Kho truyện cười cập nhật liên tục hằng ngày

F

fantastic_97

tiếp~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~

Nó thường được ông Tư sai bưng thức ăn đến trạm xá cho Văn. Nhiều nhất, thường nhất là món khoai luộc nóng hổi, thơm bừng. Bưng rổ khoai từ nhà đến chỗ Văn, khói mềm cả ống tay áo Nga. Trời trở chướng, gió ráo hanh nhưng nước lên, sân trước trạm xá ngập lênh láng, con Nga xoắn quần quá gối lội qua, thấy Văn, nó thưa thẻ thọt “Ba em gởi anh ít khoai” rồi về. Lần sau, nó xoắn quần thấp một chút, bảo ăn khoai đi anh. Sau nữa nó cứ để ống quần bết nước, lọng cọng đứng ngoài cửa, hai gò má rựng lên, gọi “Ăn khoai nè”. Lúc đấy thì nói ít, thẹn thò nhưng ở lại lâu, dọn dẹp lăng xăng, quét trên quét dưới, bắc nồi cơm lên bếp, làm cá nấu canh chua trái giác, sung sướng thấy mình bận rộn giống hệt mấy nhỏ bạn mới lấy chồng (tụi con gái thường hay điên vậy, tới khi xà quần chồng con thật, lại than số mình cực như trâu). Rồi sực nhớ bếp ở nhà lạnh tanh, nó chạy về. Ông Tư ngồi trước cửa, giấu sự thắc thỏm (Và một chút lưỡng lự, mình tạo điều kiện cho hai đứa gần gủi vầy có sao không ta). Cố tươi tỉnh, ông hỏi ngay, “Con Nga lo cho anh bây xong chưa? Mắc gì mà mầy cười suốt từ ngoài đường vào đây?”. Dạ, con Nga chối bay, con đâu có cười, tại ba má sanh cái miệng con vậy mà. Nói rồi nó chạy vô bếp, bâng khuâng cười thêm một hồi nữa…
Chủ nhật, Văn mượn xe đạp chở con Nga đi chơi lòng vòng cù lao. Nga ngồi đằng sau, khép nép, sượng trân, sợ ai đó thấy hai đứa vầy, một hồi lại sợ không ai thấy, nó tiếc nuối chép miệng :
- Bữa nay người ta đi đâu hết trơn rồi cà, vắng dễ sợ.
Quẹo qua quẹo lại, nói đất nói trời (chỉ thiếu nói lời thương yêu), cuối cùng hai đứa ra bãi đào khoai. Văn hỏi má Nga đâu, nó cười, chết rồi, chết hồi sanh em, chết trên xuồng. Văn về ngó cái khẩu hiệu ông Tư vẻ trên tường. Thấy nó đỏ như một lời thề.
Bữa nọ Nga đem mấy cần xé ổi ra chợ huyện cân cho vựa thì gặp đám bạn Văn xốc xếch đứng trên bến. Nga cho quá giang về Mút Cà Tha (mà không hiểu sao trong bụng muốn nhận chìm xuồng cho tụi này bỏ ý định ra cù lao cho rồi). Ngồi dưới xuồng, ba thằng trai cứ khen Nga đẹp, nhìn là muốn ở lại đất cù lao này hoài, hai đứa gái bĩu môi, tủm tỉm cười, nói bữa nay dê thả tùm lum ngoài đường. Nga không để ý, những lời nói ngọt ngào càng không để ý. Xuồng cập bến, Nga xăm xăm đi trước dẫn đường, tong tả xộc vào phòng sau của trạm xá, cằn nhằn cử nhử, sao anh Văn bày tùm lum như vầy (cho tụi kia biết, ta đây đã thân thuộc với anh ấy đến mức nào).
Văn từ nhà tắm vào, nước trên tóc còn rỏ tong tong. Năm người họ sà vô ôm, nhảy tưng tưng, nói tui nhớ ông em nhớ anh quá chừng. Văn ngợp thở vì cái mùi thành thị quen thuộc của nước hoa, của son, của phấn, của khói thuốc lá, của những hơi thở gấp, của sự chen chúc, xô đẩy nhau… Và những kỷ niệm ùa về, nhớ quán cà phê chỗ mình ngồi không, bây giờ đổi tên khác rồi. Văn sôi nổi hỏi, vậy con nhỏ phục vụ bốc lửa còn không. Còn, mà chi, tụi con gái ở Phố Xưa còn dữ dội hơn, nhớ bar đó không? Nhớ không, nhớ không… Đã vầy đã khác. Mà Hương của mầy có con rồi, mầy đã quên chưa. Không khí chùng xuống. Một đứa bạn cười, kín đáo liếc ra đằng sau, giọng xủng xoảng như ly chén bể, “Sao anh không chịu để em bù vô nhỏ Hương, ra đây trốn tình chi cho cực, em nhớ anh thấy mồ”. Đuôi mắt quét tận chỗ Nga, thấy con gái cù lao đứng thừ lừ. Nga nói thôi em về, luộc khoai đem qua anh Văn đãi bạn.
Nga qua khoảng sân đầy nước thì có ông con trai chạy theo, lăng xăng nói trời ơi mát khủng khiếp, yên tĩnh tuyệt vời quá, cảnh thiệt là thơ mộng rồi hỏi, ủa, sao không thấy em gái nói gì. Nói gì bây giờ, Nga đi lẹ lẹ đằng trước, nỗi sợ cuộn lên, mong manh, Văn dễ tin lắm, hôm trước con chồn chạy ngang Nga nói con mèo Văn cũng tin, Nga bảo cây cỏ trên cù lao này đều do chim ỉa mà mọc lên Văn tưởng thiệt, bây giờ người ta nói yêu này yêu nọ, không biết Văn của mình có tin không. Nó cố kìm để khỏi kêu lên, trời ơi, sao người ta nói chuyện yêu thương dễ ợt, giòn rụm vậy cà.
Bận quay lại trạm xá, Nga còn đi nhanh hơn, đầu nó có một mớ tro lá dừa đậu hồi thổi lửa. Anh chàng nọ rớt lại dọc đường. Bước vô cửa thấy ba bốn người nằm ngủ ngiêng ngủ ngửa, Nga nói ngay, “Ủa, anh kia chưa về hả, cha, ảnh ở đâu ta? Em hỏng có đi chung” (cho anh đừng suy diễn lung tung, rồi hiểu lầm lòng dạ em). Ngó bộ Văn không để ý, Nga nhẹ lòng, thở ra cái phù, hỏi, anh đang làm gì đó, Văn cười coi nắng cù lao. Trời, nắng có gì mà coi, anh?
Hôm ấy Văn không trả lời, hôm sau không kịp trả lời vì Văn đưa bạn ra về rồi không trở lại. Lặng lẽ, như trốn chạy. Trưởng ấp Tư Mốt đứng ở trạm xá, thấy sau trước trống không, trong lòng nghe đau tiếc như vừa thua một ván bài lớn. Văn không từ giã ông một lời, để nói cháu về vì má cháu đang đau, hoặc cháu ra ngoài trung tâm y tế huyện một tí, rồi lên xe đi luôn cũng được, dù nhìn vào đôi mắt đang cụp xuống kia, biết người ta nói dối, dù trong tâm ông đã vẫy tay để chào xa mãi.
Trong một thoáng, ông thấy mình chùng chình, vớ được khúc cây bình bát, ông chống vào đất. Bên ngoài cái đất Mút Cà Tha dường như đã có sự thay đổi lớn. Thí dụ như con cá, lá rau, hạt gạo mến thương của người cù lao không ràng buộc được một con người (như đã từng rịt chân ông lại), thì cái bóng nhỏ nhoi của đứa con gái đang tuyệt vọng đứng ngóng chờ dưới bến không có ý nghĩa gì sao? Tuyệt không đáng gì à?
 
F

fantastic_97

Tình điên
Ánh sáng vàng úa của vừng thái dương đỏ chót như còn do dự ở chân dẫy tre già cao vót, rì rào, kẽo kẹt.
Luồng gió mát về chiều vừa đánh thức xóm Hồng Thủy miên man ngây ngất trong bầu không khí nồng nực của buổi trưa mùa hạ. Nào tiếng cười đùa của các cô gánh nước xúm xít nhau bên bờ giếng, nào tiếng ca hát của bọn mục đồng cưỡi trâu bò về chuồng, nào tiếng cãi cọ của trẻ con đuổi chạy quanh mấy gốc đa già trên tòa miếu cổ.
Bỗng trẻ con rời bỏ gốc đa, kéo ùa ra đường và cất tiếng reo :
- Cô điên! A! Cô điên!
Trên con đường hẹp ngoằn ngoèo lượn theo cái lạch nhỏ, bờ trồng cây, lá xanh um, một người con gái chừng mười tám tuổi, tóc bỏ xõa, đương vừa đi vừa lẩm bẩm nói một mình.
Thấy lũ trẻ chạy, reo cười, cô đưa bàn tay lên xua, ra hiệu bảo im đi, rồi lại lẳng lặng cúi đầu đi thong thả như đương cặm cụi theo sau một vật gì, một cái xe chẳng hạn. Bọn trẻ trỏ tay bảo nhau :
- Cô ấy đưa đám ma đấy.
Một đứa nói :
- Sắp đến huyệt rồi.
Quả thực, khi đi đến cái rãnh xẻ để tát nước vào ruộng, người con gái đứng dừng lại, đăm đăm nhìn, như ngắm người ta đương hạ cái áo quan xuống huyệt. Nước mắt cô từ từ nhỏ giọt. Một lát sau, cô qùy xuống bới đất lấp kín rãnh, rồi nằm phủ phục, khóc nức nở, không ra tiếng. Đứng xúm xít chung quanh đàn trẻ thi nhau cười như nắc nẻ.
Bỗng cô ngước mặt lên nhìn lên, mỉm cười, rồi như nói với ai đứng bên cạnh :
- Em cảm ơn anh... anh thương em quá... Đương lúc em đau đớn mà anh lại đến an ủi em thế nàỵ.. Vâng, em xin tuân theo lời anh dạy.
Chỗ này cô đổi giọng ồm ồm bắt chước tiếng đàn ông :
- Em nghe anh, không nên buồn nữa, không nên khóc nữa.
Rồi cô lại mỉm cười nói giọng tự nhiên, làm như hai người chuyện trò với nhau vậy :
- Không em có buồn nữa đâu. Ở trên đời còn có anh thì em không bồ côi bồ cút đâu mà sợ.
Có lúc cô đứng lặng, hé cặp môi son chú hết tinh thần như đương nghe ai se sẽ thì thầm bên tai.
Đã hơn một tháng nay, từ hôm cô về làng Hồng Thủy ở với bác để điều trị bịnh thần kinh, chiều nào cô cũng nhắc lại những cử chỉ, những ngôn ngữ như thế, đến nỗi bọn trẻ con trong làng cứ tới giờ ấy là xúm nhau đứng sẵn ở gốc đa bên miếu để chờ cô đi qua. Chúng biết trước rất rành mạch hết mọi sự sắp xẩy ra, từ việc làm cho chí lời nói của cộ Mà hôm nào cũng chỉ đi đến chỗ đương xẻ là cô lại quay về. Trước kia những người tát nước còn ngăn cản không cho cô lấp đất. Nhưng sau thấy cô khóc lóc lạy van khẩn khoản, họ đem lòng thương hại, để mặc cô muốn làm gì thì làm, chờ khi cô đi khuất, họ lại khơi rãnh ra.
Lúc trở về nhà cô đi mau hơn, nết mặt vui tươi, cười cười, nói nói như được cùng người yêu chuyện trò thân mật.
Bỗng khi đến gần nhà, cô lại bưng mặt khóc.
Bọn trẻ thấy cô đang cười, mà khóc ngay được thì cùng nhau cười vang xóm. Như không nghe thấy gì, cô chỉ nức nở nói một mình :
- Vậy ra anh lừa dối em... Anh bỏ em... trơ vơ một mình... một bóng... anh đi lấy vợ.
 
