Kho truyện cười cập nhật liên tục hằng ngày

T

thanhdatkien

Anh nọ được dịp nói khoác:

- Tôi được thấy có nhiều cái lạ lắm, nhưng lạ nhất là có một chiếc thuyền, dài không lấy gì mà đo cho xiết, có người thuở hai mươi tuổi đứng ở đằng mũi bắt đầu đi ra đằng lái, đi đến giữa cột buồm thì đã già, râu tóc bạc phơ, cứ thế đi, đến chết vẫn chưa tới lái.

Trong làng cũng có một anh nói khoác nổi tiếng, nghe vậy liền kể ngay một câu chuyện:

- Như thế đã lấy gì làm lạ ! Tôi đi rừng thấy có một cây cao ghê gớm. Có một con chim đậu trên cành cây ấy, đánh rơi một hạt đa. Hạt đa rơi xuống lưng chừng gặp mưa, gặp bụi rồi nảy mầm, đâm rễ thành cây đa. Cây đa lớn lên, sinh hoa, kết quả, hạt đa ở cây đa đó lại rơi vãi ra, đâm chồi, nẩy lộc thành nhiều cây đa con, đa con cũng như cây đa mẹ lớn lên, sinh hoa kết quả, lại nẩy ra hàng đàn cây đa cháu. Cứ thế mãi cho đến khi rơi tới đất thì đã bảy đời tất cả.

Anh đi xa về nghe thế gân cổ lên cãi:

- Làm gì có cây cao thế ! Chả ai tin được.

Anh kia cười ranh mãnh:

- Ấy không có cây cao như thế thì lấy đâu ra gỗ mà đóng chiếc thuyền của anh?
 
T

thanhdatkien

đây là truyện cười Quỳnh ko bik đã đúng nhan đề chưa nếu ko thì nhờ mod giúp chuyển giùm
Chả dấu gì bác
Thu, 04/12/2012 - 14:17 — fs.vn
Có một ông lâu ngày đến nhà ông bạn thân chơi. Khách chủ gặp nhau chuyện trò rôm rả. Chủ kiếm trầu mời khách nhưng giữa cơi trầu chỉ có mỗi một miếng. Chủ khẩn khoản mời mãi, khách đành phải ăn.

Cách một thời gian sau, ông này nhớ bạn lại đánh đường sang thăm trả.

Thấy bạn đến, ông kia mừng lắm, mời lên nhà ngồi. Chuyện trò lại rôm rả.

Ngang với...!
Wed, 02/15/2012 - 12:51 — huynhkute
Bố Vợ Và Con rể Đi lên huyện.
Tới Bờ Sông, 2 bố Con nhìn thấy 1 con chó bơi ở dưới Sông.

Bố vợ: Con có biêt bơi không?
Con rể: dạ! Không ạ!
Bố Vợ: Ui! Mày không cả bằng con chó nữa à?
Con rể: Thế Bố biêt Bơi không ạ?
Bố Vợ: Ta Có Chứ!
Con rể: Thế Bố cũng chỉ ngang Với Con Chó Thôi! hehehe

Dẻo và bền nhất
Sun, 07/31/2011 - 15:48 — Trang
- Thầy: Trò nghe đây: sắt thép, đồng…vật liệu nào dẻo dai và bền nhất?
- Quỳnh: Thưa thầy là…Thưa thầy cho 5 phút suy nghĩa ạ. Á! Thưa thầy vật dẻo dai và bền nhất đó là sợi tóc ạ.
- Thầy: Sao! Làm gì có chuyện đó sợi tóc làm sao có thể dẻo hơn sắt thép được?
- Quỳnh: Sao lại ko ạ! Thưa thầy chẳng phải người ta nói nghìn cân treo sợi tóc đó thôi ạ.

Uống nước nhớ...
Sun, 07/31/2011 - 15:45 — Trang
- Thầy: Uống nước nhớ gì, em nào biết!
- Quỳnh: Dạ thưa thầy, uống nước kẻ trồng cây!
- Thầy: Sao lại uống nước nhớ kẻ trồng cây?
- Quỳnh: Dạ , vì em uống nước dừa mà thầy!

Ít ngủ
Sun, 07/31/2011 - 15:45 — Trang
- Cha: Dạo này con thức khua quá! Ít ngủ ko có lợi đâu, con ạ!
- Quỳnh: Cha đừng lo, con đã ngủ bù ở lớp rồi ạ!
- Cha: Trời !!!

Thành thật
Sun, 07/31/2011 - 15:44 — Trang
- Mẹ: Con ăn vụng canh phải không?
- Quỳnh: Không như thế được, khi con ăn, con có đánh đổ ra quần áo đâu?
- Mẹ: !!!

1x10=9
Sun, 07/31/2011 - 15:44 — Trang
- Thầy:Một cái bánh giá 1 hào, vậy 10 cái giá bao nhiêu, trò?
- Quỷnh: Thưa thầy khoảng chín hào ạ!
- Thầy: Sao lại 9 hào, con tính lại đi!
- Quỷnh: Thưa thầy, tại vì mua nhiều…họ bớt tiền cho ạ!

Nhật ký
Sun, 07/31/2011 - 15:33 — Trang
- Quỷnh: Đố Mắm nhật ký là gì?
- Mắm: Ờ ! Đó là chữ ký của người Nhật!
- Quỷnh: Trời!

Không đánh lại
Sun, 07/31/2011 - 15:32 — Trang
- Quỷnh: Ở lớp có bạn đánh Quỷnh không dám đánh lại!
- Mắm: Chuyện lạ à nghen! Nhưng tại sao bạn ấy lại đánh Quỷnh?
- Quỷnh: Vì quỷnh đánh bạn ấy trước!!!
- Mắm: Hừ! Biết ngay mà!

Đều
Sun, 07/31/2011 - 15:31 — Trang
- Quỷnh: Giờ kiểm tra mà bà copy như vậy ko sợ lé mắt sao ?
- Mắm: Không sợ!
- Quỷnh: Tại sao?
- Mắm: Thì tôi copy thằng Tròn ngồi bên phải, rồi lại liếc sang copy thằng Béo ngồi bên trái. Đều nhau như vậy lé sao được?
- Quỷnh: Bó tay!
 
T

thanhpr097

Trong túi tôi đã có sẵn một thứ vô cùng quan trọng để hoạt động của tôi có thể diễn ra trôi chảy và toàn vẹn... Nói các bạn đừng cười, năm nay tôi đã 21 tuổi rồi mà chưa lần nào được làm chuyện ấy.

Tôi cũng chưa rõ lắm sẽ phải làm chuyện ấy thế nào, phải đút đút gì đó ra sao, hay có phải làm gì trước khi đút không?

Nếu làm không đúng thì sao, ngại thật. Nhưng mà nghe mọi người nói cũng đơn giản thôi nên cũng có yên tâm phần nào. Rồi sẽ được sung sướng lắm, ai cũng nói vậy, dù chưa rõ là sẽ sung sướng ở chỗ nào nhưng tôi cũng thấy lòng trào dâng sự náo nức.

Và cuối cùng tôi đã đến được nơi tôi sẽ được đút và từ đỏ trở thành người lớn thực sự.

Đối phương đã sẵn sàng ở đó chờ tôi đút. Tôi khởi động và làm những thao tác căn bản để chuẩn bị làm người lớn... Người tôi nóng ran, mồ hôi bắt đầu chảy lăn tăn trên từng thớ thịt trên khắp cơ thể , tôi cầm cái “ấy” và chuẩn bị đút.

Cái “ấy” của tôi dài gần 20 centimét, bây giờ nó chỉ còn cách lỗ 10 centimét, chỉ 10 centimét nữa thôi tôi sẽ thành người lớn. Tôi nhắm mắt , nín thở, cầm cái “ấy” xông thẳng vào cái lỗ.

9 centimét... 8 centimét... 7 centimét... 3 centimét... 1 centimét! Xoạp!

Cái ấy của tôi đã nằm gọn trong lỗ... Tôi nhắm mắt lại, sự sung sướng trào dâng trên toàn cơ thể... Tôi đã thành người lớn!

Sướng!

Tôi đút 1 cái, sướng tê người. Rồi đút cái thứ 2, không thể kìm nổi sự sung sướng lại nữa. Đút cái thứ 3, xúc cảm trào đang tột đỉnh!

Vậy là tôi đã đút được những lá phiếu của mình vào lỗ của hòm bỏ phiếu. Tôi đi bỏ phiếu cho cả bố và mẹ tôi, nên tổng cộng phải đút 3 cái phiếu. Chà, cái cảm giác này thật là sung sướng quá, tôi đã hoàn thành được trách nhiệm và nghĩa vụ của một người công dân là đi bỏ phiếu bầu cử Đu-ma.

Tôi cũng đã thành người lớn rồi bạn ạ! Nhưng, bạn làm sao vậy?
 
F

fantastic_97

Bay qua thời gian
“Xin trả về cho nhau những dấu yêu cuối cùng. Vì thời gian trôi mau không giữ được tình ta. Dù lòng còn yêu nhau đã nói yêu mãi hoài...”

Buổi chiều xuống rất nhanh. Chúng được báo hiệu bằng vạt mây đỏ sẫm cuối trời. Chen chúc xung quanh là những tảng mây lớn nặng nề màu hạt dẻ, trên đó bám theo những vẩy mây trắng như những cụm lông cừu nhỏ. Không nghe được tiếng chim kêu. Chỉ nhìn thấy những cái bóng bé nhỏ của đàn chim chậm rãi bay về phương Nam. Bây giờ rõ hơn một chút, phía dưới kia những ngọn cây nhọn hoắt bắt đầu ngả sang nâu đen, những con sông sáng ánh thiếc, những tòa nhà cao tầng như những bệt màu trắng sổ mạnh trên cái nền lờ nhờ xám của bóng tối đang dần phủ xuống thành phố.

Máy bay sắp hạ cánh. Tiếng máy bay ầm ì nhọc mệt đè nặng lên trái tim tôi một cảm giác bất an và lo lắng. Tôi tưởng tượng ra một sân bay mênh mông đông nghẹt người. Những người to cao, tóc vàng mắt xanh. Những người không nói cùng ngôn ngữ. Những người xa lạ. Chắc chắn họ sẽ không để ý đến tôi. (Thật khủng khiếp là họ sẽ không để ý đến tôi). Điều đó càng mang lại cảm giác cô độc ghê gớm giữa thế giới to rộng này.Rồi người ra đón tôi và tôi sẽ lạc vào trong đó mà không tìm được ra nhau. Tôi sẽ làm gì nếu chúng tôi không gặp nhau.

Ở cuối chân cầu thang máy bay, cô gái trẻ có mái tóc hung đỏ đi cùng chuyến với tôi đã gặp được người yêu- một anh chàng nhỏ nhắn đeo khuyên ở mũi và tóc nhuộm một chút đỏ ở mái như một cái mào Vẹt. Họ ôm nhau, hôn nhau say đắm. Tôi đi ngang qua, len lén nhìn họ. Vô tình lúc ấy tôi trông thấy cô khóc. Nước mắt không chảy thành dòng mà viên lại thành từng giọt to, đục. Những giọt nước mắt của cô, mùi hương lài có lẽ tỏa ra từ những nếp váy nhàu nhò của cô làm tôi cảm động. Tôi liền vẽ ra trong đầu mình một câu chuyện tình lâm li bi đát. Tất nhiên không phải cứ gặp nhau, ôm nhau, hôn nhau và khóc là những tình tiết của một câu chuyện buồn. Nhưng rõ ràng bất cứ giọt nước mắt nào trong hoàn cảnh này cũng dễ dàng gợi lên sự thương cảm và sầu nhớ. Trong tình trạng hiện thời của tôi, không gì hay hơn là tưởng tượng ra một câu chuyện như thế. Bởi ngay lúc đó tôi thật sự muốn mình được khóc.

Phòng nhận hành lý, trần thấp lè tè và tăm tối. Những chiếc bánh xe lăn kêu kót két. Hành lý đổ xuống băng chuyền ồn ĩ. Bỗng nhiên ánh sáng từ trên cao, qua những lỗ hổng trên tường, đồng loạt ào xuống. Trong ánh sáng xanh nhợt nhạt đó, tôi nhìn thấy một người đàn ông to lớn, tóc bạc, mặc áo sơ mi trắng, đeo một chiếc xà cột bằng da nâu cứng. Trên tay ông cầm một tờ giấy ghi nguệch ngoạc hai chữ “Miss Giang” và trên ngực áo đeo một tấm bảng nhỏ đề tên của ông “Robert Palmer- người dẫn đường”. Chúng tôi bắt tay nhau. Bàn tay ông mập mạp và ấm áp. Đôi mắt ông ánh lên những tia lửa nhỏ màu vàng. Từ chiếc áo khoác cũ kĩ dài chấm đầu gối của ông phả ra mùi bánh mì ủ lâu ngày lên men và mùi rượu hoa quả.

Ông đến từ New York, một thành phố ồn ào, náo nhiệt và hiện đại nhất của nước Mỹ rộng lớn. Nhưng ông hoàn toàn không cho ta cái vẻ gì là một người đã từng sinh ra, lớn lên và trải qua mấy mươi năm cuộc đời ở nơi đo,ù ngoại trừ sự nhanh nhẹn và năng động ít khi thấy có ở một ông già. Ông chỉ đi duy nhất một đôi giày to bằng da đen sờn vàmặc chiếc áo choàng cũ ngả vàng mỗi khi trời trở rét. Mỗi khi áp mặt vào tấm áo choàng, như lần đầu gặp ông ở sân bay, thoảng nghe mùi hương bánh mì và rượu quả lên chua từ chiếc áo, thậm chí từ đôi bàn tay khô nhám của ông, tôi lại tự hỏi sao mà nó quen thuộc và ấm áp. Có lẽ vì nó luôn thường xuyên gợi lại trong trí tôi những hình ảnh thân thương của ông tôi và ba tôi, trong những căn phòng tối thơm mùi mì nấu cải xanh.

Tôi thường nghĩ về nước Mỹ qua ông. Trong cái cách đi bộ hối hả, sải chân bước dài đến cả mét, đầu chúi về trước, tay giữ chặt chiếc xà cột để nó không đập bồm bộp vào đùi. Trong cách ông luôn chọn những quán hàng ăn rẻ tiền nhất và sục sạo vào những cửa hiệu bán các đồ lặt vặt tuồng như đã tồn tại cả hàng trăm năm. Trong cách ông cười tươi tỉnh với tôi vào buổi sớm mai và dáng ngồi cô độc của ông trên ghế đá ngoài bờ sông Iowa.

Bằng cách đó tôi đã hiểu rằng nước Mỹ không phải là thiên đường. Đằng sau bộ mặt xinh đẹp đến mê đắm của nước Mỹ còn có những cuộc đời cô đơn và buồn thảm. Sự đào thải khắc nghiệt trong công việc làm ăn, sống và tồn tại luôn làm con người căng thẳng. Họ sống lạnh lùng với nhau một phần cũng là vì đã quá mệt mỏi.

