Những câu chuyện ý nghĩa

T

thienduong123

một người anh!
bé liza mới 4 t và đang bị bệnh nặng.a trai của Liza ,5t ,cũng từng mcs căn bệnh này và là 1 trong nh~ ca mổ hiếm hoi dc chữa khỏi.thế nhưng ,lại ko thjk ứng dc với loại thuốc mà a cô đã dùng .do trong máu của a cô đã có kháng thể với loại bệnh này vneen bác sĩ đề nghị truyền máu của cậu cho Liza.
sau khi bàn bạc với gia đình ,bác sĩ đếnb chỗ anh Liza nói:
e liza đang rất cần cháu.cháu sẽ ko sợ và cho e cháu mmaus của cháu chứ?
nhưng...vâng,cháu sẽ cho.cháu muốn cứu e gái cháu-anh trai của liza ngần ngừ trong giây lát rồi hiút 1 hơi thật sâu và nói rất dứt khoát.
trong lúc truyền máu ,cậu luôn nắm lấy tay e gái mih`,mỉm cười và thì thầm với liza"đừng sợ a sẽ cứu e vì a là a của e mà".
cô bé dc cứu rồi!-bác sĩ và gia đình vui mừng,thở phào nhẹ nhỏm,khi thấy gương mặt liza hồng lên.
chỉ có anh của liza là mặt hơi tái nhợt khi nghe thấy câu đó và nụ cười trên môi cậu trở thành như sắp khóc.ngước mắt nhìn bác sĩ,giọng cậu run run hỏi:
-cháu bắt đầu chết hả bác sĩ?
1 cậu bé mới 5t làm sao hiểu dc thế nào là 'truyền máu'.cậu bé cứ ngỡ bác sĩ sẽ lấy hết máu của cậu truyền hết sang cho e liza.và cho dù vậy cậu bé vẫn sẵn sàng.
t.n<dịch>(theo báO HHT)
 
T

thienduong123

BỘ PHẬN QUAN TRỌNG NHẤT
cô giáo đố cả lớp"bộ phận quan trọng nhất của cơ thể là gì?"
lũ trẻ hào hứng giơ tay;
-thưa cô,là tai ạ!vì nếu ko có tai sẽ ko nghe dc và c/s sẽ rất bùn.
-ko phải,là mắt cơ ạ.vì ko nhìn dc mọi vật xung wanh sẽ ko thẻ chơi dc!
-con nghĩ tim mới wan trọng nhất,vì nếu 1 người ko có tim sẽ ko sống dc ạ!
cuối cùng còn mỗi emy nhút nhát,cô bé rụt rè:
-thưa cô,con ngfhix là đôi vai ạ!
-vì đôi vai nâng đỡ đầu của ta ư?.
-ko phải.vì khi con bùn,bn alike đã cho con mượn bờ vai của bn ý để con tựa đầu vào.
đúng vậy,đôi khi trong cuộc sống cái chúng ta cấn chỉ là 1 bờ vai để tựa đầu vào.bộ phận wan trọng nhất của cơ thể ko phải là phần chỉ phục vụ cho riêng mih`,mà là phần có thể sẽ chia và đồng cảm với nỗi đau của người #.
T.N <dịch>-->theo báo hht
 
2

21.ng

Tha thứ cũng là một nghệ thuật​

Một người cứ luôn luôn bị tỉnh dậy vào buổi đêm. Anh ta thấy mình bơi trong một cái hồ, bơi giỏi như một vận động viên.
Tuy nhiên, cái hồ rất rộng mà chân tay anh ta thì mỏi. Anh ta khó lòng bơi tới được bờ. Bỗng nhiên, cha anh ta bơi thuyển đến gần, đưa tay ra, bảo anh ta nắm lấy.
Anh ta nhớ lại hồi nhỏ thường bị bố mắng mỏ, thậm chí đánh đòn nên mỉm cười khô khan và nói: "Cảm ơn bố, cứ kệ con!"
Anh ta bơi tiếp, cố hết sức hướng về phía bờ. Rồi anh ta nhìn thấy một người khác bơi thuyền lại gần. Đó là cô em gái.
Cô em gái quăng một chiếc phao về phía anh ta và bảo: "Anh dùng phao đi!". Nhưng nhớ lại rất nhiều lần cô em gái hỗn hào ương bướng cãi lời mình, anh ta lắc đầu và xua tay.
Sau những nỗ lực lớn lao, cuối cùng anh ta cũng vào được đến bờ. Anh ta nằm vật trên bãi cát ướt, sự mệt mỏi làm đầu óc trở nên lơ mơ, còn chân tay thì không cử dộng nổi. Một đám người đông tụ tập quanh anh ta. Khuôn mặt nào anh ta cũng thấy quen. Đó là gia đình, họ hàng, bạn bè của anh. Người thì muốn đưa anh vào bệnh viện, người thì muốn đốt lửa, người thì muốn lấy bộ quần áo khô và khăn cho anh lau.
Nhưng cứ khi mỗi người định làm gì, anh ta lại nhớ lại những khi người đó đối xử không tốt với mình. Và "Không, cảm ơn"- Anh ta lại nói - "Cứ kệ tôi". Anh gượng đứng dậy, quần áo ướt sũng, dính đầy cát, chân tay rã rời, mệt mỏi đi xa đám đông.
Sau khi liên tục nằm mơ giấc mơ đó trong vòng vài đem, anh ta liền đi hỏi bà, người duy nhất chưa bao giờ làm gì không tốt với anh, và là người mà anh tin tưởng sẽ không bao giờ làm gì không tốt với anh cả.
- Bà không phải là người biết ý nghĩa của những giấc mơ - bà anh nói - Nhưng bà nghĩ cháu đang giữ trong đầu quá nhiều bực bội và hằn học.
- Bực bội ư? Hằn học ư? Không thể thế được! - Anh ta kêu lên - Nếu có thì cháu phải cảm thấy chứ?
Bà của anh vẫn ngồi yên và bình tĩnh đáp:
- Những cố gắng của cháu và hồ nước trong giấc mơ chính là những gì cháu đang phải cố gắng trong tâm trí cháu. Cháu cần sự giúp đỡ, cháu muốn được quan tâm nhưng cháu không thấy ai đủ tốt để cháu tin tưởng. Cháu đã bơi vào bờ được một lần, nhưng còn những lần khác thì sao?
Sự tha thứ không phải là những điều mà chúng ta làm cho người khác, mà chúng ta làm cho chính chúng ta đó thôi. Vì khi chúng ta không tha thứ, có phải là chúng ta đã xây dựng trong tâm trí mình những bực bội và tức giận ngày càng lớn đó không?
Có một câu nói: "Bạn không phải người hoàn hảo, nên bạn cũng có những sai lầm. Nếu bạn tha thứ được sai lầm của người khác đối với bạn, thì bạn cũng sẽ được những người khác tha thứ những sai lầm của bạn".​
 
T

thuyan9i

Người lớn, con nít và điện thoại
Kẹo Ngốc





Anh và em quen nhau qua một diễn đàn. Anh là "người lớn", em là "con nít". "Người lớn" lúc nào cũng xưng là ta, vui thì gọi "con nít" là nhóc, buồn thì kêu là mi, xem "con nít" như đứa em gái nhỏ.

Và rồi một hôm "người lớn" lúng túng hẹn em đi uống cà phê, dặn đi dặn lại là đi một mình thôi. "Người lớn" nhìn trời nhìn đất, gãi đầu gãi tai rồi lấy hết can đảm nhìn thật sâu vào mắt em và nói: "Nhóc, ta thương... em! Nếu hai năm nữa vẫn thương em như thế này, ta sẽ nói là ta yêu em. Và nếu mười năm nữa tiếp tục thương em như thế này, ta sẽ cưới em".



Thẳng đuột. Ngang phè. Chẳng lãng mạn gì hết. "Con nít" phì cười mà cảm động vô cùng. Tình yêu của "người lớn" và "con nít" bắt đầu như thế đó.

Tình yêu là hồi em mới mua chiếc điện thoại đầu tiên của Hãng S., chức năng thì đơn giản và chỉ lưu được 20 tin nhắn. Vì không thể lưu được nhiều tin nên mỗi lúc phải xóa một tin nào đó, em đều đọc đi đọc lại gần như thuộc lòng rồi mới ấn phím xóa.

Tình yêu là khi hai đứa nghe lời đồng bọn rủ rê, mua điện thoại S.Couple. Hai chiếc điện thoại giống nhau y hệt, chỉ khác mỗi số cuối. Tha hồ nhắn, gọi nhau cả ngày. Gần tết thì "con nít" tung tăng đi mua sắm, hớ hênh sao đó bị mất điện thoại. Tiếc xót xa đến mấy ngày. Điện thoại vô tri nhưng tin nhắn có hồn. Số điện thoại mất có thể xin lại được, còn những tin nhắn ấy chắc chẳng bao giờ…



Dạo mới yêu, mỗi lần giận nhau "con nít" thường tắt điện thoại. Dỗi hờn vu vơ cũng tắt máy cho "người lớn" lo sốt vó chơi. Và tình yêu là khi "người lớn" nói với "con nít": "Đã bao giờ em biết cảm giác chờ đợi một người là thế nào không? Nhiều sáng anh thức dậy, trong tay vẫn nắm chặt cái di động...".

Và từ đó em không bao giờ tắt điện thoại, kể cả khi giận nhau.

Tình yêu là khi anh giận em, chạy băng băng nửa tiếng dưới mưa về nhà. Về đến nhà không gọi điện được cho em, lại chạy ngược qua nhà em vì lo em có chuyện gì.



Em đã quen với cảm giác luôn có một người chờ đợi.

Em đã quen mỗi trưa cầm máy lên có một tin nhắn chờ sẵn, và mỗi tối anh gọi chúc ngủ ngon.

Yêu thương đôi khi là lớn, đôi lúc lại giản đơn như hai ngón tay út vô tình chạm vào nhau.

Tình yêu, chỉ đơn giản là những điều như thế
 
T

thuyan9i

Đôi mắt, nụ cười
xuli


"Em cười mà mắt không vui.
Bởi vì đâu em cười mà mắt không vui..."


Dạo này nó lại giở quẻ thích một người. Không phải em. Khuôn mặt đó, ánh mắt đó, nụ cười đó không phải em. Nó ngờ ngợ thế, tin chắc thế.

Nó thích em vì một đôi mắt rất buồn, vì khuôn mặt hay trầm tư, vì cái cách em nhìn cuộc sống,... và vì một lẽ rất vu vơ là em gắn bó với nó quá thể. Nó nhớ người kia cũng vì một đôi mắt buồn, chỉ thế thôi.

Không phải nói như thế là nó muốn so sánh. Nó thích sự so sánh, nhưng chưa bao giờ thích so sánh những đôi mắt. Bởi nó tìm thấy trong những ánh mắt những đam mê khác nhau. Nó thích tìm trong đấy những lấp lánh sắc màu, mà mỗi người luôn ẩn chứa những sắc màu rất riêng. Kế đến là nụ cười. Nó thích một nụ cười không hẳn vui cũng không hẳn buồn. Mỗi thứ một chút thôi, một chút đủ để sưởi ấm trái tim nó.

Có bao nhiêu nụ cười đã sưởi ấm được trái tim nó rồi, nó cũng chẳng biết nữa. Đôi khi nhói lên chỉ vì một nụ cười rất vu vơ, để rồi lãng quên... Nó vốn là một kẻ đa cảm. Chỉ đa cảm thôi!!!

Thế mà chị bảo nó, những kẻ có đuôi mắt dài sượt như mày vừa đa cảm, vừa đa tình, nhất là có... trong khoé mắt. Ôi thôi... tránh xa những kẻ như mày... Chị cũng bảo rằng, một người có thể có rất nhiều giấc mơ, nhưng một kẻ chín chắn luôn có điểm dừng... Trong cuộc đời chị có bao nhiêu giấc mơ, và chị đã dừng ở điểm thứ bao nhiêu trong cái mắt xích ngớ ngẩn đó?!!!! Nó chưa bao giờ là một kẻ đa tình, dẫu có đuôi mắt dài sượt, dẫu có... trong khóe mắt... Nó chỉ đa cảm hơn chị một chút thôi, là ko thể nói những lời dứt khoát với bất cứ ai. Nó sợ làm tổn thương trái tim ai đó... Và cuối cùng nó phải trả giá. Em bảo một kẻ đa cảm chỉ làm khổ người khác, chẳng có gì hay...

Cũng lâu lắm rồi nó không để lòng mình lắng xuống theo những giấc mơ, lâu lắm rồi nó bỏ quên cách lãng quên thực tại, lâu lắm rồi nó không chạnh lòng khi nhìn những mái phố rong rêu đang dần vơi đi... Em đã cuốn hết tâm trí nó. Hay cũng có thể là cuộc sống tấp nập của Sài Gòn khói bụi đã cuốn nó đi không kịp thở... Giờ đây, ngồi lắng nghe lòng mình, nó muốn oà khóc cho những kỉ niệm đã qua. Nó luôn cảm thấy lạc lõng giữa đám đông...

Muốn viết cho em một điều gì đó, những mong nó có thể làm em nhớ lại cái ấm áp của Sài Gòn mưa. Nhưng rồi lại chẳng làm gì cả... Em rồi cũng chẳng hiểu được.

Chợt nhớ đôi dòng cụ Vũ Bằng khóc vợ "Bắt đầu viết thì là nhớ, viết đến tháng 9 gạo mới chim ngói thì là thương. Thương không biết bao nhiêu cho hết, nhớ không biết mấy cho vừa...". Tự dưng nó nhớ Hà Nội da diết, thèm cái không gian Việt trong tâm tưởng, thèm 1 tiếng cười vang rung nỗi nhớ....

Rồi lại nhớ "Tôi muốn được trở về ngày hôm qua. Không phải để nói cho hết những điều chưa kịp nói, cũng không phải để rút lại nhữnmg lời đã qua. Mà đơn giản chỉ để được yêu em thêm lần nữa...". Than ôi, thê thái nhân tình có kẻ đa cảm đến thế sao?!!! Nó chẳng muốn trở về ngày hôm qua nữa, có trở về cũng ko thể tìm lại được những gì nó trông mong. Ngày hôm nay là thực tại, một đôi mắt, một nụ cười hờ hững của ai kia đang làm nhói tim nó.
 
T

thuyan9i

Hai đường thẳng song song
xuli


"Mùa thu trong trí nhớ người đi xa
Là những mùa thu ko bao giờ trở lại".


Chẳng biết bắt đầu một bức thư như thế nào cho phải. Em vốn không ưa những thứ luật lệ thư tín rườm rà. Vậy nên bức thư nào em cũng bỏ qua "những dòng thăm hỏi thường tình phải có". Bỏ qua, nhưng không có nghĩa là em không quan tâm đến những gì xảy ra trong cuộc sống của anh. Em thích thể hiện sự quan tâm theo cách riêng của mình, nghĩa là kông quá ồn ã, không quá nồng nhiệt... Đôi khi những cái không quá ấy lại biến những ý nghĩ yêu thương thành nhưng câu nói lạnh lẽo đến ko ngờ.

Nghe có vẻ như một lời biện minh anh nhỉ? Ai lại đi chải chuốt cho sự vụng về của mình bẳng một đoạn mở đầu như thế, một nơi mà người ta chỉ giành riêng cho "những lời thăm hỏi thường tình phải có"...

Và để tiếp nối sự vụng về của mình, em bắt đầu tản mạn về thời tiết. Những cơn mưa đầu mùa, những ngày nắng cháy người, hay những mầm xanh hoa dại vươn lên từ bức tường rêu loang lổ.... Bất cứ cái gì, miễn là nó làm anh cảm thấy nhớ da diết Sài Gòn của ngày hôm qua chớp mắt... Những câu chuyện phiếm luận bên tách trà với vài thằng bạn,những trăn trở về cuộc sống, những cảm xúc bức bối trước sự đối lập khắc nghiệt mà một bức tranh đem lại.... Tất cả, đều được anh đón nhận theo cái cách "nếu cảm thấy nặng nề với những gì đang mang, thì đưa đây, biết đâu anh sẽ gánh bớt được một phần nào đó''.

Em, một con bé vụng về, hay cáu kỉnh, rất bướng bỉnh và hàng ti tỉ những tật xấu khó ưa khác... đứng bên anh,em lại càng thấy bé nhỏ quá đỗi. Vậy mà anh bảo rằng: ẩn trong rất nhiều những tật xấu đó là một con nhóc dịu dàng, chân thành, biết đam mê, và sống đúng với những vụng về mình có.....

Có rất nhiều gương mặt đã đi qua cuộc sống của anh.Vài người dừng lại, trong đó là bạn bè, là tình yêu, nhưng chỉ có một khuôn mặt anh biết là sẽ đọng lại mãi ko bao giờ quên được, là em. Bỏ lại sau lưng những căng thẳng bộn bề, cầm cây đàn trên tay, chỉ chìm vào thế giới mộng mị của riêng mình. Thế giới đó có anh, những âm thanh bổng, trầm.... và đôi khi là em nữa. Ừ, chỉ mỗi một mình em thôi...

Tất cả những kỉ niệm ấy,cộng với câu hỏi cũ "anh nói những điều đó để làm gì, khi bản thân nó không mang lại cho anh, và em sự thanh thản?" đã lùi xa về kí ức. Có những thứ tưởng như ám ảnh ta suốt 1 cuộc đời, sẽ trở nên vô nghĩa nếu như 1 ngày nào ta nhìn cuộc sống hơi khác đi, nhẹ nhàng hơn, bình yên hơn.... Có lẽ anh sẽ mỉm cười nghĩ rằng: "Quay lưng đi, là bờ. Sự lựa chọn cũng làm em hao tổn giấy mực đến thế sao".

Ừ thì anh nghĩ thế nào cũng được. Anh có thể nghe, không nghe, mỉm cười hay lơ đãng, hoặc thậm chí, đánh đồng nó với những chuyện phiếm luận nhàn đàm của những người hay nhắm mắt suy tư..... Em chẳng ép ai bao giờ...

Và để thay cho lời kết, em muốn nhắc lại 1 điều rất cũ: 2 đường thẳng song song trong chân lí ko hề có những điểm gặp nhau bất chợt như anh từng mong..... Nó chỉ tồn tại trong ảo giác...
 
T

thuyan9i

Rác là một phần tất yếu của cuộc sống...
Poke





Hehe... Sorry các bác Aquafina, cho em mượn câu này chút nhé!...