F

fantastic_97

tiếp bài tình điên:
Một hôm đắp xong cái mồ tưởng tượng, cô ngước mắt nhìn lên vừa nói dứt câu: “Em cám ơn anh” thì bỗng cô ngừng bặt.
Trước mặt cô, một trang thiếu niên vận Âu phục đứng nhìn cô có vẻ thương hại, đau đớn. Cô ngẫm nghĩ một lát rồi hỏi :
- Có phải anh Linh của em Cúc đây không?
Chàng mỉm cười gật sẽ.
Cô cúi mặt xuống nũng nịu :
- Anh bỏ em, anh đi mãi.
Chàng đuổi bọn trẻ đi theo trêu ghẹo, rồi đưa cô Cúc về nhà.
Ông bác cô ra đón chào khách :
- Cảm ơn ông, cháu nó ốm đã mấy tháng nay. Thuốc uống đã nhiều mà vẫn không chuyển. Tôi lo quá, cậu mợ cháu chết đi chỉ được có một mình cháu.
Chủ nhà mời khách ngồi chơi uống nước. Trong khi ấy thì cô Cúc chú mục đứng nhìn hai người nói chuyện. Chủ hỏi :
- Thưa ông, ông học trường thuốc, vậy ông có biết căn bệnh này không?
Khách đáp :
- Đầu đuôi bệnh trạng ra sao, xin cụ kể lại cho tôi nghe xem.
- Thưa ông, nào có gì đâu. Hồi tháng hai năm ngoáị..
Thấy cô Cúc đứng lắng tai nghe chuyện, khách bảo sẽ chủ :
- Giá cụ bảo cô ấy vào trong nhà đã rồi hãy nói chuyện thì hơn.
Khi Cúc đã ngoan ngoãn theo lời bác lẳng lặng vào buồng, cụ Tú Vụ liền kể cho khách nghe cậu chuyện sau này :
“Cúc bồ côi cha từ năm lên mười. Mẹ cô nhà cũng khá, cho cô đi học, và hiện cô đang theo học năm thứ ba trường Sư phạm. Mẹ cô có mình cô nên rất mực chiều chuộng, mà cô thì cô yêu quý mẹ lắm.
Bỗng tháng hai năm nay, mẹ cô ốm. Hơn một tháng cô hết sức trông nom, đến nỗi người cô sút hẳn đi. Nhưng bệnh ho của mẹ cô một ngày một trầm trọng, rồi đến đầu tháng tư thì mẹ cô chết.
Cô thương xót khóc lóc không ai khuyên can nổi. May sao có một cậu, cậu Linh, sinh viên trường Đại Học, khi còn mẹ cô, vẫn khi tới chơi nhà, vì chàng thấy cô có nhan sắc thì đem lòng thương trộm yêu thầm. Trong khi đau đớn, khổ sở, ngày ngày có chàng đến an ủi, Cúc cũng nguôi dần.
Sang tháng sau, nghĩa là cách đây hai tháng, chàng vừa tốt nghiệp trường Cao đẳng ra, liền về thẳng nhà, bỏ Cúc trơ trọi ở Hà Nội. Cái ngày mà Cúc được tin Linh cưới vợ là ngày bệnh điên của cô bắt đầu phát”.
Khách nghe câu chuyện, buồn rầu, ngồi ngẫm nghĩ. Cụ Tú thấy chàng không nói gì, lại hỏi :
- Vậy ông cho nó là bệnh gì?
- Thưa cụ, cô Cúc chắc bị một định kiến thôi miên.
- Ông tính có thể chữa được không?
- May ra thì được... Phải chữa mẹo.
Rồi chàng ghé vào tai cụ Tú thì thầm :
- Từ nay trước mặt cô Cúc, xin cụ gọi tôi là Linh, và cụ dặn người nhà cùng những người quen thuộc cũng vậy.
Cụ Tú mỉm cười, không hiểu :
- Nhưng tôi sợ nó biết tên thực ông là Giao rồi.
- Cụ không sợ. Tôi mới gặp cô ấy lần này là một.
- Thưa ông, ông có thể giảng nghĩa cho tôi hiểu không?
- Thựa cụ, bây giờ tôi chưa có thể giảng nghĩa được, sợ tiết lộ bi'mật. Để chờ khi cô Cúc khỏi đã hãy hay.
Cụ Tú lại mỉm cười :
- Cách chữa bí mật thế kia à?... Nhưng ông còn ở chơi nhà lâu không?
- Thưa cụ, còn những một tháng kia. Chắc đủ thì giờ.
Từ đó, chiều chiều Cúc đưa cái đám ma tưởng tượng của mẹ tới chỗ đường xẻ lại gặp Giao mà cô vẫn tưởng lầm là Linh.
Mấy hôm đầu, Giao còn để vậy cho Cúc đắp mộ, cùng khóc lóc rồi ngước cặp mắt âu yếm bảo chàng :
“Vậy ra anh Linh của em không lừa dối em đấy chứ?”
Chàng cầm tay cô, mỉm cười nhìn vào mắt sẽ đáp :
- Khi nào anh Linh của em lại nỡ lừa dối em.
- Thế anh chưa lấy vợ chứ?
- Chưa em ạ!
- Thế anh chờ em chứ?
- Cái đó thì đã cố nhiên. Khi nào em khỏi hẳn thì anh sẽ cưới em làm vợ.
- Nhưng em có ốm đâu mà anh bảo em khỏỉ
Giao cười :
- Em không ốm, nhưng mà em còn mê man tinh thần. Kìa em coi, cô con gái đẹp, ai lại đi nằm xuống đất để đến nỗi lấm láp thế kia? Mà ai lại đi chân không như thế kia bao giờ?
Cúc bẽn lẽn nhìn xuống chân, lấy tay phủi bụi bám vào quần áo.
Dần dần Cúc đã biết chăm đến sự điểm trang, chân đi dép da láng, quần áo chải chuốt, tóc vấn cẩn thận.
Một hôm, cô vừa toan quì xuống đắp mả, thì Giao giữ lại bảo :
- Nếu em muốn anh yêu em thì em đừng vầy đất nữa kia.
Cúc mỉm cười, cặp mắt sáng quắc nhìn Giao :
- Nhưng em có vầy đất đâu? Em đắp mồ cho mẹ em đấy chứ.
- Em quên à? Mẹ mất ở Hà Nội kia mà?
Cúc ngơ ngác :
- Thế đây là đâủ
- Đây là làng ta và chỗ này là cái rãnh xẻ để tát nước.
Cúc ngần ngừ có ý nghi hoặc, nhưng hình như sợ hãi người yêu, nên không dám đắp đất nữa.
Nhờ về những ống tiêm thuốc bổ, và nhất là nhờ về tình âu yếm dịu dàng của Giao, bệnh thần kinh của Cúc một ngày một thuyên giảm. Rồi nửa tháng sau, tuy Cúc vẫn còn mê sảng, nhưng sự đi theo đám ma hình như đổi hẳn ra một cuộc đi chơi mát của đôi bạn trẻ. Vì tình nhân loại, Giao một ngày một thêm đằm thắm, thân mật. Còn Cúc thì ngày một thêm chăm chỉ đến sự điểm trang.
Một hôm, chàng đến hơi trễ. Cúc y phục chỉnh tề, quần trắng, áo trắng, mái tóc rẽ lệch, đương đi đi, lại lại, băn khoăn khó chịu ở trước cửa. Vừa thoáng thấy chàng ở đàng xa, cô chạy vội lại, trách :
- Sao hôm nay anh đến muộn thế? Em giận lắm. Đã đến giờ đưa đám rồi.
Giao nét mặt nghiêm nghị, đáp sẽ :
- Nếu em không bỏ cái tính giận dữ đi thì anh không yêu nữa đâu. Nhất là em không được quên rằng mẹ em mất đã được bốn, năm tháng rồi. Nay anh chỉ đến rủ em đi chơi mát, không phải đi đưa đám. Em cố nghĩ lại xem.
Không biết Cúc có nhớ ra không, nhưng vì sợ Giao không yêu, nên khi thấy chàng hỏi lại rằng đã nhớ ra chưa, thì cô tươi cười đáp liền :
- Em nhớ ra rồi. Mẹ em mất những bốn, năm tháng trước.
Giao gật :
- Em Cúc của anh ngoan lắm. Vậy mai hễ gặp anh thì em phải nhắc lại cho anh nghe cấu ấy, anh sẽ yêu thực nhiều, nhé!
Hôm sau, Giao lại đến trễ hơn, nhưng không những Cúc không tức giận, cô lại còn vui vẻ đến chào chàng, rồi như đứa học trò nhỏ, ôn lại câu chàng dặn :
- Mẹ em chết đã được bốn, năm tháng rồi. Nay anh chỉ đến rủ em đi chơi mát, chứ không phải đi đưa đám. Vậy anh có yêu em không?
Giao cười, lấy tay đập se sẽ vào má Cúc :
- Anh yêu em lắm.
 
F

fantastic_97

tiếp ~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
Câu trả lời khiến Giao ngẫm nghĩ, mỉm cười.
Rồi câu ấy ngày nào chàng cũng nhắc đi nhắc lại, nhắc đi nhắc lại vì lòng nhân từ hào hiệp đối với một người khốn khổ.
Một hôm ngồi một mình, chàng bỗng buộc miệng như nói với người trong mộng :
- Anh yêu em lắm!
Chàng ngơ ngác nhìn quanh phòng như sợ hãi một sự huyền bí. Vì chàng nhận rằng câu ngẫu nhiên ấy nó ở tự đáy trái tim, tận cùng linh hồn thốt ra và không còn ngụ một ý nghĩa nhân từ hào hiệp nữa.
Hôm ấy chàng đi thong thả trên con đường đất ngòng ngoèo lượn theo cái lạch nước nhỏ. Lòng chàng bối rối, sự buồn rầu lộ ra nét mặt.
Chàng có ngờ đâu từ thương tới yêu, con đường lại ngắn đến thế. Cái lòng thương nhân loại, thương những sự yếu hèn, đau đớn của loài người, chàng có ngờ đâu lại trở nên tình ái!
Song chẳng lẽ yêu một người điên, tuy người điên ấy là một trang thiếu nữ tuyệt sắc! Phải chăng chàng chỉ yêu cái hào nhoáng bên ngoàỉ
Không phải. Quyết là không phải.
Chàng vừa đi vừa cố phân chất, cố giải phẫu những tính tình của chàng như chàng đã đem khoa học mà tìm căn nguyên bệnh thần kinh hệ của Cúc. Khi chàng đã đưa tư tưởng đi ngoắt ngoéo hết các con đường khúc khuỷu trong tâm trí, thì chàng mỉm cười, vì trong lúc mê muội, chàng chỉ nhận ra được có một điều là chàng yêu.
Cái tình yêu ấy, cỗi rễ ở lòng thương mà ra cũng có, nhưng nhất là ở sự tìm thấy một linh hồn khác thường, linh hồn dịu dàng, chất phác ngớ ngẩn của một cô gái điên. Mà ba cái tính tình dịu dàng, chất phác, ngớ ngẩn ấy lại rất dễ cảm động lòng người.
Nhớ lại những câu nói tự nhiên của Cúc chàng cảm thấy hay hay, nũng nịu vừa như tiếng trẻ thơ, vừa như giọng âu yếm của ái tình.
Chàng thực yêu rồi, yêu một cách vô lý, nhưng yêu một cách nồng nàn và vơ vẩn. Mà chỉ còn một tuần lễ nữa là chàng đã phải từ biệt người chàng yêu. Biết đâu khi chàng đi rồi, bệnh điên kia đã thuyên giảm bội phần, đã hầu như khỏi hẳn, lại không nặng như xưa. Xa sự dịu dàng, xa sự âu yếm của chàng thì Cúc khó lòng khỏi được. Rồi cái thân mềm mại kia đáng lẽ phải chứa một linh hồn lanh lợi sẽ không còn đựng một mẩu trí thức cỏn con.
Chàng nghĩ thế thì chàng càng thấy buồn, càng thấy khổ, càng thấy thương, càng thấy yêu. Cái nhân loại bé nhỏ, hèn yếu mà xưa kia chàng vẫn muốn đem hết tâm trí, đem hết tinh thần ra thương yêu, nay đối với chàng hình như chung đúc cả vào cái thân thể mảnh dẻ của cô gái điên.
Bước thong thả, hai tay chắp sau lưng, chàng băn khoăn tư lự. Bỗng vừa rẽ một chỗ đường ngoặt, chàng thấy sừng sững trước mặt chàng cô Cúc, vận quần áo đại tang. Cô ngả đầu, lễ phép chào chàng, rồi buồn rầu cất tiếng run run nói sẽ :
- Thưa ông, tôị..
Cô chỉ nói được có thế. Nước mắt cô ứa ra, khiến cô nghẹn lời. Giao vội hỏi :
- Có sự gì thế em? Em Cúc của anh... của anh Linh?
Cúc đưa khăn tay lên lau nước mắt, lạnh lùng bảo :
- Ông nói dối! Ông không phải là ông Linh. Ông không thể là ông Linh được!
Hai giọt nước mắt ngập ngừng dưới cặp mi, Giao lo lắng, khổ sở, đăm đăm nhìn Cúc. Cúc bỗng cười ngất, cái cười khoái lạc mà Giao cho là cái cười vô nghĩa lý, vô ý thức của người điên. Chàng sung sướng cũng mỉm cười, vì chàng cho là tri thức của Cúc tuy còn đương ở vào giữa chỗ tự tri và vô tri, nhưng đã hơi chịu xét đoán. Hy vọng lắm rồi!
Nhưng nếu ông thầy thuốc hy vọng, thì người yêu liệu có hy vọng được không? Giao mỉm cười, cái mỉm cười của ông thầy thuốc, của nhà khoa học. Phải, nếu Cúc biết suy xét, biết nhận rõ sự thực hư thì liệu Cúc có còn giữ mối cảm tình đối với người mà Cúc nhận lầm là Linh nữa không? Ông thầy thuốc lại mỉm cười, cái mỉm cười tự cao, tự đại. Giao nghĩ thầm: “Ta hãy bỏ lòng ích kỷ mà mong cho Cúc khỏi hẳn bệnh đã”.
Ngắm Giao có vẻ tư lự, Cúc hình như cố nhịn cười mà nhắc lại lời chàng dặn bữa nọ :
- Mẹ em mất đã được bốn, năm tháng rồi. Nay anh chỉ đến để rủ em đi chơi mát, chứ không phải đi đưa đám. Vậy anh có yêu em không?
Cô nói dứt câu, bẽn lẽn cúi xuống nhìn dòng nước chảy. Giao cười ra dáng đắc chí, trả lời :
- Anh yêu em lắm chứ!
Hai người yên lặng đi bên cạnh nhau. Bỗng như vì sự sung sướng xúc động tâm hồn, Cúc lim dim cặp mắt như mộng, cất tiếng nói :
- Này anh ạ! Em chỉ muốn suốt đời được cùng người yêu ở trong cái cảnh dịu dàng, êm ái này. Anh hãy trông: con đường quanh co dưới bóng lá cây um tùm, bên dòng nước trong như lọc, thực Tạo hóa đã riêng gây nên để tặng hạng người biết yêu thưởng thức.
Giao mỉm cười :
- Em làm thơ đấy à? Anh xét ra có hai hạng người thích ngâm vịnh và có tài ngâm vịnh, là hạng người thi bá và hạng điên rồ.
Cúc nghiêng cái đầu hơi rung động, mái tóc se sẽ lung lay trước cơn gió chiều. Và nàng hỏi lại :
- Vậy anh cho em là người điên hay là thi sĩ?
- Em vừa là điên vừa là thi sĩ?
Cúc cười ngất :
- Thế thì anh lầm.
Cô ngẫm nghĩ mấy giây, rồi nói tiếp :
- Nhưng không, anh nói đúng đấy: vì xét kỹ thì em điên thực, mà khổ cho em, em lại tự biết em điên.
Giao sửng sốt nhìn Cúc lấy làm lạ rằng lời nói của người điên sao lại có luận lý đến thế. Chàng ngờ vực, lẩm bẩm: “Không có lẽ”. Nhớ lại những câu hỏi thứ nhất của Cúc, khi Cúc mới gặp chàng ban nãy, Giao càng nghi lắm. Nhưng bây giờ thì sự nghi hoặc của chàng làm cho chàng sung sướng. Chàng mỉm cười, nghĩ thầm: “Có lẽ thế chăng?”
 
F

fantastic_97

tiếp ~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
Đêm hôm ấy ở ấp Hồng Giang và ở làng Hồng Thủy có hai người thức suốt sáng.
Hôm sau, mặt trời vừa rạng đông, trên con đường từ ấp tới làng, quanh co bên cái lạch nước nhỏ, đã thấy Giao thung thăng bách bộ. Chàng tới Hồng Thủy làm gì sớm thế? Đến chàng, chàng cũng chẳng biết tại sao.
Tới cổng nhà cụ Tú Vụ, chàng đã toan đi qua không vào, nhưng có cái mãnh lực gì nó giữ chân chàng lại. Chàng mỉm cười, chép miệng rồi gọi cổng.
Gặp chàng, cụ Tú vui mừng, nhưng không thể không lấy làm lạ về sự đến chơi sớm quá như thế. Chừng chàng cũng đoán được ý nghĩa của cụ, nên nói chống chế ngay :
- Thưa cụ, hôm nay tôi lại sớm là vì thứ thuốc bổ này cần phải tiêm vào buổi sáng.
Cụ Tú chắp tay cung kính trả lời :
- Xin cảm ơn ông. Mời ông ngồi chơi để tôi gọi cháu nó ra.
Cúc nằm ở buồng bên cạnh nghe rõ tiếng Giao, trong lòng mừng rỡ, nhưng vờ ngủ mê mệt hai, ba tin gọi cũng không dậy. Là vì đêm hôm trước, không chợp mắt, cô sợ sự mệt nhọc làm mất vẻ kiều mị của cô, nên cô muốn tránh mặt người yêu. Còn Giao nghe có tiếng gọi mà Cúc vẫn ngủ mê thì gạt đi mà nói rằng :
- Thôi để lát nữa tôi trở lại cũng được.
Cụ Tú lấy làm ngượng, đáp :
- Thế thì làm phiền ông quá. Ông để tôi vào đánh thức cháu dậy.
- Không nên, cụ ạ. Phải để cho cô ấy nghỉ chứ. Người mắc bệnh thần kinh hệ cần nhất là phải ngủ nhiều.
- Cảm ơn ông, tôi không biết lấy gì trả ơn ông cho xứng đáng. Thực ông đã cải tử hoàn sinh cho cháu. Bệnh cháu mười phần đã khỏi đến quá chín rồi.
Giao mỉm cười :
- Thưa cụ, có gì mà cụ phải nói đến ơn với huệ? Bổn phận của loài người là phải cứu giúp lẫn nhau, khi mình có thể cứu giúp được. Nếu cô Cúc qua khỏi cái tai nạn này thì tôi sẽ sung sướng suốt đời. Há chẳng phải cụ là ân nhân của tôi saỏ
Chàng biết mình nói hớ, - mà câu nói hớ ấy chàng có ngờ đâu đã khiến ở buồng bên Cúc cười thầm - nên nói chữa ngay :
- Vì cụ đã giúp tôi được có cái hân hạnh, cái hạnh phục làm nổi một công cuộc gọi là có ích cho đời.
 
