấn tượng nhứt.là một cô gái HN cô có thời HS sống vô tư và hồn nhiên bên mẹ trong những ngày thanh bình trước chiến tranh.nhưng kĩ niệm ấy vừa là niềm khao khát vừa tắm mát tâm hồn cô mỗi khi vào trận chiên đấu.Vào chiến trường đã 3 năm nay, Định nói riêng và mọi người cùng tổ trinh sát nói chung đã quen với kho khăn gian khổ,bôm đạn rình rập...v...v..v.vv nhưng họ vẫn giữ đc vẻ vui tuoi hồn nhiên và những ước mơ khát vọng vè tương lai.Nét cá tình của chị Định đc thể hiện khá rõ.định có tâm hồn mơ mông và giàu tình củm.Sờ-pe-sồ định rất hay hát,cô nói ;'tôi rất mê hát.thường cứ thuộc một điệu nhạc nào đó rồi tự bịa ra lời mà hát".định hát để động viên nho ,chị bao và động viến chính mình.Đnh hay hát những bài hành khúc quân đội,dân ca quan họ,bài ca-chiu -sa của hồng quân lên xô hay ngồi bó gối mơ màng truoc những bài dân ca ý.nói chung định là cô gái mơ mộng,giàu tình cảm.cũng như những cô gáim xì tin khác,định rất quan tâm tới vẻ ngoài của chính mình.định tự đánh giá:'nói một cách khiêm tốn tôi là một cô gái khá,2 bìm tóc dài tuong đối mềm,một cái cổ cao kiêu hãnh như đài hoa loa kèn." định đc mọi người nhất là các anh lính để ý và có:-SS .định biết đc điều này nhưng chưa dành tình cảm riêng cho một ai.định có đôi mắt đẹp nên rất thích ngắm mình trong gương@-).Định có tình đồng đội sau sắc và tha thiết.cô thân thiết và gắn bó với 2 người bẹn cùng tổ trinh sát.cùng vui buồn,chia ngọt sẻ bùi,cùng chịu đựng những hiểm nguy của công việc,...khi chị thao ngả định đỡ chị,khi nho bị hương định rữa choa nho = nước đun sôi,băng bó,pha milk cho nho,chăm sóc tận tình chua đáo.định còn nói:'không gi cộ đơn và khiếp sợ hơn khi bôm gào thét ở trên mà ko nghe 1 tiếng trả lời nào đưới dất'.Định dành trọn tình cũm và sự mến mộ choa mấy anh lính mà định hay gặp trên con đuong trọng điểm vào mặt trận. định nói :'thực tình trong suy nghỉ của tôi những nguoi thông minh nhất,can đảm,đẹp đẽ và cao thượng nhất là những người mặc quân hùm có ngôi seo trên mụ.nhưng cái quí giá nhứt ỡ định là lòng dũng cảm và tinh thần trách nhiệm cao trong công dziệc.tâm lí định trong một lần phá bôm đc thể hiện rất thực và tinh tế để đề cao phẩm chất ấy.Mặc dù đã quen với công việc nàymột ngày có thể phá bôm tới 5 lần nhưng mỗi lần là một cuộc đấu trì với cái chết gay gắt.không khí xung quang bổng trợ nên ngột ngạt,căng thẳng hơn.định bước tới gần quả bôm,cảm thấy có ánh mắt các chiên sĩ cao xa đang ngắm mình,đe rồi lòng dũng cãm trong định đc đánh thức bởi sự tự trọng:'tôi bước đến gần quả bôm cảm thấy có ánh mắt các chiển sĩ đang nhìn mình tôi kô sợ nữa tôi sẽ không đi khom.các anh ấy ko thích cái kiểu đi khom khi cón thể đoàng hoàng mà búoc tơi.'ở bên quã bôm đối mặt với thần chết cận kề những cãm giác của con người bỗng trờ nên sắc hơn;"thình thoảng lưỡi xen chạm vào quả bôm,một tiếng động sắc đến gai người cứa vào da thịt tôi,tôi cãm thấy mình làm qua chậm nhanh lến tý quả bôm đang móng,một dấu hiệu chẳng lanh2." dù đôi mặt như vây vài lần/ngày nhưng định vân complete mhiệm vụ.^^!rồi một trận mưa đá bất chợt khiến tâm hồn cô lại nhớ đến những kị miệm quê hưong nơi và trên bầu trồi có những NNXX.Em thiếu mở bài và kết bài anh chị nào làm giúp em nghe em moi tay wóa rồi^^!
 