Chúng tôi rời sân bay, bắt đầu cho chuyến viễn du dài một nghìn bảy trăm năm mươi hai giờ. Bắt đầu cho một giấc mơ có thực trong cuộc đời. Chiều vẫn còn phảng phất hơi nóng của một ngày mùa hè tràn ngập ánh mặt trời. Nhưng lúc này phía ngoài bờ sông Potomac đã thổi vào những làn gió mỏng và mát, đủ làm lay động những tàn cây xanh biếc và thổi dạt những đám mây mỡ gà trên trời xa.

Chúng tôi ở trong một khách sạn nhỏ nhưng rất xinh đẹp số 2000 trên đường N. Nó giống như một ngôi nhà cổ nằm trầm mặc giữa vườn cây xanh với những chiếc lá con li ti ánh bạc, với những chú sóc nâu đuôi dài chỉ tìm cách leo lên cửa sổ, giương đôi mắt tròn đen nhánh tò mò nhìn vào trong phòng một cách không giấu giếm. Thỉnh thoảng chúng để lại trên bệ cửa những vỏ hạt dẻ bị cắn nham nhở hay những bông hoa lạ màu trắng xanh, bé như những cái khuy. Máy lạnh chạy rầm rĩ suốt đêm. Chẳng mấy chốc nó đã làm căn phòng có những tấm rèm hoa sặc sỡ lạnh ngắt như trong tủ lạnh.

Trong cầu thang máy của khách sạn, tôi thường hay gặp một anh chàng người Mexico phục vụ ở phòng ăn. Nhưng đáng lẽ đứng thường trực ở phòng ăn thì anh ta luôn tìm cách chạy lăng xăng đâu đó, lên lầu xuống lầu, trong tay lúc nào cũng cầm một chiếc khay bằng bạc và một bộ nĩa cũng bằng bạc lấp lóa. Đó là một anh chàng lực lưỡng, điển trai với nước da vàng, mái tóc đen chải keo bóng nhẫy và có một bộ ria mép của Ret Butler. Mỗi lần gặp tôi anh chàng lại cười một nụ cười đẹp mê hồn và hỏi, cô thấy thoải mái chứ. Tôi thường không hy vọng gì ở trí nhớ của những người phục vụ hoặc bán hàng. Không phải vì tính đãng trí hay vô tâm mà vì những cuộc gặp gỡ trong cuộc đời họ nhiều đến độ, nó giống như một hộp thư điện tử quá tải, phải delete bớt trước khi nhận thêm thư vào hộp. Nên khi anh chàng bảo sẽ nhớ tôi lắm thì tôi bật cười thành tiếng. Điều đó làm phật lòng anh. Mặt anh ta đỏ lên và anh ta đưa ngón tay cái lên miệng tỉ mẩn gặm nó.

Nhưng quả thật anh chàng đã không quên tôi. Sau một tháng rưỡi rong ruổi khắp mọi nơi, tôi quay trở về khách sạn. Tôi gặp lại anh ở trong cầu thang máy, tay vẫn cầm chiếc khay và bộ nĩa bạc, bàn chân nhịp nhịp như luôn muốn nhảy theo một điệu vũ nhạc nào đó trong đầu. Trông thấy tôi, miệng anh ta vo tròn lại và kêu lên bối rối, cô về hồi nào vậy. Cô trông chẳng khác chút nào cả.

Vậy là buổi sáng đó, trong vườn hoa cúc kim nở rộ, tôi được ăn một bữa sáng khá thịnh soạn với sự phục vụ tận tình của anh ta, mặc dầu cả hai chúng tôi đều biết rằng điều đó vi phạm vào luật của khách sạn. Nhưng dù sao, đây cũng là bữa ăn sáng cuối cùng của tôi trong khách sạn Cánh đồng mùa hè số 2000 đường N.
 
F

fantastic_97

tiếp ~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~

Anh ta luôn luôn hỏi, vậy là cô sẽ ra đi thật sao. Tôi nhìn ra ngoài hồ bơi. Có hai đứa trẻ đang nghịch trên bờ. Trời lạnh, chúng khoác những chiếc áo ấm dày và đầu đội mũ len. Một đứa mặc áo len đỏ. Một đứa khoác áo da xanh nhạt. Chúng nói gì đó và cười, và đuổi bắt nhau vui vẻ. Tôi biết chắc tôi sẽ không khóc. Nhưng vì cảm động mà tôi phải quay mặt đi hoặc chúi đầu vào dĩa thức ăn. Khi bên tôi, anh bạn vẫn lặp lại những câu hỏi buồn rầu bằng một giọng tịt mũi, cô sẽ đi thật sao. Chúng ta sẽ không còn gặp lại nhau nữa phải không? Có ai đó yêu cầu sự giúp đỡ của anh ta. Anh miễn cưỡng ra đi, sau khi để lại một nụ cười mê hồn của Alaine Delon làm tim tôi thổn thức. Từ giây phút đó trở đi, chúng tôi không còn cơ hội gặp lại nhau nữa.

Những giờ rảnh rỗi, trong khi đợi bạn từ Virginia lên đón đi chơi, tôi thích ra ngồi ngoài ban công của khách sạn. Không khí thơm ngây ngất mùi hoa cỏ dại. Những đám mây chạy đuổi bắt nhau tung những cuộn mây nhỏ trắng xóa như những bọt sóng. Khu vườn bé có những bộ bàn ghế bằng sắt xinh xắn sơn trắng kê dọc lối đi rải sỏi, trên những bờ cỏ xanh ngắt, yên tĩnh và vắng người. Phía sau hàng rào sắt bao quanh khu vườn là con đường rậm rạp bóng cây, những chiếc xe hơi đậu một hàng dài vô tận. Phía sau đó nữa, có thể lắm chứ, là một cái hồ xanh trong như con mắt biếc hoặc chính là dòng Potomac lững lờ trôi như một chiếc băng đô bằng lụa xám cột ngang mái tóc xanh của thành phố.

Tôi ngồi đó cho đến khi chuông trong phòng kêu lên những tiếng rụt rè. Lần này là những người đến mua tranh. Chúng tôi ngồi xệp xuống sàn trải thảm, bày tranh trên chiếc bàn gỗ nhỏ. Anh chị Trịnh Thục có vẻ xúc động. Họ mỉm cười bối rối. Và ngượng nghịu đi lại, từ phòng khách vào đến căn bếp nhỏ (trong khách sạn này, mọi phòng đều được bố trí như một căn hộ nhỏ) và từ đó lộn trở lại phòng khách. Sự xúc động của họ đến từ nỗi nhớ Việt nam da diết. Mặc dầu mới gặp tôi cách đó vài tháng ở Sài Gòn vào những ngày nhiều mưa nhiều nắng, nhưng họ vẫn háo hức nghe những tin tức về Việt nam, tựa như họ đã không được nhìn thấy quê hương hàng chục năm trời và nghẹn ngào kêu lên, trời ơi, những bức tranh này làm tôi nhớ Việt nam ghê gớm.

Buổi chiều, tôi đến thăm nhà anh chị ở khu Fair Fax. Trong những căn phòng ấm áp thơm mùi hoa cỏ dại và nến, những bức tranh lồng khung mạ vàng được treo trang trọng trên tường. Những bức tranh này một thời gian dài cũng đã được treo trang trọng trên tường nhà tôi. Tôi thuộc lòng từng ngày tháng, hoàn cảnh và nơi chốn ra đời của mỗi bức tranh. Chúng lưu giữ trong hồn giấy và sắc màu lung linh ấy những kỷ niệm vô cùng tươi đẹp đã đi qua cuộc đời tôi.

Tôi đứng lặng trước chúng, lòng xao xuyến. Niềm vui sướng kỳ diệu vì không ngờ lại được gặp mặt lại những đứa con tinh thần của mình, ở một nơi cách xa nửa vòng trái đất và sự đau đớn sâu sắc vì biết chắc rằng tôi đã vĩnh viễn mất chúng làm ngực tôi nghẹn lại. Nhưng cùng lúc đó, tôi hiểu rằng mình đang được hạnh phúc. Vài chục năm nữa, vật đổi sao dời, xa cách không một lần gặp mặt tưởng có thể quên hết đi chuyện ngày qua, nhưng khi nhìn những bức tranh, họ sẽ thấy rằng Việt nam luôn bên cạnh họ và thấp thoáng sẽ có hình bóng tôi ở một nơi sâu thẳm nào đó trong nỗi nhớ da diết của họ.

Vì lẽ đó, sự vô giá của bức tranh, ngoài giá trị nghệ thuật, còn nằm ở tính vĩnh cửu của thời gian. Trước khi vẽ một bức tranh tôi chỉ mơ hồ cảm giác được điều đó. Nhưng khi đứng giữa những căn phòng rộng lớn có mái vòm lấp lánh những chùm đèn pha lê và lộng lẫy những khung tranh phết vàng đồ sộ của các viện Bảo tàng, tôi hiểu nó rõ ràng hơn.

Hơi thở của không khí và thời gian thổi tràn ngập trong phòng. Tôi nghe thấy tiếng kẹt cửa khe khẽ và Van Gogh lách mình bước ra ngoài phố, đầu đội một chiếc mũ dạ màu xanh dương có viền lông đen trước trán nhàu nhò và cũ bẩn. Một giờ sau ông quay trở về căn phòng nghèo nàn của mình, trên tay ôm một bó lèo tèo vài bông hướng dương sắp héo rũ. Ông cắm hoa vào lọ, ngồi vào chiếc ghế gỗ cũ kĩ đến độ nó chỉ muốn sụp xuống vào bất kì lúc nào, vừa vẽ vừa chống lại cái đói, cái rét. Sự u ám của đời sống làm sáng rực lên những mảng màu trên tranh. Sự yếu đuối và bất định trong tâm hồn làm những nét bút thêm đầy đặn và mạnh mẽ. Đó dường như là cách để chống lại nỗi đau đớn và cô đơn của tâm hồn và thể xác. Đó dường như cũng là lúc, tận cùng của nỗi thống khổ hoạ sỹ lại tìm gặp được một niềm hạnh phúc vô biên không thể nói thành lời. Nó như một tia chớp sáng rạch ngang bầu trời đêm. Và chỉ có hội hoạ mới đủ sức để nuôi dưỡng nó.

Nếu chỉ có tài năng mà không có lòng yêu mãnh liệt đối với cuộc sống, con người và thiên nhiên, hẳn niềm hạnh phúc ấy không thể nào đến để tạo ra những tuyệt tác và đám hậu sinh chúng ta có được sự xúc động chân thành đến như vậy khi đứng trước chúng.

Kì lạ thay là tình yêu vĩ đại ấy. Nó biến sự chết lặng của những miếng màu bẹp dí trên vải thành sự xao động của hoa lá trong vườn đêm, thành tiếng sột soạt của tơ lụa óng mịn, thành mùi hương mê đắm của biển và ánh mặt trời rực rỡ…

Những bức tranh diễu hành qua mặt tôi. Trái tim nức nở và mắt nhòa lệ. Ngay lập tức tôi thấy mình đang đi giữa ánh sáng mờ ảo của những phòng tiệc lớn vào cái thời cách đây vài trăm năm với những chiếc lông chim và tà áo lụa dài chạm vào da mát rượi, với những bờ vai nõn nà và những lọn tóc giả bằng tơ óng, thậm chí đôi khi còn như rơi vào giữa một cuộc chiến đẫm máu với giáo mác gươm đao sáng lòe. Hoặc tự nhiên thấy mình đang lạc bước trên những đường phố tuyệt đẹp của Paris hay nằm dài trên những đụn rơm thơm nồng nàn của xứ Provence ngắm mây trời bay…

Ai là người có thể cùng một lúc đưa lại cho ta những cảm giác tuyệt vời như thế ngoài Hội họa?

Ở những bảo tàng Mỹ thuật hiện đại như Moma ở San Francisco hay New York, tôi đã đến mà không phải để tìm thấy những cảm xúc êm ái và ngọt ngào như vậy. Thường ở những nơi này, họ trưng bày những bức tranh trừu tượng hoặc nghệ thuật xếp đặt và Video. Chỗ dòng đề chất liệu, luôn là từ “mixed” (trộn lẫn). Kết quả của mỗi một tác phẩm là sự trộn lẫn giữa âm thanh, ánh sáng, mùi vị, đồ vật, kĩ thuật, cảm xúc… Nó bề bộn như cuộc sống hiện đại với đủ thứ lo âu và khao khát. Nó thảy chúng ta vào một cái túi tối đen rồi đột ngột lôi chúng ta ra ngoài ánh sáng chói chang. Nó dồi chúng ta trên những ngọn sóng dữ tợn nhất của bão tố, quất vào mặt ta những ngọn gió buốt nhất của giá rét, gõ vào tai ta những tiếng động ầm ĩ nhất… cho đến khi tim ta rướm máu, tay chân ta mỏi nhừ và đầu óc ta căng ra như một quả bóng thì nó tống ta ra cửa. Ấy vậy mà bỗng nhiên, như một phép màu xảy ra, khi hít thở khí trời và đối mặt với cuộc đời thực, ta bỗng thấy cuộc sống tươi đẹp lên bội phần. Đáng để cho ta yêu và sống thực đàng hoàng với những năm tháng sẽ đến. Và chúng ta ra về. Lòng tràn ngập niềm biết ơn vô hạn.

Một lần, tôi và Vinh ghé thăm Bảo tàng Mỹ thuật ở San Francisco. Vinh là bạn cũ của tôi từ năm lớp Tám. Đến khi lên cấp Ba mỗi đứa mỗi nơi. Trong trí tôi Vinh vẫn chỉ là một cậu bé con nhỏ người, ngồi bàn cuối cùng trong một lớp học tăm tối, ẩm thấp, thỉnh thoảng bay lên mùi phân mèo và mùi mưa ướt át. Nhưng Vinh bây giờ đã khác. Cậu to cao, đẹp trai hơn với mái tóc đinh chải keo bóng loáng, với áo sơ mi trắng và áo khoác ngoài bằng da nâu thoang thoảng mùi nước hoa (trong đêm lạnh và sương mù của San Francisco, nó trở nên vô cùng quyến rũ). Nhưng quan trọng là trông cậu tự tin hơn. Sự tự tin đó tỏa ra từ ánh mắt sáng và tiếng cười giòn giã.