F

fantastic_97

tiếp ~~~~~~~~~~~~~~~~~
Trong năm hôm sau chót, Giao và Cúc luôn luôn cùng nhau dạo chơi bên dòng nước. Hình như hai người đều tưởng đến ngày ly biệt sắp tới, nên tình bè bạn càng thêm thân mật. Có hôm buổi sáng sớm, không hẹn hò mà hai người cùng lang thang dưới rặng cây, rồi gặp nhau ở giữa đường. Tuy hai người không hề ngỏ ý với nhau, nhưng cùng hiểu rằng thời giờ gặp gỡ chỉ còn có trong ít bữa, những buổi chiều ngắn ngủi sao đủ giải tỏ nổi lòng yêu?
Mà câu chuyện thì có gì đâu! Quanh quẩn chỉ nước cùng trời, chỉ cây cùng cỏ, vì cái mục đích nói chuyện để giúp bệnh nhân biết tự suy xét theo lối khoa học nay không còn ở trong ý nghĩ của Giao nữa. Nay chàng nói chuyện là vì một lẽ khác hay đúng hơn, chẳng vì một lẽ gì nữa.
Đối với chàng thì câu chuyện ấy là câu chuyện thường, câu chuyện tự nhiên, câu chuyện để có chuyện. Song trái lại, về phần Cúc thì có khi cô lại phải cố ý nói ngớ ngẩn một vài câu để chàng tưởng rằng cô thỉnh thoảng vẫn còn điên. Cô muốn thế để đứng trước mặt Giao cô đỡ bẽn lẽn, cái bẽn lẽn tự nhiên của một cô gái tơ đứng trước mặt một chàng tuổi trẻ.
Chiều hôm nay là một buổi chiều từ biệt của hai người. Ngày mai, Giao phải rời Cúc để vào trường thuốc.
Cúc vừa gặp Giao, cảm động quá, buộc miệng gọi :
- Anh Giao!
Hai cặp mắt nhìn nhau. Hai linh hồn, hai trái tim: một ý tưởng.
Sự yên lặng kể lể biết bao nỗi thương yêu!
Dịu dàng, âu yếm, Cúc đặt đầu vào vai Giao, ngước mắt nhìn lên mỉm cười.
Giờ lâu... Giao ghé tận tai Cúc thì thầm :
- Chúng ta điên.
Cúc cười khẽ gật.
 
F

fantastic_97

bài tiếp theo~~~~~~~~~~~~~~~~~~~

Một người thích quà
Mọi thủ tục mở đầu cuộc hội nghị quan trọng trong ngành đã xong. Tất nhiên, như thường lệ, ông được mời lên trên đoàn chủ tịch. Từ dưới hội trường nhìn lên, người ta thấy vẻ bệ vệ, trang nghiêm thường ngày của ông càng được tôn lên trong cái không khí lễ lộc quan trọng này; nhất là khi ánh đèn quay phim, truyền hình lướt qua, đôi phòng kính của ông khi ngẩng mặt nhìn bắt sáng lóe lên, cái trán rộng và cao càng nổi rõ hơn.
Ông chỉ ngẩng lên một chút, mặt hơi đăm chiêu, vừa đủ thời gian để được thu hình, rồi lại cắm cúi nhìn xuống tập tài liệu trước mặt, với cây bút trên tay. Thỉnh thoảng ông lại ngẩng mặt lên, nhìn vào người đang báo cáo trên bục, xong đảo mắt nhìn chầm chậm toàn cảnh hội trường, rồi lại cúi xuống tập tài liệu.
Đặt ngay trên tập tài liệu ấy là một cuốn sổ tay nhỏ, loại bỏ túi, mà những người ngồi bên dưới không thể nào nhìn thấy, còn những người ngồi hai bên và phía sau ông trên đoàn chủ tịch thì cũng không thể nào biết được trong cuốn sổ đó là những gì. Khoảng cách giữa họ và ông khá xa. Hơn nữa, hầu hết nội dung ông ghi trong sổ đều thuộc dạng ký hiệu, chỉ riêng mình ông biết. Thí dụ ba cái cột dọc với các mẫu tự T, K và R trên đầu chẳng hạn. Ai hiểu nổi T có nghĩa là “đã triển khai”, K là “đã kiểm tra” và R là “thực hiện xong”? Mỗi cán bộ cấp dưới, được ông dành cho vài trang. Từng việc cần triển khai, ông đều vào sổ, hàng ngày bỏ vài phút đầu và cuối ngày để kiểm tra xem tiến độ đến đâu. Ký hiệu trên hai cột T và R là dấu X. Còn trên cột K, ông đánh dấu hình tam giác. Nếu kiểm tra, nhắc nhở một lần, ông gạch một cạnh huyền, hai lần là hai cạnh, và nhắc nhở lần thứ ba thì hình tam giác hiện ra đầy đủ, như một lời báo động. Nguyên tắc của ông; không có lần kiểm tra, nhắc nhở thứ tư.
Cuốn sổ đặc biệt có tác dụng vào những dịp hội nghị có mặt đông đủ như thế này. Chỗ ngồi của ông trên chủ tịch đoàn không phải lúc nào cũng ở vị trí quan trọng nhất, vì trên ông còn có các ông to hơn, nhưng từ các vị trí trên ấy, ông vẫn có tầm nhìn bao quát được toàn hội trường, sẽ có kế hoạch kiểm tra ngay các đối tượng liên quan đến từng vụ việc, đồng thời cái đầu đầy tính năng động sáng tạo của ông, khi nhìn thấy mặt từng đối tượng, thường nảy ra những phát kiến mới mà bình thường không thể nghĩ nổi.
Thí dụ như hôm nay, vừa mới lên trên này, ông đã phát hiện ra anh chàng An đang ngồi ở tận hàng ghế sau cùng. An là giám đốc Nhà máy sửa chữa số 6, bổng lộc chẳng có gì đáng kể, lại thuộc loại khù khờ không biết chạy vạy làm ăn, có điều nhờ rất biết trên biết dưới nên vẫn được ông giữ lại trên ghế suốt mấy năm liền. An cũng hiểu vậy, nên càng ra sức biết điều. Thật ra, làm giám đốc trong thời buổi này có khó khăn gì? Mọi thứ đều do trên lo, trên rót. Cái khéo là làm sao cho trên lo nhiều, rót đủ cho mình, mọi thứ sau đó tự nó sẽ chạy ro ro...
Thấy An, ông nhớ ngay đến việc hôm qua, một nhân viên đắc lực của ông xuống Nhà máy sửa chữa số 6 làm việc, khi về đã báo ngay cho ông biết là chẳng hiểu sao trong kho của bọn này lại thấy có mấy khối gỗ lim. Gì chứ lim mà đóng tủ thì bền phải biết, xài cứ gọi là bách niên! Lúc nghe báo cáo ông đã nghĩ như vậy, giờ thấy mặt An, ông lại nhớ ra và càng cảm thấy việc mình cần có một chiếc tủ lim là hoàn toàn hợp lý. Cán bộ như ông, sau bao nhiêu năm cống hiến, chẳng lẽ trong nhà lại không có được một chiếc tủ lim hay sao?
Dòng đầu tiên ông hí hoáy ghi tiếp vào sổ tay, ở chỗ trang dành cho An khi ngồi xuống ghế của đoàn chủ tịch là: tủ lim. Tất nhiên việc biến gỗ lim thành tủ, cũng là việc của An. Tí nữa, ngay trong giờ giải lao đầu tiên, ông sẽ gặp An và sẽ nói cho cậu ta biết yêu cầu của mình, rồi mới đánh dấu X vào cột T. Gì chứ với An thì chắc ông khỏi phải dùng đến cột K mà sẽ đi ngay vào cột R. Cậu ta vốn đã là loại cán bộ cấp dưới rất sẵn sàng thực hiện mọi yêu cầu của cấp trên, huống hồ gì cũng hôm qua, tay nhân viên của ông từ Nhà máy sửa chữa số 6 về, có mang theo một cái đơn của An xin cấp đột xuất vài món phụ tùng hiếm, kèm theo một thư tay của cậu ta: “Trăm sự nhờ thủ trưởng xét giúp”. Nào thì xét! Một cái tủ lim là quá hời! Ấy là ông tình cảm với An lắm, do chỗ một tay An trước giờ nhận lo toàn bộ củi đun cho cả gia đình ông và các con ông dư xài, chưa hề có trục trặc gì. Thằng khác thì đừng hòng được ông tử tế như vậy.
Dẫu sao, ông cũng phải cảm ơn cái chủ trương đổi mới cơ chế quản lý, xóa bỏ bộ máy trung gian. Hệ thống bảy nhà máy sửa chữa cùng các chi cục ở các tỉnh với hàng trăm trạm cấp huyện trực thuộc, lập tức được ông xếp vào bộ máy trung gian. Một dịch vụ mới được mở ra, gom hết về tay ông, với tên gọi là dịch vụ sửa chữa máy tại chỗ.
Theo hình thức này, nhiều tổ sửa chữa nhỏ, cơ động, trực thuộc thẳng cơ quan ông, được thành lập và đến tận từng cơ sở để sửa chữa máy móc theo yêu cầu. Các cơ sở cũng thích gọi các tổ sửa chữa này, lý do: giải quyết công việc rất nhanh gọn để kịp thời vụ. Điều dễ hiểu: tất cả phụ tùng, nhất là những món hiếm quý, ông đều nắm trong tay; các trạm, chi cục và cả các nhà máy, nhiều khi dự trù trước cả năm còn chưa được ông duyệt. Bằng dịch vụ sửa chữa tại chỗ, ông tha hồ bán phụ tùng cho cơ sở với giá thương lượng, đó là chưa kể nhiều món bổng lộc khác.
Nhiều tên cấp dưới đã kêu trời như bộng, có thằng còn dám chửi thẳng ông là gà mẹ cướp cơm gà con. Thây kệ, cái bọn bất tài ấy, bây rên thì cứ việc rên. Phụ tùng ông vẫn nắm chắt trong tay, và ông vẫn là đơn vị duy nhất được quyền nhập và phân phối các loại máy móc, phụ tùng trong ngành, thì dù kêu rên thế nào, bây vẫn phải lệ thuộc vào ông, vẫn phải “biết điều” với ông. Gà con phải ráng tự lớn lên mà kiếm sống, rồi lo đền đáp lại cho gà mẹ, chứ để gà mẹ nuôi hoài sao được? Đời này khôn chết, dại chết, biết mới sống. Kêu rên làm gì?
Có người phê bình ông là cơ quan chỉ đạo mà lại can thiệp vào việc làm ăn cụ thể, khác nào vừa đá bóng vừa thổi còi, ai kiểm soát cho được? Ông cười cười, giải thích như vậy là tư duy cũ, làm việc bây giờ phải chú ý hiệu quả chứ không nên câu nệ theo những nguyên tắc, qui định gò bó.
Ông cười cười như vậy, chứ thằng nào phê bình láo là chết với ông. Như thằng Bảo đó. Cái thằng dám nói ông là gà mẹ cướp cơm gà con, rồi một hôm cán bộ của ông xuống chi cục nó, nó xách mé hỏi có đem theo nồi áp suất không. Anh cán bộ thắc mắc, hỏi đem theo cái đó để làm gì, nó trả lời thì tại mấy anh ăn hết thịt rồi, cơ sở chúng tôi chỉ còn có xương, mấy anh xuống phải đem theo nồi áp suất, hầm xương cho mềm mới ăn được chứ! Thằng hỗn xược! Ông sút “păng” một cái, cho nó về làm chuyên viên ngồi chơi xơi nước ở một trường kỹ thuật, cục xương cũng không có mà gặm! Gì thì gì chứ ông không thể chấp nhận chuyện cấp dưới dám hỗn với cấp trên, cũng như chuyện đấu tranh đòi quyền chủ động cho cơ sở.
Chủ động thế nào được? Bọn bên dưới ngày nay gớm lắm. Lơ mơ là bị nó qua mặt, cười mũi cho liền. Thậm chí ngay cả cái bọn lái xe, vận chuyển bét dèm, hở một chút cũng dám cà khịa với ông. Chở mấy tấn cám cho ông, chúng de *** xe ngâm xuống vũng nước nào đó cho ướt sũng rồi vờ than là bị sụp hố, chở được vài giỏ trứng vịt thì chúng quăng quật thế nào đến nứt vỡ hơn nửa, chở củi thì chúng đậu tít từ xa, bắt cả nhà ông phải ra vác vào mệt bã người! Bọn đểu! Có điều ông chẳng làm được gì chúng vì chúng tép riu quá, quyền lực ông quá cao không với xuống tới. Chứ nếu bọn cán bộ trực tiếp dưới quyền mà láo như vậy, ông đã trị ngay.
Từ khi dịch vụ sửa chữa máy tại chỗ được thực hiện, bọn trung gian càng sợ ông ra mặt. Ông duyệt cho bao nhiêu cũng phải cảm ơn. Cảm ơn không cụ thể thì ông lập tức có biện pháp. Cứ thế, từ tủ lạnh, tivi, xe cúp, bàn ghế, giường tủ, gỗ gạch, ximăng... cho đến gạo trắng, củi đốt, trứng vịt, cám heo... khắp nơi kìn kìn chở về nhà ông. Ông nhận hết. Không vì việc lớn mà bỏ việc nhỏ.
Thời buổi này không ăn là dại. Việc gì mà sợ? Ông đã nghiên cứu kỹ điều 226 của Bộ luật hình sự và thấy yên tâm. Đâu phải ông ăn hối lộ. Hoặc ông nhờ mua cái này cái nọ, rồi vì nhiều việc quá mà quên đưa tiền, hoặc người ta tự giác biếu quà cho ông. Việt Nam ta có truyền thống đối xử nghĩa tình trên dưới với nhau rất tốt, đi thăm nhau còn không quên quà biếu, nói gì ngày lễ tết, đám cưới, sinh nhật, hiếu hỷ, tân gia...
Huống hồ chính ông cũng rất biết điều với nhiều người khác. Rễ ông không chỉ bám chắc vào mảnh đất ông đan đứng mà còn đâm sâu, mọc rộng đến cả các mảnh đất chung quanh và nối liền với rễ của nhiều thân cây cổ thụ khác, nên cây đời của ông mới mãi mãi xanh tươi, vững chắc như thế này. Vuốt mặt phải nể mũi, bứt mây thì động rừng, thí xe thì chết tướng, trên đầu ông có bóng mát mà bản thân ông lại là bóng mát của lắm đàn em, người trên kẻ dưới đều bảo vệ cho ông, cứ đường ông ông đi, việc gì mà sợ?
Câu chuyện sóng gió năm ngoái càng làm ông tin chắc vào ngôi sao bản mệnh của mình. Chuyện xảy ra sau chuyến ông đi công vụ ở nước ngoài về. Đó là lần thứ ba ông đi nước ngoài trong vòng mười năm, tất nhiên cũng nhờ quyền quyết đoán của ông, cứ thư mời hai lần sau đều ghi rõ đích danh người khác, là cán bộ của ông. Sao được? Thủ trướng phải trực tiếp đi nước ngoài mới giải quyết được công vụ chứ. Ông tuy không có chuyên môn bằng cấp gì, nhưng ông nắm chắc chủ trương, đường lối. Để cho bọn bắng nhắng bên dưới đi, dù chúng có bằng cấp chuyên môn gì gì nữa, thì cũng không thể tin được.
Sau khi ông về nước hai tháng, có thư của một tập thể học sinh Việt Nam bên ấy gởi về tận Hội đồng bộ trưởng để khiếu nại ông. Số học sinh ấy là bạn con gái ông, cũng đang học ở bên ấy. Chúng thấy ông qua, mừng lắm, nhờ ông mang về gia đình một mớ vải và len, dạ. Tất nhiên chúng cũng phải biết điều, khi đưa hàng đều gởi đủ cước phí máy bay và cả một khoản tiền tặng thêm cho ông. Như thường lệ, trước khi về nước, mọi thứ tiền ông vét đi mua hàng hết, ra tới sân bay là trong túi không còn một đồng, số hàng quá cước miễn phí lần này đã lên đến mức kỷ lục.
Mọi người đi cùng đoàn đều chán ngán, không ai thèm giúp ông một xu. Các quan chức năng ở sân bay bạn cương quyết không chịu giải quyết linh động. Cán bộ tòa đại sứ ra tiễn cũng chịu thua. Cả chuyến máy bay chỉ còn chờ mỗi mình ông. Sợ bị bỏ lại một chuyến như lần trước - cũng vì quá cước không có tiền trả - ông quyết định để lại sân bay tất cả sách vở, tài liệu, đồ đạc không đáng giá, và cuối cùng cả những thứ mà các học sinh đã gởi và đóng trước tiền cước cho ông.
 