Poke nhớ ngày trước xem phim Tây Du Ký, thích nhất là Tôn Ngộ Không (tất nhiên rồi!) thông minh ở chỗ khi sư phụ nhổ cho một bãi nước bọt, bảo là vứt chỗ nào "trời không biết, đất không hay", thế là Ngộ Không bèn cho vào miệng mình, nuốt mất tiêu... ặc ặc... đúng là "trời không biết, đất không hay" thật! Gớm quá... Nhưng mà phải công nhận là Ngộ Không, ngay từ xa xưa đó đã rất biết giữ vệ sinh môi trường, không khạc nhổ bừa bãi (như sư phụ), không xả rác nơi công cộng! Tinh thần yêu và gìn giữ môi trường đó rất rất đáng khen...

Cũng là chuyện ngày còn nhỏ, ở xóm nhà Poke có 1 khoảnh đất trống, khoảng chừng mấy trăm mét vuông, nằm ngay đầu đường. Con đường rất rộng và đẹp, nhà nhà đều trồng hoa giấy và hoa lồng đèn, rất thơ. Chỉ mỗi khoảnh đất trống đó, chẳng biết của nhà ai, bỗng nhiên vô tội vạ, trở thành bãi rác của cả xóm. Nhà ai có rác cũng đem vứt ra đấy. Ý thức giữ gìn vệ sinh môi trường của xóm Poke lúc đó cũng cao chứ nhỉ!? Bởi thế con đường nhà Poke luôn sạch đẹp. Chỉ có "tiền cảnh" quá nặng với bãi rác mấy trăm mét vuông mà đến mùa mưa thì mùi hôi thối bốc lên, phải thú thật là không thể chịu nổi....

Có nơi để vứt rác như thế, cũng còn đỡ. Có nhiều nơi không có chỗ để thu gom rác, không có nơi để vứt rác và thậm chí có nơi chứa rác mà không có người vứt rác, vì rác đã bị vứt tứ tung ngoài đường rồi. Híc, đây lại là một "phạm trù" khác nữa. Thú thật là Poke rất "dị ứng" với chuyện vứt rác ngoài đường, vứt linh tinh ra hành lang, vứt lung tung khắp dưới bàn ăn trong quán, vứt bừa khắp nơi trong công ty chờ chị lao công dọn, vứt đầy căn tin vào mỗi giờ ra chơi, kín sân ga, ngập xông viên... v.v... túm lại, là vứt không vô thùng rác! Thật sự là tài "ném bóng rổ" của khá nhiều người là rất kém. Có lẽ thế, nên dẫu cho thùng rác gần bên cũng không bao giờ ném trúng, lúc nào cũng trật ra ngoài và rơi xuống đất....Có lẽ vậy, nên đi đâu, đến những nơi công cộng đều nhìn thấy rác....

Có nhiều lần, Poke nhắc nhở người khác giữ gìn vệ sinh nơi công cộng. Bạn bè thường cười bảo: "Mày dư hơi quá hén!" Cũng có nhiều lần, sau khi nhắc nhở, Poke thường bị những ánh mắt gườm gườm như muốn "ăn tươi nuốt sống" mình vậy. Hoặc thậm chí là những lời nói thô lỗ: "Bộ nhà mày hả?" Nhưng thật sự là Poke không thể chịu nổi khi nhìn thấy ai đó vứt rác nơi công cộng, nhìn thấy mà không nhắc nhở thì lại càng bức bối, bực bội thêm. Poke nhớ có lần, trên đường từ sân bay về khách sạn, trong khi Poke đang thuyết minh cho du khách thì anh tài xế quay kính xe xuống và phun ra ngoài một bãi nước bọt. Lúc đó, tuy rằng Poke không soi gương, nhưng Poke biết mặt mình đang đỏ dần lên, một phần mắc cỡ với du khách, một phần là bực bội sao ông tài này vô phép, mất lịch sự thế...

Có lần, Poke đến chơi ở nhà bạn, vợ chồng anh bạn kể chuyện về cậu nhóc bảy tuổi rất đỗi tự hào: "Chị gửi nó học trường quốc tế cho đỡ cực. Mà cũng đỡ phải dạy dỗ lắm nha, mình bận suốt ngày mà. Nó được cái là tự tin, và rất có ý thức. Ba nó chở đi ngoài đường, vừa bóc viên kẹo, ngậm rồi, mà tay cứ cầm khư khư mẫu giấy gói kẹo, cho đến khi gặp một thùng rác ven đường, nó đòi dừng lại và bỏ mẫu giấy vào thùng..." Thật sự, có cần thiết phải gửi trường-quốc-tế mới có được ý thức không xả rác nơi công cộng, gìn giữ vệ sinh môi trường như thế không?

Bạn bè ở công ty, mỗi lần đi đâu với Poke đều nói đùa: "Làm gì thì làm, chứ đừng xả rác trước mặt bà này, chứ không thôi bả chửi cho nghe nhức đầu lắm nghen!" Ghét chưa, bọn nó còn không biết cám ơn Poke nhắc nhở, chứ chẳng lẽ anh xinh trai, chị xinh gái ra đường, đi phố, ăn uống quán xá,... mà xả rác tùm lum, thì còn gì là xinh là đẹp nữa, đúng hông???
 
T

thuyan9i

Một chút hoài niệm
Cù Thị Bích Hà
Một hôm tình cờ nhỏ đồng nghiệp cũ gửi cho tin nhắn này, thấy hay hay nên chia sẻ cho mọi người cùng đọc:

“Lúc bé, tưởng khóc là buồn, bây giờ phát hiện buồn nhất là không thể khóc được, cứ trống rỗng, tỉnh táo và vô hồn. Lúc bé, tưởng cười là vui, bây giờ nghĩ lại, có những giọt nước nước mắt còn vui hơn cả một trận cười. Lúc bé, tưởng đông bạn là hay, bây giờ mới biết vẫn chỉ có mình mình. Lúc bé, tưởng cô đơn ở đâu xa lắm, chỉ đến ở những chỗ không người, đến giờ mới hiểu, lúc bên nhau, sự ấm áp mới thật mong manh, mà nỗi cô đơn sao lại gần gũi thế. Lúc bé, tưởng yêu là tất cả, là mọi thứ, lớn rồi mới biết sau yêu còn có chia tay”.

Không biết các bạn cảm nhận thế nào chứ riêng với tôi, nó ý nghĩa và gần gũi lắm.

Lúc bé, thấy mọi người khóc, cứ nghĩ chắc họ đang buồn lắm đây và rất cần sự chia sẻ của những người xung quanh. Giờ mới biết họ khóc được là tự họ đã giải thoát được nỗi buồn cho chính mình. Và buồn nhất vẫn là không thể khóc được. Có thể là vì chúng ta không còn nước mắt để khóc hoặc là nỗi buồn đó không đáng để chúng ta phải khóc. Lý do làm tôi buồn mà vẫn không thể khóc là lý do thứ hai. Tôi đã từng có một tình yêu thật đẹp với một người mà tôi nghĩ là không hoàn hảo, nhưng đối với tôi điều đó không quan trọng, bởi vì chúng ta không ai là hoàn hảo cả. Tôi yêu cái hoàn hảo và cả cái không hoàn hảo của người tôi yêu. Tình yêu của chúng tôi thật đẹp và chúng tôi đã từng mơ đến một tương lai xa, một ngôi nhà nhỏ xinh, những đứa con xinh xắn, nhưng mơ ước vẫn chỉ là ước mơ, dù có đẹp đến đâu thì tất cả cũng sẽ sụp đổ vì trong tình yêu không có chỗ cho sự lừa dối. Tôi đã rất muốn khóc, khóc thật nhiều nhưng không hiểu sao lại không thể. Điều duy nhất đọng lại trong tôi lúc này là tôi đã rất buồn, trống rỗng nhưng lại tỉnh táo một cách lạ thường. Nước mắt của tôi đã không phản bội lại tôi, nó đã không rơi một cách vô nghĩa. Nỗi buồn đầu tiên lớn nhất trong đời tôi là như thế đó, các bạn ạ.

Lúc bé, thấy mọi người cười, cứ nghĩ chắc họ đang rất vui và hạnh phúc. Giờ mới biết, trong những nụ cười hạnh phúc đó, còn có những nụ cười xót xa. Tôi đã từng cười rất hạnh phúc khi luôn đứng trong top five của lớp, khi được đi chơi cùng bạn bè, khi mang lại niềm vui cho người khác. Tôi cũng đã từng khóc rất hạnh phúc khi gia đình tôi vượt qua được những thử thách của cuộc đời để tiếp tục cuộc sống, khi tiễn một người bạn ra nước ngoài học vì bạn tôi sẽ lại quay về với một tương lai thật xán lạn, khi một việc làm nhỏ của tôi đem lại niềm tin cho người khác… Nhưng cũng đã từng cười trong xót xa khi vô tình nghe được câu chuyện của một người bạn thân thiết mà mình hết mực tin tưởng với người khác vì nhờ câu chuyện của người bạn ấy mà mình biết mình có nhiều khuyết điểm đến như vậy, và khi tình cờ nhìn thấy người mà mình hết mực yêu thương, tin tưởng tay trong tay với một người quen của mình. Nếu là bạn, bạn sẽ làm gì khi phải đối mặt nhau trong tình huống không mong muốn như vậy... Còn tôi, tôi đã cười với hai người họ và tiếp tục bước đi, và sau đó đã đi ra khỏi cuộc đời của người mà tôi đã hết mực yêu thương, mặc dù người đó đã xin tôi tha thứ rất nhiều. Quan điểm của tôi là “Người ta đã lừa dối mình một lần thì chắc chắn sẽ có lần thứ hai. Thà đau một lần mà thanh thản”. Tôi đã cười trong xót xa như thế đó, các bạn ạ.

Lúc bé, tưởng đông bạn là hay, giờ mới biết vẫn chỉ có mình mình. Câu này thì không đúng với tôi lắm. Ngay từ bé tôi đã có rất nhiều bạn, và đến giờ họ vẫn là những người bạn rất tốt của tôi, tuy thỉnh thoảng cũng làm tôi buồn phiền một chút, nhưng chẳng ai là hoàn hảo cả, tôi cũng vậy. Tôi không một mình, bởi tôi vẫn có những người bạn rất tốt ở bên mình.

Lúc bé, xem chương trình ti vi, thấy người ta sống ở những nơi hoang vu, hẻo lánh, cứ nghĩ là người ta thật cô đơn. Giờ mới biết thật ra cô đơn rất gần ta, chứ không chỉ tồn tại ở những nơi xa xôi hẻo lánh đó. Tình yêu cũng vậy đó các bạn ạ, nó mang đến cho ta nhiều niềm vui, niềm hạnh phúc, nhưng nỗi buồn và sự cô đơn cũng không ít. Tôi cũng vậy, khi được ở bên người tôi yêu, tôi rất hạnh phúc, tôi có cảm giác như cuộc sống thật quá ưu ái đối với tôi. Nhưng sao tôi vẫn có một cảm giác gì đó rất mong manh, dễ vỡ. Yêu nhau đã khó, giữ được tình yêu đó còn khó hơn. Tôi chẳng biết tình cảm của chúng tôi có đủ lớn để có thể vượt qua tất cả mọi thử thách để tình yêu của chúng tôi đẹp mãi, đẹp mãi như những lúc này không... Thế đấy các bạn ạ, ở bên người tôi yêu nhưng tôi vẫn cảm thấy mình rất cô đơn, vì có những nỗi lòng, những suy nghĩ mà tôi chẳng thể nào chia sẻ được.

Lúc bé, tôi còn quá nhỏ để hiểu tình yêu là gì, nhưng tôi cảm nhận được dường như người ta cười nhiều hơn, đẹp hơn khi yêu. Thấy các anh chị vui vẻ cười đùa, tay trong tay nhau cùng dạo phố, cùng nhau chia sẻ những niềm vui, những nỗi buồn và cùng nhau vượt qua những thử thách khó khăn trong cuộc sống, tôi nghĩ họ thật sự là những người hạnh phúc. Tình yêu của họ sẽ chẳng gì có thể chia cắt được và nó sẽ còn đẹp hơn nếu được kết thúc bằng một đám cưới và sống trọn đời bên nhau. Thế nhưng, cuộc sống vốn không trọn vẹn, không phải những người yêu nhau đều đến được với nhau. Vốn dĩ chẳng có gì là hoàn hảo, và tình yêu cũng không ngoại lệ. Cũng như mọi người, tôi cũng đã từng nghĩ tình yêu của tôi và người tôi yêu thật đẹp và sẽ chẳng có lý do gì để chúng tôi phải chia tay. Thế nhưng chúng tôi cũng đã chia tay và tôi cũng kịp nhận ra rằng “tình yêu đẹp thật đấy nhưng chưa phải là tất cả, vì sau tình yêu còn có chia tay”.
Thế đấy các bạn ạ, thời gian vẫn trôi, cuộc sống vẫn biến đổi từng ngày, từng giờ. Chúng ta không biết được ngày mai của chúng ta sẽ như thế nào nên chúng ta hãy cứ sống thật tốt cho ngày hôm nay, để không bao giờ phải thốt lên hai chữ “Giá mà…”. Hãy cứ sống hết mình cho công việc, cho gia đình, cho bạn bè và cho tình yêu, rồi bạn sẽ nhận được niềm vui và hạnh phúc. Cho là nhận. Tin tôi đi!
 
T

thuyan9i

Một mái nhà
Kẹo Ngốc- Nhân đọc “Một mái nhà” của Nguyễn Ngọc Tư -


“Tôi cũng có nhà. Lớn hơn một chút, đầy đủ tiện nghi hơn nhưng chẳng bao giờ tôi biết hãnh diện về nó. Nhiều lúc bạn bè nói gièm, bảo để tới nhà nhỏ Tư chơi, tôi bàn ra “Nhà em khó kiếm dữ lắm mấy anh ơi”. Bạn gạt phăng đi (vì thương tôi quá mà), “Không sao, khó mấy có lòng cũng tìm ra”, tôi rối beng trong bụng, giả đò nín thing như người điếc, nghĩ thầm, nhà mình thấy ghê…”


Nhìêu lúc tôi thấy mình y chang vậy. Tới nhà nhìêu đứa chơi, thấy nó có phòng riêng, nhà rộng rinh, đẹp dễ sợ. Trong khi nhà mình thì nhỏ xíu, hẹp te, trên cái gác suốt chỉ đặt 3 cái nệm làm chỗ ngủ cho 4 người trong nhà chứ chả có phòng riêng gì ráo trọi. Nhà tôi nằm trong hẻm, gần một quán café cóc, lúc nào cũng ồn ào, lít xít. Lúc nào cũng có những đàn bà, đàn ông bắc ghế ngồi tán dóc với nhau trước cửa, sẵn sàng săm soi mọi việc xảy ra trong hẻm. Đứng ở đằng trước thấy thông thống đằng sau, tùênh toàng một cái bếp nhỏ xíu, đứng cỡ 2 - 3 người là chật ních. Cái nhà tắm cũng hẹp te, bé tẹo, trong góc sát cầu thang để cái máy giặt. Nhà mái tôn nên trưa ngồi trên gác là cứ nóng hầm hập, mở quạt vù vù mà vẫn thấy như đang ngồi trong lò hấp. Đồ đạc trong nhà lúc nào cũng thấy bừa bộn, mới dọn hôm trước hôm sau lại thấy đồ ở đâu cứ ùn ra. Lâu lâu mẹ lại kê lại đồ đạc trong nhà, nhưng nhà có một khúc, nên xoay tới xoay lui một hồi cũng chỉ có nhiêu đó. Tôi chỉ có cái bàn, cái nệm và một cái ngăn tủ bé xíu làm của riêng cho mình. Nhìêu lúc cứ ước thầm nhà mình đựơc như nhà người ta, mình có một cái phòng riêng, be bé thôi cũng đựơc, để mà mặc sức bày biện theo cách của mình.

Tôi chả bao giờ mời bạn về nhà. Cứ hỏi tới là tôi tìm cách bàn lui, đùn đẩy qua đứa khác, “Nhà tao nhỏ xíu như cái lỗ mũi á”. Ngoài nhỏ bạn thân của tôi, lâu lâu qua chơi rồi ngủ lại, còn thì hễ ai đòi qua nhà là tôi chối lìên. Có một lần lớp 9, nhỏ Cẩm bạn tôi nằng nặc đòi qua, tôi cản hỏng lại. Nó qua, lên gác ngồi học bài với tôi, rồi ăn uống, nói chuyện. Có vậy thôi mà tôi cảm thấy đó là một sự kiện trọng đại lắm. Mà lúc đó cứ thấy ngường ngượng thế nào á, kiếm cớ đủôi nó về lẹ lẹ. Tôi chỉ nhớ nhà những lúc đi xa. Đại loại như đi du lịch, về quê, hay đơn giản là mấy hôm qua nhà Nội ngủ. Tôi nhớ cái gối ôm, nhớ con rùa bông, nhớ tiếng chổi xào xạc của ông già gầy gò, nhỏ con quét hẻm mỗi đêm, nhớ tíêng mẹ lục đục dưới nhà mỗi khi đi làm về trễ. “Tôi chân thành cảm ơn những cuộc đi xa, nó làm tôi biết nhớ nhà, ờ, miễn là nhà-của-mình, thôi thì, sao cũng đựơc”.

Có lần đi tàu dây cáp trong Đầm Sen, chạy ngang qua khu xóm nhà tôi (nhà tôi ở khu Chuà Gíac Viên, thuộc khu đất của Đầm Sen cũ). Chạy lướt qua có một chút, mà tự nhiên thấy buồn dễ sợ. Sao mà nhà mình nhỏ xíu, bé tẹo, nhìn cũ kỹ, chật chội, trong một khu nhà cũng cũ kỹ, chật chội. Hồi lúc tôi lên list “50 đìêu muốn làm trong đời”, tôi dành hẳn một đìêu cho căn nhà tương lai của mình sau này. Tôi viết dài gần 2 mặt A4, tả chi tiết và tỉ mỉ diện mạo tương lai của ngôi nhà mình và những hình dung của tôi về nó. Đó không chỉ là căn nhà để ở, đó phải là một căn nhà mà tôi có thể tự hào với bạn bè của mình, có thể vênh mặt hãnh diện mời bạn về nhà chơi, phải đẹp và ấn tượng đến mức bạn về còn chép miệng trầm trồ “Nhà mày đẹp thiệt!”. Tôi múôn phòng khách nổi bật với những mảng màu (tôi khoái mấy căn nhà trong Tuyết Nhiệt Đới và Ván Cờ Tình Yêu. Chả hiểu sao dạo này lại đâm ra khoái mấy màu tươi rói), căn bếp rộng hình chữ U với một bàn ăn cũng rộng để cả nhà ngồi quây quần ở đó. Tôi còn muốn có một phòng sinh hoạt gia đình, một phòng làm việc + để sách riêng, phòng cho hai đứa con (tôi hỏng múôn sinh con một). Ờ, còn một cái phòng tắm rộng với cái bồn tắm to tưóng và đủ loại xà bông, sữa rửa mặt thiệt là thơm, thiệt là xịn nữa. Tôi sẽ làm một khoảnh vườn nho nhỏ trên sân thượng, có cỏ, có bộ bàn ghế nhỏ, có hòn non bộ với thật nhìêu cây và những chậu hoa, bồn hoa be bé. “Nhưng chừng nào thì mình mới có đựơc một cái nhà như vậy kìa, biết chừng nào, chừng nào, chừng nào?”