Cậu nhìn đời bằng đôi mắt háo hức của kẻ muốn chinh phục và chiến thắng. Điều đó có thể lý giải được vì có thể gọi cậu là một trong những người Việt Nam trẻ tuổi có những bước đầu thành công trên một đất nước xa lạ không phải là quê hương của mình khi được nhận bằng kỹ sư vi tính và có chân trong hãng Microsoft. Để xua tan cơn buồn ngủ, trên đường xuống Los Angeles, trong khi tôi bắt đầu gà gật, cố gắng dấu đi những tiếng thở dài cứ chực bật ra thì cậu có thể nói không biết mệt mỏi về cái mớ bòng bong giữa triết học và chính trị. Tham vọng làm chính trị của cậu không bị che giấu nên cứ sáng rực lên trong mắt, dù cậu hiểu rằng, cơ hội cho cậu ở đất Mỹ là hoàn toàn không thể.
 
F

fantastic_97

tiếp ~~~~~~~~~~~~!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!********************+++++++++__________

Giờ đây chúng tôi thay đổi vị trí cho nhau. Tôi say sưa với những tượng và tranh bao nhiêu cậu trông lại càng thảm hại bấy nhiêu. Cậu ngồi trên một ghế băng dài, mặt thẫn ra và luôn tay đưa lên che miệng ngáp, nước mắt chảy dàn dụa trên mặt. Rồi cậu thốt lên yếu ớt “Trời ơi mình đói quá. Đói đến run cả tay chân” như một lời bào chữa cho sự uể oải của mình.

Ngoài sân, một cái sân rộng lót gạch xám dựng đứng những cây cột bằng thạch cao trắng cao vút, một đám cưới đang diễn ra dưới chân tượng “Suy tư” của Rodin. Những cô nàng phù dâu mặc những chiếc áo dài lụa xám như sương khói. Nắng tỏa một lớp bụi vàng óng ánh lên người các cô, biến các cô thành tiên nữ và khung cảnh đẹp như thần tiên. Vang trong gió những tiếng cười hồn nhiên và những chiếc chuông bạc đính trên thắt lưng của họ rung lên những tiếng trong trẻo, chúc phúc cho đôi vợ chồng son.

Tôi ngồi xuống bậc tam cấp đá mát lạnh. Trong không khí bay lên những bọt tròn nhỏ đầy màu sắc. Chúng đột ngột vỡ ra làm bóng tối màu nâu đất phủ quanh bức tượng người đàn ông đang ngồi trầm tư chuyển sang xanh non và lấp lánh những tia lửa nhỏ. Tôi cảm giác người đàn ông sắp cử động. Chàng sẽ hạ bàn tay chống cằm xuống, đầu chàng sẽ ngẩng cao và từ khóe mắt sẽ rỉ ra hai dòng nước.

Chàng đang nghĩ gì? Ngồi giữa trời đất bao la, trầm mình qua mưa gió, chàng nghĩ về một tình yêu bất tử hay một hạnh phúc dài lâu của đời người? Chàng nghĩ về sự bất hạnh hay nỗi đau khổ đời đời của nhân loại?

Hay chàng đang nghĩ thời khắc thật ngắn ngủi và ngày trôi qua như gió như mây, mọi thứ danh lợi đều là phù du. Sao người với người không biết thương yêu mà cứ mãi dằn vặt nhau cho đau khổ?

Chúng ta đứng dưới chân chàng, nghĩ về những điều chàng đang nghĩ. Bỗng nhiên từ một nơi xa xăm nào vọng lên một tiếng thở dài buồn bã. Chúng rền rĩ chạy trên đầu tôi như ngọn gió ướt đẫm sương mù từ ngoài cầu tàu Người Đánh Cá thổi lại. Thứ gió này tôi thường cảm thấy mỗi khi đi dạo ngang qua Đài tưởng niệm chiến tranh Việt Nam, nằm trong công viên Washington DC mặc dù ở đây không có biển, không có cầu cảng, không có sương mù. Chỉ có dòng Potomac trong xanh và những hàng cây xinh đẹp tỏa vào không gian hương thơm mát. Những đám đông thường đến đây đi dạo trên những đường lát ximăng xám rậm rạp cỏ hoặc đến ngồi trên những ghế đá trong ánh nắng của ban mai hay chiều tà đột ngột chuyển sang màu xanh nước biển.

Buổi sáng đầu tiên ở nước Mỹ, Mary dẫn chúng tôi tới đây. Mary vâm váp, tóc vàng óng. Chiếc váy đen hai dây dài ngang đầu gối lộ ra đôi vai to khỏe và nước da nâu óng lốm đốm tàn nhang. Mary làm hướng dẫn viên du lịch, cô nói nhiều, nói nhanh, hàm răng sáng lên lấp lánh. Các từ cứ ríu ríu vào nhau, lại được thể hiện bằng một giọng hơi thé, cuối câu không hạ xuống thấp mà cứ mải bay lên cao nên rất khó nghe. Mỗi lần ngừng lại, cô lại thở dốc, uống một ngụm nước to và đưa khăn lên thấm mồ hôi rịn đầy trên trán. Khi biết tôi đến từ Việt Nam, cô có vẻ hào hứng, cô thường dành cho tôi những nụ cười âu yếm và những cái xiết tay mạnh mẽ trong suốt chuyến đi. Cô chỉ bức tường đá khắc tên những người lính Mỹ đã nằm xuống trong cuộc chiến tranh Việt Nam, hỏi tôi nghĩ gì?

Tôi đã đứng nhìn những bức tường ấy rất lâu. Mặc dầu nắng lên lấp lóa trên mấy tàn cây, rọi xuống những đốm hoa nắng vàng óng như những đóa cúc nhỏ nhưng màu đen của đá lạnh vẫn mang lại cho tôi một cảm giác nặng nề. Giữa khung cảnh thanh bình, trời rất xanh, gió lại dịu dàng và không khí trong trẻo, bức tường dựng lên đột ngột như một cái gai khổng lồ, luôn sẵn sàng làm tứa máu ký ức.

Hơn hai mươi bốn năm đã trôi qua, nhưng không phải tất cả mọi điều đều đã trôi qua. Chắc chắn rằng những vết thương trong lòng những cựu binh Mỹ và Việt Nam không bao giờ còn lành lại được nữa. Ngày hoặc đêm, nó đều đã trở thành nỗi ám ảnh. Bên những bức tường như thế này, tất cả đều là những người bại trận. Bại trận trong quá khứ và đời sống bất an của mình.

Giờ đây, những bé em đang chạy đuổi theo quả banh trên luống cỏ, những cặp tình nhân khoác vai nhau thả bộ trên đường và ngay cả tôi cũng đứng ngoài nó, không thuộc về những mất mát và đau khổ đã khắc sâu trên bức tường đồ sộ của nước Mỹ, trên những bức tường mà nếu dựng lên ở Việt Nam, sẽ cao bao nhiêu, dài bao nhiêu và rộng lớn biết bao nhiêu.

Trong đám đông người dự buổi tham quan ngày hôm đó, không hiểu sao tôi thấy rất quí mến cô Plack vợ của David Plack, nhân viên chương trình Viết văn quốc tế dù tôi và cô không nói chuyện với nhau nhiều, thậm chí cả tên của cô tôi cũng không kịp hỏi. Cuộc sống của tôi, tôi vẫn thường ngẫm ngợi, thấy thật lạ kỳ. Có một vài việc chỉ thoảng qua mà không cách nào quên được. Chúng day dứt và trở thành sự ám ảnh trong trí.

Cô Plack không đẹp, giọng nói nhỏ và hơi thé, không chuẩn âm vì cô người Tây Ban Nha. Mái tóc hạt dẻ cắt ngắn, lộ khuôn mặt xương với đôi mắt to màu thép xanh có những ánh nhỏ đen thẫm nở xòe như một đóa pháo bông tí hon và hàng lông mi rậm rạp tựa bóng một hàng cây phủ xuống mặt hồ phẳng lặng. Trong chiếc váy vải hoa xanh nhạt cũ mỏng, tưởng chỉ cần vò mạnh tay chúng cũng bở vụn ra như cám, cô mảnh mai dịu dàng như những cây liễu mùa thu mọc quanh hồ công viên quốc gia Iowa. Mỗi một nụ cười của cô, mỗi một cử chỉ của cô đều rụt rè bối rối, e thẹn như một cô gái nhỏ chưa chồng.

Mỗi lần quay lại nhìn cô, bắt gặp ánh mắt trìu mến của cô nhìn chồng, lòng tôi thấy nhẹ bỗng. Tôi hay mơ hồ về một thứ tình yêu vượt biên giới. Nó có vẻ chắp nối và không thật, ít nhất là trong sự khác biệt về ngôn ngữ và sâu xa hơn là sự khác biệt về cội nguồn dân tộc. Có thể bởi vì chúng ta là người Châu Á, chúng ta vốn thấy những điều đó là lạ lẫm. Nhưng nhiều khi chúng ta quên mất rằng tình yêu có tiếng nói bí ẩn và ma lực của nó thì vô cùng. Chúng ta là những linh hồn nhỏ lang thang cô độc trong thế giới mênh mông này. Duyên cơ may gặp nhau thật vô cùng quí hiếm. Lại cứ như gió như mây thản nhiên bay đi mất. Trong đêm khuya, cuối một ngày của sự gặp gỡ và chia ly, tôi vẫn thường một mình nhẩm đọc bốn câu thơ của Bùi Minh Quốc “Có khi nào trên đường đời tấp nập. Ta vô tình đã đi lướt qua nhau. Bước lơ đãng chẳng ngờ đang để mất. Một tâm hồn ta đợi đã từ lâu...”. Khi tôi chợt nghĩ rằng đi bên cạnh David bây giờ không phải là cô ấy, mà là một người con gái Mỹ, cũng nhỏ nhắn đáng yêu, không phải như đám liễu thu bên hồ thì cũng như đám xa trục thảo trên cánh đồng và David vẫn thấy hạnh phúc thì trong sâu thẳm của tôi có một cây kim nhỏ nhô lên và cọ quạy. Tự nhiên mà thấy tình yêu có vẻ giản đơn, lớp vỏ bọc lấp lánh muôn sắc màu quanh nó giảm đi mười phần đẹp đẽ.
 
F

fantastic_97

tiếp ~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~

Thật chẳng hay ho gì khi đứng ngắm họ mê mải để nghĩ ngợi những điều mà mọi người cho là vô lý. Nhưng tôi vẫn một mực nhất quyết rằng, trong đời có thể yêu nhiều lần nhưng trong những lần yêu đó vẫn chỉ có duy nhất một tình yêu có thể vượt lên trên hết mọi sự tầm thường của sự sống và cái chết khi gặp được đúng một nửa còn lại của mình.

Ôi lại là cái câu “một nửa còn lại của mình”, xem có vẻ sách vở và buồn cười. Nhưng chẳng phải có người suốt một đời chỉ sống trong cô đơn mặc dù đã qua nhiều lần yêu và cưới, lại có người mãi mãi hạnh phúc bền lâu với chỉ một người?

Chúng ta xem như những nửa bóng xanh đỏ tím vàng... bay trong không trung. May mắn thì nửa vàng gặp được nửa vàng hòa hợp. Kém may mắn hơn thì nửa vàng ghép với nửa đỏ, nửa xanh ghép với nửa tím, cũng thành bóng tròn nhưng sắc màu đối chọi. Vô duyên thì nhìn thấy nhau đấy mà lại bay trượt qua nhau, hoặc suốt đời chẳng bao giờ gặp mặt nhau.

Với những điều này, đôi khi thời gian lại chiếm một vị trí quan trọng. Trong những ngày ở Virginia, tôi được xem bộ phim Video “Cánh cửa trượt” với cô đào Gwyneth Paltrow xinh đẹp thủ vai chính - Helen, một cô gái bị mất việc làm và bạn trai ngoại tình. Nhưng số phận của Helen lại được quyết định bởi những cánh cửa trượt của chiếc tàu điện ngầm ở Luân Đôn. Từ sở làm về, nếu như lên được tàu trở về nhà, cô sẽ phát hiện người yêu đang ngủ với người con gái khác, cuộc sống của cô sẽ rẽ sang một con đường mới. Còn nếu như bị trễ tàu, tương lai của cô sẽ hoàn toàn khác hẳn. Sẽ lại sống trong sự dối trá và chán chường. Hai câu chuyện song song với nhau trong phim mô tả hai cuộc sống của Helen theo hai hướng khác nhau: nếu trễ tàu và nếu không trễ tàu...Chỉ cần một giây đồng hồ cũng có thể thay đổi cuộc đời chúng ta. Cũng có thể biến chuyện không thành có, biến sự va chạm bất hạnh này thành niềm hạnh phúc mới mẻ, tinh khôi.

Tôi nằm vục đầu trong chiếc chăn bông thơm mùi hồ dán, nghĩ mãi về hai từ “khoảnh khắc” mà không sao ngủ được. Ngoài cửa sổ bình minh lên loang lổ sau những rặng cây màu tím nhạt. Con chim bé xíu có chiếc mỏ đỏ hung hăng gõ tóc tóc vào mặt kính cửa sổ đẫm nước, tóc tai dứng đứng cả lên. Trời mưa nhẹ, phủ một lớp bột xám lên những đám lá phong đang nhuộm vàng. Một sớm thu thường bắt đầu trong trẻo và ướt át như thế.

Vào những ngày tháng này đêm rất đẹp. Trờiø đôi khi xanh màu lá vì ánh vàng lấp lánh từ những rừng thu hắt lên. Đêm xanh xao thơm mùi lá và đất ẩm ướt. Gió thổi rầu rĩ qua những vòm cây. Sương bay chập chờn trong không khí thành những đám khói xám trắng, ánh lên một chút phấn hồng nhờ ánh đèn xe. Tôi thích ngồi trên xe, xuyên qua đêm, xuyên qua những con đường mòn đến tận ba bốn giờ sáng mới quay về nhà. Qua ánh đèn xe mù mịt tôi nhìn thấy những vụng nước nhỏ đọng đầy ánh trăng nằm lặng lẽ dưới những thân cây tím sẫm, sáng lên trong bóng tối như những miếng gương vỡ tráng bạc. Thấy vài chiếc lá phong màu huyết dụ hoặc vàng chanh đâm xuyên qua đám khói như một cánh bướm nhỏ rồi dịu dàng chạm đất. Thấy cả nỗi buồn mơ hồ và sự cô độc của đêm tràn ngập trong lòng.

Trong những chuyến đi này thường có Ma (Minh Anh) đi cùng tôi. Đó là một cậu bé già dặn trước tuổi, gầy và cao với những nét đẹp hơi lạnh và đôi mắt dài đa cảm. Sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học, cậu sang đây theo chương trình du học tự túc. Vậy mà sống giữa một đất nước của quần Jean áo thun, cậu chỉ mặc quần Tây, áo sơ mi dài tay. Mùa hè xắn lên trên khuỷu tay, mùa đông cài măng séc. Tất cả mọi người ở nơi đó và chính cậu cũng tự nhận mình là người lập dị.