F

fantastic_97

tiếp ~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
Sân bay cách nơi ở của đám học sinh hàng nghìn cây số. Họ mất mấy ngày đi nhận hàng về, có người bị mất. Đơn kiện của họ gởi về nước ông bị rầy rà một thời gian, nhưng rồi cũng tai qua nạn khỏi. Kinh nghiệm lớn của ông: trước phong ba bão táp, cứ ỳ ra. Hàng ngày, Nhà nước có cả tỷ chuyện phải lo, hơi sức đâu mất thì giờ vào “ba chuyện lẻ tẻ” như của ông. Cán bộ nó túng thiếu quá, mình lo cho nó không nổi thì nó phải thu vén chút đỉnh để nuôi vợ nuôi con, miễn nó trung kiên là được. Gì chứ trung kiên thì ông có thừa. Mà đã là trung kiên thì ai lại để cấp trên phải mất sức, bận bịu lo cho mình những chuyện mà mình có thể chủ động lo được?
Nhiều tiếng vỗ tay vang lên làm ông giật mình trở về với thực tại. Người báo cáo thứ hai bước lên bục, được nhiều đại biểu trong hội trường hoan nghênh, là Cảnh, giám đốc một trong ba xí nghiệp cung ứng. Cung cách làm ăn của Cảnh có nhiều cái mới, được nhiều nơi ủng hộ. Đối với ông, đó không phải là điều quan trọng. Đáng nói là tay này còn nợ ông khối việc. Ông cầm bút rà danh sách dành cho Cảnh. Cốc nước đá: T: X, K: một gạch, R còn trống. Dây đồng hồ loại “vô cấp”: T: X, K: hai gạch, R: trống. Giày Yasaki không dây: T: X, K: ba gạch, R: trống. Quần “rin” Mỹ cho D., đổi lần thứ ba: T trống, K trống, R trống... D. là Dũng, con trai ông. Nó thích cái quần rin Mỹ màu kem, ông nói mấy lần, Cảnh mới cho mua gởi ra, lại là đồ dỏm. Ông gởi trả, nói mấy lần nữa, Cảnh mới gởi ra lần thứ hai, kích thước lại không vừa. Ông lại mới gởi trả. Tính ông là vậy, làm gì cũng phải kiên quyết đạt được mục đích.
Cũng như An, Cảnh là một cán bộ rất khù khờ. Trước mặt anh ta, ông vờ khen khéo: cậu lành quá, không chịu chụp giật thì sống sao nổi ở cái đất đó? Sau lưng, ông chửi Cảnh là đứa ngu. Còn trong đầu, ông đã tính chuyện đổi anh. Vì khác An, Cảnh khù khờ mà lại không “biết điều”. Anh ta không bao giờ tự giác phục vụ ông, chuyện gì cũng phải đợi nói cụ thể. Thái độ lại rất lừng khừng, việc gì đã giao cũng phải đợi nhắc đủ ba lần. Sở dĩ ông chưa đổi được cái ghế của Cảnh vì Cảnh không làm gì bậy. Ba năm anh ta làm giám đốc, xí nghiệp có đi lên, năm nào cũng được nhận bằng khen. Vả lại, ông đang “nuôi” Cảnh cho một vụ lớn: cái nhà. Hơn ai hết, ông biết mình sắp phải về hưu. Mấy năm nay ông thu gom hơi mạnh tay cũng là vì vậy. Đồng lương thu được là mấy, đến lúc đó cũng đừng mong trông nhờ vào ai. Mình vừa cắp cặp ra khỏi cơ quan, một cái gật đầu chào cũng chưa chắc được nhận.
Nhà ông vốn ở khu bộ đội, bấy lâu nay bồi đắp cũng đã khá tươm tất. Con rể ông là bộ đội về ở chung hộ, đó cũng là do ý ông. Lấy cớ phải giao nhà lại cho bộ đội - thật ra là cho thằng rể và vợ nó, là con gái đầu lòng của ông, chứ bộ đội nào nỡ đòi nhà ông - ông đã xin cấp trên cấp cho một căn nhà khác. Được đồng ý trên nguyên tắc rồi, ông lại bày tỏ thêm nguyện vọng: được sống những năm tuổi già ở một thành phố ấm áp phía Nam, do đó thay vì được nhận nhà - mà ông biết chắc là rất khiêm tốn, trong một khu tập thể đang được xây dựng - ông xin được nhận số tiền trị giá của căn nhà ấy, để vào dựng đỡ một căn nhà nho nhỏ trong kia.
Xí nghiệp của Cảnh nằm ở thành phố ấy. Trong phạm vi quản lý của Cảnh, có một kho lớn rộng hàng mấy hecta ở ven thành phố. Trong vành đai của kho ấy, có ba căn nhà tư nhân xây cất trái phép từ trước giải phóng, với cả vườn cây ăn trái. Cảnh đã cầm quyết định của thành phố, rồi của huyện, cho phép giải tỏa ba căn nhà ấy, lý do để mở rộng kho. Thật ra, ông biết việc mở rộng kho vẫn chưa đụng đến phạm vi ba căn nhà, và chính Cảnh cầm quyết định rồi mà vẫn trù trừ vì thương hại cho ba gia đình ấy chẳng biết phải chuyển đi đâu. Đó là việc Nhà nước lo, không hơi đâu duy trì cái tính thương người kiểu tiểu tư sản. Ông đã có ý kiến dứt khoát với Cảnh như vậy. Xí nghiệp sẽ có khoản tiền bồi thường theo đúng các qui định chung, ông sẵn sàng duyệt cho khoản ấy, lố một chút cũng được. Vậy thôi.
Rồi trên những nền nhà và vườn cây ăn trái ấy, căn nhà nho nhỏ, chừng trăm mét vuông thôi, của ông sẽ mọc lên. Sắt thép, ximăng, gỗ gạch, mọi thứ mấy năm nay ông lo đã hòm hòm rồi, đang gởi chỗ này chỗ nọ trong ấy. Thiếu bao nhiêu Cảnh ráng đắp thêm, ông sẽ không quên công. Cảnh cho xúc tiến giải tỏa nhà là mọi việc sẽ bắt đầu. Đến khi ông về hưu, các con ông đều đã có nhà - đứa con gái thứ hai ông đã đưa về làm ở một xí nghiệp gần nhà và cũng đã được cấp ngay chỗ ở - vợ chồng ông cũng có nơi an dưỡng và sinh lợi được. Cái mộng cuối đời ông chỉ đơn giản có thế, vậy mà...
Sổ tay ông ghi: Nhà: T, X, K: đủ ba gạch, R còn trống. Không được. Cái thằng Cảnh này! Nhắc ba lần, nó cứ khất “để từ từ tính, chứ khó lắm, làm như vậy không biết phải giải thích sao cho anh em thông”. Khó quái gì, làm giám đốc mà sợ cấp dưới kiểu như anh, làm sao được? Ông nói thẳng như vậy mà anh ta vẫn không hiểu. Để từ từ tính... Chắc là nó muốn câu giờ, đợi ông về hưu, hết quyền, mới trả lời là không được. Thằng này bướng và nguy hiểm.
Ông biết Cảnh, cũng như nhiều tay giám đốc khác, chỉ vì kế hoạch của đơn vị, đời sống của công nhân, mới bất đắc dĩ phải chìu lòn ông. Cái tivi màu kỳ đó ông cũng phải nhắc đến bốn lần, rồi trừng trị bằng cách ngâm suốt mấy tháng không duyệt cho nó hai thứ phụ tùng hiếm là vòng bi và bình ắcquy, nó mới hiểu ra. Có khó gì, quỹ phúc lợi nó lớn, rồi hội nghị khách khứa thường xuyên, cứ “cấu” mỗi thứ một ít là xong. Chuyện đơn giản thế cũng không biết, vậy mà đòi làm giám đốc! Lãnh đạo gì mà “tâm lý xã hội” kém vậy? Thủ trưởng kề bên còn không phục vụ ra trò, nói gì đến phục vụ nhân dân cho trườu tượng, lớn lao?
Trong lúc ông ngồi nhìn đăm đăm vào cái lưng của Cảnh, suy tính biện pháp thúc đẩy vụ cái nhà, thì có người khều nhẹ ông từ phía sau. Một mảnh giấy gấp nhỏ đưa tới. “Anh coi chừng thằng Cảnh. Tôi vừa nhận được tin, tuyệt đối chính xác, từ thư ký của ông B, là nó vừa gởi thư riêng cho ông A và ông B, phản đối dịch vụ sửa chữa máy tại chỗ và kiến nghị nhiều điều lộn xộn lắm về tổ chức, để gọi là đổi mới hoạt động của ngành. Nó tính chơi trò gì vậy?”.
Ông cất mảnh giấy, hai tay nắm chặt lại để tự trấn tĩnh. Đôi mắt ông vẫn nhìn Cảnh, nhưng ánh sáng trong mắt đã khác hẳn. Hừm, lại một tên muốn “tử vì đạo”? Thì cho mày tử! Ông biết gần đây sau đợt phê và tự phê, nhiều thằng cấp dưới bấy lâu nay ngấm ngầm ghét ông, đã bắt đầu cựa quậy, rậm rịch kiến nghị này nọ. Đáng tiếc ông chưa biết cụ thể thằng nào. Giờ biết ra Cảnh, cũng chưa muộn. Chỉ cần trị một thằng làm gương, bọn còn lại sẽ biết thân biết phận ngay. Đổi mới, hừ! Trước hết tao sẽ cho đổi cái ghế của mày!
Lại một tràng pháo tay vang dội. Cảnh xếp lại giấy tờ, bước xuống bục, đi về chỗ ngồi, trong ánh mắt thân quý của nhiều đồng nghiệp. Không ai nhận ra có một ánh mắt khác hẳn, từ đoàn chủ tịch nhìn xuống, dành cho anh...
 