Nhìêu khi nghĩ vậy mà hổng phải vậy. Tôi cứ nghĩ nhà cao cửa rộng là sẽ hạnh phúc, gia đình sẽ vui vẻ, ấm áp, hổng phải ra đụng vào chạm mắc công cằn nhằn. Tôi qua nhà thằng bạn. Cả một đại gia đình của nó sống chung với nhau, nhà rất cao, rất to, rất đẹp. Mỗi người có một phòng riêng, có một cái sân thượng thiệt là rộng, có cả một cái bếp nho nhỏ trên đó nữa. Vậy mà tôi thấy lạnh lẽo quá trời đất. Đi học, đi làm về là ai cũng đóng kín cửa ở trong phòng ngừơi nấy. Mỗi phòng có cả phòng vệ sinh, tivi và máy tính riêng, nên ai cũng cứ mải mê trong không gian riêng của mình. Chắc vậy mà tạo nên cách sống khép kín của mọi người, thờ ơ và lạnh lùng thấy ghét (thiệt, tôi hỏng khoái mấy người trong nhà nó xíu nào). Nhìêu lúc thấy tội cho nó, có cái nhà đẹp quá trời, cái phòng riêng đẹp quá trời (tôi khoái nhất là cái nệm của nó, nằm ình một cái xuống là lút người luôn, êm gì đâu) mà hổng có đựơc tình cảm gia đình ấm áp. Gìơ tôi lại thấy thương cái nhà của mình. Nhà nhỏ xíu, ra đụng vào chạm, vậy nên có giận nhau cũng không giận đựơc lâu. Nhà nhỏ xíu, vậy nên cái đứa sợ ma (chính xác là sợ sát thủ cứa đầu mình) như tôi mỗi khi xem phim kinh dị, đọc truyện ma hổng thấy sợ, vì yên tâm là xung quanh mình đều có người (có chết, chết chung). Vậy nên mấy lần mưa rơi rầm rập mái tôn, nằm co người trong chăn thấy ấm áp và hạnh phúc gì đâu.

Hồi Tết lúc dọn nhà sạch sẽ gọn gàng xong, đứng ngắm nhà mình, tự nhiên thấy yêu nó khủng khiếp. “Nỗi vui cồn cào tới mức muốn mời ai đó tới nhà chơi ngay bây giờ, ngay lúc này”. Tôi sẽ tự hào mà dắt bạn vào thăm, chỉ vào nhà, hãnh diện vỗ ngực mà nói “Nhà tui nè!”. Thiệt mà!
 
T

thuyan9i

Chương I. Dục vọng của người này không thể tàn phá dục vọng của người kia: Đó là Công lý

Hiển nhiên, không thể cãi được rằng, người ta sống ở đời đều mong được sống hạnh phúc, thoải mái, an toàn, tự do, bình đẳng, mưu cầu hạnh phúc được xác định trong hiến chương Liên Hiệp Quốc về các quyền cơ bản nhất của con người. Chẳng lẽ, con người lại không muốn an toàn, nghĩa là lúc nào người ta cũng thích bị người khác rình rập săn đuổi, cưỡng bức bắt làm nô lệ, bị đánh đập, hắt hủi, đè nén, thậm chí thủ tiêu không khác gì một con sâu bị di mất tiêu? Chẳng lẽ, con người sống mà không muốn thoải mái, được làm việc, được nghỉ ngơi theo ý muốn của mình mà lúc nào cũng chỉ như con sen thằng ở phải trông chừng ý thích của ông chủ? Chẳng lẽ, mỗi người sống lại không mang hạnh phúc mà chỉ tìm cách hiện diện ở đời như một nô lệ, một cỗ máy phục vụ cho mục đích của người khác, trong khi bản thân mình không có mục đích nào hơn là sinh ra để làm phương tiện?

Chẳng cần lý sự dài dòng, điều hiển nhiên nhất nằm ngay trong máu thịt tự nhiên của con người đó là: cuộc đời không thể sống được nếu không mưu cầu hạnh phúc. Chẳng lẽ, người ta có thể sống khi nơm nớp bị săn như con thú, sống hay chết chỉ nằm trong gang tấc hiểm họa của những nòng súng săn, những cung tên, hay lưỡi dáo? Trước hết, muốn sống thì phải được tồn tại một cách an toàn, nghĩa là cuộc sống không bị cướp đi một cách vô cớ. Tiếp theo, cuộc sống không thể gọi là sống nếu chỉ được tồn tại như một hòn đá nằm vô tri bên bờ suối, hay như một con trâu đang kéo cày cho chủ, hoặc một con lợn đang vục miệng vào chậu cám đầy ú cơm thừa canh cặn để mau chóng trở thành thứ xúc xích cho bữa ăn của chủ hoặc tồn tại như một cỗ máy hoạt động đều đặn không có nổi một chút đời sống của là hồn.

Cái đầu tiên chứng tỏ con người được sống nhất, đó là quyền được hạnh phúc. Bởi nếu không có quyền hạnh phúc con người khác gì cỗ máy kia được chế tạo một cách khéo léo, tra dầu mỡ, chỉ để vận hành một cách vô tri vô giác, hay hay như con lợn kia được vỗ béo nhưng đâu có phải được ăn uống thoả thuê cho chính cuộc sống của mình mà là ăn uống cho mục đích tăng trọng nhằm biến thân xác mình làm thức ăn cho bàn tiệc của người khác.
Hạnh phúc là gì? Đã có rất nhiều quan điểm khác nhau, vừa rất trần tục vừa rất cao siêu, chẳng hạn có người nghiêng về thân xác thì định nghĩa hạnh phúc như những lạc thú của ăn uống, tình ái, nhưng người nghiêng về tinh thần thì định nghĩa hạnh phúc như quyền sống chói lọi cao vời vợi của linh hồn, như các nhà tu thiền chẳng hạn, các vị đó bỏ lại phía sau cuộc đời trần tục lên núi cao đóng cửa ngồi thiền và coi đó là một quyền năng hạnh phúc không gì sánh nổi.

Dù các ý kiến về hạnh phúc có khác nhau thế nào đi nữa, nhưng quan niệm về hạnh phúc đều có mẫu số chung căn bản, đó là: ăn no, mặc ấm, được hưởng thụ tình yêu và tình thương, được sống thoải mái trong danh dự mà không bị ai ruồng rẫy khinh thị, có công ăn việc làm, thành công và thăng tiến trên con đường sự nghiệp của mình... Về hạnh phúc chung, người ta thấy, số đông hoặc hầu hết mọi người trong xã hội đề đua tranh mong muốn có được, chẳng hạn một nếp nhà khang trang, một chiếc xe hơi đẹp, một người vợ hiền và những đứa con vừa xinh vừa ngoan, công việc thì thăng tiến, thu nhập cao, danh giá nhiều...

Về những giá trị hạnh phúc căn bản như người Trung Quốc vẫn ví, chẳng hạn về ăn uống nuôi sống con người: “Nhân dân lấy gạo làm trời”. Có gạo thì mới có ăn, có ăn thì mới sống, con người có sống thì mới hưởng được lẽ trời đất. Hoặc như mong muốn thành đạt và tình ái, người Trung Quốc hay nói “Song hỉ lâm môn”. Hai cái vui vào cửa, thường bao gồm: Thứ nhất thủ khoa, thứ nhì động phòng hoa chúc. Nghĩa là, học trò đi thi đỗ đạt vinh quy về nhà, sau đó lấy được vợ hiền hưởng đam mê tình ái.



Về hạnh phúc, dù có nhiều ý kiến khác biệt nhau nhưng nhiều triết gia phương Tây đã bàn đến, hạnh phúc căn bản của con người như cuộc sống, nghề nghiệp gia đình là mẫu số chung khác hẳn với cái gọi về sở thích của mỗi người, như anh thích ăn thịt bò, tôi lại thích ăn thịt gà, anh uống được cà phê, còn tôi lại sợ mất ngủ, anh bán tất tài sản đổi lấy một chiếc vé xem bóng đá, tôi lại chẳng tiếc tiền mua chiếc vé xem hoà nhạc... như vậy, đến đây chúng ta cũng dễ đồng ý với nhau: hầu hết mọi người đều phải quan tâm mong muốn, và truy cầu cái hạnh phúc căn bản của mình.

Về hạnh phúc, triết gia Kinh quan niệm một cách hết sức mạnh lạc rằng, đó là ham muốn của cá nhân phải được thoả mãn nhờ đối tượng thực hành, giống như “Người nào muốn ăn bánh mì thì phải nghĩ đến chiếc cối xay” (Celui quy voudrai manger du pain, aurait à imagier moulin)(l). Thật là một ý tưởng đích đáng của một triết gia được mệnh danh là "ông hoàng của Phúc Âm mới". Chúng ta muốn uống thì phải nghĩ đến nước cho dù nước sông, nước máy hay nước mưa, hơn nữa là bia, rượu vang, hay rượu mạnh. Chúng ta muốn ăn no thì phải nghĩ đến đồ ăn, đó là gạo thì phải đến từ những cánh đồng lúa nước, đó là lúa mì thì phải nghĩ đến những cánh đồng ôn đới, thức ăn chỉ được dọn lên bàn sau khi đã được đun nấu từ trong bếp! Còn muốn mặc quần áo người ta phải nghĩ đến thợ dệt, thợ may, một cách nghĩ rất hiển nhiên như người ta cần một chiếc áo chẳng hạn. Người ta nhất khoát phải để ý đến mặt vải mịn hay sần sùi, tức là cách dệt vải, và ngắm kỹ kiểu cách có làm mình thích không - đó là cách cắt may của người thợ may. Còn muốn đeo một chiếc nhẫn vàng, hiển nhiên người ta phải để ý đến vàng bao nhiêu tuổi, vàng chín hay vàng mười hoặc bao nhiêu ca-ra, rồi đến cách của người thợ kim hoàn làm ra chiếc nhẫn! Còn muốn trở thành một người được thăng quan tiến chức, người ta buộc lòng phải nghĩ đến một nhóm người nào đó, một cơ quan, một tổ chức, một nhà máy hay một thành bang, từ đó mới có thể mong muốn mình làm xếp nhất hay xếp nhì.


Tác giả: Nguyễn Hoàng Đức

- Sinh năm 1957, học đại học An Ninh
- Anh là một người khác thường mà nhà thơ Đỗ Minh Tuấn gọi là "Anh hề triết học, chàng Đông-ki-sốt văn chương"

Tác phẩm đã in
1. Ý hướng tính văn chương. Chuyên luận và 9 cuốn khác.


Tác phẩm sắp in
1. Ngưỡng cửa làm người (tiểu thuyết, 2 tập, và 12 cuốn khác)
2. Người Việt Nam tự ngắm mình (chuyên luận)
3. Hành trình nhận thức duy niệm của nhân loại (chungta.com đăng nhiều kỳ)
4. Hành trình tâm linh nhân loại (chuyên luận, chungta.com đăng nhiều kỳ)
5. Công lý và Dục vọng (chungta.com đăng nhiều kỳ)
6. Quan phẩm và Nhân phẩm (chungta.com đăng nhiều kỳ)
7. Tự do nền móng thiết yếu của con người (chungta.com sẽ đăng nhiều kỳ)

Xem trang Tác giả...




Mong muốn đều đối tượng của nó, và những đối tượng đó dẫu con người đến đâu? Các nhà xã hội học Mỹ phát hiện rằng, trước khi những người da trắng Châu Âu tràn sang Châu Mỹ - ở đó người da đỏ sống theo bộ lạc du canh du cư, họ luân chuyển không ngừng, họ không bao giờ coi đất trời là của họ, họ đến rồi lại đi, để cho những bộ lạc đến sau kế thừa chỗ của họ, cũng như họ đang di chuyển đến một vùng đất mà một bộ lạc khác mới dời đi, đó là tập quán không bộ lạc nào có ý định sở hữu một vùng đất nào dù rất đẹp hay mầu mỡ, vì vậy không có các cuộc xung đột giành đất xảy ra. Chiến tranh giành đất chỉ thực sự bắt đầu khi những người Châu Âu đến rào mảnh đất mình vừa đặt chân, và gán lên đó một tấm biển mang tên mình. Đất đai bị chiếm dụng làm sở hữu của riêng, thế là các cuộc đấu tranh giành đất tương tàn một mất một còn diễn ra liên miên.

Xung đột tranh giành diễn ra không chỉ đối với đất đai và đỏ mạc, những kẻ săn lông thú ở Bắc Ca-na-da cũng đã từng san đuổi giành giật với nhau từng hộ lông, hay những kẻ săn cửa cá ở vùng Xi-bi-ri nước Nga cũng đã từng thịt nhau chí tử để giành lấy từng bộ da không thấm nước quí như vàng, còn các cuộc xung đột tranh giành từng thùng bùn để đãi vàng đã diễn ra trên khắp thế giới, vàng tắm máu ở California, ở Nam Phi và miền Viễn Đông nước Nga, vàng không chỉ biến thành vòng xoáy cho các cuộc tránh giành bạo lực, súng ống, băng nhóm mà nó còn cuốn hút vào giữa xoáy lốc của nó những dòng người ham hố vừa đi vừa cuốn theo cờ bạc, lừa đảo, đĩ điếm và vô vàn các tệ nạn khác. Còn khao khát quyền lực, người Trung Quốc đã mô phỏng qua một câu nói: "Ở dưới một người và ở trên muôn người". Người khao khát quyền lực mong chỉ ở dưới một người là ông vua nào đó được gọi là thiên tử, còn thì ở trên muôn người là cả thiên hạ. Than ôi! ở đời còn gì sung sướng cho bằng được sống trên đầu trên cổ người khác, ta được làm ông chủ, còn người khác phải làm kẻ hầu người hạ cho mình thậm chí còn phải làm chó lợn. Nhà văn Vương Sóc trong cuốn sách "Người đẹp tặng ta thuốc bùa mê” (2) của mình đã lột tả đặc quyền của quan lại của Trung Quốc trong nước ông rằng: Đàn bà thì bị bó chân, đàn ông thì bị biến thành hoạn quan để nô dịch tuyệt đối cho chủ. Tóm lại người ta bó chân đàn bà để biến họ thành một thứ bàn chân bé, đùi nở, hông nở để trở thành một cỗ máy phục vụ tình dục một cách hữu hiệu nhất, còn đàn ông người ta vừa muốn dùng sức lực phục vụ của nó nhưng lại lo nó sàm sỡ vợ con mình, nên để yên tâm, người ta cắt béng cái giới tính của nó đi. Làm nô lệ như vậy còn nhục hơn làm trâu chó, vì trâu chó còn được giữ giới tính của nó, còn người bị thiến thì chẳng được sống cái quyền giới tính tự nhiên nhất của mình. Văn hào Dostoievski có nói về ham muốn quyền lực của con người rằng "Con người là một sinh vật thích quyền lực, quyền lực đó dù chỉ ở trên một con ruồi". Người ham muốn quyền lực là người sống trên lưng kẻ khác, càng nhiều càng tốt, người hùng mạnh hơn thì cố có quyền lực trên đầu cả thiên hạ, người yếu hơn thì muốn làm ông chủ của một nhóm người, người yếu hơn nữa thì nạt nộ vợ con mong trở thành ông chủ trong mái nhà của mình, như người Việt lột tả qua phương ngôn.

Cha nói oan
Quan nói tiếp
Chồng có nghiệp nói thừa
 
T

thuyan9i

Còn kẻ yếu hơn, không xưng hùng xưng bá với ai được thì muốn làm chủ từ con chó, con mèo, thậm chí trên cả lưng một con ruồi: có ít còn hơn không. Quyền lực là gì mà con người ham vậy. Như người Việt nói: “Một người làm quan cả họ được nhờ”. Người có quyền lực, không chỉ mình họ sướng vì được quyền sống ưu tiên trên vai những kẻ phải phục dịch mình, mà ngay cả họ hàng thân thích, bạn bè, đồng môn của họ cũng nhờ quyền lực mà được sống theo. Và người có chức có quyền muốn bảo vệ quyền lợi cho mình thì cũng muốn kéo bè kéo cánh, làm sao để nhiều người hưởng sự ưu tiên do mình ban phát sẽ trở thành thế lực ủng hộ và bảo vệ mình, người ta tập trung thành cánh hầu để sống ưu tiên hơn người theo cách mà người Việt vẫn nói: “Ăn cây nào rào cây đấy”. Quyền lực là thứ săn đuổi một mất một còn đến mức, tuần nào chúng ta cũng được chứng kiến những nhân vật dã sử trong các phim truyền hình, anh giết em, con giết cha, thái hậu đẩy con xuống giếng để tiếm lấy quyền. Đúng như lời Dostoievski đã nói, con người đi săn quyền lực trên lưng cả mỗi con ruồi, còn trên lưng, trên vai, trên cổ, trên đầu đồng loại thì sao, đâu đâu người ta cũng thấy những xiềng xích, những máy chém, những song sắt, những liều thuốc độc, 'những thùng thuốc súng, những cung tiền giáo mác dồn đuổi lẫn nhau để giành quyền lực, sự tranh giành đó không từ cả triết gia Socrate hiền như hiền triết đã thoái vị cả chức thủ tướng để làm người áo vải, cũng không từ cả Chúa Jesus người đến chỉ để tuyên xưng “Không phải để được phục vụ mà đế làm giá cứu chuộc con người”. Triết gia Hobbes đã lột tả cuộc săn đuổi chiếc ghế thống trị của con người như sau: “Mỗi người đều cố công phá hoại hay thống trị người khác” (chacun s’eforce de détruire ou de dominer l’autre) (3) . Tại sao người ta lại phải một là thống trị hai là phá hoại người khác? Bởi vì có mỗi một chiếc ghế thiên tử, mà cả triệu người săn đuổi, thậm chí có tỉ người vào cuộc tranh giành. mình chưa thể ngồi được vào vào chiếc ghế đó thì phải tìm cách níu chân, phá hoại, đạp đổ, nặng hơn là ra tay hạ sát để cho những kẻ không phải là mình, không được ngồi vào đó.