Ma để tóc dài ngang vai, những sợi tóc mềm dính bết vào nhau được cột túm một chùm sau ót bằng dây thun (nhưng nói cách nào đi nữa, nó vẫn làm cậu trông đáng yêu và lãng mạn hơn). Cô nàng da đen to béo ở Costco của Tuấn và Phú rất yêu mái tóc của cậu. Cô ấy đứng gác ở cửa ra vào, đắm đuối nhìn theo mái tóc của Ma mỗi khi cậu đi ngang qua và bối rối mỉm cười. Giây phút đầu tiên nhìn thấy cậu, mái tóc đã như là khởi đầu của một chuỗi hồi ức tươi đẹp về sau này của tôi khi nhớ đến cậu.

Nhớ một cậu bé hè cũng như đông, chỉ đi lẹt quẹt một đôi dép lê, hở những ngón chân có lớp da hồng nhăn nheo vì lạnh và gót chân bám đầy đất. Nhớ một cậu bé thông minh nhưng lười biếng, có thể bỏ hàng chục giờ đồng hồ để chơi game nhưng chỉ cần nửa giờ đọc sách. Nhớ một cậu bé đãng trí đến độ suốt một học kì đến lớp, thi đạt điểm giỏi mà không biết mình học nhầm lớp trên. Nhớ một cậu bé với năm trăm lẻ bốn giờ của yêu thương dịu dàng êm ái. Tình cảm cậu dành cho một người con gái từ xa đến có gì thật cảm động và khác người. Và đẹp vì cậu hồn nhiên dám phơi bày nó trước mắt mọi người tình cảm của mình, mặc cho những lời chọc ghẹo và mặc cho nó đầy tuyệt vọng. Cậu chải tóc gọn gàng, chân rửa sạch sẽ, đi giày bata cột dây lịch sự, nhịn tiền tiêu vặt để mua một chiếc vé xem hát giá bốn mươi lăm đô, nấu những món ăn người con gái đó yêu thích, đứng hơn hai giờ bên một cây phong lá đỏ để chọn hái những chiếc lá đẹp nhất, rực rỡ nhất tặng cô và gần ba giờ sáng vẫn còn ngồi bên đàn dạo khúc nhạc tình của Bethoven, để đầu dây bên kia, ở một tiểu bang cách Virginia hai giờ đồng hồ, cô gái nằm ôm điện thoại ngủ ngon lành.

Cái tình của cậu mới thật lạ lùng. Nó đắm say nhưng tỉnh táo. Nó mơ hồ như buổi chiều đầy mây mù nhưng lại rõ ràng như buổi sáng mùa hè đầy nắng. Trong cùng lúc, nó được sống rạch ròi khi như tình chị em khi như tình trai gái. Nó làm cậu đau khổ nhưng nhẹ nhõm. Nó làm người con gái cảm thấy lúng túng nhưng thật sự hạnh phúc.

Hạnh phúc ấy đến từ sự biết ơn nên trong trẻo và dịu dàng. Mỗi khi nghĩ về nó tự thấy lòng thật ấm áp. Như là những lúc ngắm nhìn lại những chiếc lá phong ép khô còn giữ được sắc đỏ tươi, để hiểu rằng người đã xa nhưng tấm chân tình ấy vẫn còn nguyên vẹn.

Có thể bây giờ là mãi mãi, không còn ai nhặt lá thu phong, chơi đàn giữa đêm khuya vắng. Không còn ai giận hờn, an ủi. Tóc cũng không còn dài đến ngang vai. Trên cây tình yêu hoa lại một lần nữa nở rộ. Những kỉ niệm sẽ vì thế phai nhạt dần đi. Nhưng trong trí tôi thỉnh thoảng lại vang lên hai câu thơ của cậu “Minh nguyệt mỏi mắt tìm ngọc cũ. Anh hùng khổ dạ nhớ sông xưa”. Đôi mắt của cậu, người em, người bạn của tôi đêm cuối cùng mới thật to và xanh trong.

Tôi nhớ cậu, là nhớ lại tất cả những kỷ niệm đã có với Tuấn, Phú, Nhơn, Tèo, Sơn trong một căn hộ cho thuê trên tầng một của tòa nhà số 7 300 khu Monticello. Chỉ có Phú và Tuấn là theo cha mẹ sang đây định cư. Những người còn lại, cũng như Ma, du học tự túc tại trường Nova (riêng Sơn học ở trường Mason).

Một phần ba thời gian của chuyến viễn du tôi trú chân tại đây. Căn phòng có hai phòng ngủ, một phòng khách, một bếp, một công trình phụ giá chín trăm đô một tháng và có khung cửa kính lớn trông xuống bãi để xe. Đứng ngoài ban công sẽ nhìn thấy được những cây cành đang trút lá và một bầu trời đêm đen thẫm lấp lánh trăng sao trong khi gió thổi như giông bão. Chỉ có một điều phiền toái là đêm khuya, việc đóng mở cánh cửa gặp khó khăn. Chúng cứ kêu lên ken két và lập tức sáng hôm sau, một cái đầu bù xù ngái ngủ sẽ thò vào cửa càu nhàu vì đêm qua bị quấy rối.

Chỉ vào buổi tối chúng tôi mới gặp mặt nhau đầy đủ, ăn những bữa ăn nấu vội nhưng thật sự là những bữa ăn vui vẻ, ấm cúng. Thời gian đó tôi ngốn một số lượng phim khổng lồ và chỉ chịu đi ngủ khi đồng hồ chỉ ba, bốn giờ sáng. Những phim này, có cuốn tôi đã xem ở nhà, nhưng giờ coi lại, với những người bạn của tôi, bỗng nhiên tươi mới và sâu sắc hơn hẳn. Là vì sau mỗi lần coi như vậy, tôi vẫn thường hay tranh luận với Phú, cậu bạn nhỏ thó có nụ cười rất tươi làm sáng gương mặt ốm nheo, người đã bỏ hàng mấy giờ đồng hồ lái xe từ Philadelphia về Virginia để kịp gặp tôi, vào buổi tối đầu tiên tôi đặt chân lên nước Mỹ.

Phú không đẹp trai, lại hiền lành, nhút nhát và hay khóc. Hoặc chỉ bởi vì cậu tốt quá, làm gì cũng muốn dành điều tốt đẹp nhất cho bạn bè, làm gì cũng nhường nhịn, lo lắng sợ bạn bè phật ý, thường đến cuối cuộc chơi mới tự mình lùi vào trong một góc tối, trái tim run rẩy vì tiếc nuối những điều lẽ ra phải làm thì lại để vụt bay qua mất. Vì thế mọi người chơi với cậu, cảm thấy cần cậu nhưng trong thâm tâm có chút gì coi thường cậu. Tội nghiệp cậu. Nhưng tôi không biết nói gì. Tôi chỉ ngồi im lặng bên cậu, xiết nhẹ bàn tay nóng ran như lên cơn sốt của cậu, hy vọng sẽ làm lòng cậu nhẹ nhõm hơn.

Đôi khi tôi đột ngột quay lại và như trong bóng tối mênh mông thơm mùi bắp rang của rạp chiếu phim “ABM” bên thành phố Crystal, khi chỉ có độc hai chúng tôi ngồi coi cuốn phim “Những cậu con trai đừng khóc”, tôi nhìn thấy những giọt nước mắt nóng hổi sáng long lanh trên gò má cậu.

Tôi hiểu sự cô đơn là nỗi sợ hãi trong lòng cậu. Đó là lý do vì sao cậu không muốn mất bạn bè, vì bất cứ một lý do nhỏ nhặt nào.

Cũng vì sự cô đơn ấy nên mỗi lần cầm điện thoại, Nhơn có thể nói chuyện hàng ba bốn giờ liền không ngừng lại được. Bọn bạn thường hay kể về Nhơn, bằng một giọng bông phèng nhưng âu yếm, về giấc ngủ và nhu cầu nói điện thoại của cô. Chỉ cần ngồi lên xe trong vòng năm phút, dù nhạc bật rock muốn vỡ cả loa, sau vài cái nhún nhảy là cô đã ngoẹo đầu ngủ ngon lành. Thỉnh thoảng cô nhỏm đầu dậy, đôi mắt đen láy nhìn không chớp qua cửa kính, thốt lên thảng thốt, trời ơi đẹp quá. Người bạn đường vội quay lại bắt chuyện, khen trời xanh mây trắng bay thật đẹp thì cô đã lại lịm sâu vào giấc ngủ. Trong cách cô bình yên ngủ, trong cách cô cười dòn khoe hàm răng sáng bóng, trong cách cô chọc ghẹo mấy cậu bạn trai, trong cách cô bạo mồm buông ra câu chửi thề đầy tự nhiên và nhẹ nhõm, chẳng ai nghi ngờ gì nữa, cô sống vô tư và đơn giản. Thậm chí đôi khi nó còn làm người ta bực cô.

Nhưng bình minh của một ngày ấy, ánh lấp lánh màu hồng ngọc của những tia nắng rọi qua cửa kính phủ lớp bụi mỏng đã vô tình làm vỡ vỏ bọc bên ngoài của cô.

Cô nằm run rẩy trên giường, bé bỏng và yếu ớt như một con chim non bị trúng thương. Gương mặt xinh đẹp và đôi mắt thiên thần ướt đẫm nước. Vì cố kìm tiếng khóc nên ngực cô chỉ phát ra những tiếng nấc nghẹn. Tôi ngồi bó gối nhìn cô, trên một chiếc nệm nhỏ bề bộn sách vở, không biết nói gì. Tôi chỉ biết là nên để cô khóc. Khóc cho một tuổi thơ cơ cực và mất hết tương lai. Khóc cho những ước mơ bị gãy cánh khi bước chân vào đời. Khóc cho những năm tháng cũ phải trả một giá khá đắt để có một ngày mai sáng sủa hơn. Khóc vì một tình yêu đầy tuyệt vọng. Khóc vì những điều phiền muộn này không thể nói được cùng ai. Chỉ có tôi. Nhưng tôi không ở bên cô mãi. Một vài ngày nữa tôi sẽ phải ra đi.

Nên khi tất cả mọi người đều thấy cô cười, cười rất nhiều rất tươi thì tôi chỉ luôn thấy những giọt nước mắt ngập ngừng lăn trên gò má mịn màng của cô. Và tiếng cô thì thầm bối rối “Khóc được rồi tao thấy nhẹ như không. Ngày mai lại có thể đùa vui. Mặc ai bảo mình hời hợt cũng được. Sống ở đây, ngày nào thần kinh cũng căng ra, không biết tự làm vui mình thì chỉ suy sụp mà chết”.

Về sau, khi cô rời Virginia sang Texas học, mùa đông dường như dừng chân lại rất lâu trong căn phòng nhỏ. Mọi người không thể ngờ sẽ nhớ cô nhiều đến thế. Đôi khi lại thảng thốt bắt gặp mình đang đợi tiếng kẹt cửa và mong chờ cánh cửa sẽ mở ra. Cô sẽ bước vào mang theo ngọn gió xuân ấm áp và tiếng cười giòn tan vô tư lự.
 
F

fantastic_97

tiếp ~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~

Lúc đó mọi người hiểu rõ ràng hơn, không phải chỉ lần này, mà rất nhiều lần khác nữa, vì vô tình họ đã đánh mất những khoảnh khắc lý ra đã rất ấm êm và hạnh phúc trong đời sống vốn đầy bất an của mình.

Tôi thường ở nhà hoặc vào Washington DC một mình. Sáng sớm họ đã ra khỏi nhà và chỉ trở về trong buổi tối muộn. Người đi học ban ngày buổi tối về lại đi làm thêm ngoài quán ăn Nam Việt đến mười một, mười hai giờ khuya. Công việc nặng nhọc là đứng bếp, rửa chén. Nhẹ nhàng hơn như Nhơn và Tèo, làm phục vụ bàn. Tiền tip vừa đủ trả tiền nhà, tiền học. Buồn ngủ cũng chỉ dám chợp mắt một lát rồi ngồi vào máy, hì hụi học bài đến ba, bốn giờ sáng. Ngày mai sẽ lại tiếp tục như một ngày đã qua. Buồn ngủ và mệt mỏi trở thành bệnh kinh niên. Có dịp nó bùng lên, làm đảo lộn mọi sắp xếp đã có sẵn.

Anh chị họ tôi cũng ở trong một căn hộ cho thuê (và có lẽ suốt đời họ sẽ ở như vậy), nhưng nó nhỏ và rẻ tiền hơn trên đường Parkwood. Buổi tối hôm gặp chị, trời giá lạnh và lây rây mưa. Những sợi mưa bạc xuyên qua những tàn lá xanh sẫm, bay vướng vào người như tơ. Những kính cửa run rẩy. Mùi bữa ăn chiều vẫn còn phảng phất quanh phòng khách. Dưới ánh đèn vàng, chị nhỏ bé, xinh xắn trong chiếc áo đầm đỏ rực rỡ của một cô thiếu nữ. Hương nước hoa, có lẽ từ mái tóc nâu của chị thoảng qua rất nhanh. Chỉ khi ngồi sát bên cạnh chị tôi mới trông rõ quầng thâm dưới lớp phấn dầy và những nếp nhăn chạy vòng quanh mắt. Thời gian quả thật là chẳng tha một ai. Chị ấy đã già rồi. Chẳng mấy chốc nữa sẽ lại đến lượt tôi.

Hầu như tất cả mọi thời gian trò chuyện của chúng tôi đều dành cho riêng chị. Thời khóa biểu của chị bảy ngày như một. Sáng tám giờ rưỡi chị đến làm việc cho một tiệm làm móng tay của người Mỹ. Tối chín, mười giờ mới về đến nhà, tay chân rã rời. Tối thứ bảy, chủ nhật lại đi hát cho những đám cưới của người Việt. Bệnh cũng không dám nghỉ vì sợ mất khách. Còn anh làm thợ hớt tóc, lượng công việc có ít hơn nhưng cũng trải dàn đều khắp tuần. Hẹn một ngày chở chị vào Washington DC xem hội hoa đào bên dòng Potomac, nhưng bảy mùa xuân qua vẫn chỉ là lời hứa với nhau. Dần dần chị tự cảm thấy mình như một cái máy. Giận dỗi, yêu thương...mọi cảm giác dường như đông cứng lại. Chỉ có nỗi lo sợ không có tiền để trả nợ nhà, xe... cùng tất cả các chi phí khác trong cuộc sống của hai vợ chồng và gửi về Việt Nam phụ giúp bố mẹ chồng đốt nóng cơ thể, giúp cho chị không quỵ ngã.

Cho đến bây giờ, trong trí chị, Việt Nam vẫn như ngày chị đi. Cuộc sống vẫn bần hàn. Nhà cửa vẫn lụp xụp. Sợ nhất là nhà vệ sinh chật hẹp và hôi hám. Khi tôi bảo Việt Nam giờ khác nhiều. Có nhà ở còn sang hơn cả nhà Mỹ thì chị ngẩn người, luôn miệng hỏi “Really?”. Rồi chị buồn bã bảo, Việt Nam bây giờ xa cách chị nhiều.