F

fantastic_97

Ngày đốn cây vú sữa
Bên kia bờ sông của quận lỵ là một xóm nhỏ, những căn nhà thưa rải rác trên những khoảng đất trống không đều, có khoảng đất được canh tác, có khoảng bỏ cỏ hoang, những cây ăn trái và ít gốc dừa nước rải rác theo với mép sông nước ròng, có mấy con kinh nhỏ đưa nước vào sâu trong xóm. Trong khu xóm có một ngôi nhà ngói cũ, ba gian, một sân gạch nay đã hư nát, ngôi nhà ở phía ngoài đường liên tỉnh để tới đầu cầu đưa vào thị trấn. Trong khoảng vườn rộng của ngôi nhà có trồng một cây hoàng lan lớn. Ngôi nhà có một khoảng mái bị đạn nay được vá lại bằng một tấm tôn sáng bóng. Cách với ngôi nhà không xa, bám vào con đường liên tỉnh có một ngôi trường học nay bỏ hoang với mái ngói sụp đổ và là nơi những toán quân ngang qua vẫn coi chừng bằng cách nổ những loạt đạn bâng quơ vào trong những tường gạch đã cũ vì mưa nắng và um tùm những cỏ dại.
Một người đàn ông đứng tuổi đạp chiếc xe đạp cũ vào thẳng trong sân ngôi nhà, trời đã chiều, toán dân vệ từ đồn nơi đầu cầu đi hàng một dọc theo con đường khởi đầu chuyến kích đêm ngoài vòng đai bảo vệ huyện lỵ. Người đàn ông chậm chạp ngừng xe lại trước cửa nhà, nhẹ nhàng bước xuống rồi nhấc chiếc xe lên hiên, đẩy cửa bằng bánh xe trước vào trong căn nhà đầy bóng tối. Tiếng người đàn bà :
- Ai đó?
- Không có, tôi đây, sao bà không đốt đèn lên một chút...
Tiếng bước chân nặng nhọc từ trong nhà vọng ra. Người đàn ông lúi húi mở dây chiếc bao đèo phía sau chiếc xe. Người đàn bà già yếu, da xanh đứng tựa nơi cửa vào nhà trong :
- Thằng hai nó gửi cho bà ký bôm, thằng nhỏ mới sinh thật ngộ, nó đen khoẻ như cha nó vậy, đôi mắt tròn quay dễ thương hết sức, thằng hai nói sẽ đón bà lên ở với bọn nó, nó la tôi quá trời, bọn nó đâu có hiểu gì...
Người đàn bà lặng lẽ đón lấy những trái bôm tím ngon lành, hơi thở mệt nhọc, người đàn ông bật hộp quẹt châm lửa vào ngọn đèn huê kỳ nhỏ để trên bàn thờ, ánh sáng vàng úa lan ra căn nhà trống :
- Bà ăn gì chưa.
- Ông ăn cơm với bọn nó rồi há.
- Ừa, ăn cơm sớm, thằng hai còn bận vào trại, tội nghiệp con vợ, người làm không có, trông vào con gái lớn một chút, cái hôm nó sinh may nhờ có hàng xóm người ta giúp cho không thì đẻ ra nhà, rồi ngày ngày thằng hai phải về mà bới cơm cho vợ, bọn nhỏ thì không có ai coi hết, mình mà ở trên đó được thì đỡ cho bọn nhỏ, thật cực hết sức...
- Tội nghiệp...
Người đàn bà nói buông thõng, người đàn ông cầm chiếc mũ vải đập đập trên tay rồi móc lên chiếc đinh đóng nơi tường mé gần chiếc bàn lớn dài bằng gỗ đã cũ. Người đàn bà đi ra ngồi xuống ghế :
- Ông có nói chuyện hồi hôm cho thằng hai nó biết không?
- Có...
- Nó nói sao?
- Nó nói mình lên trên đó ở với bọn nó.
- Thế còn nhà cửa, còn thằng tư...
- Thì tôi cũng nói vậy, nhưng nó nói nhà cửa mà làm gì, còn người còn của, chuyện thằng tư thì... coi như nó chết rồi.
- Chết rồi, nó rủa em nó như vậy được sao, đằng nào thì cũng là em nó, tôi thương nó...
Giọng nói chùng thấp nhợt nhạt, tiếng thở dài của người đàn ông. Thấp thoáng ngoài cửa bóng ngọn dừa lay động mơ hồ.
- Thằng hai nói, chuyện ở trong quận người ta hỏi mình, làm rộn mình một chút là chuyện không thể tránh được, mình ở ngay chẳng hơi đâu mà sợ, nhưng tôi nói, tôi lo cho thằng tư, hồi này đã lâu rồi không thấy nó về, chắc là khó khăn, bà thấy đó, tối đến lính họ nằm ngoài đường lộ, tối không còn nghe thấy chó sủa, không biết hồi này nó thế nào, tôi lo nó chết bờ chết bụi mất xác...
- Thời buổi loạn lạc...
Người đàn bà đi vào nhà trong, người đàn ông ngồi im một lúc rồi lấy ra hộp thuốc vấn hút, ngụm khói đục trắng lờ lững không muốn tan. Nghe từ xa, ngoài sân có tiếng gà gọi nhau lên chuồng. Đêm đang xuống...
Người đàn bà lấy chiếc tô lớn múc cháo từ trong chiếc soong nhôm ra, màu gạo đỏ lờ, ngọn đèn nhỏ leo lét trên mặt chiếc bàn cũ đã đen lại, gian nhà rộng mênh mông mịt mù trong ánh sáng nhờ nhờ đau yếu... Người đàn ông cài cửa nhà ngoài trở vào nằm trên bộ ngựa lớn nơi góc phòng. Tiếng nhai của người đàn bà chậm chạp rời rã.
- Thế bà có tính lên trên đó với thằng hai không?
Không khí im lặng kéo dài, tiếng con muỗi bay quấn vào gần vành tai khó chịu. Người đàn bà ngừng lại, nhìn vào ngọn đèn. Chiếc bóng thủy tinh có những bọt không đều nhau, phía trên khói đã bám đen thành một vòng đều. Người đàn ông bắt tay phải lên trán che hết ánh sáng trên đôi mắt vẫn còn mở lớn không động đậy :
- Tùy bà, tôi sao cũng được, thật tôi cũng không còn ruột gan nào mà nghĩ, bà tính coi...
Người đàn bà theo dõi mấy con muỗi cỏ đang bay quanh ngọn đèn, có lúc chúng đạp vào bóng đèn nóng loạng quạng một lúc rồi lại tiếp tục bay vòng quanh...
Người đàn ông kéo chiếc ghế dài lùi xa chiếc bàn một chút, rồi ngồi xuống, người thanh niên bận quần màu lục sẫm cắm cúi đọc tờ giấy bỏ trên bàn lúc lâu mới ngửng lên người đàn ông trước mặt, tóc cắt cao không chải, có những ngọn tóc dựng đứng, hai bên tóc mai những sợi bạc, nước da xám, những vết nhăn, đôi mắt kèm nhèm, chiếc áo bà ba đen đã cũ, chiếc khăn ca rô vắt trên vai nhàu nhượi, hai bàn tay khẳng khiu bỏ trên mặt bàn và cái nhìn lơ đãng :
- Bác còn cậu con đi theo giải phóng phải không?
- Dạ, nó là thằng tư, thằng con trai út của tôi.
- Anh ấy đi hồi nào vậy?
- Có hơn hai năm, hồi quận chưa có.
- Lâu nay có về nhà không?
- Dạ không.
- Bác cứ nói thật đi, không sao đâu, tôi muốn bác nói anh ấy nên về chiêu hồi đi, về làm ăn không sao cả...
- Dạ lúc trước nó về tôi có nói, nhưng không được, vợ chồng tôi coi nó cũng như chết rồi...
- Sao bà con lối xóm nói mới đây anh ấy có về thu thuế mà, tôi hỏi thật bác, nếu anh áy có trốn ở trong nhà thì bác không nên giấu chúng tôi...
- Chết, đâu có, lúc trước cũng có đôi lần nó về, về ban đêm chốc lát rồi đi, khổ lắm, nó về thì chỉ thấy xin tiền bạc mà vợ chồng tôi thì có gì nữa, ruộng vườn bỏ cả, vợ chồng tôi cũng tính lên hẳn trên quận ở với thằng hai trên đó, nó làm việc trên quận, chắc ông biết...
- Dạ, chúng tôi có biết bác có người con cả làm việc ở trên.
- Hồi trước nó xuýt chết vậy đó ông, trước đây nó về thăm tôi, vừa ra khỏi nhà thì mấy ông du kích ập vào bắt nói nó làm mật thám cho đế quốc, mấy ông ấy cũng bắt chúng tôi phải kêu nó về với nhân dân, với giải phóng... Vợ chồng tôi thì già, sinh con ra lớn lên bọn nó làm gì thì làm chúng tôi nào có biết, ông nghĩ coi, rồi sau đó tôi được biết giải phóng kết án tử hình nó, từ đó tôi đâu có dám cho nó về, ông tính... (đó là những khuôn mặt dữ dằn, tiếng nói quen thuộc , quần áo nhem nhuốc, bất chợt có mặt và mất đi thật nhanh trong đêm tối chỉ để lại những tiếng chó sủa trong đêm thanh vắng, kẻ bị bắt được nói cho đi học tập, hoặc được mang ra ngoài vườn sau và một mũi dao thích vào bụng hoặc một tràng đạn nổ vào ngực, con ông Năm trong xóm được mời đi học tập, hai hôm sau thấy xác nổi trôi táp vô bờ sông hai tay bị trói giật sau lưng...).
- Bác nên khuyên anh ấy về, không thì e khó sống được nếu còn quanh quất ở đây, bác biết tên xã ủy không, hắn bị hạ rồi, hôm đó bọn tôi nhanh thì con bác cũng bị hạ, may thoát. Bác biết chúng tôi về đây để giữ cho làng ấp được yên, bác coi hồi này đâu có bị phá rối, thu thuế, thu thóc như trước.
- Dạ, cũng nhờ ơn mấy ông...
- Mong bác ráng khuyên anh ấy, nếu không được khi nào anh ấy về bác mật báo cho chúng tôi.
- Dạ, nhưng tôi chắc nó cũng chết rồi.
- Không đâu anh ấy còn sống, người ta còn nhận được mặt anh ấy mà, bác không nên che chở cho đứa con hư ấy nữa. Và bác cũng đừng tiếp tế cho họ, nếu không bác cũng liên lụy, chúng tôi biết bác là người làm ăn lương thiện, chúng tôi cũng biết con lớn của bác mà.
- Dạ cám ơn mấy ông hiểu dùm cho vợ chồng tôi.
Người thanh niên mở xấp giấy lấy ra một bức hình đưa về phía người đàn ông :
- Bác có nhận thấy mặt con trai bác không, đó, anh ta vác khẩu súng nơi vai, người đứng giữa là tên xã ủy chúng tôi mới hạ được, còn tên này nữa, nó là bí thư xã, nó đã bắn mấy người ở trong xã, chúng tôi đang tìm hắn, bác nhận mặt rõ chưa, nếu gặp hắn thì bác báo ngay cho chúng tôi và đừng bao giờ chứa hắn, hắn đã giết người.
Dạ...(thằng tư mặc đồ bà ba đen, đầu trần, vai khoác khẩu súng ngắn gọn, nó đang tươi cười bá vai tên bí thư, tên giết người, sao hình hồi nào mà trông nó khoẻ và trẻ quá, sau nầy nó gầy đi nhiều mà có thấy nó mang súng như vậy bao giờ đâu).
Người đàn ông ra khỏi nhà hội đồng lúc mặt trời đã đứng bóng. Nhấc chiếc xe đạp quay đầu ra ngoài rồi nhẹ nhàng leo lên và đạp ra con đường đất để ra con đường liên tỉnh. Khi chiếc xe vào đến sân, ngừng lại dưới hiên để nhấc chiếc xe vào nhà, người đàn ông nhận thấy hai chân hơi run và ù nơi hai mang tai, những giọt mồ hôi chảy ròng xuống cổ. Buổi trưa im vắng và nồng...
Người cha ngồi hút những hơi thuốc đầy, nhìn lơ đãng vào khoảng không. Người con ăn, nhai vội vã, bàn ăn chỉ còn một mình người con với những bát chén ngổng ngang của những người đã xong bữa.
- Thôi ba đừng nghĩ gì cả coi như không có thằng tư... Nào đâu mọi người không nghĩ đến nó.
- Nhưng đằng nào thì nó cũng là em mày...
- Vậy bây giờ bảo con phải làm sao? Thời buổi mà anh em phải bịt mặt mà giết nhau. Hồi về nhà may mà con không bị bắt, nếu không thì ba tính... Bây giờ con muốn ba lên ở luôn trên này với bọn con, thế là xong, nhà cửa thì nhờ bà con ở dưới vậy...
- Nhưng má con không muốn đi, bà ấy thương nó...
Người con bỏ chén bát đứng lên khỏi bàn ăn. Người cha vẫn ngồì im nhìn lơ đãng trên mặt bàn. Người con đi xuống nhà mang lên hai ly nước trà, một ly cầm nơi tay, một ly để trước mặt người cha. (Khi đi làm trở về người nhà đưa cho một lá thư, nét chữ quen của người em ruột: Mặt trận đã tuyên án xử anh, mong anh hồi tâm trở về thì sẽ được khoan dung, nếu không thì em cũng không thể cứu được anh. Cùng với phong thư có kèm theo một trái lựu đạn đã thối)...
- Con nghĩ chắc thằng tư cũng không còn ở trong vùng nữa, bây giờ đâu có dễ gì mà lọt được trở lại vùng bình định, ba má có ở lại cũng không giúp được gì cho nó đâu, mà ba má thì già rồi, mình lên trên này khi nào yên hẳn thì về, nhà cửa ruộng vườn còn đó chứ ai lấy đi được mà lo.
- Thôi được rồi, để rồi ba thu xếp, nhhưng con có cách nào gọi nó về được không?
- Cách nào, biết nó ở đâu mà tìm, mà gặp nó nói nó chịu về không, thì ba má cũng đã nói với nó rồi. Nhà mình ba má được hai đứa, giá yên bình thì con cũng ở nhà làm ăn chứ có sao, nào đâu phải con xung phong đi lính, lệnh đi thì đi, cũng may là con chưa phải cầm súng mà đi kiếm nó, nó có số phần của nó... Con chỉ lo nó quanh quẩn đâu đó...
Người cha uống một ngụm nước, đứng lên rời khỏi bàn ăn tới ngả lưng xuống chiếc ghế vải để ở bên cạnh tường. Người con vặn máy thu thanh, tiếng hát vang lên đầy căn nhà rộng... Người con ngồi xuống chiếc ghế thấp cầm lấy tờ báo đọc. Đứa trẻ sáu tuổi từ trong nhà chạy ra lăn vào lòng người con. Người con bỏ tờ báo xuống :
- Thôi mà, làm nũng gì đây nữa, lại chơi với nội đi, thôi mai theo nội về vườn mà ăn trái cây, mùa này có vú sữa rồi đó.
Đứa trẻ nằm im mở mắt nhìn nghiêng tới ông nội nó đang trầm ngâm hút thuốc. Người con vuốt tay lên đầu đứa trẻ... Người đàn bà từ trong nhà đi ra :
- Ba vào trong giường nghỉ trưa cho khoẻ.
- Thôi ba nằm ngoài này cũng được, chút ba về rồi.
- Mai ba lên?
- Ừa để xem đã, còn nhà cửa ở dưới...
- Hay để mai con xuống đón ba má luôn thể, mình kiếm một chuyến xe lam, còn đồ đạc lếch thếch, má thì yếu...
- Con khỏi lo, con đi về rồi ai coi bọn nhỏ, ba khoẻ mà lo chi.
Người đàn bà bế đứa nhỏ dỗ nó đi ngủ, người đàn ông vuốt tay lên má nựng nó giọng ngọt ngào. Đứa nhỏ bị nhột cười khích khích khi người đàn bà bế nó vào nhà trong. Không khí căn nhà trở lại im vắng.
 
F

fantastic_97

tiếp ~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
Buổi chiều người đàn ông đạp chiếc xe chậm chạp vượt qua cây cầu, chiếc xe không chạy thẳng, vòng xuống phía dưới, gần với bờ sông, chiếc xe chạy chậm chạp, người đàn ông chú ý tới những băng vải viết chữ căng ngang, những tờ truyền đơn rải bay trên đường đi, và những bích chương màu dán nơi những thân cây bờ tường gần nơi hội đồng xã, nơi đó một vài người qua lại. Người đàn ông ghé lại nhà một người quen, khoảng sân đất rộng, ngôi nhà tôn thấp. Một người đàn bà từ trong nhà đi ra :
- Chú lại chơi.
- Anh có nhà không thím?
- Nhà tôi xuống dưới xóm, người ta tìm thấy xác vợ ông hội đồng hồi trưa, thật tội nghiệp...
- Ở đâu vậy?
- Ở ấp bên, nhà của ông gì đó, trong vườn, dưới một cái hố, trời ơi, nhà tôi nói trông mà phát khiếp vậy đó chú, họ cho ngồi xuống rồi đập đầu cho vỡ và đậy lên trên mấy miếng gạch xi măng, sao chết đã lâu mà chưa gì hết, còn chân thì xơ ra và quần thì bị rách lên tận thắt lưng, thật là tội...
- Sao mà tìm được vậy?
- Nghe đâu có người hồi chánh ở đâu đó nghe chuyện biết được nên chỉ cho quận, quận liền theo đó mà tìm. (Trong đêm tối một tốp người vào nhà gọi cửa bắt đi, bà ta không chịu đi, họ bắt đi, hai người mỗi người giữ một tay kéo đi, mặc tiếng kêu khóc vang lên cả ấp không ai dám mở cửa ra ngoài, rồi mất tích...).
- May mà còn tìm được xác, ông bà ấy từ xưa tới nay ăn ở cũng đường hoàng, có gì đâu, chẳng biết có thù oán gì với ai không? Ông bà ấy chỉ còn có một người con đâu ở trên Sài gòn.
Người đàn ông như nhớ ra mình vẫn còn đứng dưới sân với chiếc xe đạp, ông ta từ từ đẩy chiếc xe vào gần nhà dựa vào tường rồi bước lên hiên :
- Tôi tính sang nhờ anh chị coi giúp cho cái nhà, tôi đưa bà ấy lên trên với thằng hai.
- Bao giờ chú đi.
- Thủng thẳng ít bữa, đồ đạc thì cũng không có gì, nhưng cái nhà thì phải ráng giữ cho nay mai yên ổn thì về có chỗ mà ở, thằng hai nó nói quá chứ tôi không muốn đi.
- Dạ.
Người đàn ông đứng im ngó nhìn những ngọn dừa xanh vượt lên bầu rời cao, buổi chiều êm ả không có gió. Một chiếc máy bay xuất hiện ở trên cao. Lúc sau người đàn ông xuống hiên đi vòng quanh khoảng sân ngó lên những ngọn cây ăn trái, những luống rau trồng ngoài vườn, khi trời đã sẫm người đàn ông đạp xe trở ra con lộ về nơi ngôi nhà mái ngói. Bóng tối xuống chậm...
Khu vực ngoài thị trấn lúc trước, có một thời rất đông dân cư, đời sống khá sung túc, vườn tược sau thời gian chiến tranh canh tác trở lại, những ruộng bỏ hoang bắt đầu những vụ lúa mới, nhưng thời gian ấy kéo dài không lâu, chiến tranh trở lại, có lúc khu vực như hoàn toàn chịu quyền kiểm soát của thế lực mới, dân chúng không chịu được chiến tranh kéo sát bên mình một cách thường trực nên bỏ đi làm ăn xa tùy theo phương tiện và hoàn cảnh cho phép, tuy nhiên có một số người chỉ biết ruộng vườn thì buộc phải giữ lấy cuộc sống vẫn có, có người đã dời gia đình ra ở nơi những căn nhà làm bằng đất ngoài đồng trống để tránh tai hoạ. Chậm rải theo thời gian, số người sống mỗi lúc một hao mòn, số người đi xa cũng nhiều thêm, những trẻ nhỏ tha thẩn ngoài ruộng bùn với những bàn tay chai cứng, trong căn nhà tối chật hẹp chỉ còn những người già cả... Thôn xóm mang theo khuôn mặt buồn hiu. Có lúc người ta dửng dưng không còn xúc động với những cái chết. Những cuộc hành quân mở ra với từng đoàn xe nối nhau trên con đường liên tỉnh thỉnh thoảng xáo trộn đời sống bình thường của dân chúng, những trẻ nhỏ đứng ra dọc bên đường vẫy tay những ngườu lính lạ... Dần dần an ninh được vãn hồi, dân chúng lại làm ăn, một đôi người ở xa trở về thăm lại nhà cũ, và đã có một hai chuyến xe lam chạy nối khu vực với quận lỵ ở trong, và những phiên chợ bắt đầu đông hơn xưa... Nhưng ban đêm tới vẫn là những đe doạ không chừng, có những tiếng súng đánh thức người dân đang ngủ với nỗi lo âu bức rức thường trực...