P

phithienvuh

chị quinhmei ơi chị cho em xin nick của chị đi vì em còn một số vấn đề thắc mắc cần hỏi chị
 
N

nhungtri

giúp mình đề này với:"Tình cảm chân thành, tha thiết của nhân dân ta với Bác Hồ qua bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương.
 
K

kunkon94

VIẾNG LĂNG BÁC
Sinh thời, Bác Hồ luôn luôn nghĩ đến miền Nam, ngày đêm thương nhớ miền Nam. Với Bác, miền Nam là niềm vui, là hạnh phúc, là nỗi đau không lúc nào nguôi: “Miền Nam trong trái tim tôi”. Niềm mong mỏi thiết tha của Bác là miền Nam mau được giải phóng. Miền Nam cũng ngày đêm thương nhớ Bác, mong ngày giải phóng để được gặp Bác kính yêu. Nhưng tiếc thay, khi Bắc Nam sum họp một nhà thì Bác không còn nữa. Lòng thương nhớ, nỗi niềm đau đớn của đồng bào và chiến sĩ miền Nam dồn nén bao nhiêu năm đã được nhà thơ Viễn Phương thể hiện trong bài Viếng lăng Bác. Bài thơ không những chỉ thể hiện dòng cảm xúc trào dâng của nhà thơ mà còn thể hiện hình tượng lãnh tụ Hồ Chí Minh bằng những hình ảnh vừa quen thuộc, vừa giàu sức khái quát, vừa lung linh gợi cảm. Bằng cảm xúc chân thực và ngôn ngữ thơ gợi cảm, Viễn Phương đã nói hộ chúng ta một chân lý: Bác Hồ vĩ đại sống mãi trong lòng nhân dân ta.
Bài thơ ra đời năm 1976, khi lần đầu tiên sau giải phóng miền Nam, Viễn phương ra thăm Lăng Bác. Bài thơ rất ngắn gọn, súc tích nhưng có sức gợi tạo nên sự xúc động cho người đọc. Ngôn ngữ thơ tuôn trào theo theo dòng cảm xúc chân thành, tha thiết.
Mở đầu bài thơ, Viễn Phương đã bày tỏ ngay tình cảm sâu nặng, ruột thịt của mình bằng câu thơ giản dị: Con ở miềm Nam ra thăm lăng Bác.
Tình cảm giữa miền Nam và Bác Hồ luôn luôn là tình cảm ruột thịt “Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà” (Tố Hữu) và tình cảm của miền Nam đối với Bác cũng là tình cảm nhớ mong da diết “Miền Nam mong Bác nỗi mong cha” (Tố Hữu). Tự đáy lòng của người con đến thăm cha, Viễn Phương nói với Bác: Con ở miền Nam…. Câu thơ giản dị nhưng bao hàm một ý nghĩa lớn. Trong tim Bác và trong tim miền Bắc, Miền Nam luôn luôn là nỗi đau chia cắt, nỗi nhớ thương, là niềm tự hào, là biểu tượng anh hùng, bất khuất, dũng cảm, kiên cường, là thành đồng Tổ Quốc… Giờ đây, nhà thơ mang theo cả niềm tự hào đó của đồng bào miền Nam để đến với Bác.
Hình ảnh đầu tiên trong lăng làm nhà thơ xúc động là hình ảnh hàng tre:
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Hàng tre bát ngát cuốn hút cảm xúc của nhà thơ. Qua hình ảnh hàng tre quen thuộc tác giả gửi gắm một ý nghĩa tượng trưng nhằm ca ngợi Bác, ca ngợi dân tộc. Chắc rằng, cũng như mọi người Việt Nam, trong tâm khảm nhà thơ, cây tre là hình ảnh giản dị, thân thuộc, đời đời gắn bó với quê hương làng xóm. Hàng tre xanh xanh trong vườn Bác gợi cho người đọc nhiều liên tưởng. Hàng tre gợi hình ảnh mọi miền quê hương đất nước, nhất là hình ảnh miền Nam yêu thương. Tre kiên cường trong bão táp mưa sa như dân tộc ta vững vàng qua phong ba bão tố, như Bác Hồ suốt đời sống giản dị nhưng kiên cường tranh đấu vì độc lập tự do của dân tộc.