Chị có điều gì muốn giấu tôi. Mỗi lần định nói ra lại lúng túng dừng lại. Đôi môi run rẩy. Mắt hoe đỏ như sắp khóc đến nơi. Những ngón tay xanh xao của chị níu chặt mép váy cho đến kì nổi gân lên mới thôi. Đêm cuối cùng chia tay nhau trên những bậc tam cấp tối mờ dưới sân rụng đầy lá, chị ôm tôi trong vòng tay mảnh dẻ của mình, nói khẽ, anh chị chắc sẽ chia tay nhau. Chị phát hiện ra ảnh có bồ. Tha thứ bao nhiêu lần rồi vẫn vậy. Em bảo, sống cùng nhau làm sao được nữa khi nằm bên nhau tâm trí lại thơ thẩn đến với người khác. Mà em về đừng cho ba má ảnh biết.

Chị chỉ ngạc nhiên, chị đã làm hết tất cả mọi việc để lo toan cho cuộc sống của anh chị, lo cho cả gia đình bên chồng mà anh ấy vẫn phụ chị. Thôi để chị đi. Chị ước gì có em ở mãi đây bên cạnh chị. Hai chị em tâm sự với nhau cho đỡ buồn.

Dùng dằng mãi chúng tôi mới chia tay. Chị đi rồi. Xe của chị đã lao vào trong đêm, nhưng mùi hương từ mái tóc chị vẫn vương vất ở lại. Nước mắt của chị bám trên má tôi thành những giọt hương mát lạnh. Tôi tưởng tượng ra một căn phòng nhỏ suốt ngày vắng bóng người. Năm này sang tháng nọ. Sự vắng lặng đó làm cho lửa cũng trở nên nguội lạnh chứ nói gì đến tình người.

Những ngày ở Mỹ tôi bỏ thói quen dậy muộn. Thời gian bây giờ đối với tôi thật hiếm hoi và đáng quí. Tôi luôn cảm thấy tiếc mỗi giờ phút sắp trôi qua. Tôi thường dậy khi trời còn mờ sáng. Sau tấm rèm cửa nắng xanh màu lá nõn uyển chuyển bay trên những nóc nhà cao tầng của thành phố New York và những tấm kính cửa bắt đầu sáng lên lấp lánh. Tôi mặc vội áo khoác, mở cửa bước xuống con đường vắng vẻ. Lúc này Lola vẫn ngủ say, mặt dúi vào gối. Hai cánh tay, hai cẳng chân trần to béo và đen bóng dang rộng, thò hẳn ra ngoài chăn.

Lola không phải là một cô gái đẹp nhưng biết làm điệu. Lại hồn nhiên, vô tư mặc dù đã có đứa con trai bốn tuổi và cuộc hôn nhân lần thứ Nhất gãy đổ, tiếng Anh cũng rất chuẩn nên tất cả mọi người đều yêu quí cô.

Tôi và Lola thuê chung phòng để tiết kiệm tiền đi chơi những nơi khác. Căn phòng nhỏ với hai chiếc giường nhỏ luôn luôn bề bộn quần áo, sách vở và tràn ngập mùi dầu thơm đặc biệt của nước Nigieria, rõ nhất là sau khi cô bước ra từ nhà tắm. Vì những cánh cửa sổ thường được khép lại nên cái mùi này không bay đi mà luẩn quẩn trong phòng cả ngày. Hôm đầu tiên nó làm tôi khó chịu, nhức đầu. Sau thành quen, thành nghiện. Những hôm về phòng đã được dọn dẹp sạch sẽ, mùi nước hoa xịt phòng át đi mùi hương của Lola, lại thấy nhớ.

Lola thường bôi nó lên mái tóc xoăn tít. Lên bộ váy sặc sỡ. Lên nước da đen nhẫy. Tôi không thể hình dung được nếu Lola dùng một loại nước hoa nào của Lancôme hay Christine Dior sẽ ra sao. Rõ ràng với một người như cô mọi chuyện đều có thể. Nhưng tôi không mong muốn điều đó và không tin điều đó. Cho dù tháng mười này cô sẽ cưới chồng ở NewYork và trong tương lai sẽ chuyển tới Luân Đôn.

Trong khi tất cả mọi người không thích thì tôi lại có cảm tình đặc biệt với nó. Bởi vì mùi hương này như là Nigieria của cô vậy. Người ta không thể quên hay lầm lẫn Tổ quốc được.

Nó thơm vị hắc, đặc quánh và béo ngậy. Nhấm nháp một chút, nó bắt đầu ngọt lên dần dần. Đến khi vị ngọt đã đông lại trên đầu mũi thì đột ngột tan ra, dịu dàng trở về vị hăng hắc ban đầu. Lần này nhẹ nhàng chứ không dồn dập như lúc đầu. Thêm vài lần đặc lại và tan ra như thế, nó đưa lại cảm giác nhẹ nhàng khó tả. Trong hơi lạnh của những ngày đầu thu nó làm không khí ấm lên và đầy quyến rũ.

Lola ồn ào và náo nhiệt. Cô ít buồn, thích ăn ngon, uống rượu mạnh, đọc thơ và hát ầm ĩ ngoài đường phố với một phong cách rất Mỹ. Mỗi khi có chuyện gì làm cô hứng thú, đôi môi dầy màu hồng nhạt lại trề xuống và đôi mắt vốn dĩ đã to của cô mở lớn, như một cái hồ sâu thẳm ai chẳng may trượt chân rơi xuống sẽ khó bơi vào được đến bờ.

Thỉnh thoảng Lola về lại mang theo một đống áo quần hoặc sách đại hạ giá. Cô tống chúng vào trong một cái túi kéo khổng lồ. Giá cả của những thứ vật dụng tốt và đẹp ấy rẻ đến độ làm cho tôi, một người luôn nhạt nhẽo với chuyện mua sắm cũng phải phát thèm và rối rít hỏi cô cửa hàng nằm ở đâu.

Nhưng phải may mắn mới gặp được đợt hàng giảm giá đặc biệt của các cửa hàng. Đó thường là vào những dịp lễ như Lễ Lao Động, Halloween, Giáng sinh... hay sắp tung ra một đợt mốt mới. Thời kỳ này, thời trang của các cô gái Mỹ vẫn là kiểu áo tay lỡ và đầm xẻ hai tà Hàn Quốc, màu tro, ruốc hoặc đen trắng. Ngay cả những cô nàng to béo cũng diện những chiếc áo Hàn Quốc ôm sát người, tự tin đi lại trên đường phố, mặc dù trông các cô giống một khúc giò thơm phức mùi nước hoa đang chuyển động. Trong tiệm Gab, một cái thắt lưng Ý giá hai mươi mốt đô có hôm hạ xuống giá bốn đô rưỡi, một cái mũ lưỡi trai mười lăm đô còn hai đô bảy mươi lăm... Hàng vẫn còn mới và thơm mùi hồ. Ngày nào trong siêu thị cũng có khách, nhưng vắng. Họ chỉ đi dạo theo kiểu “Window shopping” (mua sắm qua cửa kính) như một cách để giải trí. Người Mỹ cũng như người Việt, không phải lúc nào cũng sẵn tiền để vung tay. Đợi đến đợt giảm giá họ mới mua hàng. Và mua nhiều.

Chị họ tôi hồi mới sang, thời gian đi shopping còn nhiều hơn thời gian ở nhà và làm việc cho tiệm Mac Donald's. Vui cũng đi. Buồn cũng đi. Rảnh rỗi cũng đi. Mà bận rộn lắm cũng phải nhín chút thời gian để đi. Không đi thì nhớ. Giống như lên cơn ghiền. Nó nhiều thứ đẹp quá mà, chị ngượng ngùng phân bua, lại to rộng đi cả ngày không hết, không chán. Mình không có được cái đẹp đẽ sung sướng thực chất của nó thì hưởng nó trên bề mặt cũng được. Tôi nghe chị nói, thấy thật thương, thật xót. Cái câu của chị hiểu rộng ra có nhiều ý. Ngẫm lại mình, trong vạn sự, trong đời sống, trong tình yêu, trong sự cô đơn, trong thời gian... đều không thể nắm bắt được thực chất của nó.

Tôi ngồi trên một ghế băng nhỏ bằng đá trong một siêu thị nhỏ của Iowa chờ Sandy mua bánh mì. Giá cả ở Iowa so với Chicago hoặc New York giống như ở Hội An với Sài Gòn. Người dân ở đây cũng hiền lành, dễ thân thiện hơn. Hai tuần ở đó hầu như ngày nào chúng tôi cũng có một bữa tiệc tổ chức tại nhà của các nghệ sỹ hoặc giáo sư trong trường. Tôi không thích đến những buổi tiệc đông người. Nhưng chính ở đây, trong những căn nhà thơm mùi vỏ cây sấy khô này, trong những bữa tiệc của bia vàng óng và rượu vang thơm phức tôi tìm được những tình cảm vô cùng đáng quí.
 
F

fantastic_97

tiếp ~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
Một bà già bé nhỏ mặc một chiếc áo dài trắng bằng vải thô, trên vai khoác chiếc khăn lụa màu vàng, không hiểu sao chúng cứ sáng lên lấp lóa, hai mút khăn như hai bàn tay vẫy, đứng đón chúng tôi dưới chân cầu thang gỗ ẩm và tối. Bàn tay bà nhỏ nhắn, ấm nóng và thơm mùi dầu. Bà tên là Hualing Nieh Engle, người Mỹ gốc Hoa, sáng lập viên của chương trình viết văn quốc tế trường Đại học Iowa.

Chúng tôi theo bà lên lầu. Trong bóng tối những nếp váy chạm vào nhau loạt soạt. Mùi dầu nóng làm tôi thấy dễ chịu, như đang được về nhà mình.

Người đã đến rất đông, ngồi trên những ghế nệm bọc nhung đỏ trong phòng khách hoặc đứng ngoài ban công đầy gió. Họ lịch lãm và duyên dáng trong những bộ lễ phục trong khi chúng tôi áo quần xộc xệch, thậm chí Gleb còn đánh một chiếc quần cộc ngang đầu gối màu xanh lá mạ. Bà Hualing nhỏ bé, gần như là lướt đi trên sàn với tiếng loạt soạt của áo lụa mới, mời mọi người dùng bữa bằng một giọng nhẹ và trong vắt.

Cho đến lúc này tôi đã quen với kiểu ăn của Mỹ. Thức ăn thường béo ngậy vì pho mát, vì hương vị được tổng hợp từ đủ loại thịt trộn rau quả ướp lạnh, vì màu sắc lờ nhờ không gây được cảm tình và nó nhiều bằng gấp ba lần suất ăn của một người bình thường. Có lẽ vì thế người ta bảo dân Mỹ phàm ăn và số lượng người béo phì ngày càng tăng lên đáng kể.

Nhưng thật sự là chúng tôi đã có một bữa ăn ngon tuyệt vời ở nhà của Sandy. Đó là đêm cuối cùng ở Iowa, sau hai tuần thân thiện và gần gũi, nên ai cũng có vẻ buồn buồn. Trời bắt đầu vào thu. Những rừng sồi bao quanh khu nhà của Sandy lá vẫn xanh biếc nhưng trên các bờ dậu, những chiếc lá thon nhỏ đã bắt đầu chớm đỏ như những cặp môi son thiếu nữ. Gió thổi hơi ẩm vào nhà đánh thức những bông cúc kim vàng nhạt đang thiếp ngủ trên bệ cửa. Ánh sáng dịu dàng từ chùm đèn pha lê tỏa xuống làm bữa ăn thêm trang trọng và cảm động.

Mọi thứ đều giản dị nhưng tao nhã như chủ nhân của nó. Trên bàn người ta bày khoai tây hấp ăn với kem pho mát trắng tươi. Sườn heo rô ti màu huyết dụ theo kiểu Ấn đặt trên một chiếc đĩa sứ có viền vàng và chân bằng bạc. Một ít xà lách trộn với những quả ô liu tím thẫm đựng trong thố thủy tinh dùng với trứng luộc. Bơ chảy vàng óng trên những khoanh bánh mì nóng hổi. Có tới hai ba loại rượu trên bàn, như trong các bữa ăn Pháp. Sandy nói tiếng Pháp rất giỏi và yêu nước Pháp. Bà thường hay mơ màng về dòng nước xanh biếc trong lòng sông Seine, về ánh mặt trời màu hoàng yến khô ráo trên nóc nhà thờ Đức Bà Paris và mưa phùn ướt đẫm khu đồi Mongmac của các nghệ sỹ. Tôi không biết Paris đẹp và thơ mộng ngần nào, nhưng nhìn vào mắt bà tôi dám chắc chắn rằng trời Paris phải có màu xanh sâu thẳm như thế.

Bữa ăn chỉ có tôi, Sandy, Gleb và Kote. Chồng của Sandy đi công tác đã hơn một tuần. Hai đứa con trai đều đang làm việc ở Boston. Lâu lắm rồi bà không gặp chúng. Cái cảnh sống một mình, ăn một mình, ngủ cũng một mình thế này quen rồi. Đến khi ở với chồng, với con lại thấy lạ lẫm. Lại thấy gò bó. Ở đây, con cái lớn lên là đi chỗ khác. Sandy nói bằng một giọng nhẹ nhàng. Coi như nghĩa vụ của cha mẹ con cái đối với nhau chấm dứt.

Trong lúc dùng trà, một người Nga xa xứ đến đón Kote về nhà ông. Chúng tôi cũng dọn dẹp bàn ăn. Tối nay ở Hancher có biểu diễn ba lê. Nhưng khi chúng tôi đến nơi, màn cuối đã hạ. Gleb biến đi đâu mất hút. Sandy cười ý nhị, các cậu thanh niên bao giờ cũng thế. Có khi trong buổi tối này, cậu bé ấy sẽ gặp được một người trong mộng. Thấy tôi tỏ vẻ không tin, bà cười lớn, hãy đợi mà xem. Tình yêu đến với các nhà thơ rất nhanh và ra đi cũng rất nhanh. Cậu bé ấy lại là một người tình cảm...Mắt Sandy mơ màng. Điếu thuốc trên môi bà tỏa ra những vòng khói nhỏ xíu, cay cay ở mắt.

Mười hai giờ khuya tôi đang ngồi gà gật dưới phòng khách đợi bạn thì cánh cửa khách sạn bật mở. Gleb mặt đỏ bừng, đầu hơi chúi về trước làm đôi vai gồ lên như bị gù (cái dáng đi này làm anh có vẻ buồn rầu và khổ sở), bước xăm xăm tới cầu thang máy. Theo sau anh là một cô gái cao ốm, tóc vàng, trang điểm nhợt nhạt, mặc bộ áo quần bằng lụa đen, trông ra còn cao hơn Gleb cả một cái đầu. Gleb không thấy tôi. Chẳng mấy chốc thì họ đã biến mất.