Buổi sáng bắt đầu với vẻ nhạt nhoà, người chồng ra sân đứng nhìn toán nghĩa quân đi kích trở về vẻ chậm chạp ngái ngủ mang theo ba lô, ít bó rau, ít trái cây, họ đi dọc theo mép con lộ về phía cây cầu, bóng chiếc trực thăng, đang bay vòng quanh ở phía nam, tiếng động nghe xa rời. Chiếc xe bò chở lá dừa chậm chạp lăn bánh với tiếng kêu khô khan và ngắn. Một người đàn bà gánh rau đang đi xuống phía nhà hội đồng. Nắng sáng trong nhảy nhót trên những cành lá xanh. Người chồng thở dài ngồi xuống nhìn cây vú sữa trụi lá giơ những cành khô lên trên trời... Mấy tháng trước, hai vợ chồng già chợt ngỡ ngàng nhìn nhau khi thấy những cành lá trên hầu hết những cây ăn trái trong vườn bỗng vàng và đổ xuống không đúng mùa. Người ta nói bị ảnh hưởng thuốc khai quang từ vùng trong theo gió trở ra. Sau đó, mùa mưa trở lại, cây cối phần lớn hồi phục với vẻ èo oặt, chỉ có cây vú sữa lá không ra, mỗi ngày người chồng ra bấm vào vỏ cây thăm dò và sau chót thì người chồng lắc đầu nói với người vợ: nó khô rồi...
Người chồng đi vào nhà mang ra cây rựa lớn và bắt đầu đốn cây vú sữa, thân cây cũng không lấy gì làm lớn, người vợ từ trong nhà đi ra, ngồi xuống hiên mát nhìn người chồng bổ từng lát chốc chốc ngừng lại nghỉ :
- Ông còn đốn làm gì nữa, khô rồi, mặc sức, hơi đâu...
- Trông cái cây khô tôi khó chịu, đốn nó đi cho những cây chung quanh nó lớn, thế là nhà mình không còn cây vú sữa nào nữa, tôi còn tiếc cái cây năm trước bị bão...
- Để mình trồng mấy cây khác, thứ này không chịu được thuốc khai quang, chỉ một chút cũng khó sống... Nhưng trồng rồi có được ăn trái không?
- Mình không ăn thì con cháu nó hưởng, bà thì thật...
- Thế ông tính bao giờ mình lên với thằng hai...
- Bây giờ bà giục tôi, thì để vài bữa nữa, sao tôi cứ thấy bứt rứt không yên...
Người đàn ông tiếp tục đốn cây vú sữa, mỗi lần chiếc rựa ăn vào thân cây, cây vú sữa khô lại rung lên, một vài cành nhỏ mục rụng xuống lần đất ẩm... Người đàn bà cầm chổi quét khoảng hiên nhỏ hẹp, con gà mái quanh quẩn dưới chân chạy theo sau người đàn bà vẻ quấn quýt. Nắng còn bỏ lại khoảng mát lớn trên chiếc sân vuông vức. Liên tiếp những nhát rựa chặt vào thân cây, cho tới khi đã mệt người đàn ông nhận thấy chỉ mới được nửa thân cây. Ông ta dùng hai tay cố sức rung nhưng thấy vẫn còn chắc, ông ta bỏ vào lấy nước uống và ngồi nơi hiên vấn thuốc hút. Người vợ đứng ngoài sân :
- Ông viết thư cho thằng tư ra sao?
- Tôi gửi cho nó một ít tiền, nói nó về, tôi cũng gửi cho nó một giấy thông hành nữa, tôi đã hỏi kỹ người ta rồi, có một thằng bạn nó cũng mới bỏ ngoài ấy về trình diện đây...
- Chết, rồi nếu người đưa thư ấy không kín...
- Người tôi gửi tin cẩn lắm, bà khỏi lo, nhưng thật tôi không hy vọng, nó là thằng cứng đầu...
- Tôi lo cho nó...
Người đàn bà quay mặt đi, không khí rời rã, người đàn ông nghỉ ngơi một lúc rồi ra dốn tiếp cây vú sữa, lúc cây khô ngã xuống thì bóng mát trên sân cũng đã thu hẹp lại. Một người đàn bà từ ngoài hớt hải đi vào, nhìn người đàn ông :
- Bác ơi, bác đi theo cháu coi...
Người đàn ông ngó lên, nhăn mày :
- Gì vậy cháu?
- Bác đi theo cháu coi xem có phải thật không, người ta vơt được một xác chết, có người nói trông như anh tư nhà bác...
Người đàn ông đứng bật dậy, người đàn bà từ trong nhà đi ra. Người đàn bà đứng dưới sân nói :
- Có lẽ người ta nhìn lầm...
- Thằng tư...
Người đàn ông vội vã đi xuống sân ra phía cổng; người đàn bà đi theo, người đàn ông quay trở vào lấy chiếc xe đạp ra hiên, nhưng lại dựa chiếc xe vào tường rồi vội vã đi :
- Bà ở nhà, tôi ra coi, thằng tư...
Người đàn bà ngồi xuống hiên nhà ôm mặt khóc. Người đàn ông vừa đi vừa chạy, người đàn bà theo sau tức tưởi. Đám đông tụ lại nơi bờ sông, gần nơi nhà hội đồng, toán nghĩa quân lố nhố ở bên, người đàn ông rẽ đám đông vào trong, một xác chết ướt sũng nằm trên bờ cỏ, tờ giấy báo phủ lên mặt, bộ quần áo đen ướt nhẹp, bàn chân cứng chỉ lên trời đã chương. Người đàn ông cầm tờ báo bỏ ra. Đầu tóc bù xù, miệng há lớn phơi ra hàm răng trắng hếu, dấu đạn khoan thủng một miếng nơi bả vai bên trái gần với cổ. Người đàn ông đậy vội tờ báo lại. Người đàn bà đứng sau, đám người im lặng, người đàn bà nói nhỏ :
- Phải anh tư không?
- Thằng tư nhà tôi...
- Trời ơi, tội nghiệp...
Người đàn ông không nói, mặt bình thản chậm chạp quay ra đi trở lại con đường về nhà...
 
F

fantastic_97

Này nhỏ hãy đợi đấy
Vẫn như thói quen ở thành phố, sáng đầu tiên ở quê ngoại, tôi dậy thật sớm chạy bộ dưới cái se lạnh của buổi ban mai tinh khôi, trong sạch. Đường quê loanh quanh, cây trái xum xuê đan xéo vào nhau đong đưa theo gió nghiêng bóng xuống mặt đường.
“Rầm!” Nhớn nhác sao tôi đâm sầm vào một gã đi bên đường. Lướt nhìn khuôn mặt hắn: nai quá. Tôi đàn áp liền :
- Ông là ai?
Hắn bốp chát lại :
- Tôi là tôi.
Bực mình tôi gắt lên :
- Tôi hỏi ông là ai? Ở đâu tới? Mắt ông để ở đâu mà sao ông cản đường tôi.
Hắn thản nhiên đáp :
- Tôi là tôi, tôi ở đây tới đây, mắt tôi để dưới chân mày và tôi không cản đường ai cả. Còn mắt cô để đâu?
- Ở trên lỗ mũi... Xíííí...
Tôi nạt hắn, định bụng cho hắn một bài học nhưng hắn đút hai tay vào túi quần miệng huýt sáo ung dung bỏ đi. Cái hành động của hắn làm tôi tức muốn điên lên. Tôi hét theo :
- Này! Hãy đợi đấy.
 
F

fantastic_97

- Chào Vân. Tôi giật mình quay lại :
- Sao ông lại biết tên tôi?
Hắn cảm thấy khoái chí với câu hỏi của tôi.
- Tất cả mấy đứa nhóc trong xóm này là đồng minh của tôi. Hôm qua tôi đã chi trả cho chúng mười trái xoài tượng để được biết tên nhỏ.
- Xí... Tôi sẽ chi hai mươi trái xoài để chúng nó điều tra tên của ông.
Tôi gằn giọng, hắn vẫn thản nhiên :
- Khỏi đưa chúng nó, đưa cho tôi cũng được, tôi tên là Phong. Vân là mây, mây bay trên trời. Phong là gió, gió dìu mây đi.
- Nhưng tôi không bao giờ đi với ông.
- Còn tôi!...
- Im. Ông không được nói.
Nói xong tôi dọt lẹ. Hắn gọi với theo :
- Này nhỏ, hãy đợi đấy tập hai.
 
F

fantastic_97

Buổi chiều mặt trời ngả bóng xuống ngọn núi xa xa, nắng vàng miền quê rực rỡ. Tôi đang ngồi với mấy đứa em bạn dì xơi hàng chục xoài chấm với nước mắm đường, tê rần chớp lưỡi. Hắn đến lần này không đi một mình mà mang theo cây đàn Guitar gảy từng tứng tưng. Hắn cứ gào lên :
- Bằng lòng đi em về với quê anh - Một dòng sông xanh một dòng nước xanh - Bằng lòng đi em...
Tôi bực mình quay ra chặn hắn lại :
- Ai cho ông đi ngang đây mà gào lên vậy?
Hắn vẫn thản nhiên :
- Không, tôi đang hát cơ mà.
- Hát thì về nhà mà hát.
- Tôi muốn hát tặng Vân thôi.
- Tôi không lấy, ông hiểu chưa.
Mấy đứa em bạn dì nhìn tôi sửng sốt. Riêng hắn thả cây đàn xuống, nhún vai ra vẻ hiền lắm. Tôi xoay hắn lại gằn từng tiếng vào tai hắn :
- Này Nôbita hãy đợi đấy tập ba.
Nói xong tôi chạy vội vào nhà. Hắn vẫn kịp hét lên :
- Xuka, tôi sẵn sàng đợi.
 
F

fantastic_97

Chỉ vài ngày nữa là tôi phải về thành phố, chuẩn bị cho năm học mới, thời gian đi qua nhanh quá. Hắn và tôi lúc này đã thân nhau, tuy nhiên “hãy đợi đấy” vẫn đang ở tập chín mươi chín.
Buổi chiều hắn ghé nhà chơi tặng tôi cuốn sách, nhìn bìa sách ghi tác giả “Dạ Thảo”. Tôi hỏi hắn :
- Anh cũng thích đọc sách của Dạ Thảo à?
- Ừ, thích lắm - Cặp mắt hắn mơ màng nhìn tôi - Vân cũng biết Dạ Thảo à?
Sẵn dịp tôi nổ luôn cho hắn sợ :
- Dạ Thảo là bạn của Vân đấy.
Hắn nhún vai le lưỡi ra vẻ sợ lắm.
- Thế Dạ Thảo có đẹp trai không vậy?
- Ơ... Cao như anh vậy, nhưng trắng và đẹp trai hơn anh (tôi đã bỏ từ ông để gọi hắn). Hắn nhoẻn miệng cười :
- Làm gì mà anh cười.
- Không, không có gì. Tôi không cười Vân đâu.
Sẵn dịp tôi lại nghĩ ra câu chuyện tào lao về nhà văn Dạ Thảo nói cho hắn nghe
 
F

fantastic_97

Tôi đến tòa soạn báo học trò lãnh tiền nhuận bút truyện ngắn vừa được đăng trên báo. Sẵn dịp gặp nhà văn Dạ Thảo góp ý cho tác phẩm mới của tôi. Theo sự hướng dẫn tôi đẩy cửa phòng khách bước vào, chàng trai ngồi sau bàn giấy ngẩng mặt nhìn tôi. Tôi tròn mắt la lên :
- Ơ... Anh làm gì ở đây?
- Tôi làm việc, Vân muốn gặp ai?
Tôi bối rối lườm hắn :
- Dạ Thảo, gặp nhà văn Dạ Thảo.
- Có chuyện gì quan trọng không?
- Tất nhiên là có.
- Thế à - Nói với tôi không được sao?
- Không, không thể được, phải gặp nhà văn Dạ Thảo cơ.
Cuối cùng hắn buông ra một câu cố hữu.
- Thế thì. Hãy đợi đấy.
Tôi đáp lại :
- Ừ thì đợi.
Thời gian chậm chạp trôi qua huyên thuyên với hắn đã mệt, tôi xin phép ra về dịp khác sẽ ghé lại.
Bước ra cổng gặp bác bảo vệ đang ngồi vê cằm nhổ mấy cọng râu, tôi chào bác, bác hỏi với theo :
- Sao, cháu gặp anh Thảo có vui không?
- Ơ... Ông ấy đi đâu cháu chờ mãi không gặp.
Bác bảo vệ ngạc nhiên :
- Hồi nãy bác đi ngang phòng khách thấy cháu đang ngồi nói chuyện với anh Thảo cơ mà.
Tôi sững người, chẳng lẽ là hắn. Thôi rồi, biến ngay thôi. Ngoái đầu nhìn lại thấy hắn đã đứng sau lưng tôi tự hồi nào, hắn nheo mắt mỉm cười :
- Chào Vân - Vân đã gặp nhà văn Dạ Thảo chưa?
Nếu mà Mao Toại trong truyện Phong Thần chắc tôi đã độn thổ mất tiêu rồi.
- Gặp rồi.
- Vui không?
- Vui lắm, ông ấy là một tên chuyên nghiệp lừa đảo kẻ khác, mà Vân là nạn nhân của ba tháng qua - Tôi cứng giọng - Hôm nay Vân đi tìm ông ấy để báo thù.
- Ghê thế à, rạch mặt ông ấy hả?
- Còn hơn thế nữa, ông ấy phải dẫn Vân đi ăn chín mươi chín cây kem ngay bây giờ.
Hắn nghệt mặt ra cười :
- Xin tuân lệnh!
 