Hoà vào dòng người thăm lăng, nhà thơ tiếp tục dòng suy tưởng. Lời thơ bỗng dạt dào một cảm xúc tự hào, thành kính, thương nhớ Bác:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Ai đã từng một lần đi viếng lăng Bác mới hiểu hết hàm ý trong câu thơ của Viễn Phương. Ngày ngày, mặt trời - chúa tể của thiên nhiên - thán phục một mặt trời trong lăng rất đỏ. Mặt trời rất đỏ, hình ảnh tượng trưng cho Bác Hồ - là mặt trời cách mạng, là nguồn ánh sáng rực rỡ không bao giờ tắt, mãi mãi chiếu rọi con đường đi tới của dân tộc Việt Nam. Nhiều nhà thơ đã sử dụng hình ảnh mặt trời để thể hiện ánh sáng của lý tưởng cách mạng, nhưng đối sánh hai hình ảnh mặt trời của Viễn Phương quả là rất độc đáo. Đây là một sáng tạo nghệ thuật có tác dụng bộc lộ nội dung rất hiệu quả. Không nhiều lời, chỉ một hình ảnh mặt trời rất đỏ, nhà thơ đã khái quát được hình ảnh Bác Hồ vĩ đại. Nhà thơ đã nói hộ chúng rằng: Bác Hồ là mặt trời cách mạng đẹp nhất, rực rỡ nhất, chói lọi nhất luôn luôn toả sáng trong tâm hồn người Việt Nam.
Cùng với mặt trời ngày ngày đi qua trên lăng là dòng người đi trong thương nhớ. Nhịp thơ chầm chậm như bước chân của dòng người lặng lẽ đi trong suy tưởng, bao trùm một một không khí thương nhớ Bác không nguôi, thành kính kết tràng hoa tình yêu dâng bảy mươi chín mùa xuân của Người. “Người ta là hoa của đất”, nhà thơ thật sâu sắc và tinh tế khi tôn quí nhân dân. Mỗi người dân là một bông hoa và dòng người đi trong thương nhớ chính là tràng hoa dâng lên Bác.
Ngày ngày… ngày ngày …, thời gian không ngừng trôi và lòng người Việt Nam không bao giờ nguôi tình cảm nhớ thương, yêu quí, kính trọng đối với Bác.
Đặc biệt xúc động là khi vào trong lăng, thấy Bác nằm nghỉ, nhà thơ sững sờ, nghẹn ngào, đau đớn:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền,
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi ,
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Bác nằm đó như đang trong giấc ngủ bình yên sau bảy mươi chín mùa xuân không hề nghỉ. Từ ánh điện mờ ở trong lăng, nhà thơ liên tưởng đến một hình ảnh rất đẹp: vầng trăng sáng dịu hiền. Hình ảnh đó đã đưa người đọc vào một thế giới huyền diệu, trong sáng và thanh khiết; càng gợi ta nghĩ đến tình yêu thiên nhiên, yêu trăng nồng nàn của Bác. Vầng trăng kia đã bao lần sáng lên trong thơ Người. Cả khi trong ngục: “Người ngắm trăng soi qua cửa sổ, trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”. Cả những khi bận rộn việc nước việc quân, Bác vẫn thấy “trung thu trăng sáng như gương”, “rằm xuân lồng lộng trăng soi”, “trăng ngân đầy thuyền”, “trăng vào cửa sổ đòi thơ”, “trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa…” Giờ đây, Bác nằm đó, trong giấc ngủ bình yên, giữa vầng trăng sáng dịu hiền. Vẫn biết rằng Bác như trời xanh, mãi mãi sống trong sự nghiệp của chúng ta. Nhưng con tim nhà thơ đau đớn vô cùng khi đứng trước Người. Mà sao nghe nhói ở trong tim, chỉ một chữ nhói cũng đủ nói lên nỗi quặn đau, thương nhớ không gì bù đắp được vì mất Bác, vì nỗi thiếu vắng Bác.