Muốn làm vua thì phải hiểu được người ta ra không có ai có thể ngồi vào ngai thiên tử.
Quyền lực là thứ trăm người, nghìn người vạn người, triệu người, tỉ người giành nhau một chiếc ghế cao nhất mà triết gia J.Stuart Mill, còn nói cách hóm hỉnh rằng, ngày xưa người ta tranh nhau làm vua ngồi ngai vàng thì giờ đây người ta tranh nhau làm vua ngồi ghế da. Thực ra, quyền lực chỉ là một trong các cuộc truy cầu của con người, ngoài quyền lực ra, người ta còn truy cầu vật chất, các của ngon vật lạ, của qúy của hiếm, rồi mỹ nữ, tóm lại tất cả những gì thuộc về quyền lợi giúp cho người ta sống và hưởng thụ đều trở thành miếng mồi để săn đuổi, tranh giành. Nhà văn Tương Hiền Lượng, người Trung Quốc đã viết: “Cùng một mối lo người ta trở thành những người che chở nhau, cùng một mối lợi người ta trở thành kẻ thù của nhau”. Lịch sử đã nhiều lần chứng kiến khi gặp cảnh lũ lụt, mùa màng thất bát, những kẻ tha phương cầu thực phải tụ tập lại với nhau để bảo vệ lẫn nhau qua những vùng có chủ đất cát cứ, hay trong rừng thẳm lẫn non cao có các toán cướp rập rình, thậm chí bị dồn vào bước đường cùng người ta cũng sẵn sàng cấu kết nhau thành thảo khấu trộm cắp, cướp bóc, cấu kết thành đám đông để vừa bảo vệ lẫn nhau vừa tạo thành sức mạnh tập đoàn để hà hiếp những tập đoàn bé hơn. Đó là lúc cần sự liên kết để vượt qua cảnh khốn cùng, còn lúc vinh hoa thì sao? Chao ôi, thi hào Shakespear đã lột tả vấn nạn đó qua bi kịch của “Vua Lia” khi phải tranh giành ngôi báu, chỉ có một cái nhưng anh em, chị em sao mà đông vậy, họ sẵn lòng quăng cha già ra ngoài mưa gió và cát bụi. Đãy là một sự thật không chỉ diễn ra dưới thời phong kiến, muôn người đòi chiến lĩnh ngai vàng, mà diễn ra ở mọi thời đại, chẳng hạn sau thời cách mạng Pháp, chính Robespierre đã đưa các đồng chí từng sát cánh của mình là Dantoniste và Hébertiste lên máy chém cửa toà án cách mạng (3/4/1794), rồi chính Roberpierre cũng không tránh khỏi bị xử lử như tội đồ vào cuối tháng bảy năm 1794 ngay ở Tòa đô sảnh Paris (4) . Ở Nga, các vụ thanh trừng lẫn nhau giữa Stalin và các đồng chí của mình diễn ra không kém mưu mô và tàn khốc, kết cục, lực lượng bảo vệ thép của Stalin cũng không thể bảo đảm cho ông được ngồi trên ghế lãnh đạo đến hơi thở cuối cùng của tự nhiên, mà ông phải ra đi trong sự can thiệp của bàn tay nhân tạo. Ở Trung Quốc, với cuộc cách mạng tư tưởng văn hoá, sự thanh trừng diễn ra trên một quy mô rộng đến mức có đến vài chục triệu cán bộ và dân thường trở thành nạn nhân bị tố và chính trong bối cảnh đó, nhà văn Trương Hiền Lượng đã ngậm ngùi viết lên: “Cùng một mối lo người ta trở thành đồng chí của nhau, cùng một mối lợi người ta cắn xé lẫn nhau”. Ở Việt Nam, tình trạng đó cũng không thể được gột sạch, mà ở nhiều nơi nhiều lúc, nó cũng chứng tỏ quyền lực là chiếc ghế tranh giành nhau tàn khốc đến mức nào. Rõ hơn cả, là sau cuộc kháng chiến chống Mỹ, trước đó có biết bao đồng chí nhường cơm xẻ áo cho nhau trong những chuồng cọp ở nhà tù Côn Đảo. Vậy mà khi chiến thắng, tiếp quản Sài Gòn - hòn ngọc Viễn Đông, ai ngồi ghế nào, đã trở thành nhiều cuộc giành giật hạ bệ khá đau lòng thậm chí người ta còn gán tội cho nhau anh này đã đầu hàng, anh kia đã khai báo, còn anh nọ đã chiêu hồi, nhằm vô hiệu hoá lẫn nhau. Việt Phương là một quan chức cao cấp trong Chính phủ đã lột tả tình trạng đấm đá của các quý vị đồng chí như sau:

Ta cứ nghĩ đồng chí rồi còn ai xấu nữa
Hàng ngũ ta chỉ có chỗ của yêu thương

Vậy mà:

Một phần tư thế kỷ cũng đã trôi qua
Đến bây giờ ta mới biết
Thế nào là yêu thương thế nào là chém giết

Ta đã thấy chỗ lõm lồi trên mặt trăng sao
Những vết bùn trên tận đỉnh chín tầng cao
Đâu phải rắn nằm phục giữa vườn hoa
Tất cả những kẻ tốt đến yếu mềm
Chỉ là đồ giẻ rách
Rắn còn nằm cuộn khúc giữa lòng ta.

Bài thơ này muốn nói, tác giả vỡ mộng về những đồng chí của mình, mới đầu những tưởng "đồng chí rồi còn ai xấu nữa", người ta sẽ chia ngọt xẻ bùi cho nhau từng tấm áo, từng miếng bánh như đã đùm bọc nhau trong chuồng cọp không, đấy mới chỉ là cảnh khốn cùng. Người ta dễ trở thành những người đùm bọc lẫn nhau. Nhưng khi đã có chức quyền, trở thành quan cách mạng người ta đã sống âm mưu giành giật, chờ cơ hội hất cẳng nhau theo kiểu “Rắn còn nằm cuộn khúc giữa lòng ta”, thế mà bên ngoài vẫn trông củ mỉ củ mì theo kiểu: “Tốt đến yếu mềm”, thật đúng như người Việt bảo:

“Bề ngoài thơn thớt nói cười
Mà trong nhan hiểm giết người không dao”

Ganh đua là sự thật, hơn thế nó là một quy luật được bắt rễ sâu từ trong tự nhiên. Về mặt xã hội, nếu không có ganh đua sẽ không có tiến bộ vì tất cả mọi người sẽ sống và làm việc như những con người vật vờ ngái ngủ, chẳng hạn mới đây, nhiều dân tộc có phương ngôn "biến chiến trường thành thị trường", chiến trường là nơi đua tranh bằng vũ khí và máu, chém giết lẫn nhau, anh còn thì tôi chết, tôi còn thì anh phải chết, nhưng khi chiến trường biến thành thị trường, sự ganh đua của vũ khí lắng xuống, ngay đó sự ganh đua của những quy luật kinh doanh xuất hiện, người ta giành nhau từng thị phần, từng khách hàng, người thắng thì giàu có vinh hoa phú quý, kẻ bại thì phá sản phải nhường bước cho người khác. Đó là sự ganh đua sạch sẽ, nó tạo ra động lực tiến bộ cho xã hội, và sắp đặt đúng chỗ. Ai có tài đua tranh đến đâu thì được hưởng vị trí đó.

Với quyền lực cũng vậy, xã hội cũng không thể vắng bóng hệ thống quản lý điều hành. Nhưng cái đáng bàn là làm sao phải tạo ra hệ thống đua tranh lành mạnh, như các cuộc bầu cử hoặc lấy phiếu tín nhiệm chẳng hạn, để bầu ra những người xứng đáng dẫn đầu đất nước, cũng như các ông Giám đốc quản lý Xí nghiệp. Có thể nói con người cũng như mỗi sinh vật đã mang dòng máu đua tranh ngay từ trong trứng nước chẳng hạn khi các con vật rượt đuổi con mồi, con vật nào nhanh hơn sẽ bắt được mồi ăn, khi con Kăngguru sinh đẻ, ngay khi chưa mở mắt, những con mới sinh phải quẫy đạp tiêu diệt lẫn nhau, và chỉ có một con chiến thắng cuối cùng mạnh nhất và nhanh nhất bò từ lỗ đẻ của mẹ lên chiếc túi ở trước bụng, được nấp và nuôi dưỡng trong chiến túi đó mới có hy vọng sống, với con người cũng chẳng khác mấy, trước khi tạo thành phôi thai, ước có khoảng năm chục triệu tinh trùng của cha lao vào tử cung của mẹ, chỉ duy nhất một con mạnh nhất, nhanh nhất trong số năm mươi triệu con đó mới đến được vỏ trứng, một quả trứng cũng đã được đặc tuyển sau khi loại bỏ những quả trứng khác, tách vỏ ra để đón nhà quán quân duy nhất chui vào, để tạo thành thai nhi. Mặc dù, con người mang từ trong máu cuộc chạy đua giành cuộc sống như các loài khác của tự nhiên, nhưng con người đã khác hẳn các loài khi biến mình thành một xã hội có giáo dục, có văn hoá, có văn minh, con người vượt đến tầm vóc đó bởi lẽ đã biết đào luyện cho mình một cuộc sống của lý trí công lý, và đạo đức vượt thoát khỏi đời sống sơn lâm dã thú nơi thiên nhiên an bài.

Đó là mục đích chính của cuốn sách này. Trước hết, chúng ta đã bàn đến tính tất yếu của khao khát truy cầu hạnh phúc cho cuộc sống. Nếu không có lạc thú thì cuộc sống có được món quà tặng nào hoặc có bữa tiệc đời nào dễ mời gọi người ta sống? Nhưng con người sống không thể lấy hạnh phúc của người này làm bất hạnh của người kia, coi mình là ông chủ còn kẻ khác chỉ là nô dịch phục vụ mình, phải sống như trâu như chó, triết gia Mill đã nói: “Nhân loại tốt vì nhau chứ không phải tốt cho một số người”. Lịch sử đã minh chứng bất cứ thời nào, ở đâu, nếu có một nhóm người này đòi sống ưu tiên trên nhóm người khác thì đấu tranh tương tàn sẽ liên miên tiếp tục xảy ra cho đến khi nào kẻ đòi ưu tiên kia bị hạ bệ. Các cuộc chiến tranh lãnh thổ thuộc địa, giải phóng nô lệ đã chứng tỏ sự thật đó. Mạnh hơn tất là cuộc giải phóng phụ nữ diễn ra ngay thế kỷ XX. Một người phụ nữ, một người vợ dịu hiền, một đứa con xinh xắn, cùng chủng tộc, cùng đẳng cấp vậy mà khi bị đẩy vào thế lép vế đã đứng lên khước từ đàn ông kẻ trực tiếp chia sẻ lạc thú tình ái với mình, đòi quyền bình đẳng, làm sao không bị cư xử như máy đẻ hay con sen mà là bà hoàng của tình yêu. Và thế giới đàn ông đã chùn bước, chủ nghĩa lãng mạn ra đời chính là hồi chuông ngân nga chào đón những người đàn bà bước từ trong xó bếp ra ban công để được tấn phong thành nữ hoàng của tình yêu, chiếc tạp dề đã được tháo ra để đan thành một chiếc vương miện đội lên đầu những nàng cô-dét mới.
 
T

thuyan9i

Công lý là cái lý của chung. Giản dị theo cách của người Trung Quốc nói "Mi không đụng đến ta, thì ta không đụng đến mi". Con người sẽ sống thế nào khi xung quanh là những kẻ rình rập đang chờ cơ hội để săn mình như con mồi? Không, chắc chắn là con người không thể sống mà không có xã hội, hoặc ở bên ngoài xã hội, câu chuyện thực về anh chàng Robinson kia thật là một minh chứng mạnh mẽ, anh là một thuỷ thủ đi theo một con tàu ngày kia con tàu đậu vào một hòn đảo hoang vu kiếm nước ngọt và nghỉ ngơi, trước khi tàu nhổ neo, dự cảm về con tàu sẽ gặp bão, anh liền xin với thủy thủ đoàn cho anh ở lại và được chấp thuận. Con tàu dời đi và sau đó gặp bão chẳng còn ai sống sót. Còn lại một mình Robinson sống trên đảo hoang, dù thức ăn nhiều, thịt thú rừng, tôm cá và măng rừng không thiếu, nhưng anh vẫn không ngừng ý thức về tình trạng cô đơn của mình, anh khắc dao vào gậy đánh dấu từng ngày phải xa loài người, anh cũng chào đón những ngày lễ tết, ngày Chúa Giáng sinh, ngày Chúa phục sinh, để tự mình chứng tỏ cho đến ngày nào ta còn sống theo tập tục của con người. Sự chứng minh này là một bằng cớ mỗi ngày lại quyết liệt hơn trong tâm hồn, bởi lẽ, tóc và râu của anh mỗi ngày mỗi dài hơn, và sống giữa đảo hoang, giữa muôn vàn cây cối và muông thú, vắng biệt bóng con người càng làm cho anh mỗi lúc một cảm giác hình như mình chỉ là một con thú đi hai chân giữa bầy thú hoang, điều đó càng tự thôi thúc anh suy nghĩ và sống theo tất cả những gì thuộc về tập tục của con người. Anh làm bè, tập nói, làm cờ hiệu để vẫy gọi những con tàu đi qua hòn đảo, cho đến một ngày sau vài nam, anh mới được một con tàu đón đi. Con người phải sống có đồng loại, điều đó đã được văn hào Exupery lột tả qua tác phẩm "Những chuyến bay đêm" một ngày chiếc máy bay trục trặc lao xuống sa mạc, viên phi công rơi xuống một biển cát mênh mông, không thức ăn, không nước uống, và anh bò đi đến khi sức cùng lực kiệt, chỉ còn chờ chết, chợt những người thổ dân đi qua. Chúa ơi, anh thấy họ như thấy các thiên sứ của sự sống, anh chồm người lên vẫy họ, và khi họ đến gần miệng anh kêu cầu chữ "nước" bằng tiếng Pháp là “l’eau”, sợ họ không hiểu, nào ngờ họ cho anh ăn, đắp chăn cho anh ngủ, họ làm tất cả những gì để cứu sống và hồi sức một người suy kiệt, không cần biết ngôn ngữ anh nói với họ là tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Ả rập, hay tiếng Latinh. Éxupery gọi, đó là ngôn ngữ của sự sống, của con người và của nhân loại. Chúng ta thử đặt câu hỏi, chàng phi công kia sẽ sống thế nào, khi đồng loại vừa nhìn thấy anh sức cùng lực kiệt, bèn xẻo thịt đưa lên bếp lửa nướng như một con mồi bất hạnh.



Nhưng, con người sống công lý không phải chỉ vì phải sống chung với đồng loại, mà tự thiên khi con người sống lý trí con người đã tiến đến công lý, vì lẽ, bản thân lý trí luôn vận hành đến nguyên lý. Nói giản dị như triết gia Hegel: những chiếc cột dựng nghiêng sẽ đổ, vì thế khi dựng nhà người ta luôn phải có xu hướng dựng thẳng những chiếc cột lên. Vì thế nhà không ai bảo ai, đều nhất tam đồng lòng dựng cho cây cột đứng thẳng. Như vậy, khi lý trí của mỗi người biết đến cái lý phải làm, tự nhiên cái lý đó gặp nguyên lý chung - tức là công lý. Vậy thì, không chỉ có bản năng đòi hỏi hạnh phúc cho mình, mà lý trí luôn suy xét tìm một hạnh phúc lớn hơn, tốt lành hơn, ưu việt hơn. Tại sao chúng ta phải bàn một hạnh phúc có sự tham gia của lý trí? Điều đó không phải chúng ta vội vàng khiên cưỡng đem đến cho lạc thú một ông thầy lý trí khổ hạnh (trời ơi, lạc thú làm sao mà khai triển nếu có một thầy tu lý trí cứng nhắc khắc khổ đứng giám sát ngay bên?) nhưng như có một triết gia nói, chúng ta làm sao hình dung nổi lạc thú không có sự tham gia của lý trí cùng đòi hỏi. Bản thân dục vọng, đơn giản như ta muốn gặp bạn tình, về mặt cơ thể, các hóc-môn trong người tăng trưởng để tăng khao khát, thậm chí nó tăng vọt để bắt con người phải nổ tung trong cuộc tìm kiếm gặp gỡ, một thôi thú không đừng được, cơ thể mỗi lúc một kích thích thêm sự căng thẳng, những sợi dây thần kinh từ não nối đến các chi thể căng như những dây đàn đòi những tiếng tơ đàn ập đến nếu không chúng sẽ đứt.

Khoa học hiện đại càng chứng minh, bộ não con người không phải không biết hưởng lạc mà hơn bao giờ hết nó tham dự, chi phối vào các cuộc hưởng lạc, tâm trí càng căng thẳng thì lạc thú càng được dọn trên những dây thần kinh sẵn sàng lý tưởng nhất. Thể xác luôn dính với tâm hồn đến độ, người Pháp nói: "Khi bụng đói thì tai không muốn nghe", còn triết gia Bergson thì phát hiện, cho dù mắt người ta có nhìn qua cửa sổ có cả ngàn vạn sự kiện xảy ra người ta cũng không nhớ gì cả, chỉ khi nào tâm trí chú mục vào việc nào đó, cảm xúc mới trỗi dậy sự phấn khích được ấn tượng, và người ta mới ghi nhớ. Như vậy, khoái lạc không chỉ là việc của thể xác, mà còn là việc của lý trí, trong mối tương hỗ không thể tách dời khi muốn nhìn nhận khoái lạc một cách toàn thể. Có một câu chuyện biểu tượng rất dễ hiểu. Một ngày có hai chiếc bình cùng được người thợ gốm nặn lên. Nặn xong, cả hai đều mịn màng màu đất sét, rồi được vẽ hoa văn và được tráng men. Sau đó người thợ đưa hai chiếc bình vào lò cùng những đồ đất sét khác. Nhìn ngọn lửa cháy trong lò rừng rực bỏng rát một chiếc bình vẫn dấn bước còn chiếc bình kia thì lủi trốn phía sau những đồ vật.