F

fantastic_97

Đêm 30 có mỗi truyện này
Chiều ba mươi tết, Quỳ đạp xích lô ra ga, tính đón khách chuyến tàu vét rồi gửi xích lô, bắt xe đò về quê. Vừa vào sân ga, tàu chưa về đã có khách gọi, may thế. Khách là một trung niên mặt rỗ, quần bò áo thun, kính đeo gọng vàng.
- Bưởi!
Gã vươn vai dựa hẳn vào thành xe, rút thuốc lá hút.
- Ông cho con ba chục.
Quỳ chưa đi vội. Loại này hoặc công chức, hoặc ma cô, phải ngã giá trước. Gã quay lại, lột kính lừ lừ nhìn Quỳ. Quỳ cảm thấy hai tia sáng mắt gã đang soi từng lỗ chân lông da mặt mình.
- Mày định ăn thịt người ta hay sao mà thét dữ thế.
- Dạ tết nhất đến nơi. Ông gọi hàng nào cũng thế. Ấy là con lấy rẻ năm ngàn.
Thì ra gã chỉ mắng thế thôi chứ không thêm bớt một hai gì. Đường phố ngày tết người ta đi như ăn cướp, như chạy giặc. Quỳ cũng lạng lách như ai, chủ yếu để người ta không coi mình là thằng nhà quê, ngờ nghệch quá.
- Từ từ thôi! - Gã nhắc.
- Vâng.
- Đi tử tế vào, rồi tao trả nốt năm ngàn.
- Vâng.
Quỳ thả lỏng, thong thả đạp. Xem ra gã cũng tử tế. Từ ngày ra phố làm ăn, cứ ba ông khách thì một ông tử tế. Quỳ thường khoe với vợ như vậy. Vợ Quỳ tròn xoe mắt: “Tử tế mà lắm thế à?”. Đàn bà suốt đời rúc xó bếp biết gì! Vợ Quỳ mặt đã to lại phèn phẹt, nhưng từ cổ trở xuống thứ nào thứ nấy không đáng yêu cũng đáng nể. Ăn uống kham khổ lắm, thế mà cái *** lúc nào cũng vổng lên. Rõ đáng tự hào.
- Ây!
Gã khách kêu lên. Quỳ không kịp phanh xe, gã đã nhảy xuống lật đật chạy về phía sau nhặt lên một cái vòng. Quỳ cũng chạy tới. Vàng! Cái vòng vàng. Gã khách mân mê cái vòng vàng, cười toét một cái :
- Một cây là cái chắc!
Gã nhét ngay vào túi và nhảy phốc lên xe.
- Đi nhanh, mày. Tao tăng gấp đôi tiền cho.
Quỳ thấy xót quá, nếu mình không nghĩ vẩn vơ thì mình đã thấy trước gã.
- Ông tính một mình lấy luôn cái vòng à? - Quỳ hỏi giọng run run.
- Chứ sao, tao thấy trước mày.
- Con thấy trước ông nhưng con không kêu lên.
Quỳ cố gắng không để lộ cái giọng run run của mình. Gã khách cười cái “rắc”, nghe như ai vừa bẻ một cành khô.
- Ai bảo mày không chịu phát biểu ý kiến!
Quỳ thấy mình đuối lý. Đối đáp với người phố bao giờ Quỳ cũng là thằng đầu đất. Hôm qua có ông khách mắng Quỳ: “Tụi mày đói là vì không biết ngậm miệng *******”. Quỳ cũng thấy đúng quá. Quỳ cố nặn óc nghĩ được câu gì hòng thuyết phục gã chia cho một ít.
- Tết nhất được lộc trời, ông cho con xin một ít.
Dứt lời, mặt Quỳ nóng bừng, khi không lại mở mồm xin xỏ. Gã khách lại quay lại nhìn Quỳ.
- Mày trông thế mà cũng có văn hóa đấy. Được, mày xin thì tao cho. Tao bảy mày ba, được không?
Quỳ cười nịnh, cái mặt cười mới thảm hại làm sao :
- Ông cho con bao nhiêu, ơn ông bấy nhiêu.
Gã khách lại cười cái “rắc”. Thằng cha cười đến hay, như chó khạc xương.
- Ơn nghĩa! Tụi mày đói mà xài sang quá. Cái vòng này cỡ một cây. Tao trả mày tiền ba chỉ, tao lấy cái vòng - Gã xỉa ra tập tiền sáu trăm ngàn, hất tay phía sau - Cầm lấy!
Nhìn sáu tờ một trăm ngàn. Quỳ thấy chân tay mình cóng lại.
- Ông ơi, vàng bây giờ một chỉ gần năm trăm ngàn. Ông cho con ba chỉ mà được có...
Gã lập tức đút tiền vào túi.
- Không lấy thì thôi. Vàng rụng vàng rơi, một chỉ hai trăm là quá lắm.
Quỳ định nói: “Thôi, ông cho con xin” nhưng không hiểu sao lại kêu lên :
- Một chỉ hai trăm thì thiệt con quá!
Gã khách nhảy phắt xuống, chậm rãi tiến sát chỗ Quỳ :
- Mày được voi đòi tiên. Đã bảo vàng rụng vàng rơi giá chỉ có thế thôi. Mày thích thì tao đưa tiền cho, không thích thì đưa tiền cho tao. Cũng giá đó.
Chưa bao giờ Quỳ tính nhẩm nhanh như lúc này. Một chỉ lãi ba trăm ngàn. Bảy chỉ lãi hai triệu mốt. Đạp xích lô cả năm trời cũng thế thôi. Gã khách moi cái vòng vàng ra, đưa cho Quỳ.
- Đây, mày xem có đúng một cây không. Hay bảo tao nói phét?
Quỳ cầm cái vòng xoay xoay. Một chỉ lãi ba trăm ngàn. Bảy chỉ lãi hai triệu mốt. Cộng với ba chỉ phần mình nữa, bán vứt đi cũng được 4 triệu bạc. Chợt gã khách đập nhẹ vào tay Quỳ. Quỳ giật mình ngước lên. Một cô gái đang hớt hải chạy tới. Quỳ vừa kịp đút cái vòng vào túi quần.
- Các bác được cái vòng của cháu phải không ạ?
Cô gái mặt non choẹt nhưng son phấn kỹ lưỡng lắm. Áo hở rốn, quần bò bó căng, cố tình làm nổi bật cái phần cần giấu đi. Xem “phong độ” biết ngay loại ăn chơi ngoại hạng.
- Cái vòng của mẹ cháu. Các bác được thì cho cháu xin. Không mẹ giết cháu.
- Vòng vèo nào ở đây. - Gã khách trợn mắt quát. - Không dưng lại túm áo người ta mà hỏi. Biến đi!
- Không mà... Người ta chỉ cho cháu...
- Biến!
Gã khách đẩy cô gái ngã ngồi. Cô gái lồm cồm bò dậy vừa đi vừa nấc lên. Tự dưng Quỳ muốn gọi cô gái lại quá...
- Cách nào thì mày giải quyết đi. Nó đi gọi công an đấy.
Quỳ sực tỉnh, vội vàng lôi trong lưng quần ra cái bọc. Gã khách giật lấy.
- Bao nhiêu đây?
- Một triệu ba năm chục. Tao thiệt đơn thiệt kép. - Gã khách thở ra. - Thôi mày đi mau lên!
Quỳ cắm cổ đạp xe chạy vù vù. Thỉnh thoảng phanh kít lại, đập tay vào túi quần: Vẫn còn! Cái vòng vẫn còn! Lại đạp xe chạy vù vù. Còi ô tô kêu cái “roét!”, mồ hôi Quỳ túa ra, lạnh toát. Gớm, không biết cách nào Quỳ đã vọt ra tận Hồ Tây. Sờ túi, cái vòng vẫn còn, Quỳ cười nhăn một mình. Bây giờ phải quay trở lại, về Hàng Đào bán mới có giá. Ở đấy Quỳ có quen một chị hàng vàng, năm ngoái Quỳ đưa đón con chị đi học. Chị này giàu nứt đố đổ vách lại tử tế, chắc chẳng thèm ăn bớt của Quỳ. Một cây gần năm triệu, có cân non đi đằng giời cũng cầm chắc bốn triệu. Bốn triệu! Quỳ chưa bao giờ cầm số tiền lớn như thế. Vợ Quỳ cũng thế. Thị sẽ thế nào khi mình giơ bọc tiền ra nhỉ? Thị sẽ không dám cầm, ngờ vực hỏi: “Ai cho mà nhiều thế? Ai cho” - Quỳ bế xốc thị lên giường - “Tưởng tớ không kiếm được ngần ấy tiền à?”. “Ây, ây... Con đang chơi ngoài sân”. “Gọi nó vào, đem cái đĩa bảo đi mua nước mắm”. Thị đẩy Quỳ ra, lườm: “Thì tắm rửa đi đã. Được mấy hơi mà hoắng lên thế”. Ừ thì tắm. Tắm xong tớ sẽ nghiền nát cái *** tự hào của mình ra, xem có còn khinh tớ nữa không. Xong rồi, thể nào thị cũng hỏi đi hỏi lại: “Ai cho đấy, nói thực xem nào? Hay là có ****** nào nó cho?”. Chà thích quá rồi, còn ra vẻ! Quỳ kể Quỳ gặp vận may như thế nào, cái ông khách tử tế ra sao. Thị lại tròn mắt kêu lên: “Tử tế mà lắm thế à?”. Tử tế mà lắm thế à. Rõ lũ đàn bà đần độn ngu si. Quỳ vừa nghĩ ra câu thơ. Quỳ nhẩm đi nhẩm lại cho thuộc, mai về sẽ đọc cho thị nghe. Thị sẽ ré lên bóp cho Quỳ một cái. Thị bóp thì đau lắm nhưng mà thích.
 
F

fantastic_97

Chị hàng vàng tung nhẹ cái vòng mấy lần rồi ngước lên nhìn Quỳ. Có khi cái này không phải vàng. Nhẹ lắm.
Quỳ cười to, vui vẻ nói :
- Thì chị cứ thử đi.
Trông điệu bộ đi tìm đèn khò không được nhiệt tình cho lắm của chị, Quỳ đã thấy lo lo. Tuy vậy, Quỳ vẫn nói cười như không.
- Vàng đang lên phải không chị?
- Ừ. Bốn chín hai.
- Em bán bây giờ là được giá, chị nhỉ?
- Ừ.
Đèn khò bật lửa. Ở cái nơi tia lửa liếm vào, một thứ nước rỉ xanh tứa ra. Mắt Quỳ tối sầm.
- Đồng em ạ. Mạ vàng thôi.
Một khối nước đá từ trên đỉnh đầu đang tràn xuống chân. Quỳ đứng trơ, nước *** từ hai ống quần túa ra, đọng thành vũng trên nền đá hoa.
Quỳ rơi phịch xuống ghế. Và kể. Chị không hỏi, Quỳ cũng kể. Không phải, Quỳ đang lảm nhảm như một thằng điên.
- Vàng giả sao nó dám đưa tiền cho em?
- Em ơi, có khi đó cũng là tiền giả.
Quỳ nuốt nước bọt, ngước lên ngẩn ngơ nói :
- Tại em tham quá.
Trong tích tắc, nước mắt Quỳ dàn dụa. Chị đưa cho Quỳ cốc nước lọc, khẽ thở dài.
- Em cũng đừng dằn vặt nữa. Tham là bệnh tật của giống người. Người ta trước sau rồi cũng mắc phải, chẳng ai nói phách nói tướng được. Thôi, coi như mình vừa bị mất cắp, bị trấn lột, còn mấy tiếng nữa là hết năm, ráng kiếm vài chục, về quê còn có chút gì đưa vợ.

Quỳ đạp xe ra ga, về bến xe phía Nam, vòng vèo ra tận Phà Đen, lên chợ Bưởi, cũng chẳng có ma nào gọi. Phố phường vẫn đầy người ra đấy nhưng hôm nay là ngày vui của người ta, ngày chết tiệt của Quỳ.
Đêm xuống rất nhanh, gió hun hút thổi. Quỳ không rét nhưng mà đói. Đói lắm. Phố xá tịnh không ai còn mua bán gì. Khổ nỗi đường phố giờ này lại ngậy mùi xôi thịt, rúc vào đâu cũng ngậy mùi, càng hít chân tay càng rời rã. Quỳ dừng xe một góc phố, tính làm một giấc lấy sức rồi gửi xe cuốc bộ về quê. Gần 40 cây số nhưng đi mãi rồi cũng đến, cũng không hết tết đâu mà lo.
Không ngủ được, nhạc nhéo đinh tai nhức óc. Nhà sát đường chưng đèn kết hoa như đám cưới, nhưng nhìn vào thời trống hoác, chỉ một đôi trai gái đang ôm nhau nhảy. Chúng nhảy như động rồ, ngoắc của nợ vào nhau chứ đâu phải là nhảy. Bỗng Quỳ đứng phắt dậy. Gã khách! Thằng quần bò áo thun! Thằng mặt rỗ! Con kia đích thị là đứa đến xin vòng. Tiên sư cha quân mất dạy! Quỳ chực xông vào nhưng hú hồn đã khựng lại được trước cổng. Đêm ba mươi vào làm ầm ĩ nhà người ta thì cầm chắc tiền mất tật mang. Cứ đứng đây đợi. Thằng kia nếu là chủ thế nào cũng tiễn con kia, nếu là khách thì quá lắm đến giao thừa cũng phải cút. Còn hai tiếng nữa đến giao thừa chứ mấy. Quỳ ngồi xổm, tựa lưng thành cổng, nghiến răng chờ đợi. Con chó bẹc-giê thấy có người lạ liền đủng đỉnh đi ra, đưa mắt lừ đừ nhìn Quỳ, gừ một tiếng, ra cái điều: “Nhìn cái gì mà nhìn”. Chó nào chủ nấy. Chó nhà quê nghe tiếng người cuối xóm, đầu xóm đã sủa nhặng lên, ra vẻ hung hăng lắm, nhưng người ta dậm chân một cái đã cụp đuôi mất dạng ngay tắp lự. Con bẹc-giê đến sát cổng, nằm bẹp xuống, trễ nải lim dim mắt nhìn Quỳ. Rõ nó coi Quỳ bằng nửa con mắt. Quỳ cười khẩy, nghĩ bụng: “Mầy là cái *** gì. Đồ liếm *** nhà giàu”. Nó lại gừ một tiếng rồi ưỡn ngực vươn vai, đủng đỉnh đi vào, ra cái điều: “Chẳng dư hơi đôi co với lũ *********”. Thế mới tức. Tự nhiên Quỳ uất lên.
- “Ba-ái!”
- “Xí ố ghẻ-ên!”
Rồi! Thằng kia ra rồi. Quỳ vụt dậy. Gã vừa ra khỏi cổng, Quỳ đã túm chặt lấy tay gã.
- Ông! Đây là cái vòng giả! Ông cho con xin lại tiền.
Gã từ tốn nhìn Quỳ, không lộ một chút gì tức giận hay sợ hãi. Tuồng như gã đã biết trước thế nào cũng gặp Quỳ, thế nào cũng nghe Quỳ nói thế.
- Thì buông ra đã nào. Tao có chạy đi đâu mà sợ.
- Con đã thử rồi. Đây là cái vòng đồng mạ vàng.
Quỳ đưa cái vòng cho gã. Gã cầm cái vòng ngắm nghía.
- Giả à?
- Vâng.
- Ừ, nếu giả thì tao đưa lại tiền cho. Coi như tao không được cái gì.
Gã nhảy lên xích lô, vui vẻ nói :
- Đi! Đi thử một lần nữa cho chắc. Rồi mày chở tao về Bưởi, tao lấy tiền đưa mày. Mau lên, giao thừa sắp đến rồi.
Quỳ định nói: “Thôi, không thử nữa, ông cho con xin lại tiền”, nhưng lại nghĩ bụng: “Thử thì thử, sợ gì! Lần này có ông nội mày cũng không lừa được ông nữa đâu, con ạ”.
Gã bảo Quỳ dừng lại trước cửa hàng vàng cách hàng vàng quen của Quỳ có mấy trăm mét. Chủ nhà đã đóng cửa nhưng thấy gã thì vui vẻ lắm, nhanh nhẩu tìm đèn khò ra xịt. Ủa, nước vàng chảy ra tươi rói! Thế là thế nào nhỉ?
- Mày thử kiểu gì lạ thế? Làm mất thời gian tao! - Gã vừa đi ra cửa vừa càu nhàu và nhét cái vòng vào túi.
Quỳ lẽo đẽo theo sau, nói giọng thiếu tự tin hẳn :
- Con thử nhà người quen hẳn hoi.
Lập tức gã quay ngoắt lại.
- Đâu? Nhà người quen mày ở đâu?
- Đó kìa! Có một đoạn.
Gã rút cái vòng ra đưa cho Quỳ :
- Cho mày thử lại. Không bảo tao hợp đồng nhà người quen lừa mày. Đi mau lên.
Quỳ co cẳng chạy. Không kịp bấm chuông, cứ thế lao thẳng vào nhà.
Chị hàng vàng cầm cái vòng lật đi lật lại. Đâu? Vết thử của người ta đâu? Mỗi vết thử của chị đây này.
- Vừa thử xong mà. - Quỳ thở hắt ra.
Chị hàng vàng bỗng tái mặt kêu lên :
- Thôi rồi! Nó thử cái vòng thật của nó. - Chị đẩy Quỳ, hối hả giục. - Ra đi! Khéo không cái xích lô của em...
Quỳ lao như tên bắn. Ối cha mẹ ơi, họa vô đơn chí! Cái xích lô lấy lại của người ta, còn chưa trả hết tiền. Quỳ ngã sấp xuống mặt đường, mãi sau gượng ngước lên đã thấy chị hàng vàng ngồi trước mặt. Chị đỡ Quỳ dậy, nói như rên :
- Về quê mà làm ăn em ạ. Ỉa vào phố với phéo.
Quỳ biết mình khóc nhưng không đừng được.
- Chị ơi, bao giờ em mới hết ngu?
Chị nhét năm mươi ngàn vào túi Quỳ, giọng nghèn nghẹn :
- Em đừng mơ tưởng viển vông nữa. Mình hết ngu thì người ta mưu mẹo lên gấp năm gấp mười. Cũng coi như mình ngu như cũ. Thôi, về đi em.
Không! Không về! Phải đến nhà con kia! Nó cùng duộc với thằng mặt rỗ. Không lấy được tiền thu được của thì cũng xé tan xác chúng nó ra.
Cô gái vẫn thức, đang ngồi ngắm nghía, nắn nắn ngực mình
- Cô gì ơi! Ra tôi bảo! - Quỳ nói như quát.
Cô gái thủng thẳng đi ra, vênh mặt lên, hất hàm hỏi :
 