Và nỗi đau không còn kìm ném được nữa, nó trào lên dữ dội khi nhà thơ chia tay với Bác:
Mai về miền Nam, thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng
Muốn làm bông hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Thương Bác, thương đến trào nước mắt, một tình cảm yêu quý mãnh liệt, trọn vẹn như tình cảm của người con đối với người cha ruột thịt. Nhà thơ chia tay Bác trong tiếng khóc nấc nở nghẹn ngào. Làm sao ngăn được dòng nước mắt thương nhớ Bác-một con người vừa vĩ đại, thanh cao, vừa gần gũi thân thiết với chúng ta, một con người suốt đời hy sinh, cống hiến cho dân tộc nay vĩnh viễn nằm lại trong lăng? Nhà thơ lưu lưyến không muốn rời xa Bác, chỉ ước muốn biến thành con chim, bông hoa, cây tre, góp tiếng hót, làn hương quanh nơi Bác nghỉ cho trọn niềm trung hiếu với Người. Đoạn thơ dạt dào tình cảm, nhịp điệu thiết tha, cùng với hình ảnh cây tre trung hiếu một lần nữa truyền đến người đọc sự xúc động nghẹn ngào.
Bài thơ ngắn, nhưng tác giả đã thành công khi sử dụng hàng loạt hình ảnh ẩn dụ mang tính tượng trưng sâu sắc. Các hình ảnh hàng tre xanh xanh, giữa bão táp mưa sa, đến các hình ảnh mặt trời rất đỏ, tràng hoa, bảy mươi chín mùa xuân, vầng trăng sáng dịu hiền, trời xanh là mãi mãi đã gợi cho người đọc thấy trọn vẹn hình tượng Bác Hồ gần gũi, cao quý, thanh khiết, vĩ đại biết bao. Ngoài ra, nó còn gợi đến hình ảnh quê hương, đất nước, nhân dân. Nhà thơ đã có nhiều dụng ý khi sử dụng các hình ảnh rất đẹp, rất lớn lao của vũ trụ: mặt trời, vầng trăng, trời xanh. Những hình ảnh đó tượng trưng cho cái vĩ đại, lớn lao của Bác Hồ. Bác như vầng mặt trời rực rỡ, như vầng trăng sáng dịu hiền, như bầu trời xanh. Ở Bác toả ra ánh sáng của trí tuệ thiên tài và lấp lánh ánh sáng của một tâm hồn cao đẹp. Còn hình ảnh hàng tre xanh xanh lại tượng trưng cho cái bình dị, gần gũi của Người. Và hơn thế nữa, tất cả các hình ảnh ấy đều gợi cho ta thấy sự bất tử của Bác Hồ. Người sống mãi trong lòng nhân dân ta, trong sự nghiệp của chúng ta. Mãi mãi là vị cha già thân thiết, yêu quý của chúng ta.
Viếng lăng Bác không những là tiếng khóc đau đớn, nghẹn ngào trước sự ra đi của Bác, là lòng thương nhớ không nguôi, lòng kính phục vô hạn của nhà thơ Viễn Phương và của nhân dân ta đối với Bác Hồ mà bài thơ còn diễn tả thành công hình tượng Bác Hồ vĩ đại bằng những hình ảnh đẹp, nhịp điệu tha thiết, cảm xúc nồng nàn chân thực. Âm hưởng của bài thơ ngân vang mãi trong lòng người đọc. Bài thơ được phổ nhạc càng trở nên truyền cảm sâu xa, làm xúc động hàng triệu trái tim Việt Nam từ 1976 đến nay
 
N

nhungtri

có bạn nào phân tik hộ mình khổ cuối bài thơ Đoàn thuyền đánh cá với!!!!!!!!!!!
 
Top Bottom