Chiếc bình lủi trốn nhìn thấy chiếc bình kia phải cho vào lò thì tự đắc chắc mẩm rằng, đúng là kẻ dại dột, thân hình đẹp thế kia mà phải cho vào lò nướng thật bỏng rát, khủng khiếp làm sao! Trái lại, ta thật được mát mẻ vì đã khôn khéo thoát khỏi lò lửa đó. Rồi vài ngày sau, người thợ gốm lấy chiết bình đã nung ra, xếp vào kho, ông ta cũng xếp cả chiếc bình chưa qua lửa cạnh đó. Một ngày bão táp và mưa sa ào tới, mái kho bị dột, nước xối từ trên mái xuống. Trời ơi, chiếc bình đã qua lửa nhờ nước mưa gột trôi đi lớp bụi phủ, lộ ra lớp men đẹp tuyệt trần! Than ôi, còn chiếc bình không qua lửa bị nước xối, nhũn và mủn rồi nát thành đất sét. Câu chuyện trên đã hoàn toàn cho chúng ta thấy, cũng là đất sét, nhưng một chiếc bình đã tôi luyện qua lửa bỏng rát, thì đứng vững và càng đẹp hơn nhờ mưa sa bão táp, còn chiếc bình ngại rèn luyện kia đã bị tàn rữa thành bùn. Vậy thì có nên luyện lý trí hay mặc kệ cho bản năng tự hưởng, cái nào sẽ gặt hái nhiều hạnh phúc hơn? Không câu trả lời của nhân loại luôn luôn sẵn sàng là: đặc ân lớn nhất của loài người là được thừa hưởng nền "giáo dục". Giáo dục tức là giáo hoá bản năng, để biến những chiếc bình đất sét thành bình gốm, hơn cả thế những trình độ cao học còn có tham vong biến bình đất sét thành những bình bạc, bình vàng, bình ngọc, những chiếc bình không chỉ để đựng mà còn có thể ngân lên tiếng chuông tiếng khánh. Hạnh phúc đâu chỉ có thể là thân xác, ăn lắm uống nhiều, tình dục thả cửa là hạnh phúc. Như rất nhiều tỉ phú tiền chất đầy kho, nhà nhiều cái tòa ngang dãy dọc, xe hơi nhiều cái mỗi cái một kiểu, vậy mà chính những con người thừa mứa trong vật chất đó đã phải thốt lên: dù giàu có thế nào, người ta cũng không thể ngủ cùng lúc trên hai chiếc giường, đi cùng lúc trên hai chiếc xe và ăn cùng lúc ở hai nhà hàng đặc sản thú rừng hay cá biển. Vậy người ta có thể cùng lúc tình ái với hai người đàn bà. Đó là câu hỏi vừa trực tiếp vừa biểu tượng, xưa kia nhiều vua chúa có trăm nghìn cung nữ ở trong cung, vậy mà họ vẫn phải lập từng chỗ ở cho các phi tần và chọn mỗi người cho mỗi đêm, mặc dù vậy những cảnh ghen tuông, tàn sát, giết chóc liên tục xảy ra, người ta phải trả giá rất đắt cho thú vui đòi chung chạ đó. Cái giá mà nhà thơ Chi-ma Trung Quốc đã từng nêu lên: Đàn ông Trung Quốc vì hám năm thê bảy thiếp nên suốt ngày lụt lội trong chuyện chăn gối, xã hội không tiến triển được, lạc hậu, nghèo đói, lộn xộn. Đàn ông suy nhược không thể tiến thủ, bao nhiêu tinh hoa đều đã được đốt cả cho dục vọng háo sắc, Vua Chúa Trung Quốc yếu đến mức nào? chúng ta dễ thấy, ở Trung Quốc đầy núi non, mà người ta còn chơi giả sơn là những hòn đá được đặt trong nhà thay núi, vua chúa lúc nào cũng đi dưới mái nhà, đã thế phải có tàn che, chưa ngồi đã có người đến đấm bóp cơ thể, rồi cả vua cả các cận thần còn chú mục say sưa chơi trò "chọi dế”, hai con dế mèn đánh nhau trên mặt đất rộng bằng chiếc lá khoai, mọi người chúi mắt vào xem, chỉ để khỏi phải diễu cái thể xác ửng toàn sâm quý thuốc bổ ra ngoài trời. Còn vua chúa Việt Nam thì sao? Than ôi, mở sách sử ra đọc, thật khó tìm thấy ông vua nào thọ quá ba mươi tuổi. Không chỉ với các vua chúa theo các báo cáo khoa học của các nhà khoa học thế giới rất nhiều vùng ở châu Phi, vì con người sống buông thả theo dục vọng tự nhiên quá sớm, đàn bà ở trần, đàn ông đóng khố, mới lớn lên hóc môn giới tính vừa hoạt động, đã lao ngay vào các cuộc hoạt động đem hạt giống hóc môn, cũng chính là tiềm lực tăng trưởng và phát triển ra để tiêu xài, khiến tuổi thọ trung bình rất thấp, có nhiều nơi, người ta thật hiếm thay một cụ già nào trên năm mươi.

Hạnh phúc chí ít là đặc ân cho cuộc đời, vậy thì làm sao có thể coi những lạc thú vô độ là hạnh phúc khi nó tiêu diệt chính cuộc sống của con người? Giờ chúng ta hãy thử nhìn lạc thú cực khoái mà không ít người tìm kiếm thú thuốc phiện hay dùng ma tuý chẳng hạn, đó là thứ móc-phin cực mạnh, có tác dụng đánh mạnh vào hệ thần kinh, khiến thần kinh mê mẩn, gây ra những phút đê mê, quên trời, quên đất, quên cuộc sống hiện tại, quên cả bổn phận làm người của mỗi cá nhân.
Một thú vui say sưa đến vậy, nhưng tại sao mọi người lại có con mắt thương hại khi nhìn thấy những người chót xa vào đam mê đó? Xã hội còn lập ra cả những trại cai nghiện để giúp những người nghiện ngập bỏ đi thú say sưa, mà lý trí bị đánh mất đến mức thân xác trông giống một cái gì khuyết tật, nó xanh xao, gầy mòn, ẻo lả, yếu ớt trông thật giống một cơ thể sống không ra sống, chết không ra chết, giống Pascal nói: “Tôi có thể nhận ra một người mất tay, mất chân, mất đầu. Nhưng tôi không tài nào nhận ra con người chẳng có tinh thần” (Je púi bien concevoir un homme sans mains, pieds, tête. Mais je ne púi concevoir l’hmme sán pensée)(5). Cuộc sống sao có thể được coi là hạnh phúc khi con người vì bạc nhược muốn ngủ vùi trong bổn phận của mình đã dùng nhưng toa thuốc mê liều cao đầu độc thần kinh làm cho thân xác định chôn vùi trong một ý thức đang cố tình lãng quên cuộc sống, cuộc sống còn có ý nghĩa gì khi người ta sống bằng cách quên sống, hoặc sống lay lắt vật vờ như chính con người không mang nổi trọng lượng của cuộc đời đã coi cuộc đời như một thứ có mặt đáng nguyền rủa, và phải dùng những liều thuốc mê để vùi quên cuộc đời! Nhưng oái oăm thay, vì thiếu tỉnh táo, người sử dụng các chất kích thích như thuốc phiện, cần sa, hay ma tuý, hoặc rượu đã không nhận ra rằng người ta muốn ngủ quên trước gánh nặng cuộc đời thì lại càng làm cho nó nặng hơn bao giờ hết, bởi vì đó là những thứ xa xỉ rất đắt, mà những người lười nhác không có nguồn thu nào để tiêu sài mãi những thứ đó, kết quả ma tuý đã cuốn người ta vào các vòng tội lỗi ghê tởm, ăn cắp, ăn cướp nhà băng, lừa đảo, đĩ điếm để lấy tiền trích ma tuý. Ma tuý kể cả kẻ mua người bán, kẻ sản xuất lần người tiêu dùng đều dẫn người ta vào những vòng lao lý, những án chung thân, những tội tử hình, đạo đức bại hoại, thân xác sụp đổ, cuộc đời tàn tạ chóng vánh. Đó cũng là cảnh mà trước đó những băng nhóm buôn rượu lậu và những người nghiện rượu mắc phải.
 
T

thuyan9i

Những băng Mafia buôn rượu lậu vòng từ Italia qua Anh rồi qua Mỹ, những vụ thanh trừng giết hàng loạt xảy ra, những song sắt nhà giam chật ních tội phạm, những kẻ say ngất ngưởng nam vạ vật trên đường phố, nhà máy công sở đình trệ sản xuất, phố phường chất đầy tội phạm và đĩ điếm, theo một số người ngay cả việc Tổng thống Mỹ John Kennedy bị ám sát cũng là do việc bầu cử của ông ta có dính dáng đến một băng nhóm Mafia.

Thật trớ trêu, khi người ta muốn đánh đắm mình ở trong các cơn say để quên để gánh nặng của cuộc đời, thì lại càng sa xuống bùn để cho gánh nặng đó càng nặng hơn. Dại dột hơn thế, nhiều kẻ say sưa còn chặt đứt cả những phương tiện sống, những sở trường, những công việc giúp ích rất nhiều cho cuộc sống của mình. Chẳng hạn, mới đây cầu thủ tiền đạo Mutu rất tài năng, sút được cả hai chân, đầu quân cho đội Chelsea đang lên như diều trong giải bóng đá vô địch Anh quốc, cũng như cúp C1 của các câu lạc bộ hàng đầu châu Âu, đúng vào lúc đội bóng đang ôm những tham vọng to lớn, thì Mutu bị loại khỏi cuộc chơi vì dính vào ma tuý. Đáng tiếc thay, một tài năng đang độ nở rộ như vậy, lương cả triệu Euro mỗi năm, mà lại bị gạt ra ngoài rìa khỏi cuộc chơi của mọi người, vị huấn luyện viên của đội bóng nói: "Chúng tôi phải nói “không” với Mutu, vì một cầu thủ chuyên nghiệp thì phải biết mình được làm gì". Cái gì đang làm, cái gì không được làm, cái gì đáng thụ hưởng, cái gì không được thụ hưởng, đó là sự phân biết cái tốt, cái xấu của lý trí. Và một khi lý trí không còn biết phân biệt thì sẽ rơi vào tình trạng đáng tiếc, cầu thủ Mutu cũng chỉ là một thí dụ đáng tiếc trong vô vàn thí dụ, khi con người đã không biết dùng lý trí để cầm lái cuộc đời mình. Thế là vài lọn khơi móc - phin đã đốt cháy cả cuộc đời, thành thân bại danh liệt.

Giờ nói đến thú vui cờ bạc cũng được nhiều người đam mê không kém. Ở đời ai chẳng thích có nhiều tiền như người Việt nói: “Có tiền mua tiên cũng được”. Hay như cách nhiều người quan niệm, có tiền là có tất cả, nhà cao cửa rộng ư - mua được ngay, xe hơi hiện đại ư - sắm được liền, còn vợ trẻ và đẹp - chẳng lẽ nhiều tiền lại không cưới được.... Muốn có nhiều tiền thì hãy lao động nhiều, có trồng cây thì có ngày hái quả, nhưng còn có quá nhiều người dại dột cho rằng, họ có thể làm giàu chóng vách nhờ đánh bạc, trong chốt lát đặt một chút tiền vào cửa ru-lô đặt một ăn trăm, ăn nghìn, ăn vạn, hay ăn triệu, thế là nhoáng một cái nếu may mắn tiền sẽ đổ vào túi mình như thác lũ. Bỗng chốc tay trắng nổi cơ đồ. Ở đời, không làm mà muốn ăn nhiều, không chỉ có đánh bạc, mà nghề đạo chích chuyên khoét ngạch trèo tường, cũng có thể "Một đêm ăn trộm bằng ba năm làm". Nhưng đi ăn trộm “đi đêm lắm có ngày gặp ma”, trước sau cũng bị người ta bắt được, tống giam vào ngục, bởi thế người ta thích lao vào cờ bạc hơn, vừa được bước vào nơi đèn đuốc lập loè trông vừa oai vừa danh giá, vừa không phải khoác lấy nỗi lo trở thành tội phạm, lại vừa có thể không cần một đêm mà chỉ trong thời gian chưa tàn điếu thuốc, giấc mơ triệu phú bỗng trở thành hiện thực. Đây là một đam mê thật dại dột được bắt nguồn từ những trí não lười biếng: muốn ăn nhiều có cả nhà lầu, xe hơi, quần áo đẹp, mà không muốn làm. Văn hào Oc tavio Paj đã có một phát hiện đầy chí lý: ở đời chưa từng có kẻ nào hy vọng sống sung túc vì cờ bạc rút cục lại không phải sống trong nghèo đói khốn khổ. Đó là nguyên lý nhân - quả tất yếu, mà từ xưa đến nay từ Chúa Trời đến Đứa Phật cũng không thể vượt qua việc, có trồng cấy có gặt hái, có làm mới có ăn như người Việt nói “tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ”. Người Trung Quốc nói một cách tất yếu rằng: “Đồng tiền không phải của anh sẽ không bò vào túi anh”. Những kẻ không làm lại ôm giấc mộng làm giàu bằng những con bài không đổ mồ hôi ở nơi bài bạc, có thể lúc nào đó trúng nhiều tiền, nhưng đó chỉ là những đồng tiền vãng lai đến thăm trong nháy mắt rồi lại ra đi, chúng là những đồng tiền dạo chơi chứ không phải những đồng tiền sở hữu mà có thể nằm sâu trong túi những con bạc để giúp cho giấc mộng của họ trở thành hiện thực. Người Việt có câu:

“Của trời trời lại lấy đi
Giương đôi mắt ếch làm chi được trời!”

Cờ bạc không những chẳng nuôi sống người ta, mà còn làm cho lắm kẻ khuynh gia bại sản, bán vợ đợ con, thân gửi chốn lao tù làm bạn cùng song sắt với đồ ăn cơm hẩm cháo hiu. Quả thực những kẻ “há miệng chờ sung”, nếu sung có rụng đúng miệng thì cũng chỉ là qủa sung, chứ làm sao chó thể biến thành quả dưa hấu hay quả đào lại càng không thể nào biến thành cao lương mỹ vị. Lạc vào chốn cờ bạc là lạc vào nỗi đam mê cay cú say như điếu đổ, nhưng đó có phải hạnh phúc không khi nó nhấn chìm người ta trong nghèo túng, thiếu danh dự, và lao tù.

(Còn nữa
 
T

thuyan9i

dài quá nên post nhìu lần
thong cảm há
Trong đời sống hàng ngày, chúng ta thấy rất nhiều thái độ thông thường vẫn được coi là hợp lý hay không hợp lý, có luân lý hay vô luân lý, tốt hay xấu, đáng khen hay đáng chê… một cách dứt khoát hiển nhiên, mọi người đều tin như thế đều “an nghỉ” trong những niềm tin đó, nên không còn thắc mắc hoài nghi gì nữa.

Nhưng một ngày kia, kinh nghiệm riêng hay của người khác có thể buộc ta phải thắc mắc, hoài nghi những niềm tin trên. Rồi thắc mắc hoài nghi sẽ đưa ta đến chỗ hoặc là phủ nhận luôn những thái độ đó hoặc đưa ta vào một suy tưởng duyệt lại những động cơ thúc đẩy, những nguyên nhân quy định việc hình thành những thái độ trên để tìm ra sự thật.

Chẳng hạn ta làm một việc thực ra vì lợi, nhưng vẫn tưởng là vô vị lợi và tin thật như thế. Vậy phải tìm những động cơ nguyên nhân nào làm cho ta lừa dối ta mà không biết. Phê phán những nguyên nhân đó hoài nghi thái độ vô vị lợi không phải bảo không thể không có thái độ vô vị lợi hay không nên làm những việc vô vị lợi nhưng chỉ nhằm phơi bày những nguyên nhân vị lợi đội tốt vô vị lợi. Cũng như khi hoài nghi thái độ muốn làm điều thiện hay chủ trương không nên làm điều thiện mà chỉ nhằm tố cáo những ảo tưởng của người thành thật tin rằng mình muốn làm điều thiện.

Nói cách khác, vấn đề là tìm hiểu những thái độ lừa dối mà không biết hoặc làm vì những lý do động cơ này, nhưng lại tin vì những lý do, động cơ khác, làm điều xấu tưởng là tốt, hoặc trước những mâu thuẫn giữa những đòi hỏi khác nhau, những hoàn cảnh đối nghịch, không muốn lựa chọn dứt khoát một bên nào, có thái độ lựa chọn mà như thể không lựa chọn, bắt cá hai tay mà vẫn tưởng mình trung thành với những thái độ đối lập.

Những thái độ trên có thể quy về hai thái độ chính: thái độ an tâm, có lương tâm yên hàn và thái độ ngụy tín. Những thái độ này có tính chất luân lý, thuộc phạm vi đạo đức. Tuy nhiên, động cơ, nguyên nhân lại có tính cách tâm lý và triết lý. Có thể tố giác tính cách lừa bịp của những thái độ trên nhưng không thể kết án chính những người có thái độ trên vì họ không biết sai lầm, ngụy tạo vì họ tự lừa dối mà không biết.

AN TÂM

Thái độ an tâm là thái độ của một người cảm thấy mình không có điều gì đáng trách trong những việc mình làm, những lý tưởng theo đuổi hay những quan niệm mình chủ trương. Những quan niệm mình chủ trương là đúng, những lý tưởng theo mình theo đuổi là cao cả, những việc mình làm là tốt. Do đó họ được an tâm, không áy náy lo lắng sợ mình có tội lỗi, làm lỗi hay sai lầm và nhất là họ tin thành thực mình bao giờ hành động cũng hợp lý, cũng vì lẽ phải công ích hoặc cho một lý tưởng nào đó.

Thái độ an tâm cho mình là phải là một thái độ rất thông thường, vì ai cũng thường cho mình là đúng, ít người có lương tâm áy náy, sợ đã lầm lỗi (mauvaise conscience)

An tâm ở đây hiểu theo nghĩa luân lý, bày tỏ một thái độ lương tâm áy náy vì sợ mình đã lầm lỗi, về phương diện phán đoán giá trị: tốt, xấu, phải, trái, nên, không nên. Không phải theo nghĩa tâm lý: không bận tâm lo lắng về những liên quan đến mình, đến những người thân thiết của mình. Chẳng hạn trong câu nói: “Xin cứ an tâm, cháu đi không có chuyện gì xảy ra đâu”. Không có thể đối thoại, tranh luận, cãi lý với người có thái độ an tâm, vì một lẽ giản dị họ tin thành thật họ đúng và lẽ phải của họ rất rõ ràng, hiển nhiên đối với họ. Chúng ta hoàn toàn bất lực, chịu thua trước thái độ an tâm. Chẳng hạn thái độ an tâm của người muốn làm điều thiện. Nếu phê bình họ, họ chỉ nghĩ rằng họ làm điều thiện và có thể bị ghen tị, hiểu lầm, do đó họ vẫn tiếp tục làm những điều người khác chỉ trích và có thể còn làm hăng hơn, ngay cả giết họ, họ cũng không ngại và cho rằng mình chết cho lý tưởng làm điều thiện cho người khác. Do đó, chỉ có một cách làm cho họ bắt đầu nghi ngờ niềm tin thành thực của họ, là trình bày sự hình thành của an tâm, là bóc trần những nguyên nhân, động cơ thực sự của những thái độ sống dựa trên an tâm.