F

fantastic_97

Gì thế?
Tự nhiên Quỳ tịt ngỏm, không biết nên tiếp tục thế nào.
- Cô mất cái vòng phải không?
- Phải.
- Đây là cái vòng giả! Cô lừa tôi!
Cô gái cầm lấy cái vòng, bất ngờ ném thẳng vào trán Quỳ.
- Đồ ăn cướp! Đây mà cái vòng của tao à?
Cô gái nhào tới túm chặt lấy cổ áo Quỳ, kêu to :
- Mẹ ơi! Đây rồi! Thằng ăn cắp đây rồi!
Quỳ há hốc mồm, không biết nên làm gì, nói năng thế nào.
Trong nhà đi ra một người đàn bà chừng năm mươi tuổi, mặt mày xem ra phúc hậu lắm.
- Thằng này giật cái vòng của con. Bắt được, nó lại trả lại cái vòng giả.
- Không phải! Cô lừa tôi! - Quỳ vặc lại và giật tay cô gái.
- Thôi, thôi. Đừng ồn. Nhà chị đang có khách. Có gì vô nhà nói. Chuyện đâu có đó em ạ.
Bà cất tiếng dịu dàng, nghe êm như tiếng Phật bà từ trời xanh rót vào tai Quỳ. Bà tự tay mở cổng, nhẹ nhàng kéo Quỳ vào.
Vào thì vào! Cây ngay không sợ chết đứng. Chừng nào còn chưa lấy được tiền và cái xích lô thời ông còn nằm ỳ ra đấy, ********* không cho ông ăn thời ông ỉa ra cho mà dọn.
Bà nhẹ ấn vai Quỳ xuống ghế bành. Cái ghế to đến nỗi Quỳ thấy mình như đang tụt xuống một cái hố. Bà xăng xái đi lấy nước, rất lâu sau cầm cốc nước đi ra ấn tận tay Quỳ, ân cần nói :
- Con bé nhà chị nó cũng hư lắm. Em uống nước đi, rồi kể chị nghe đầu đuôi thế nào.
Quỳ tu một hơi, quẹt mồm, nói :
- Chiều nay con đi chở khách...
- Thì uống nước đi đã nào. Chuyện đâu có đó mà em.
Bà tươi cười cắt ngang lời Quỳ. Vô lẽ bà này lại đẻ ra con ******** kia? Quỳ uống thêm ngụm nước, đang nghĩ xem mình nên bắt đầu thế nào cho vừa gọn vừa rõ ràng thì một chiếc xe Jeep đỗ xịch trước cổng. Ba người đàn ông bước vào. Hai người trẻ, một người đã đứng tuổi có cái mũi cà chua. Hai người trẻ chẳng nói chẳng rằng ập đến bẻ quặt tay Quỳ.
- Ô, sao lại thế này? - Quỳ kêu lên.
- *******! - Người mũi cà chua quát khẽ. - Lôi cổ nó ra ngoài!
Quỳ ra sức trì lại nhưng không được. Tuyệt vọng, Quỳ quay mặt về phía bà chủ kêu to :
- Bà!
Bà ném cho Quỳ một nụ cười khinh bỉ rồi quay lại người mũi cà chua, thở ra :
- Tết nhất... phiền các chú quá.
Người mũi cà chua cụp mắt xuống, cố gắng lễ phép với bộ ngực xốp lúc nào cũng muốn nhào ra khỏi cổ áo của bà.
- Dạ có chi... Anh đâu chị?
Bà nhỏ giọng :
- Anh có khách.
Người mũi cà chua liền co vai, rụt cổ, nói khẽ :
- Thôi, em chào chị, em về đây. Chị cứ yên tâm đi, thế nào em cũng lấy lại cái vòng cho cháu.
- Thôi, khỏi phiền các chú đến thế.
Bà nói và tiễn người mũi cà chua ra cổng.
Xe jeep biến khỏi cổng. Bà quay lại lườm cô gái nãy giờ vẫn ườn ra trên đi-văng.
- Cái vòng đâu rồi, con chó?
Cô gái cười rúc rích.
- Mẹ cũng quá lắm. Mắng nhà quê xơi xới. Cứ làm như mẹ không phải ở quê ra.
Bà ngồi xuống, hực ra một tiếng cười khô khốc.
- Là tao nói thế, chứ không có chúng, bố con mày bốc *** mà ăn.
Nói rồi bà vươn vai ngáp dài.
- Khách với khứa. Giờ này còn ngồi thầm thầm thì thì.
Bà uể oải lên cầu thang. Lát sau đã nghe tiếng bà ngọt như tiếng tơ đồng :
- Ấy không. Về là thế nào. Anh đến giờ này là lộc trời ban cho nhà em đó.
Cô gái ngửa cổ cười dài, thò tay nhổ một nhúm lông ném lên phía cầu thang.

Xe Jeep chở Quỳ đến ngã tư thì dừng lại. Người mũi cà chua tự tay cởi trói cho Quỳ.
- Thôi, cho về ăn tết với vợ con.
Quỳ chẳng thấy vui sướng gì, cứ ngồi lì không chịu xuống xe. Ngồi tù còn đỡ nhục hơn về nhà kể cho vợ chuyện này.
- Con không về.
- Sao?
- Chúng nó là bọn lừa đảo.
Người mũi cà chua cười phì :
- Mày bây giờ mới biết à?
Rồi anh vỗ vai Quỳ, dịu giọng :
- Về đi em, giao thừa rồi đó.
- Nhưng, chúng nó là bọn lừa đảo! - Gần như Quỳ rú lên.
- Bé mồm thôi! Mày còn nói nữa, tao lại bắt mày bây giờ!
Xe Jeep biến mất, Quỳ đứng trơ giữa ngã tư đường. Bốn ngã đường vắng hoe. Không một bóng người, cả bọn mất dạy lẫn người tử tế.
 
F

fantastic_97

Gia sư
- Tên cậu là gì?
- Dạ thưa, Thành.
- Cậu nói cậu là sinh viên?
- .... Dạ!
- Cậu dạy kèm ở đâu chưa?
- Dạ.... trước đây.... năm ngoái cũng có...
- Thằng nhỏ học cũng được nhưng lười. Cậu kèm học hành tiện thể khuyên nhủ nó giùm tôi. Thứ ba, năm, bảy, buổi chiều. Vậy nghe!
- Dạ!
Tôi hé cửa phòng nhìn. Mẹ đã đứng lên, vội vàng hấp tấp với công việc buôn bán thường lệ. Tên con trai sắp là gia sư của thằng Tú em tôi cũng đang đội mũ lên đầu. Khi hắn quay mặt lại thì tôi kinh ngạc - tôi có lầm không? Chính hắn, thậm chí tôi còn biết cả cái tên nhà quê của hắn nữa kìa- Trần Văn Thành, tên gì quê một cục. Hôm qua hắn và tôi ngồi cạnh nhau trong phòng thi, gần như vai kề vai. Lầm sao được?
Chà, sinh viên! Còn khuya nhé. Đến ngày cầm được giấy thi báo đậu trên tay còn cả tháng nữa. Mà trở thành sinh viên có thâm niên trong nghề gia sư thì còn xa tít mù hơn. Cả gan thật!
Hắn vưà đi khuất, tôi phóng ra :
- Mẹ!
Mẹ vẫn cắm cúi soạn hàng hóa từ những cái thùng to ra quầy, mùi hăng nồng bay lên - Đủ các loại xà bông làm mưa làm gió trên tivi hàng đêm - Cứ việc bôi bẩn áo quần đi nhé, đã có Viso, đã có Omo. Hừm, chỉ cần đưa bộ áo quần của thằng Tú sau một trận đá banh lên truyền hình là các hãng xà bông xanh mặt nhé.
- Mẹ! - Tôi gọi lần nữa.
Mẹ vẫn tiếp tục mở một cái thùng khác - Các bà nội trợ hãy mừng đi, đã có chúng tôi giải phóng giúp các bạn khỏi công việc chán ngắt và lê thê của bếp núc. Đây cá hộp made in China, đây thịt hộp USA... Nhưng trời ơi, dân ta không ưng thứ này. Biết sản xuất “Rau muống nấu canh tôm khô hộp” không? Dám làm “Bún riêu hộp”, “Bánh bèo hộp” có bảo hành không?
Mẹ chuyển qua thùng gia vị. Hành tây, ớt khô,... Buồn tay tôi cầm một bánh lên và nghé răng định cắn lớp bao nilon.
- A, đó là men nấu rượu - Mẹ la lớn.
Trời! Suýt tí nữa... tôi cười. May là không có thằng Tú, có nó thì đây sẽ chuyện thời sự suốt tuần.
- Sao con không chịu đeo kính hả Thanh? Cặp kính rất thời trang chứ có phải mẹ tiếc tiền bắt con đeo loại xấu xí đâu?
- Tại... tại...
Tôi ấp úng và rút lui vào phòng. Không sao tìm ra lý do chính đáng cho cái việc tôi quên đeo kính cận. Có lẽ chỉ vì... quên! Vả lại, cái bệnh cận này chỉ mới phát sinh đây thôi, từ sau trận luyện thi đại học.
Ơ... cũng có thể - Tôi giật mình - Tôi đã nhìn nhầm tên sắp là gia sư thành ra tên nhà quê cùng phòng thi hôm qua? Ừa! May mà tôi chưa lu loa với mẹ. Suýt nữa thì oan cho một người. Và điều đáng nói nhất mẹ sẽ ca cẩm “Con người ta vừa học vừa chịu khó làm. Còn con mình...”
 
F

fantastic_97

“Gọi O là giao điểm của hai đường thẳng xx’, yy’, trên xx’ ta vẽ đoạn thẳng CD... đoạn thẳng CD sao cho...”
Tiếng giảng bài vọng qua phòng tôi, giọng vùng biển nằng nặng. Tôi nhìn đồng hồ. Mẹ đã giao nhiệm vụ mỗi buổi pha cho hai thầy trò hay ly nước chanh. Mới giảng hai mươi phút, khô cổ chưa nhỉ? Hừm... mai một ta đi giảng đường, ta cũng bận rộn. Liệu hồn, cứ trêu chọc là bốn mắt, ta lấy cớ đó nhầm muối thành đường cho biết mặt.
Phải lịch sự và ý tứ, con gái lớn rồi. Mẹ dặn đi dặn lại như thế. Chà, ta cận nhưng đọc rõ ý nghĩ lồ lộ trong mắt mẹ - Hắn là một đứa nhà nghèo nhưng có ý chí chứ gì? Những kẻ như thế đáng học tập và trân trọng, phải vậy không? Còn điều khá tế nhị này nữa... Mẹ có một đứa con gái... ha ha ha... mẹ ơi, đã qua rồi còn thời cha mẹ lo kiếm cho con gái của mẹ tìm một ý trung nhân tuyệt vời như thế nào. Sá chi tên gia sư giảng bài còn vấp này. Ta canh me chỗ nào giảng sai bẻ lại cho biết mặt.
Lịch sự... lịch sự là hãy đặt ly vào khay, đừng có hai tay hai ly đong đưa hỗn láo. Được rồi... Và mỉn một nụ cười nhẹ nhàng, đừng cười thân thiện quá hắn tưởng gì thì phiền. Tất nhiên là phiền cho hắn. Và phải gõ cửa, chớ có lấy chân đá và lo oang oang “Mở cửa... Tú à... Tú ơi” như thường ngày.
Rồi rồi... À, phải đeo kính vào nữa. Lỡ nhìn thầy ra thằng Tú...
Cốc cốc cốc...
Tôi sửa soạn một nụ cười,
Rồi nụ cười chợt biến thành chữ O. Khuôn mặt hắn, vóc dáng hắn, không lầm vào đâu được. Tên nhà quê kia, tên lừa đảo kia, ngồi trong phòng thi bóp trán đến nổi gân xanh mà dám xưng là sinh viên.
Làm gì đây? Bộ óc tôi lùng bùng. Tự mình cho hắn một trận? Chạy ra nói với mẹ ngay lập tức? Không, tội nghiệp mẹ! Tôi chợt thấy thương mẹ, một tình cảm rất lạ, pha chút gì như là xót xa. Mẹ thường nói cuộc sống khiến mẹ đâm ra hoài nghi tất cả, vậy mà mẹ đã tin hắn, không cần dò hỏi kiểm tra. Nghĩ đến tình cảm mà bỗng nhiên mẹ đã dành cho hắn, tôi muốn làm một điều gì đó khiến hắn phải thật đau.
- Chào thầy! - Tôi dài giọng mỉa mai.
Khuôn mặt xương xương và màu da ngăm đen chợt tái xám. Cổ áo sơ mi dưới cầm chợt rung rung.
Tôi dằn khay xuống, nện chân đi ra.
 
Top Bottom