Sáng hôm sau, Gleb ngồi ở một góc xe, buồn thiu. Tôi quay xuống, nửa đùa nửa thật, đêm qua anh ngủ ngon chứ? Gleb chớp chớp hàng lông mi dài sau cặp kiếng cận, mặt đỏ bừng lên, lúng túng, ôi Khê-đek, Khê-đek. Miệng cười một nụ cười như mếu.

Khê- đek là tên Gleb đặt cho tôi. Không hiểu sao Gleb không bao giờ nhớ và gọi được tên tôi. Chúng tôi vốn ít chuyện trò với nhau. Nhưng dường như có một lúc nào đó chúng tôi đã phải lòng nhau.

Bởi vì Gleb là một anh chàng rất đẹp trai, tóc hung, da trắng, môi nhỏ và đỏ như con gái, ngoại trừ chiếc mũi hỉnh rất Nga xô viết và toàn thân ướp nồng mùi thuốc lá. Gleb giống như một sợi dây tình cảm gắn liền vào quá khứ, vào cái thời chúng ta say mê hát những bài hát Nga, đọc những tiểu thuyết Nga bằng một tình yêu đắm đuối và mạnh mẽ. Mỗi lần nhìn Gleb, lại thức dậy trong lòng tôi hình ảnh của những hàng thùy dương hát, của những đàn sếu bay và những đêm trắng tươi đẹp ngự trị dài lâu trên thành Leningrad.

Bởi vì ngay buổi đầu gặp mặt, anh chàng mặt lạnh như tiền, đưa tay cho tôi bắt mà không nói tiếng nào, không cười với tôi một lần nào. Đã thế tôi cũng làm lơ, không cần bắt chuyện nữa. Cho đến buổi tối trong sân nhà Slam ở Chicago, tôi phát hiện ra một anh chàng Gleb khác: hóm hỉnh, tinh tế và hồn hậu hơn nhiều vạn lần ấn tượng ban đầu của tôi.

Năm ngày liền ở Chicago tôi không gặp được một người Việt nào, đi đâu cũng thui thủi môt mình. Giờ ngồi giữa khu vườn nhỏ có chiếc cổng gỗ bám đầy dây trường sinh xanh biếc, trông những ngọn đuốc nhỏ cháy sáng trong các góc tối, nghe tiếng đọc thơ trong phòng vẳng ra, tôi thấy nhớ nhà không sao chịu nổi. Có một bàn tay đặt lên vai tôi nặng trĩu và một giọng nói ấm áp vang lên “Cô thấy cô đơn à?”. Tôi ngẩng lên. Trước mặt tôi là anh chàng Gleb với nét mặt vẫn khó đăm đăm. Tôi bảo, phải, tôi thấy cô đơn. Tôi nhớ nhà. Gleb choàng vai tôi, cười dịu dàng “Vậy thì đi vào uống bia đi. Bạn sẽ thấy dễ chịu hơn”. “Nhưng tôi sẽ nhức đầu”. Gleb bảo, à bạn sẽ bị Khê-đek và khăng khăng bắt tôi phải phát âm cho kì được chữ này trong khi tôi chẳng hiểu nghĩa của nó là gì. Về dò từ điển không có, tôi đành cho rằng đó là một từ tiếng Nga đã được bỏ quên lâu lắm từ ngày tốt nghiệp Phổ thông Trung học. Buổi sáng gặp lại, Gleb hỏi tôi vồn vã “Khow-are you?”. Thế là tôi đã hiểu. Khê-đek là headache. Ở tiếng Nga không có chữ H mà chỉ có chữ X (khờ), nên bất kì chữ nào có mẫu tự H đều được Gleb đọc trại ra thành Khờ hết. Từ đó trở đi, gặp Gleb ở đâu, Lola cũng kêu ầm lên “Khow are you, Gleb?” làm anh chàng đỏ mặt tía tai.

Từ đó chết tên tôi là Khê-đek. Còn tôi gọi anh là Xlep (khờ lép) - Bánh mì.

Sự tinh tế và ân cần của anh lúc đó đã làm tôi sửng sốt và ấn tượng. Giống khi anh nói cộc lốc “Đây là mùi vị Nga” khi hai chúng tôi dùng món salad gà với vốt ca trong quán ăn nhanh ở Maryland để lấy sức tìm đường về nhà. Anh cúi mặt xuống đĩa thức ăn. Tôi để ý thấy tay anh run lên nhè nhẹ. Anh nhìn chằm chằm vào mắt tôi, nài nỉ, đây là tối cuối cùng. Hãy uống một ly với tôi. Vì ly rượu này mà cả đoàn phát hoảng tưởng tôi đã mắc phải một căn bệnh nóng sốt trầm trọng. Sau đó suốt buổi tối là sự im lặng đến khó hiểu. Thậm chí chúng tôi cũng không nhìn nhau một lần nào. Cho đến khi chúng tôi ôm hôn nhau từ biệt, Bánh mì mới nói, như là câu tôi muốn nói nhưng cổ họng cứ nghẹn lại “Tôi sẽ nhớ bạn rất nhiều”.

Và đó cũng là vì tôi đọc được một câu thơ của anh trong bài “Nỗi buồn”. Nỗi buồn như tuyết trắng phủ kín tâm hồn tôi. Tôi sẽ không nói nó hay hay dở. Tôi chỉ thấy nó giống như những gì tôi đang có. Những nỗi buồn thật đẹp và trong trắng. Những nỗi buồn thuộc về bản chất, hoang sơ và vĩnh viễn không mất đi. Trong nỗi buồn đó ta vui sướng nhận ra ta là Người và người nhận ra người với nhau.

Điều này cứ day dứt mãi, ranh giới giữa Niềm vui và Nỗi buồn và mọi cảm xúc.

Tuấn hay kể cho tôi nghe ngày mới sang nước Mỹ. Một ngày giữa mùa đông giá buốt. Tuyết phủ trắng khắp nơi. Trắng đến nao lòng. Đi giữa tuyết trắng, mặc không biết bao nhiêu áo mà vẫn rét run lên. Hồi đó nghĩ vì chưa quen thời tiết, nhưng thật ra không phải vậy. Thường khi trời có tuyết không khí khô ráo và ấm hơn nhiều. Chỉ tại cái lạnh từ trong lòng lạnh ra. Mà nếu là như vậy thì chẳng có áo nào khăn nào làm ấm nổi. Nhìn tuyết rơi nước mắt cũng rơi không cầm được.

Thứ tình yêu mà cậu nuôi nấng trong tim bao nhiêu năm trời cũng như tuyết. Có khi nó đông lại thành băng cứng. Có khi lại chảy tan ra dưới ánh mặt trời ấm áp đầu xuân. Nhưng bởi vì nó trong sáng và hồn nhiên quá, nên chỉ cần một vết dơ nhỏ cũng làm tổn thương. Tôi vẫn mong mỏi mối tình của cậu đơm hoa kết trái, nhưng lòng luôn mơ hồ sợ hãi sự xa cách sẽ giống như bão tuyết, làm cây cành trụi lá trơ trọi.

Mọi người bảo Washington DC và Virginia là thủ phủ của các loài hoa. Nhưng chỉ trên những đường phố New York, hướng về Times Square tôi mới thấy người ta bán hoa ngoài đường nhiều như vậy. Những bó hoa bọc giấy kiếng, cắm trong những xô thiếc xám hoặc những thùng gỗ nhỏ, nước ri rỉ chảy qua miệng nẹp bằng sắt thành những giọt trong và sáng như ngọc. Sang trọng hơn có những quầy nhỏ với hai cửa kiếng đục luôn luôn mở rộng vì lượng hoa quá nhiều phải đặt tràn ra lề đường. Những bông hoa to khỏe, sặc sỡ. Chúng là một tổng hợp hỗn độn của những màu sắc đối chọi nhưng vô cùng hài hòa. Trên những cánh hoa mỏng mảnh dường như còn bám đầy sương của những miền đất xa lạ. Chúng tựa đầu vào vai nhau, thầm thì hát với nhau những bài ca của màu sắc. Chỉ có điều lạ là ngay cả khi dúi đầu vào trong đám hoa khổng lồ, tôi vẫn không tìm ra được một chút hương nào gây ấn tượng. Chúng hầu như không có hương thơm, ngoài một chút ngai ngái của cỏ dại và lá cành tươi mới cắt. Điều đó làm tôi thất vọng. Giống như khi ngắm nhìn một cô gái đẹp. Nhưng sau vẻ đẹp kì diệu ấy đã là một dấu chấm hết.

Nhưng dù sao chúng vẫn làm sáng ngời lên những đường phố tập nấp ồn ào và làm dịu đi sự căng thẳng mà những tòa nhà cao chọc trời mang lại.
 
F

fantastic_97

tiếp ~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~

Trong khu vườn nhỏ bao quanh căn nhà gỗ ở khu Falls Church, bên những gốc dẻ bị cưa sát đất, bên những cây anh đào trụi lá, những cây liễu hoàn diệp xanh biếc và những cây phong cháy đỏ, ba mẹ Tuấn trồng rất nhiều hoa. Đó là lý do vì sao hôm nào trên bàn ăn hoặc trong phòng khách cũng có một bình hoa to rực rỡ, đông cũng như hè. Cách một vài ngày Nhơn lại sang nhà, nói đùa vài câu ồn ĩ phá tan sự vắng lặng của khu vườn rồi lại ào đi mất hút, mang theo một bó lớn cúc, tầm xuân hay sâu nhái với khuôn mặt bắt đầu ửng hồng vì sung sướng.

Ba mẹ Tuấn yêu hoa bằng một tình yêu da diết. Những người vốn yêu hoa như vậy tâm hồn thường quá đỗi nhạy cảm và dễ bị tan vỡ. Chỗ của họ không phải là ở một cuộc sống căng thẳng như thế này. Ở một nơi mà mọi thứ luôn trở thành lạc lõng và xa lạ.

Chúng tôi ngồi quanh chiếc bàn hình bầu dục. Bóng chiều bò qua những khe cửa gỗ luồn vào phòng làm cho mọi vật tối sầm lại. Ánh đèn vàng giúp cho khung cảnh ấm hơn. Nhưng không làm tan đi được nỗi buồn trong đôi mắt của người đàn bà xa xứ đang ngồi trước mặt tôi. Và vì không khóc được nên như có một màn sương mỏng phủ lên, nó ướt át và đầy đau đớn. Bà đứng dậy múc thêm thức ăn vào chiếc dĩa thủy tinh, khe khẽ thở dài. Món bì cuốn của bà ngày hôm nay rất ngon. Nhưng bà luôn miệng bảo rằng, bà không có thì giờ để chuẩn bị kĩ hơn. Vả lại, đồ ăn ở Mỹ bao giờ mùi vị cũng nhạt hơn so với nước ta. Nói đến chữ này, mắt bà lại chớp chớp. Mặt bà đỏ lên bối rối.

Không ai nói gì với bà. Tất cả họ đều ngồi yên lặng, mặt cúi gằm xuống chén thức ăn. Thỉnh thoảng chồng bà ho một tiếng rất khẽ. Rồi lại yên lặng trở lại.

Rồi có một ai nói một câu hài hước gì đó. Bà cũng mỉm cười. Màn sương mỏng hơi loãng ra nhưng ánh buồn trong mắt không thay đổi. Lúc này trông bà thật bé nhỏ. Sau cùng bà bảo, tôi chỉ thấy hạnh phúc và vui khi ở Việt Nam. Có lẽ tôi sẽ phải về Việt Nam sống. Trời ơi, ngay cả cái nắng của Sài Gòn cũng lãng mạn và dễ chịu hơn. Tôi không hiểu tại sao tôi lại có mặt ở đây. Bàn tay mảnh dẻ của bà đặt trên bàn run run. Những móng tay nhỏ nhắn sơn bạc ánh lên như những vỏ xà cừ nhỏ xíu.

Suốt những ngày tôi ở, bà chỉ nói một câu như vậy. Nhưng tôi nhìn thấy sức mạnh của tình yêu được bà nén chặt trong câu nói. Phần thời gian còn lại, bà trở nên lặng lẽ hẳn. Thỉnh thoảng bà nhìn tôi, mà có lẽ không phải là nhìn tôi. Bà nhìn vào khoảng không phía sau tôi, như hy vọng sẽ gặp được những hình ảnh thân yêu của Việt Nam ở đó. Khi tôi đón được ánh mắt bà, cái nhìn đột ngột trở nên thảng thốt và ngơ ngác. Nó làm trái tim tôi co thắt lại.

Đôi mắt của bà không hiểu sao luôn làm tôi nhớ đến Kote. Nhớ đến một ông già to cao, tóc bạc cắt sát đầu, lởm chởm như một cái bàn chải cùn bằng sợi cước. Ông mặc chiếc quần bố đen có hai túi khổng lồ ở đầu gối, trên đầu đội một chiếc nón két bằng nỉ đen, miệng lúc nào cũng thở ra đầy hơi thuốc và rượu mạnh. Và dù cho trời có lạnh giá cỡ nào đi nữa, ông vẫn phanh áo khoác để lộ chiếc áo thun in những dòng chữ viết bằng thứ tiếng của nước ông. Ông tỏ vẻ lơ đễnh với nước Mỹ, giống như đây chỉ là một cuộc viễn du khiên cưỡng và mỏi mệt. Hơn bao giờ hết, ông thích nằm dài trong phòng, trên chiếc giường con trải drap trắng muốt, viết thơ lên giấy bằng một cây viết chì to bản cụt ngủn.
 
F

fantastic_97

tiếp ~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~

Ở nước Mỹ, nhưng ông viết thơ về Georgia. Chỉ luôn viết thơ về Georgia. Mảnh đất ấy mang đến cho ông một nguồn cảm xúc mạnh mẽ và một tình yêu bất tận. Sống trong nó, ông hồn nhiên và thơ ngây như một đứa trẻ.

“Tôi không thể sống mà thiếu Georgia. Như thở mà thiếu khí trời được”.

Tôi thuộc lòng câu nói của ông. Điều này có vẻ như đúng với cả chính tôi. Nhưng chỉ khi bước chân ra khỏi biên giới, ngoảnh nhìn lại Tổ quốc thân yêu trong ánh bình minh đang lên, tôi mới cảm nhận điều đó một cách rõ ràng hơn.

Với Kote, tình yêu Goergia không bao giờ nhỏ bé đi hay to lớn hơn được nữa. Nó đã trở thành máu thịt, thành hơi thở, thành đời sống hàng ngày mà ông đang sống. Mang trong người tình cảm ấy, nơi đâu cũng là Georgia của ông. Bầu khí nào cũng là bầu khí của quê hương ông hết.