Chúng ta muốn nói với người an tâm: tôi có thể cho anh tất cả, cả đời này lẫn đời sau, lẽ phải, chân lý, lý tưởng, tất cả: nhưng không thể để cho anh lương tâm yên hàn. Sau đây là một vài thái độ an tâm tiêu biểu:

Thái độ tưởng mình là đạo đức

Có những người tưởng mình là đạo đức lương thiện, công chính. Là nhân bản. Họ coi là quan trọng những địa vị xã hội, những bổn phận luân lý đối với gia đình, dân tộc, con người những giá trị tinh thần, tôn giáo… và đó là những điều cần được tôn trọng bảo vệ.

Chính họ là người luôn luôn tôn trọng đề cao và bảo vệ những giá trị, bổn phận, địa vị trên, do đó họ tin rằng họ là người đạo đức, người lương thiện, người công chính, nhà nhân bản. Họ bày tỏ ra bên ngoài con người đạo đức lương thiện của họ qua cách đi đứng, cư xử, ăn nói. Chẳng hạn khi nói đến bổn phận luân lý, gia đình, tôn giáo, họ làm ra vẻ nghiêm trang, quan trọng, họ chăm chỉ đi dự những tổ chức, sinh hoạt liên quan đến những bổn phận, giá trị trên, lúc nào cũng ăn mặc chỉnh tề, đến đúng giờ và nói năng trịnh trọng. Họ lấy làm bằng lòng và thỏa mãn về tác phong đạo đức của mình.

Nhưng đôi khi đó chỉ là đóng kịch, hình thức giả dối vì khi người ta tưởng mình là đạo đức phải chăng chính là xa đạo đức hơn cả. Luân lý đích thực chống lại luân lý hình thức, và nhất là chống lại sự thỏa mãn, an tâm như Jacob đã nói: “Nền luân lý cao nhất là nền luân lý bắt đầu bằng sự bất kính hoàn toàn”. Thái độ luân lý đích thực bắt đầu bằng sự tố cáo, lột mặt nạ những lớp sơn hào nhoáng bên ngoài che đậy một thái độ phi luân của những quan viên, những nhân vật quan trọng lúc nào cũng nói đến bổn phận, những giá trị đạo đức.
“Không, đó là trò hề, tất cả những người ngồi kia với cái vẻ nghiêm trang, họ đang ăn. Không, không phải họ đang ăn đâu, họ đang sửa chữa, cái sức khỏe để có thể thực hiện những trọng trách giao cho họ đấy”. (J.P Sartre, La Nausee).

Họ chỉ làm ra vẻ nghiêm trang, đóng vai trò đạo đức, nhưng khốn nỗi họ lại tin thật họ là người nghiêm trang, lo lắng tới đạo đức, bảo vệ đạo đức. Do đó, nếu ai dám đụng tới họ, chỉ trích họ, họ sẽ cho là đụng tới chính đạo đức, tới những giá trị mà họ đề cao, lo lắng bảo vệ và những kẻ dám đụng tới họ sẽ bị kết án là vô luân, khinh bỉ đạo đức.

Thực ra con người chỉ hướng về đạo đức và có thể thực hiện được những hành động đạo đức, không phải đạt tới đạo đức hoàn toàn là người đạo đức. Cho nên Thánh Augustin đã nói: có một điều xấu hơn cả nếu xấu là sự tự phụ mình là người đạo đức. Người tranh đấu tích cực cho luân lý, không bao giờ tự xưng là đạo đức công chính để có thể hãnh diện về sự tự phụ đó, nhưng âm thầm sống minh chính cho đạo đức, chân lý.

Chỉ những kẻ đạo đức giả, mà vẫn thành thật, an tâm tin mình đạo đức mới cảm thấy lúc nào cũng phải hô to những khẩu hiệu đạo đức, treo cao những bích chương, bảng viết danh ngôn trên tường, ngoài đường và luôn luôn sẵn sàng tố cáo người khác là vô luân, chống đạo đức, như một thứ mật vụ công an đạo đức, trong khi thực sự cuộc đời của họ không mấy đạo đức hoặc cách xa đạo đức.

Họ là những kẻ đáng ghét hơn là kẻ có tội. Thà rằng họ cứ làm tiền, làm thương mại, làm chính trị xôi thịt và nhìn nhận như thế, còn hơn là làm tiền, làm thương mại chính trị xôi thịt mà vẫn rêu rao là làm văn hóa, làm xã hội, cách mạng và tưởng là mình làm xã hội, làm văn hóa, cách mạng thật.

Sartre gọi bọn đạo đức giả là “salaud”. Chúng ta là những người hướng về đạo đức, lúc thì làm được cử chỉ đạo, lúc thì bê bối, làm bậy. Không bao giờ chúng ta dám nhận mình là lương thiện. Những kẻ “salaud” cũng như ta, và có thể còn tệ hơn ta, nhưng họ vẫn vỗ ngực lên giọng đạo đức và dễ dàng kết án người khác gắt gao. Chúng ta không phải là đạo đức, nhưng không phải là hạng “salaud”.
 
T

thuyan9i

Thái độ muốn làm điều thiện

Khi đã tưởng mình là người đạo đức, thường không thể tránh được việc tự gán cho mình sứ mệnh truyền bá, bảo vệ chân lý, điều thiện, thái độ tưởng mình là đạo đức đưa tới thái độ muốn làm điều thiện và người muốn làm điều thiện cho người khác tưởng rằng mình sinh ra ở đời chỉ để thực hiện hoàn tất sứ mệnh cao cả trên.

Thái độ đó bao hàm những chước cám dỗ làm điều thiện theo kiểu nói của H.Dumery (tentation de faire du bien). Dùng danh từ cám dỗ ở đây thật chí lý, vì người ta chỉ thường nói bị cám dỗ làm điều xấu, không ai nói bị cám dô làm điều thiện. Phải chăng điều thiện, cũng là điều xấu? Điều thiện không xấu nhưng có những động cơ thúc đẩy làm điều thiện, những cách thể làm điều thiện là xấu. Tại sao? Vì người muốn làm điều thiện có thể tự cao tự đại, tự cho mình hơn người, tự đánh bóng mình trước mặt kẻ khác, đó là điều không tốt như nhà triết học Jules Lagneau đã nhận định: “Nếu tôi tin vào một vài kinh nghiệm, quả thật là nguy hiểm khi muốn làm điều thiện cho kẻ khác; người ta sẽ khó tránh được đôi khi muốn đóng một vai trò trước mặt người khác, và trước cả mặt mình. Đó là điều trái với đức tính đơn sơ và ngay thẳng.”

Do đó, muốn làm điều thiện có thể đưa người ta đến chỗ làm điều ác chống lại đạo đức, vì thái độ tự phụ như Luther cũng đã nói: “Tôi sợ những việc làm tốt của tôi hơn là những việc làm xấu” vì khi tôi làm điều xấu, phạm tội, tôi biết có việc tốt mà tôi không làm, điều thiện mà tôi không xứng đáng, còn nếu tôi toàn làm điều thiện, tôi có thể tự cao, tự đắc, tự phụ và tự cao, kiêu ngạo là một tội, một nết còn đáng ghét hơn cả những nết xấu thường gợi lòng khinh bỉ (tham lam, trộm cắp, dâm loạn). Ai cũng là người cả, trên bình diện con người luân lý, do đó thật khó chấp nhận những người tự cho mình là toàn thiện hơn người, vì ngay cả khi mình thực sự hơn người, lại càng hông được bày tỏ phô trương.

Ý muốn làm điều thiện cho kẻ khác còn nguy hiểm ở chỗ dễ đưa đến ý định dùng mọi phương tiện để thực hiện điều thiện dù phải tiêu diệt tự do hay tiêu diệt chính sự sống của người mình muốn làm điều thiện cho họ.

Vì tự gán cho mình sứ mạng rao giảng sự thật, truyền bá điều thiện, mà trước mặt, chỉ thấy thiếu sót, sai lầm, tội ác, nên người muốn làm điều thiện không thể tha thứ tình trạng xấu, không thể làm ngơ cho cái xấu ngự trị, tung hoành, làm tràn. Phải ngăn chặn cái xấu, bằng cách muốn thực hiện điều lành cho người khác với bất cứ giá nào, do đó không ngần ngại dùng mọi biện pháp, kể cả bạo động (áp lực gia đình, tình cảm, quyền lợi vật chất) cưỡng ép để đòi hỏi người khác chấp nhận điều thiện dù họ muốn hay không muốn và sau cùng có thể tiêu diệt luôn cả người khác để thực hiện điều thiện. Người muốn làm điều thiện nghĩ: “Tôi phải làm điều thiện tôi cho là đúng, dù cả thế giới phải chết”, như Goetz, nhân vật trong vở kịch “Le diable et le bon dieu” cũng đã nói: “Sự thiện sẽ phải được thực hiện dù phải chống lại mọi người”.

Người muốn làm điều thiện tự gán cho mình giấy ủy nhiệm của trời, quốc gia, lịch sử, nhân loại, đến cứu rỗi người khác thực hiện điều thiện, chiến thắng cho điều thiện dù có phải tiêu diệt ngay chính con người như lời nói bất hủ của một Giám mục Tây Ban Nha thời nội chiến: “Chúc phúc cho những khẩu trọng pháo, miễn là trên những lỗ hổng chúng mở ra, nở hoa phúc âm, lời Chúa”.

Trong viễn tượng đó, luân lý, điều thiện chỉ còn là tảng đá để ném chết người, là viên đạn để bắn giết người. Vì người muốn làm điều thiện chỉ cốt thực hiện được điều thiện, mà không bận tâm lo lắng “giết hết người đi thì ta ở với ai” (Phạm Duy) và còn ai để làm điều thiện cho họ.

Thái độ muốn làm điều thiện là một chước cám dỗ ám ảnh mọi người, nhưng đặc biệt những người chiến sĩ, những người làm cách mạng, những người tu trì. Cả ba hạng người trên đều giống nhau ở dự phòng nền tảng, hy sinh cuộc đời mình để phục vụ người khác. Họ rất dễ quên con người cụ thể, hy sinh co người cụ thể trong khi chỉ bị ám ảnh bởi ý muốn thực hiện điều thiện, lý tưởng theo đuổi. Những người lý tưởng trên cũng dễ độc tài và rất khó chấp nhận phê phán chỉ trích hành động của mình vì tưởng rằng mình đã hy sinh toàn thể cuộc đời cho người khác, để làm điều thiện nên không cò gì thuộc về mình nữa, do đó, mọi ý nghĩ ước muốn, hành động của mình đều bị quy định bởi quyền lợi hạnh phúc của người khác, do đó mọi việc mình làm cho người khác, vì người khác chỉ có thể là đúng tốt, không thể xấu hoặc sai lầm được. Nhất là trường hợp lý tưởng hy sinh làm điều thiện đã được giảng dạy, hun đúc ngay từ hồi còn nhỏ trong thời gian huấn luyện tu luyện… lúc nào cũng nhắn nhủ, hoặc tự nhắn nhủ trong giờ đọc kinh, suy gẫm, mình đã tự hiến hoàn toàn cho người khác, cho Chúa, cho cách mạng… Càng khó chấp nhận phê phán chỉ trích.

Thực ra có một quảng cách giữa dự phòng nền tảng, toàn diện bao quát và những dự định lẻ tẻ hàng ngày, những dự định này không thiết yếu nằm trong dự phòng nền tảng của khởi điểm vì có thể bị những yếu tố khác quy định và điều lầm của những người lý tưởng mắc bệnh độc tài, độc thoại là không nhận ra những quảng cách đó.

Thái độ nhân danh

Người muốn làm điều thiện thường hay nhân danh và luôn luôn với thái độ an tâm: nhân danh một lý tưởng, một giá trị, một nguyên tắc, một quan niệm có tính chất luân lý. Không xét trường hợp cố ý lợi dụng vì ở đây lý tưởng nhân danh chỉ là chiêu bài mà người lợi dụng biết rõ tính cách bịt bợm, đôi khi cả người bị lợi dụng cũng biết rõ nữa. Chỉ xét trường hợp lợi dụng không biết, vì người lợi dụng thành thực tưởng rằng mình làm điều đó, tranh đấu như thế thực sự để phục vụ một lý tưởng, để bảo vệ một giá trị hoặc bênh vực một nguyên tắc, trong khi thực ra chỉ vì những quyền lợi tư riêng của bản thân, của gia đình, tầng lớp, cộng đồng tôn giáo, ý thức hệ của mình…

Viên Cảnh sát đến bắt người, ông Quan Tòa kết án đều nhân danh pháp luật, và tưởng rằng mình phục vụ công tý, trong khi thực ra có thể chỉ làm công, làm tay sai cho một thế lực chính trị, bạo động thống trị dưới hình thức pháp lý.
 
T

thuyan9i

Thực dân đế quốc xâm lăng nhân danh lý tưởng khai hóa, đàn áp bóc lột thuộc địa cũng nhân danh giải phóng con người truyền bá văn minh.
Người chống Cộng nhân danh lý tưởng bảo vệ dân chủ tự do trong khi thực ra chỉ vì quyền lợi giai cấp, những quyền lợi đôi khi đã đạt được bằng bóc lột, bất công và sợ Cộng sản đến xóa bỏ những quyền lợi đó.
Lực lượng nọ, đoàn thể kia xuống đường, ra tuyên ngôn kiến nghị phản đối đàn áp, độc tài, đàn áp tôn giáo, nhân danh quyền lợi thiêng liêng của tôn giáo, nhân danh bao vệ trật tự, lý tưởng cách mạng… Nhưng phải chăng người ta chỉ lợi dụng nhân danh những cái cao cả để che đậy việc bảo vệ, duy trì hay để chiếm đoạt những quyền lợi riêng tư.

Từ xưa đến nay, tất cả những bạo động xảy ra trong lịch sử nhân loại đều nhân danh lý tưởng cao cả để tàn sát, tiêu diệt con người. Những người bạo động nhân danh này nọ mà bạo động, nhưng lại thành thực tin mình tranh đấu cho một lý tưởng mới thật nguy hiểm và bi đát vì họ không biết họ, tự dối họ, cho nên, họ nghĩ rằng có thể sẵn sàng chết cho lý tưởng mà họ nhân danh, vì cái chết là một vinh dự: chết cho lý tưởng mà họ nhân danh, vì cái chết là một vinh dự: họ sẽ trở thành Thánh tử Đạo, anh hùng dân tộc…

Chẳng hạn, gần đây có phong trào xuống đường đòi phân biệt tôn giáo và chính trị, tách chính trị ra khỏi học đường. Những người tham dự những cuộc xuống đường đó có thể thành thực tin mình tranh đấu nhân danh một nguyên tắc chính đáng. Cứ tạm nhận nguyên tắc phân biệt là chính đáng, nhưng động cơ thúc đẩy có chính đáng hay không?

Người ta nhận thấy đoàn thể đòi phân biệt, chống lẫn lộn đạo đời chỉ lên tiếng khi chính họ không còn ưu thế chính trị, không còn lợi dụng được sự lẫn lộn vì ưu thế chính trị đã sang tay đoàn thể khác, do đó họ đòi phân biệt. Tại sao họ không đòi khi họ đang có ưu thế chính trị. Cho nên lúc có thể lợi dụng mà đòi phân biệt mới tin được sự nhân danh là vô vị lợi, còn lúc không thể lợi dụng và đến lượt người khác có thể lợi dụng mà phân biệt, thì sự lên tiếng rất đáng nghi ngờ.

Người ta chỉ có thể tin được một người, nhân danh bảo vệ công lý, khi người đó tranh đấy cho người khác, và nhất là cho kẻ thù địch của mình lên tiếng phản đối những vụ bắt bớ trái phép những vụ giam giữ mà không xử, hay những vụ xử bất công nhân danh công lý, được lắm, nhưng tại sao chỉ lên tiếng bảo vệ công lý khi những người thuộc phe mình, thuộc đoàn thể mình bị oan uổng bất công của những người thuộc phe, đoàn thể khác, nhất là đoàn thể mình không ưa. Không những là không tiến lên mà đôi khi còn lấy làm thích thú vì đoàn thể mình không ưa, người mình ghét bị oan uổng bất công.

Do đó, chỉ khi nào lên tiếng phản đối mọi bất công, ở bất cứ đâu, nhất là ở những người, những đoàn thể ít liên hệ đến mình lúc đó, mới có thể tin được những động cơ lên tiếng nhân danh công lý là vô vị lợi, là trong sạch, chính đáng, là xuất phát từ lương tâm công chính. Thật là khôi hài khi thấy một đoàn thể xuống đường nhân danh bảo vệ trật tự, chống xáo trộn trong khi chính việc xuống đường của đoàn thể đó là một sự gây rối mất trật tự.

Hoặc có thể hỏi trật tự đó là trật tự gì, phải chăng là cái trật tự vô trật tự, cái vô trật ự đã được thiết lập như E. Mounier thường tố cáo (le désordre établi) những phong trào bảo thủ chống cách mạng nhân danh bảo vệ trật tự.

Nếu trật tự ở đây xây trên bất công, bóc lột, chênh lệch thì cần phải phá đổ cái trật tự đó để thiết lập một trật tự khác xây trên bình đẳng, công chính. Nếu hòa bình chỉ có nghĩa là cầu an, người giàu vì bóc lột cứ giàu, người nghèo bị bóc lột cứ nghèo, người được an ninh cứ được an ninh, người mất an ninh vẫn bị mất an ninh, thì phải gây chiến tranh để thiết lập một nền hòa bình đích thực.

Do đó, những vụ xuống đường mít tinh, chống đối độc tài chẳng hạn không phải bao giờ cũng xuất phát từ lý tưởng bảo vệ tự do chính đáng. Có thứ chống độc tài đòi dân chủ thực chất là phản động và có thứ chống độc tài đòi dân chủ thực chất là cách mạng.

Trong một nước chậm tiến, cần kỷ luật khắt khe, kế hoạch hóa chặt chẽ, vì quyền lợi chung thì độc tài ở đây bao hàm tính chất cách mạn, tiến bộ. Những người vì quyền lợi riêng chống lại độc tài nhân danh lý tưởng tự do, nhưng đó là thứ chống độc tài phản động. Trái lại, có thứ độc tài cá nhân, gia đình, bè phái vì tham vọng riêng. Chống lại thứ độc tài này vì quyền lợi chung là làm cách mạng.

Thái độ coi cái xấu là ở người khác

Đó là thái độ của những người chỉ thấy cái xấu ở người khác, mà không thấy ở chính mình, và họ thành thực tin như thế. Do đó, họ có thể tố cáo cái xấu nơi người khác như thể họ không phải là điều họ tố cáo, như thể họ là người không bao giờ phạm tội. Thái độ trên đôi khi còn trở thành một nhu cầu: cần tố cáo người khác, cần ném cái xấu vào người khác, cần có những người đảm nhiệm tội lỗi để người có thái độ coi cái xấu là ở người khác được an tâm. Trước hết, chính những người xấu, có lỗi lại hay nói tới đạo đức. Họ xấu, nhưng không dám nhìn nhận mình xấu, cái xấu không thể vì thế mà bị che lấp, cho nên lương tâm họ không được yên hàn. Để được yên hàn, họ cảm thấy phải luôn luôn nhắc tới đạo đức, phải luôn luôn tố cáo cái xấu ở nơi người khác để khỏi phải nghĩ tới cái xấu của mình, để quên tình cảnh áy náy của lương tâm họ. Và điều lạ là họ thành công trong thái độ tự lừa dối đó. Họ cứ nói đạo đức, luôn luôn một cách hăng say, cứ tố cáo người khác một cách thành khẩn, kết quả là họ có thể quên thực sự họ là kẻ tội lỗi trong lúc tố cáo thuyết pháp rao giảng… và rút cục họ tin họ không phải là người có tội.

Khi một gương xấu xảy ra (nhất là về những chuyện tình ái) chính những người bê bối nhất về phương diện này lại thường lớn tiếng tố cáo, kết án người khác gắt gao hơn cả để quên tình cảnh tội lỗi của chính họ.

Do đó, họ cần người khác đảm nhận tội lỗi của họ thay cho họ. Họ cần những bung xung và nếu không có thực, họ cũng phải tạo ra vì họ cần thù ghét sự xấu ở nơi người khác để có thể sống yên lương tâm: những bung xung ở đây là bọn lưu manh, du đãng, trộm cướp, giết người, hiếp dâm, ngoại tình, gái điếm, là người chế độ cũ, cộng sản…

Họ cho rằng xã hội nào cũng có cái xấu, hoặc không thể tránh được có những người xấu, và họ thấy cái xấu ở những người trên rồi. Khi một hành động xấu xảy ra, đó là một bằng cớ nữa chứng minh xã hội có cái xấu, người xấu và cái xấu đó ở nơi người khác, ở bọn kia. Còn họ, họ là những người lương thiện. Chính vì thế mà một xã hội thực sự là bẩn thỉu, thối nát, đàng điếm, nhưng nếu một người hành động đàng điếm bị lộ, trở thành gương xấu (scandan), cả xã hội xấu đó sẽ đổ xô vào chửi bới, kết án như thể chỉ có mình cá nhân đó xấu xa. Thật là chẳng may cho cá nhân này phải đóng vai trò bung xung cho cả xã hội được yên lương tâm, vì cái xấu xa, mình cá nhân đó đã đứng ra gánh lấy và đảm nhiệm.

Đôi khi, thái độ coi cái xấu ở nơi người khác, thù ghét cái xấu đó, nhưng lại lấy sự thù ghét đó làm thích thú.

Như có khuynh hướng về cái buồn, nhưng lại thích cái buồn đó, như thể cần buồn để mà sống. Chẳng hạn thái độ lãng mạn, lãng mạn là một thái độ hướng về cái tiêu cực (đau khổ, buồn sầu, chia ly, thất bại) nhưng lại thích cái buồn tiêu cực đó. Người thù ghét cái xấu, nhưng lại thích đi tìm sự thù ghét đó, như trường hợp một người đạo đức rất ghét đàn bà mặc áo tắm hở hang mỗi lần trông thấy là tức giận vì cho là phạm đến thuần phong mỹ tục, nhưng người đàn ông đạo đức lại thích đến ngồi ở bể bơi để tìm hưởng thụ sự tức giận trên.
Nhận xét tâm lý trẻ con, người ta thấy con người ngay từ khi còn nhỏ đã có thể có thái độ đổ tội, chỉ coi cái xấu ở nơi kẻ khác. Khi hỏi đứa trẻ nào đánh vỡ cái chén, những đứa không đánh vỡ sẽ chối ngay và đổ cho đứa khác, và đặc biệt là chính đứa đánh vỡ sẽ trả lời nhanh hơn hết: thằng A, con B đánh vỡ, không phải cháu đâu. Cái xấu bao giờ cũng là ở người khác và người ta cần tố cáo người khác để sống yên tâm. Người có thái độ trên rất sợ tìm hiểu lý do thái độ của mình, vì một lẽ giản dị tìm hiểu sẽ không thể đổ tội và ghét người khác được nữa.

Trong Saint Genet, comesdien et martyr, Sartre đã tố cáo sâu sắc thái độ trên. Ông viết: “Cái xấu là một khái niệm để dùng bên ngoài” (le mal est un concept pour usage exierne) “kẻ thù là người anh em sinh đôi, là hình ảnh của chúng ta soi trong gương… cũng trong một thái độ, khi của chúng ta thì là tốt và khi của người khác là xấu. Nhưng những người xấu đó rất cần thiết cho những người tốt cũng như gái điếm cần thiết cho con gái nhà tử tế. Đó là những ung nhọt để ngạn ngữ; có mọt người bảo đảm, biết bao tâm hồn sẽ được yên hàn, sáng sủa, an bình”.

Người hay coi cái xấu ở nơi người khác, nên nếu anh ta kết án người khác ở điểm gì gay gắt nhất, thì chính anh ta bị lỗi về điểm đó hơn cả.

“Họ có thể ghét ở nơi người kia một nửa phần mình của họ mà họ từ chối không muốn thừa nhận”.

“Nếu bạn muốn biết một người lương thiện, bạn hãy tìm nết xấu nào mà anh ta ghét hơn cả ở nơi người khác, bạn sẽ biết những đường hướng sức lực nào làm cho anh ta choáng váng và khủng khiếp, bạn sẽ hít thở mùi xú khí làm uế bẩn tâm hồn của anh ta”.

Những người phải đảm nhiệm cái xấu, vai trò bung xung sẽ phải đảm nhiệm suốt đời như một thân phận. Họ xuất hiện trước cái nhìn của xã hội lương thiện như là thằng ăn cắp, đứa hiếp dâm, tên sát nhân… Họ làm như thế vì xã hội đã nhìn như thế và không thể sai lầm được vì cả làng, cả phố, cả nước, đều nói như thế: Họ là những kẻ bị nguyền rủa, chúc dữ muôn đời như Jonhandeau đã nhận định:

“Lời nguyền rủa trở thành muôn đời. Không phải chỉ ở trên một người này, người kia một cách rõ ràng, nhưng còn ở trên mọi miệng lưỡi gọi tới tên tôi, lời nguyền rủa ở trong chính tôi, và tôi tìm thấy nó trong mọi khóe mắt nhìn tôi. Nó ở trong mọi trái tim liên hệ đến tôi, nó ở trong máu tôi và in sâu trên mặt tôi bằng chữ lửa. Ở khắp nơi và luôn luôn theo dõi tôi, ở đời này và cả đời sau”.
 
T

thuyan9i

Thực ra, một cử chỉ tội lỗi, một hành động sơ xuất không xác định toàn thể cuộc đời là tội lỗi, nhưng trước con mắt người khác, của xã hội, một cử chỉ đã đủ bày tỏ bản chất trong người và bản chất đó không thể thay đổi được. Nếu tôi đã trót ăn cắp một lần, tôi sẽ bị kết án suốt đời là đứa ăn cắp như thể tội ăn cắp gắn liền với bản chất con người tôi, xã hội sẽ nhìn tôi như một đứa ăn cắp dù tôi vô tội hay có tội, dù tôi có muốn chống lại dư luận, xã hội cũng không được.

Sartre đã mô tả tình cảnh đó qua thân phận cậu bé Genet đã trót ăn cắp một lần lúc thiếu thời: “Một lời tuyên bố công khai: “Mày là đứa ăn cắp”. Lúc ấy nó lên mười tuổi. Đó là giây phút tỉnh ngộ, đứa trẻ mơ màng mở mắt ra và thấy rằng nó ăn trộm. Người ta khám phá ra nó là đứa ăn trộm và nó là kẻ có tội, vì bị đè bẹp bởi một lý luận ngụy biện mà nó không thể chối cãi được: nó đã ăn cắp, vậy nó là đứa ăn cắp. Còn gì rõ rệt hơn nữa? Kinh ngạc, Genet xét lại cử chỉ của nó, nhìn mọi khía cạnh nhưng không còn gì hồ nghi được nữa: Đó là một việc ăn cắp, và ăn cắp là một tội. Điều nó đã muốn là ăn cắp, điều nó đã làm là một việc ăn cắp và điều đó nó đã là, là một thằng ăn cắp. Một tiếng nói sợ sệt phản đối từ lòng nó dội lên: Nó đâu có nhìn nhận tội ăn cắp của nó. Nhưng rồi phút chốc tiếng nói đó cũng im lặng, vì việc làm của nó quá rõ, không thể nhầm lẫn về bản chất của nó được. Nó thử nhìn lại đằng sau, thử tự tìm hiểu, nhưng đã muộn quá rồi, nó không thấy nó nữa. Cái hiện tại hiển nhiên một cách chói lọi gán cho dĩ vãng một ý nghĩa: Gene nhớ lại bây giờ là nó đã định ăn cắp. Vậy cái gì đã xảy ra. Thật ra hầu như chẳng có gì: Một việc làm không suy xé, đã được quan niệm và thực hiện trong bóng tối âm thầm kín đáo của cõi lòng thì nay đã trở thành khách quan. Và chính sự chuyển biến trên sắp quyết định cả cuộc đời nó… bị đuổi khỏi thiên đàng, bị đày ải khỏi tuổi thơ ấu, khỏi cái hồn nhiên, nó bị kết án tự thấy mình trở nên quái đản, tội lỗi cô độc và biến thành sâu bọ. Sự xấu hổ làm cho bé Genet khám phá ra cái vĩnh cửu ở trong nó: Nó là đứa ăn cắp thì khi sinh ra, và sẽ mãi mãi là thằng ăn cắp cho đến lúc chết. Thời gian chỉ là một giấc mơ: bản chất xấu xa của thời gian vỡ thành muôn mảnh…

Genet là đứa ăn cắp: đó là chân lý của nó, là bản chất đời đời của nó. Và nếu nó đã là đứa ăn cắp, nó phái luôn luôn là đứa ăn cắp, và ở khắp mọi nơi. Không phải chỉ trong lúc nó ăn cắp, mà cả khi nó ăn, nó ngủ, khi nó hôn mẹ nó; mỗi cử chỉ của nó để lộ chân tướng của nó, đều bày tỏ công khai bản chất xấu xa của nó, vì bất cứ lúc nào thầy giáo cũng có thể ngừng đọc chính tả, nhìn bé Genet chừng chừng vào mặt nó và quát: “Mày là đứa ăn cắp”. Dù nó muốn thú nhận mọi tội lỗi, có muốn đè nén bản năng xấu xa của nó, để được khoan hồng cũng vô ích – tất cả những cử động của tim nó đều tội lỗi vì tất cả đề phơi bày bản chất của nó.

Xã hội không thể hiểu Genet, vì nếu hiểu được, thì họ sẽ không thể kết án được nữa, vì nếu xã hội hiểu những người xã hội đã kết án là xấu, thì đồng thời thú nhận rằng một ngày kia họ cũng có thể xấu, ăn cắp, trong khi họ đã tin rằng cái xấu bao giờ cũng là ở nơi người khác mà thôi: “Hiểu thực sự tình cảnh ******** của bé Genet, sẽ là từ chối ý tưởng nhị nguyên, ý tưởng tiện lợi về cái xấu, và niềm kiêu hãnh là người lương thiện, là rút lại sự phán đoán của tập thể, là bẻ gãy lời kết tội. Như thế đòi hỏi bọn người lương thiện và xấu hổ về mình, phải nhìn nhận tương giao. Tình cảnh ******** của một góa phụ, một trẻ mồ côi, đó là những điều người ta vui lòng tìm hiểu, vì ngày mai chúng ta có thể mất cha, mất vợ, mất con. Đó là những cảnh hoạn nạn ai cũng nhìn nhận và bao hàm một nghị thức ai cũng biết. Nhưng hiểu hoàn cảnh hoạn nạn của một đứa ăn cắp, tức là nhìn nhận rằng đến lượt mình có thể ăn cắp. Và dĩ nhiên những người lương thiện từ chối nhìn nhận điều đó: Đúng rồi, từ nay mày đừng ăn cắp nữa, mày ráng chịu tất cả những gì xẩy đến. Và người lương thiện ra đi, còn đứa bé ở lại một mình, cô độc”.

Thái độ đồng lõa mà không biết

Tha nhân là một lý tưởng luôn luôn phải vươn tới. Không bao giờ con người là luân lý, vì nếu luân lý là một đặc tính của con người, không có luân lý nữa. Luân lý đòi hỏi những nỗ lực để đạt tới. Do đó, nếu con người tính bản thiện, tính hiền, như hòn đá là rắn, chẳng có gì đáng khen. Con người có thể trở nên tốt nhưng cũng có thể trở nên tốt nhưng cũng có thể trở nên xấu, và chỉ cố gắng trở nên tốt mới có ý nghĩa và giá trị luân lý.

Cũng như nếu con người tính vốn ác chẳng có gì đáng trách. Vậy nỗ lực vươn tới đời sống đại đức đòi hỏi có điều kiện, hoàn cảnh thuận tiện.

Có những người ăn ngay ở lành được dễ dàng, vì được sống trong một hoàn cảnh may mắn (được ăn học, được giáo dục, bầu khí khu vực xã hội lành mạnh)…

Trái lại có những người sa đọa, phạm tội vì phải sống trong những điều kiện khó khăn, hoặc phải sống trong một hoàn cảnh tội lỗi, ngay từ khi sinh ra.

Một người say rượu vì chán đời, chán đời vì thất nghiệp, đói ăn, gia đình nheo nhóc, không còn hạnh phúc gia đình, cái thú sống, nên uống rượu rồi say và gây sự giết người. Giả sử người đó có việc làm, gia đình đủ ăn, hạnh phúc, có chán dời và trở thành sát nhân không? Vậy ai trách nhiệm thực sự tội sát nhân? Phạm nhân hay một hoàn cảnh xã hội?
 
T

thuyan9i

Một người vợ góa, con đàn đống, không còn cách nào khác để sịnh nhai, phải đi làm gái điếm. Người đàn bà đó đã bị thúc đẩy đến chân tường, bế tắc và chỉ có một lối thoát đi làm điếm, không có tự do lựa chọn. Nhưng một khi đã không được tự do lựa chọn sống đời sống luân lý, một khi đã bị kết án sống trong một hoàn cảnh tội lỗi, làm sao không phạm tội, sa đọa?

Xã hội lên tiếng tố cáo, kết án những người bị bắt buộc phải sống trong một hoàn cảnh tội lỗi một cách vô tình, với thái độ an tâm như thể xã hội đã không trực tiếp hay gián tiếp gây ra hoàn cảnh tội lỗi, đã xô đẩy một số người vào hoàn cảnh đó. Cho nên, chính xã hội mới là thủ phạm, nguyên nhân gây ra tội ác, sa đọa. Những kẻ phạm tội, sát nhân, trộm cướp, du đãng, đĩ điếm, vì một hoàn cảnh sống lầm than là hình ảnh phản chiếu lầm than của hoàn cảnh sống đó. Vậy những người đại diện cho xã hội (nhà báo, quan tòa) kết án và xử phạm nhân không thể có thái độ an tâm được, vì phạm nhân trước mặt họ chỉ là nạn nhân đó phải lên tố giác buộc tội xã hội, vì tất cả chúng ta đều là sát nhân, tất cả xã hội đồng lõa liên đới trách nhiệm với tội ác, vì đã gây ra hoàn cảnh tội lỗi, vì đã không làm gì để xóa bỏ hoàn cảnh tội lỗi đó.

Sự giả hình của xã hội, nhất là của đàn ông, vô liêm sỉ một cách rõ rệt hơn cả trước vấn đề mãi dâm.

Nguyên nhân chính của nạn mãi dâm là sự thất nghiệp, những khó khăn sinh kế, hoặc tình cảnh chiến tranh có quân đội ngoại quốc chiếm đóng.

Nhưng giả sử tình cảnh thất nghiệp đó có thể giải quyết được thì nạn mãi dâm cũng có thể tồn tại, không gải như một tệ nạn trầm trọng và một cách công kha nhưng một cách lẻ tẻ lén lút vì nguyên nhân sinh lý mà thôi. Nhu cầu sinh lý thường vượt khỏi những thỏa mãn trong khuôn khổ hôn nhân, ở nơi những người có gia đình, còn ở nơi những người còn độc thân mà không giữ được, nhu cầu sinh lý đòi được thỏa mãn. “Đi chơi” là một giải pháp phải giải quyết nhu cầu chưa được thỏa mãn của người độc thân, hoặc nhu cầu đòi hỏi thêm của người có gia đình.

Người đàn bà điếm đảm nhận việc giải quyết trên. Nếu không có họ, những người đàn bà tử tế sẽ bị bắt coc, hiếp dâm ở trong nhà, ngoài phố. Hoặc cả trẻ con cũng có thể bị nữa, rồi dĩ nhiên sẽ có án mạng vì những hàng động bạn dâm điên khùng.

Nếu những người gái điếm có vai trò: giải tỏa cái quá đầy, cái thừa của dục tính là một mối đe dọa cho xã hội, tại sao không coi việc làm của họ là một nghề nnhw những nghề khác (Ý kiến của một người đàn bà về mãi dâm. Báo Aux Ecoutes số ra ngày 24-11-1966) nhất là tại sao khinh bỉ họ, kết án họ vì do người đàn ông, khi chính vì người đàn ông muốn, cần, mà có đĩ điếm?

Thái độ bàn tay sạch

Đời bẩn, làm chính trị để bẩn, nên không dây vào việc gì, không làm chính trị để có bàn tay sạch lương tâm trong sạch, không làm hại ai, không làm điều bất nhân, bất công. Có bàn tay sạch như thế thì quý báu gì, vì có làm gì đâu mà tay bẩn. Nếu còn lên mặt chửi người khác là bẩn tay với thái độ an tâm như thể hãnh diện vì mình là người trong sạch, thì đó là một thái độ tự lừa dối không thể chịu được. Người có bàn tay sạch vì đã không dám làm gì, nhân danh cái gì mà hãnh diện với người khác, mà phê phán người khác?

Có bàn tay sạch để làm gì và có ích gì cho xã hội nhơ nhớp, chính trị bẩn thỉu? Phải chẳng chỉ để tạo cho con người có bàn tay sạch một ảo tửng đạo đức, một thái độ an tâm? Một giáo sư chấm thi có thể tưởng mình được yên tâm khi đã chấm công bằng, ai đáng đỗ cho đỗ, ai đáng trượt cho trượt, không thiên vị, nể nang. Những sự công bằng trên có nghĩa lý gì và có ích lợi gì cho xã hội khi đứng trước một tình trạng thi trượt quá nhiều bắt nguồn từ tính cách không hợp lý của chính tổ chức học vụ, chế độ thi cử trừ tác dụng gây thái độ an tâm và ảo tưởng cho cá nhân giáo sư coi mình là người công bằng.