Ông thích nói và nói nhiều, bằng một thứ Anh văn xiên xẹo trộn lẫn với tiếng Georgia. Mỗi khi ông cất tiếng, Lola lại trợn mắt và Gleb cúi mặt xuống bàn, giả như tìm đọc một thứ gì đó rất hấp dẫn làm anh phải nhếch khóe miệng xinh đẹp lên để mỉm cười. Nói chung phải khó khăn lắm người ta mới vỡ lẽ được ông muốn nói gì. Ông thường làm cho mọi người bật cười vì những câu phát biểu hoàn toàn lạc đề của mình. Ví dụ như khi người ta yêu cầu mỗi nhà văn, nhà thơ sẽ đọc tác phẩm của mình ở nhà sách Prairie Lights, ông đề nghị được đọc thêm tiếng Georgia. Mọi người nhất loạt hoan nghênh ý kiến đó và chuyển sang nói về vấn đề khác thì ông đột ngột đứng dậy, hỏi to đầy giận dữ “Tại sao tôi không thể đọc thơ của tôi bằng tiếng Georgia được?” làm mọi người choáng cả người. Hay nói lung tung nhưng Kote là một ông già tình cảm. Ông hay vuốt tóc tôi và kể về đứa con gái lớn đang sống ở Bỉ. Mắt ông đỏ lên và mũi bắt đầu sụt sịt như người cảm nặng. Cái đầu to lớn nặng nề gục xuống một bên vai.

Rồi trong bất cứ bữa tiệc nào, sau khi đã uống cạn vài ly rượu, ông lại cất giọng hát những bài hát bằng tiếng Georgia. Ông chỉ những dòng chữ Georgia trên ngực áo (những chiếc áo thun này được treo trang trọng trong phòng đọc sách nhỏ và ấm cúng của Prairie Lights, như để minh họa cho những bài thơ viết về Tổ quốc vĩ đại và thân yêu của ông) và nói bằng một giọng khản đặc “Georgia nghèo nhưng tôi yêu Georgia. Georgia luôn ở trong trái tim tôi”.

Tình yêu Tổ quốc sâu sắc của ông càng ngày càng làm ông trở nên đáng yêu hơn đối với mọi người.

Khi đứng bên bờ dòng sông nhỏ của Indianola, chân cắm trong đám bùn đen mát lạnh và da bị ánh mặt trời trưa đốt cháy, tâm trạng tôi thật khó tả. Ngay lập tức tôi muốn ngồi bệt xuống giữa những đám cỏ dại mềm mại và thò tay xuống làn nước trong vắt để trấn tĩnh lại mình. Tôi bắc tay lên miệng làm loa hét lên một tiếng thật to. Tiếng hét bay lên lơ lửng trong không trung rồi đột ngột rơi tõm xuống nước, kéo theo nó là những vệt nắng sáng trắng và im lặng bao trùm khắp nơi.

Chỉ còn nghe tiếng gió lao xao rất nhẹ. Tôi ngẩng đầu lên và tự hỏi, tại sao tôi lại có những cảm xúc bối rối này. Tại sao tôi lại có cảm giác mất mát khi tôi đang có tất cả: Tổ quốc, tình yêu, tuổi thanh xuân và những năm tháng tươi đẹp? Tại sao tôi lại thấy nhung nhớ họ ngay khi cuộc viễn du chưa kết thúc và hồi còi tiễn biệt chưa lên tiếng?

Tại sao?

Tại sao...

Tại sao...

Tại sao tôi phải là tôi để đứng bất lực nhìn thời gian bay qua trên đôi cánh trắng, mang theo đi biết bao là những dấu yêu của cuộc đời. Mang theo đi biết bao nhiêu là hạnh phúc, nỗi đau, niềm vui, những gương mặt bạn bè...và làm nhạt phai tất cả.

Nhưng chính nhờ những nghi hoặc ấy, tôi mới hiểu là mình đã có được quá nhiều để sống bao dung và tử tế hơn.

Ngày chia tay, San Francisco lại tiễn tôi trong một buổi sáng đầy sương mù. Ngoài cầu cảng Người Đánh Cá vẳng vào tiếng sóng vỗ ầm ì và tiếng còi tàu buồn bã.

Người da đen đứng ở quầy kiểm tra hành lý nhìn tôi chăm chú rồi nhoẻn miệng cười, hai bàn tay to tướng đập vào nhau bồm bộp. Và theo một thói quen lịch sự, ông ta bảo, see you again.

Máy bay nặng nề cất cánh. Chẳng mấy chốc đã chìm vào mây. Ngoài cửa sổ bám đầy những tảng mây mùa đông xám ngắt màu chì. Nó có vẻ cứng đến độ mặt trời không tài nào xuyên thủng qua được.

Người tôi nhẹ dần. Nhẹ dần. Tôi nhắm mắt thật chặt. Tôi thấy thật sự là lúc này, tôi đang bay qua thời gian để quay về với những ngày tôi đã sống.
 
F

fantastic_97

bài tiếp theo !!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!

Bóng đè
Tôi có bàn tay nhỏ nhắn và mềm mại hiếm thấy. Bàn tay không thay đổi theo mùa hay béo gầy cơ thể. Thụ bảo bàn tay tôi không tuổi tác trọng lượng. Hồi hai mươi tuổi, mới ra trường nằm nhà ba tháng, chỉ ăn và ngủ, cơ thể trồi lên những múi thịt, nhưng bàn tay tôi vẫn mảnh dẻ. Thụ hay mân mê bàn tay tôi. Bàn tay thể hiện tâm hồn con người, dù em mập đến mấy ngón tay em vẫn chỉ là cọng cỏ chao lượn dưới gió xuân. Tôi đưa ngón dài nhất mơn quanh môi chồng. Cọng cỏ thường dai, chỉ liềm sắc mới cắt nổi anh biết không? Mắt Thụ cụp xuống tìm câu trả lời. Có khi chỉ một con kiến cũng làm ngọn cỏ tan gãy. Có thể. Tôi chìa bàn tay ra trước nắng, nhìn như nhìn bàn tay một kẻ khác. Giông gió, bão lũ, nắng hạn, tôi có thể chết đi rồi mà bàn tay vẫn nguyên vẹn với năm ngón ngắn dài, làn da mỏng tanh không trọng lượng. Chỉ có tôi hiểu vì sao bàn tay tôi tách rời ra khỏi thể xác mình. Chỉ có tôi hiểu vì sao tôi hay trốn những vách dựng loang loáng một chiếc bóng. Thụ không hiểu. Chính tôi đôi khi cũng thấy mình là lạ.
Quê Thụ cách thành phố khoảng ba giờ tàu hoả. Tôi không ngờ đồng quê khác biệt đến thế. Một vùng đất vẫn giữ được nét cổ xưa hiếm hoi thời cuộc. Ngồi trên tàu Thụ dặn dò tôi kỹ lưỡng về những nghi lễ phải làm trong ngày giỗ cha. Chồng tôi mồ côi cha từ năm lên chín. Căn nhà mái ngói vốn là nhà gỗ ba gian được bao tường ẩn náu phía đáy làng. Đằng sau ngôi nhà, phơi mình trong nắng, ruộng ngô đang ra bắp xanh mướt. Kéo dài tầm mắt một chút, ẩn hiện giữa đám ngô, bãi tha ma thênh thang còn giữ nguyên được mồ mả đắp đất cỏ mọc xanh tươi tốt. Lần về trước bận bịu khách khứa tôi đã chẳng có thời gian đẩy đưa con mắt. Thụ bảo lần này phải ở lâu lâu một chút cho mẹ chồng tôi vui. Tôi dạ vâng ngoan ngoãn. Thụ véo mũi tôi: sao trên giường em chẳng ngoan hiền như thế cho anh được yên thân? Tôi lơ đãng trước câu nói đầy hàm ý. Tôi không thể ngoan hiền. Tôi hay chồm lên người Thụ nuốt lấy anh vồ vập. Tôi ưa kéo Thụ lên chà xát. Tôi bắt đôi tay Thụ bóp nắn liên tục. Tôi muốn đã cơn khát thèm từ buổi trưa ấy, một buổi trưa nắng bình thường như bất kỳ một ngày hè nào nhưng với tôi là bỏng rát, là bước ngoặt. Tôi cất giữ bí mật riêng mình. Thụ nào biết. Thụ cứ hay van xin tôi đừng hực lên như hổ cái. Tôi chẳng thể đặng đừng. Anh bị tôi co rút lôi đi. Đôi lúc thấy anh kinh khiếp tôi đành phải dè dặt. Nhưng rồi đến cơn khát tôi vung vấp hết. Mỗi sáng thức giấc trông Thụ thật tội nghiệp.
Bàn thờ nhà chồng tôi to dài quá cỡ. Chưa bao giờ tôi nhìn chiếc bàn thờ nào lớn như vậy. Có rất nhiều bát nhang và những bức trướng chữ Tàu. Mẹ chồng tôi nói bâng quơ mà tựa căn dặn: “Nhà ta mỗi năm cúng mười sáu đám giỗ. Sau này anh Thụ cúng tôi nữa là mười bảy, sẽ vất vả đấy”. Tưởng tượng ra viễn cảnh mỗi năm còng lưng làm cơm cúng mười bảy đám giỗ cho đến ngày Thụ qua đời, tôi không khỏi ngao ngán.
Khi Thụ quần áo tề chỉnh chắp hai tay trước ngực khấu đầu làm lễ, rèm vải hai bên bàn thờ lay động lươn lướt, màu đỏ nhức nhối trong nhang khói. Nép mình cúi đầu cùng mấy phụ nữ trong góc nhà, tôi cố giỏng tai xem chồng mình đang khấn những gì. Nhưng chỉ là ập è âm thanh xin xít nơi đầu lưỡi. Thụ không nói mà cũng không hát. Tựa tiếng kêu của loài bò sát. Tôi nhướng trí tưởng tượng phong phú của mình xem qua lời khấn của Thụ những ai đang về. Hồi sáng hai vợ chồng ra nghĩa địa dọn dẹp khu mồ mả tôi mới biết tổ tiên nhà Thụ cũng nhiều oan khuất. Mười một ngôi mộ dàn trải xưa cũ trong vùng đất trũng sâu dáng hình thung lũng. Thụ nói sau cơn động đất tự nhiên khu mộ nhà mình thụt xuống thành trũng như vậy và một ngôi mộ thì biến mất. Tôi băn khoăn về chuyện mười sáu đám giỗ sao chỉ mười một mộ phần? Giọng Thụ có vẻ buồn, tay anh đưa liềm cắt cỏ chuẩn xác.
“Cô em gái bố do hận tình nên trẫm mình xuống sông sâu năm vừa tròn mười tám không tìm thấy xác. Hai ông cố trẻ làm thầy phù thủy đi khắp nơi cùng chốn rồi không quay trở về, nhà lấy ngày hai ông bỏ đi làm ngày giỗ. Hai ông khác, một liệt sĩ Điện Biên, một liệt sĩ đường 9 Nam Lào, xương hốt về bằng đầu đũa chôn chung một mộ”.
Thụ im lặng đột ngột, tiếng liềm xén cỏ mạnh hơn.
“Thế còn một ngôi mộ nữa đâu anh?”
“Ông nội bị đấu tố hồi cải cách ruộng đất chết thảm trên tổ kiến lửa. Sáng mai bà nội chỉ tìm thấy vài cọng tóc ở nơi cột trói, xác không biết đi đường nào”.
Giọng chồng tôi nghèn ngẹn. Tôi thấy lạnh sống lưng. Tưởng như cũ xưa nào vừa lướt qua mình. Bây giờ quỳ trước bàn thờ tôi cũng lạnh sống lưng. Lẫn trong âm hưởng xin xít buồn thảm khấn vái của Thụ một tiếng nhẹ như gió lướt lụa bay trơn lọn. Đã có lần tôi nghe đâu đó rắn là loài vật linh thiêng dẫn dắt người chết về trần. Tôi ngẩng phắt lên thanh đà treo ngang bàn thờ. Thanh gỗ bóng nhẵn không vết bụi, trống rỗng. Cô em chồng cấu mạnh. “Chị cúi đầu xuống đi, anh tôi không dạy chị à?” Khi đầu tôi lại cúi xuống, một cái gì láng nhẫy bay qua. Linh cảm đôi khi chỉ là linh cảm nhiều khi.
 