Trong một chế độ hối lộ, thối nát quá chừng, sự liêm khiết của một cá nhân công chức có ích lợi gì cho xã hội, nếu người đó không làm gì thiết thực để xóa bỏ hoặc giảm bớt tình trạng thối nát, và chỉ bằng lòng thái độ thụ động, tiêu cực, không ăn hối lộ, không thối nát để được an tâm và hãnh diện vì có bàn thay sạch. Ảo tưởng liêm khiết, nếu còn lên mặt tố cáo người khác, thì đó là giả đạo đức vô liêm sỉ. Bao lâu chính mình không dấn thân vào để làm việc tốt và chấm dứt cái xấu, tất cả những phẫn nộ đượm vẻ quảng đại, cao cả những lời tố cáo sặc mùi luân lý không thay đổi được gì hết và do đó chỉ bày tỏ sự hèn nhát, sự bất lực của chính những người đứng ngoài tố cáo với bàn tay sạch.

Họ có quyền gì mà tố người khác bẩn tay? Nếu họ không muốn thấy chính trị thối nát vì những người xôi thịt, làm bậy, tại sao họ không ra làm chính trị liêm khiết vì dân vì nước. Do đó, tại vì những người vì dân vì nước không có mặt ở đó, nên những chính khách xôi thịt mới có thể có mặt để làm bậy. Tại sao đòi những người xôi thịt không làm bậy khi họ đã là xôi thịt, và tại sao để cho họ ra làm chính trị xôi thịt? Tôi, người có bàn tay sạch, nghĩ rằng: “Trong hoàn cảnh chính trị hiện nay, tôi không muốn ở địa vị ông D, ông K”. Và đó có nghĩa là: Nếu tôi muốn có thể phê bình ông D, ông K, đã hẳn tôi phải không ở địa phương ông D., ông K. mà tôi chỉ trích, và họ sẽ nói: Nếu ông ở địa vị tôi, chưa chắc ông đã làm hơn tôi, thế nào cũng phải có người chịu ra nắm giữ địa vị đó, đảm nhận vai trò đó. Ông là người tài giỏi liêm khiết, tại sao ông không chịu ra đảm nhiệm? Hoặc nếu không ra đảm nhiệm, ông làm gì để cho tôi, hay bất cứ ai ở địa vị, ông làm gì để cho tôi, hay bất cứ ai ở địa vị đó, khỏi biến thành nhơ nhớp?

Do đó, tôi chỉ có thể phê bình nếu phê bình nhằm thay đổi thật sự những hoàn cảnh đã đẻ ra ông D., ông K. và tạo ra điều kiện để cho một chính phủ của ông D, ông K không thể có được.

Vậy nếu tôi đã không làm gì, và do đó đã để lại cho có chính phủ của ông D, ông K mà tôi chỉ trích là độc tài, cao bồi, thì tôi phải liên đới trách nhiệm những thối nát bê bối của những chế độ đó vì một dân tộc có chính phủ mà họ đáng có.

Thái độ bàn tay sạch thường thấy ở lớp người ăn học, giới trí thức. Thật ra còn một nguyên nhân khác, có vẻ chính đáng đưa người tri thức đến sự lựa chọn thái độ có bàn tay sạch. Ở đây không phải người trí thức không muốn hoạt động, dấn thân. Họ rất tha thiết với cách mạng, với chính trị lý tưởng, sẵn sàng hy sinh, hoạt động nhưng ngại dùng những phương tiện bẩn thỉu để đạt tới một lý tưởng cao cả. Vấn đề khó khăn đặt ra là vấn đề phương tiện và cứu cánh. Người trí thức ghét những phương tiện mờ ám, bất nhân và cho rằng không thể dùng những phương tiện đó để đạt tới mục tiêu hành động, do đó họ lưỡng lự mãi và rốt cục bị tê liệt, không còn dám hành động nữa.

Tuy nhiên, thái độ lý tưởng tuyệt đối đó đôi khi lại đưa đến những chủ trương trái ngược trong thực tế mà những người sợ những phương tiện bẩn thỉu trên nguyên tắc có thể mắc phải.

Chính những người rêu rao nhiều nhất không được dùng những phương tiện xấu để đạt đến một mục đích tốt, vì mục đích “không biện hộ mọi phương tiện” lại trân tráo dùng mọi phương tiện, kể cả hương tiện xấu trong thực tế hành động. Người ta thấy xảy ra luôn trường hợp những bậc tu hành rất đạo đức, có ý thức rõ rệt về luân lý cứu cánh không biện hộ cho mọi phương tiện, nhưng trong thực tế, chấp nhận mọi biện pháp, miễn là được việc thì thôi. Muốn có tiền để làm việc xã hội, từ thiện, họ dễ dàng xin tiền, nhận tiền của những người giàu mà họ biết rõ đã làm giàu một cách phi pháp, bất nhân miễn là họ cho và cho nhiều. Một nhà giàu vì bóc lột, trộm cướp đôi khi còn dựa vào thế lực của các vị tu hành để làm giàu bất hợp pháp, nhưng khôn khéo dâng cũng cho nhà chung, nhà chùa một ít tiền, để cây nhà thờ, cất chùa. Những bậ tu hành không ngần ngại nhận những số tiền đó để thực hiện mục đích tốt. Họ đã hành động chẳng khác gì những người mà họ thường kết án trong lúc giảng thuyết (Cộng sản) là dùng mọi phương tiện để đạt tới mục đích tốt.

Nhưng làm như thế, phải chăng họ đồng lõa, xúi giục, biện hộ cho sự hối lộ, ăn cắp, bóc lột. Thường thường họ cũng rất nghiêm khắc về vấn đề luân lý (công bằng) và nhất là về vấn đề dục tính. Tuy nhiên đối với người giàu có một cách bất công, tham tiền và hà tiện, nhưng lại biết quảng đại với nhà chùa, nhà chúa họ dễ dàng “cảm thông” cắt nghĩa lành cho những bọn đó, dù bọn đó ngoại tình, công khai có hai ba vợ…
 
T

thuyan9i

Những người tu hành cũng thường vì Chúa, vì Đức Phật mà không ngần ngại thi hành những mánh khóe gian lận, những thủ đoạn tàn bạo (nói dối, lường gạt, chuyển ngân phi pháp), trốn thuế đoan, buôn lậu, chợ đen, buôn việc đạo của thánh (tổ chức hành hương Fatima), bất cứ phương tiện gì cũng được miễn là được việc cho giáo hội và do đó họ được an tâm, vì tưởng rằng mình không làm cho mình.
Thực ra những người tu hành trên đáng trách hơn cả Cộng sản, vì dù sao người Cộng sản cũng thẳng thắn hơn, khi họ chủ trương tất cả mọi phương tiện không phải đều tốt, nhưng tất cả mọi phương tiện đều tốt nếu hiệu nghiệm, do đó họ không tự lừa dối mình và lừa dối người khác khi nói một đàng làm một nẻo.

Vấn đề phương tiện và cứu cánh sở dĩ mâu thuẫn, bế tắc là vì đã được đặt trên bình diện lý thuyết trừu tượng, đòi hỏi tuyệt đối. Người ta muốn cái thật trong sạch và muốn phương tiện hoàn toàn trong sạch. Nhưng trong thực tế, không có lý tưởng nào tuyệt đối, cũng không có phương tiện nào thuần túy trong sạch. Hơn nữa, luôn luôn phải hoạt động trong một hoàn cảnh hàm hồ, tốt xấu lẫn lộn, ít nhiều bạo động, khả năng gây ngộ nhận. Do đó, nếu từ chối không dám dùng phương tiện ít nhiều bạo động thì không thể làm gì được và đành bó tay, bất lực, vì chúng ta chỉ có những phương tiện ít nhiều trong sạch, và không bao giờ có những phương tiện hoàn toàn trong sạch. Nhưng từ chối không làm gì vì không có phương tiện tuyệt đối không bạo động thì cũng chẳng khác gì chấp nhận tình trạng bạo động, và không muốn chống lại tình trạng bạo động.

Trong vở kịch “Bàn tay bẩn” (Les mains sales), Santre đã trình bày mâu thuẫn giữa một người tri thức (Hugo) gia nhập đảng Cộng sản với một người Cán bộ (Hoederer) xuất thân từ bình dân lao động, mâu thuẫn giữa một người dùng những phương tiện xấu (nói dối, bạo động, thỏa hiệp) để thực hiện lý tưởng cách mạng và một người thực tế chủ trương dùng mọi phương tiện, miễn là hiệu nghiệm, đạt tới lý tưởng cách mạng.

Hoederer phê phán thái độ bàn tay sạch, tiêu cực và vô ích của Hugo: “Anh tha thiết bám víu vào sự trong sạch của anh lắm hở? Được rồi, hãy cứ giữ cho sạch. Nhưng có ích lợi gì cho ai và tại sao anh đến với chúng tôi. Sự trong sạch đó là một lý tưởng của bọn thày tu. Còn các anh bọn tri thức, bọn trưởng giả phá rối, các anh mượn cớ trong sạch để khỏi phải làm gì bất động, khép cánh tay vào mình, mang găng tay. Còn tôi, tôi bẩn tay. Đến tận khủy tay. Tôi đã nhúng tay vào *** *** máu me. Rồi gì nữa. Anh tưởng người ta có thể cai trị một cách ngây thơ ông cụ sao?

Sau đây là một đoạn tranh luận giữa hai người về chiến thuật tranh đấu. Theo Hoederer, khi Đảng còn yếu, không thể đối lập, mà phải thỏa hiệp với các Đảng khác chủ trương đoàn kết Quốc gia nắm chính quyền, và chỉ đối lập trong chính quyền chờ cơ hội cướp chính quyền sau này. Trái lại đối với Hugo, một tổ chức cách mạng chỉ có thể cướp chính quyền bằng bạo động không thể thỏa hiệp với kẻ thù và do đó phải lừa dối đảng viên và chính sách thỏa hiệp. Đó là một phương tiện xấu không thể chấp nhận được.

Hugo: “Đồng chí có vẻ nắm được chân lý vững chãi lắm. Nhưng không thể chấp nhận Đồng chí nói dối các đồng chí khác”.

Hoederer: “Tại sao? Chúng ta đang chiến trang và không phải là một thói quen thông báo cho người lính từng giờ những chi tiết cuộc hành quân”.

Hugo: “Hoederer… tôi hiểu rõ ràng hơn đồng chí thế nào là nói dối, ở nhà cha tôi, mọi người đều nói dối, ở nhà cha tôi, mọi người đều nói dối. Tôi chỉ thở được từ khi vào đảng. Lần đầu tiên, tôi thấy những con người không đánh lừa những con người khác. Mỗi người đều có thể tin cậy ở tất cả và tất cả ở mỗi người, người chiến sĩ cấp dưới nhất cũng có cảm tưởng những chỉ thị của lãnh đạo bày tỏ ý muốn xâu xa của mình, và nếu có một cú đau xẩy ra, người ta biết tại sao người ta vui lòng chết. Đồng chí không nên…”

Hoederer: “Nhưng đồng chí nói về gì đây?”

Hugo: “Về đảng ta”

Hoederer: “Về đảng ta sao? Nhưng ở trong đảng vẫn thường nói dối chút. Cũng như ở khắp nơi khác. Còn đồng chí, Hugo, đồng chí có chắc đồng chí không bao giờ tự dối mình không, không bao giờ nói dối không?”

Hugo: “Tôi không bao giờ nói dối các đồng chí. Tranh đấu giải phóng con người để làm gì, nếu khinh con người tới mức có thể nhồi sọ họ.”
Hoederer: “Tôi sẽ nói dối khi cần thiết và tôi chẳng khinh bỉ ai. Nói dối, không phải tôi tạo ra. Nó phát sinh từ một xã hội phân chia thành giai cấp và mỗi người trong chúng ta đều thừa hưởng nó khi sinh ra. Không phải từ chối nói dối mà xóa bỏ được sự nói dối, mà dùng mọi phương tiện để xóa bỏ giai cấp”.

Hugo: “Tất cả mọi phương tiện không phải đều tốt”.
Hoederer: “Mọi phương tiện đều tốt khi chúng hiệu nghiệm”.
Thái độ sáng suốt thận trọng
Người trí thức, người đàn anh từng trải thường coi mình là sáng suốt vì biết suy nghĩ, nhận xét, phân tách tinh tế, hoặc coi mình là không ngoan thận trọng vì họ biết đắn đo, dè dặt sau nhiều kinh nghiệm thất bại của tuổi trẻ bồng bột, nhẹ dạ, hăng say, liều lĩnh, mù quang. Nhưng đôi khi sự sáng suốt chỉ có nghĩa là bất lực và thận trọng là hèn nhát.

Trước một vấn đề cần được giải quyết, mà chỉ cần sáng suốt thấy rõ vấn đề, nhưng thật sự không giải quyết được, thì sáng suốt có ích gì?

Hoặc cứ nhân danh sự sáng suốt để khỏi phải dấn thân, hành động. Tình thế bao giờ cũng phức tạp, không thể biết chắc chắn mình nắm được tình thế, càng không thể chắc chắn mình sẽ tránh được mọi thất bại, tuy vẫn phải tin mình sẽ thành công để hành động. Người hành động lao mình vào cuộc phải tự nhận những may mắn cũng như rủi ro ngoài ý muốn dù đã suy nghĩ, đắn đo thật kỹ càng.

Nếu vì sáng suốt, cứ phải đắn đo, suy nghĩ cân nhắc hơn thiệt mãi, thì rốt cục thế nào cũng hoài nghi, và không dám lựa chọn, quyết định hành động nữa. Do đó, sự sáng suốt không phải để soi sáng hành động, chỉ đạo hành động mà chỉ để khỏi phải hành động.

Người trí thức sáng suốt, nhưng chỉ đặt vấn đề trên bình diện tư tưởng, và sưh diễn tiến của suy luận có thể hợp lý, nhưng cũng rất có thể không hợp với thực tại trong khi quần chúng, người hoạt động được nuôi dưỡng nang đỡ, thúc đẩy bởi chính những nhu cầu, áp bức bất mãn thực sự, bó buộc phải thấy mình muốn gì và biết mình phải làm gì? Họ không thắc mắc để thắc mắc nhưng tranh đấu để khỏi chết, để thoát khỏi một hoàn cảnh bế tắc mà họ không thể chịu đựng được nữa, chính vì thế mà những thắc mắc, cách đặt vấn đề của người trí thức có thể hay, hợp lý những không hợp với họ, không hướng dẫn và thúc đẩy họ hành động hiệu nghiệm. Sự suy nghĩ sáng suốt chỉ hiệu nghiệm nếu người trí thức ở trong một phong trào tranh đấu, thực sự dấn thân vào hành động.
ự khôn ngoan thận trọng cũng vậy. Cứ dè dặt, vì sợ bị lợi dụng, chưa đến thời cơ, vì trăm lý do, và người khôn ngoan thận trọng có thể tìm ra đủ trăm lý do để biện hộ cho thái độ thận trọng, khôn ngoan. Rút cục không dám làm gì nữa và thận trọng chỉ là một cách trốn tránh hành động.
 
T

thuyan9i

Thái độ thích làm người hùng, người thánh
Có một quan niệm anh hùng thực sự: đó là đảm nhiệm chu đáo trong bóng tối, im lặng vai trò hàng ngày của mình sống cái tầm thường một cách khác thường, không mong được trổi bật, đề cao hơn người. Trái lại, có quan niệm coi anh hùng là làm được cái độc đáo, đặc biệt, cái khác đời, cái hơn người, cái không ai có thể làm được trừ mình. Anh hùng, thánh nhân như thế là vươn ra khỏi đời sống hàng ngày, tách biệt khỏi những người khác, đừng trên mọi người vì là nhân vật số một, không ai có thể bắt chước được.
Nhưng tất cả những ước muốn hơn người khác người đều tạo một khoảng cách giữa người với người, không còn tương giao thông cảm, vì chỉ có tương giao thông cảm giữa những người bình đẳng, không thể có thông cảm giữa người hùng và người tầm thường, vì người hùng đứng ở chỗ cao quý, có ai với tới được đâu. Người hùng, người thánh là những người cô độc (Một mình một chiếu).

Cũng như những cử chỉ làm ơn, giáng phúc đều đặt người làm ơn ở trên người chịu ơn, và không tránh khỏi ý muốn duy trì người làm ơn ở mãi tình trạng thấp kém, lầm than để có thể tiếp tục được họ mang ơn, và để cho người làm ơn được tiếng là người làm ơn. “Cho dễ quá, nó gây sự cách biệt. Cử chỉ làm ơn nó phân cách ta với người khác, nó không tạo ra được tương giao (Santre). Không bao giờ có thông cảm thực sự giữa người trên và người dưới, giữa người hùng và người thường, giữa người lành và người ốm, vì sự chênh lệch, hoàn cảnh, địa vị và thân phận”.

Không những không có tương giao mà đôi khi cho, làm ơn còn là một hình thức trói buộc, bắt người khác làm nô lệ vì họ phải mang ơn suốt đời không được quên và phải luôn bày tỏ thái độ kẻ biết ơn trước mọi người. Nếu không muốn bị mang tiếng là kẻ vong ơn, bội bạc… Bày tỏ thái độ kẻ biết ơn là nể nang, vâng phục, sẵn sàng làm theo những ước muốn của người làm ơn, càng chịu ơn nặng, càng bị lệ thuộc trói buộc.

Thái độ đích thực

Phê phán những thái độ an tâm trên nhằm đi tới một thái độ đích thực: không tự lừa dối mình và lừa dối kẻ khác.

Nhưng ý thức được những động cơ, nguyên nhân của những thai độ không thực (thái độ muốn làm điều thiện mà thực ra chỉ là thái độ tự phụ, tự cao, thái độ sáng suốt thận trọng mà thực ra là thái độ bất lực, hèn nhát) và tưởng mình có thể thực hiện được thái độ dích thực để an tâm thì thái độ đích thực đó cũng chỉ là một thái độ không thực. Đích thực là một lý tưởng để vươn tới, thỉnh thoảng có thể đạt tới, nhưng không bao giờ đạt tới hoàn toàn và hoàn tất. Cho nên tưởng mình đạt tới và an tâm vì đã đạt tới cái đích thực là tự lừa dối một cách trầm trọng hơn cả, vì không còn đòi hỏi luân lý nào cao hơn đòi hỏi cái đích thực, cái chân thực.
 
Top Bottom