F

fantastic_97

tiếp ~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~

Và Thụ đứng lên húng hắng báo hiệu. Chồng tôi đã cúng xong. Cỗ được dọn xuống trong tiếng đũa lanh canh lũ trẻ háu đói. Suốt cả bữa ăn trong đầu tôi cứ lảng vảng hình ảnh mười sáu bóng ma tổ tiên theo lời khấn của Thụ trườn về, bay về thế nào. Thảng hoặc lại lành lạnh buôn buốt như gió cũ xưa nào lượt qua mình. Những cây nhang cháy hết cuộn thành vòng đầy ắp bát hương to màu đồng và những bát hương nhỏ màu trắng vẽ long phượng. Ai đó reo vui: “Hương cháy đẹp quá, nhà này năm nay chắc nhiều may mắn”. Mẹ chồng tôi thỏa mãn. “Anh chị Thụ thể nào chẳng sinh một thằng cháu đích tôn nay mai”. Thụ tay cầm cánh gà xoay xuống tôi đỏ mặt. Tôi thừa biết anh nghĩ hổ cái như tôi sẽ nhanh chóng kết nhuỵ sinh hổ nhỏ cho nhà anh nay mai. Đàn bà như tôi có lẽ sinh năm một, anh chẳng từng nói thế. Miệng tôi cười mà lòng trống trải. Ông trẻ mặt xanh men rượu ngoắc cánh tay xuống mâm dưới, tôi để ý đàn ông nhà Thụ tay thường dài chạm gối. Có lần tôi đùa Thụ tay dài như tay vượn, anh sa sầm nét mặt. Em chẳng biết gì cả, những người tay dài thường dòng dõi đế vương, thiên tử. Có lẽ ông tổ anh từng là vua chúa vương giả Trung Hoa gặp nạn nên chạy loạn sang đây. Tôi thấy Thụ thật ngây thơ nhưng không dám nói. Dòng họ nào ở miền bắc này mà không chạy loạn hay đội trên đầu xứ Trung Hoa?
“Nhân thể cháu dâu trưởng thắp nén nhang lên bàn thờ khấn xin cha thằng Thụ phù hộ cho sớm sớm được thằng cu. Cha chồng cô mất vào ngày trồng, linh thiêng lắm”.
Tôi không biết ngày trồng ông trẻ nói là ngày gì nhưng đoán chắc rất thiêng. Len lén luồn qua mâm trên, kính cẩn lấy ba nén nhang châm lửa cắm lên bát hương đặt cạnh khung ảnh một người đàn ông trung niên có hàm răng hơi nhô với tia nhìn sắc lạnh, tôi khấn lạy ba lần. Vừa thụt lùi vừa liếc trộm khung ảnh cha chồng, ống chân tôi đau tấy lan dần. Một khắc, tôi nghĩ đến ám dấu cơ thể biết báo hiệu trước những chuyện bất thường. Chưa kịp định thần, bỗng dưng mái tóc, thân thể tôi nóng hực và tiếng cô út hét lên: “Bát hương cháy rồi”. Thụ xô ngã tôi, quỳ mọp trước bàn thờ dập đầu lia lịa. Bát hương ngùn ngụt cháy. Tôi hoảng loạn nghĩ thế nào tia lửa cũng lan rộng thiêu cháy bàn thờ, thiêu cháy ngôi nhà, thiêu cháy bãi ngô, đốt rụi mồ mả. Tôi muốn tìm xô xách nước dập lửa nhưng chân tay tôi cứng đơ tựa khúc gỗ, cơn đau nhức oại oằn trí não. Giọng nói đon đả mẹ chồng cất lên như vệt điện chạy dọc sống lưng. “Mời các bác, các ông xơi tiếp. Tôi nghĩ ông nhà tôi hóa bát hương vui mừng đón cháu đích tôn đấy”. Mọi người ồ lên đồng thanh. Nhưng cái liếc xéo của bà về phía tôi lại đầy cay nghiệt. Bát hương cháy tận gốc, tro dầy lên hình thù ngôi mả mới đắp. Tôi biết ngôi mả mới đắp bằng tro nung này sẽ thiêu cháy cuộc đời tôi nay mai. Thụ nhìn tôi không biểu lộ cảm xúc. Da thịt tôi rần rần kiến bò. Cảm giác ơn ớn, trơn lọn bóng nhẫy.
Tám giờ tối bãi ngô ngủ im. Thụ im lặng kéo tôi vào nhà. Sau buổi chiều hóa bát hương tro đắp hình ngôi mộ, Thụ nhìn tôi khang khác. Tôi chỉ cảm nhận khang khác trong một trực giác mơ hồ không bằng chứng.
“Anh chị Thụ vào buồng mà ngủ. Trong ấy ban đêm chuột hay thọc mạch, dém màn vào chiếu cho chặt kẻo nó vào giường”.
Sống lưng tôi dựng đứng. Viễn cảnh một bầy chuột chui vào giường bò lên thân thể khi tôi đang say giấc chẳng lãng mạn yên bình đồng quê chút nào. Tôi đưa bàn tay thon mảnh của mình ghì chặt Thụ, anh nhăn mặt nhìn tôi, bắt gặp ánh mắt thảng thốt của vợ, anh thẽ thọt nhìn mẹ:
“Mẹ cứ ngủ trong buồng với con Thắm để vợ chồng con ngủ ngoài này. Ban đêm gió máy mẹ không nên ngủ trên phản. Với lại con hay dậy đi ra đi vào sợ mẹ mất giấc”.
Mẹ chồng tôi loét quét đôi guốc vào buồng. Âm thanh roạc ngắn từng cơn. Con Thắm sang làng bên chưa về. Thụ bỏ tôi đứng trước cửa ra nằm chườn lên tấm phản kê gian ngoài cùng. Trước mặt tôi, bàn thờ chính giữa đã to giờ trương lên kỳ lạ. Hình ảnh nó phình nở trong đầu tôi. Bức màn đỏ lừ loang rộng. Hốt hoảng tôi chạy nhào vào Thụ. Chiếc quạt tai voi Liên Xô không rào rỉ sét ọc ạch quay tiếng một. Người Thụ đẫm mồ hôi. Giọng anh đừng đững.
“Em ngủ đi đừng làm ồn, mẹ không nghỉ ngơi được”.
Thụ là lạ thế nào. Thường ngày chưa bao giờ Thụ lên giường trước mười hai giờ khuya. Một lần Thụ bị ốm, tôi bắt anh ngủ sớm, anh nói đấy là cực hình. Sao Thụ có thể ngủ vào tám giờ tối hôm nay? Tôi tỏ vẻ quan tâm.
“Anh có nóng không, em quay quạt lại chỗ anh nhé?”
“Anh nằm phản thấy mát rượi, mấy phút nữa là ngáy, ngủ đi em”.
Thụ lại đùa. Từ ngày làm vợ Thụ tôi nào nghe anh ngáy nửa giây? Chiếc áo ba lỗ trắng tinh trên lưng Thụ xoay về tôi vẻ cấm đoán. Tôi cười thầm sự cẩn thận ngăn ngừa của anh. Cửa giả mở toang, bàn thờ linh thiêng ngay cạnh, mẹ chồng có thể đi ra đi vào bất cứ khi nào. Dù thèm chồng đến mấy tôi cũng phải gò mình trong bộ đồ ngủ kín đáo mà hậm hực. Tôi cũng không buồn thắc mắc về việc trái khoáy khi anh nói mát rượi mà người cứ đầm đìa mồ hôi. Thụ giờ khắc này sao quá đỗi xa lạ, không còn là Thụ buổi chiều đổ bóng xuống mình tôi. Anh lặng câm yên vị trong ngôi nhà bao tường cũ kỹ. Còn tôi lại muốn vách tường nhà anh rạn nứt để tôi cùng Thụ trốn ra ngoài. Ba cánh quạt tai voi vẫn ì ạch quay rít. Trước lúc thiếp đi tôi mơ hồ nghe lại cái giọng ngột ngạt, nhừa nhựa ập è xin xít nơi đầu lưỡi lúc Thụ cúng lễ. Rồi tôi rơi vào mê man. Loang loáng bãi ngô im lìm hứng sương không gió nào thãng thột. Trăng khuya phổng đứng chiếu ánh sáng sữa đục. Thoắt một cái, bóng tối ngập oà. Tôi thấy mình bừng tỉnh. Cảm nhận không khí ngột ngạt, hãm bức, chật chội vây quanh. Môi miệng khát cháy, toàn thân căng cứng. Nực nồng, oi bức như sắp đổ cơn giông. Ba cánh quạt tai voi ngừng phắt xê dịch. Không một tiếng gió nhưng tấm màn đỏ che bàn thờ cứ chốc chốc lay động khẽ khàng, chỉ mình nó đang chuyển động đỏ lừ trong thời gian lẫn không gian ngưng bặt. Tôi sợ, tôi muốn quay sang ôm Thụ để anh che chở cho mình. Song tôi không thể nào cử động, màu áo ba lỗ trắng tinh chồng tôi nằm sát ngay cạnh như trêu ngươi mà tôi chẳng thể nào nhúc nhích. Không khí mỗi lúc một ẩm thấp, nực nồng khóa cứng lấy tôi trên mặt phản.
 
F

fantastic_97

tiếp ~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
Tiếng ho đứt đoạn từ trong căn buồng mẹ chồng lôi tôi khỏi đêm đen. Tứ chi rã rời, đầu váng vất, mồ hôi tôi rịn rạn dính bết. Bộ đồ ngủ tự nhiên mở khuy trễ nải lạ lùng. Tôi nhìn hàng cúc nhàu nát lạ lẫm, giống Thụ vừa vò nát chiếc áo và tôi vừa bận lên mình chưa kịp cài khuy. Cạnh tôi, Thụ vẫn ngủ im bằng bặt, ngoan hiền trẻ thơ, đôi má phụng phịu ninh nính. Tôi đâm nghi hoặc, kín đáo luồn tay xuống dưới. Chất lỏng đẫm ướt sền sệt ngầy ngậy mông đùi, thấm nhầy chiếc quần lót mỏng. Thụ trở mình ú ớ giữa giấc mơ. Tôi hoang mang nhìn chồng, cơ thể anh vẫn đầm đìa mồ hôi.
Ngày gặp Thụ tôi không còn con gái. Cơ thể săn chắc mượt mà vun đầy hai mươi rúc lên hồi còi dài khi chiếc bóng của anh đổ ập xuống mình. Một buổi chiều, bóng tôi lọt thỏm giữa bốn vách nhà rông trong khuôn viên Bảo tàng Dân Tộc. Bàn chân ai lào xào sỏi đá sau lưng. Náu lặng tôi giữa hồi còi không ngừng rúc lên thúc bách trong da thịt. Chiếc bóng chồm lên chút nữa. Vách nhà rông nuốt chửng ngực tôi nhoi nhói từng hồi còi riết róng. Tôi chăm chú nhìn chiếc bóng đang hắt thẫm mảng sỏi đến gần, chiếc bóng như tạo ra tiếng động trên sỏi bị đè nghiến. Nghe có vẻ khác thường nhưng tôi tin chiếc bóng có thể đè nghiến được cả thế gian này, riêng gì sỏi đá. Chỉ có tôi mới biết điều ấy. Tôi muốn chạy trốn, khi trước mặt bóng đen lừng lững dịch chuyển. Giọng nói cất lên trước lúc cổ họng tôi bật ra tiếng kêu.
“Em bị chói mắt phải không?”
Gương mặt người đàn ông phúng phính hiện ra dưới chiếc mũ lưỡi trai màu đỏ làm yên hoảng hốt trong tôi. Lúc anh đưa tay sửa vành mũ, tôi nhận ra cánh tay anh dài chạm gối. Tôi biết gương mặt này, cánh tay này, giọng nói này sẽ đóng đinh vào giữa vùng khuất lấp của mình. Vách nhà rông oặn ẹo vặn mình nứt khe. Tôi sẽ chui qua khe nứt ấy, tay tôi sẽ dắt anh cùng đi, chỉ cho anh thấy tôi thuộc về anh từ thuở nào. Anh rồi sẽ ngoan ngoãn nhập vào tôi như một gẫy gập định mệnh. Nhập vào tôi -hẫng hụt tôi- ngạc nhiên anh đêm tân hôn sau đó chẳng là bao. Làm sao để Thụ hiểu vì chính tôi cũng chỉ là người mù trong cõi tối tăm? Một cõi không Thụ, không mặt trời, không cả âm thanh giữa buổi trưa kỳ lạ. Tôi khám phá ra những chiếc bóng trên tường không chỉ đơn thuần là những chiếc bóng. Chúng cũng sống động như thân thể tôi khát thèm một vực thẳm. Chúng vờn vượt trên da thịt non tơ hứng háo của tôi. Về sau tôi biết mình đã đánh mất điều quý giá nhất buổi trưa hôm ấy. Chúng đã cướp mất cuộc đời con gái khi vừa chớm đến, khi tôi vừa mới biết xỏ tay thành thạo vào chiếc su chiêng. Chúng cho tôi biết nỗi sợ hãi khôn cùng, sự ngừng đập trái tim. Và cả khát thèm, chờ trông suốt những năm thiếu nữ khi chúng không còn quay lại. Mọi người nói tôi bị bóng đè, chẳng có gì đáng sợ. Tôi không thể ngờ đó chỉ là số phận. Thứ số phận đã đẩy đưa cho tôi gặp Thụ và làm vợ anh vội vàng, giống một linh ứng mà cơ thể tôi đã ám hiệu rúc còi.
Sau đám giỗ, chúng tôi đáp tàu trở lên thành phố. Trên đường về, Thụ luồn tay vào vùng ngực hồng hào của vợ xoa xoa bầu vú, miệng lấm lét cười. Tôi rất thích cử chỉ này của Thụ. Cả điệu cười tươi của anh. Dưới quê Thụ không cười với tôi như vậy, lúc nào cũng ra vẻ lạnh lùng.
“Vợ tôi thoát nạn nhà quê rồi, tiểu thư thôi không phải nằm phản mồ hôi nhễ nhại như đêm qua. Sướng nhé”.
Tôi không sướng, không thoát nạn như Thụ tưởng. Cảm giác như tiếc, như nhớ chiếc phản và bàn thờ với màn đỏ che đậy. Cảm giác lạ lùng mà chính tôi cũng không hiểu. Tôi vẫn không thể nào giải thích được những gì đã xảy ra trên tấm phản. Lẫn lộn tất cả. Nhưng có điều chắc chắn tôi không mơ cũng như Thụ không hề đụng chạm vào người vợ. Ban sáng anh đã giãy lên như đỉa phải vôi khi tôi dọ hỏi. “Về quê có một buổi không được làm hổ cái với anh mà em đã cuồng lên rồi tơ tưởng lung tung. Em thật là..!”. Tôi lại mơn nhẹ ngón tay dịu dàng của mình lên môi chồng. Như thế anh sẽ không còn giận dỗi. Bàn tay tôi thật kỳ diệu. Năm ngón ngắn dài với làn da mỏng tanh, như bàn tay của một người khác, có thể làm mọi việc mà tôi không có khả năng. Giá thân thể tôi cũng không trọng lượng như bàn tay đang xoè ra trước mặt. Giá thân thể tôi không có những đòi hỏi cảm xúc như bàn tay đang giơ lên trước nắng. Nhưng bàn tay ấy, của tôi hay của ai, chẳng thể nào phá tan được sự hoài nghi bí mật. Cảm giác trưa hè ngốt ngát năm nao đang trở lại. Chiếc bàn thờ to dài quá cỡ, tấm phản láng bóng thời gian, thung lũng mười một ngôi mộ, tiếng ho khúng khắng trong căn buồng mẹ chồng có liên quan gì đến nỗi hãi sợ mà kích động hứng háo đang chảy xuyên suốt huyết mạch đàn bà trong tôi?
Gương mặt Thụ ngó lơ những cánh đồng. Tôi nhìn Thụ đăm đăm. Mùi đất ràn rạt trên cần cổ anh. Tôi nghiện cái mùi ngai ngái trên ngực Thụ mỗi khi nằm sấp trên mình anh hôn tẩn mẩn đầu lưỡi có vị cỏ đắng. Bất giác tôi lại nghĩ đến cái đầu lưỡi đã phát thứ tiếng động ập è xin xít khi Thụ khấn vái.
Trở về thành phố, thân thể Thụ trở lại khô ráo thôi đầm đìa mồ hôi. Mỗi bận Thụ cởi trần, tôi ngắm tấm lưng anh nâu om khô ran tựa một mảnh ngói. Khô đến nỗi giá tôi đặt nụ hôn lên lưng anh khi ấy, đôi môi tôi sẽ bốc hơi khô cháy trong khoảnh khắc. Giống như thân thể Thụ đã trút hết nước ở vùng quê hoặc cái buổi tối Thụ nhễ nhại mồ hôi chưa bao giờ xảy đến. Chồng tôi trở lại làm một người đàn ông ưa nghịch ngợm, hay mân mê bàn tay vợ rồi khen dù mập ốm em vẫn giữ được bàn tay của một thiếu nữ. Tôi sung sướng mỗi khi nghe Thụ khen bàn tay mình không thay đổi. Thi thoảng tôi cũng nghĩ đến cái bàn thờ đỏ quạch và tự hỏi có phải mình nằm mơ? Đôi lúc thắc mắc khiến tôi mất ngủ. Nhiều lúc tôi nhíu mắt trước gương tự hỏi mình là ai và cố tìm một trả lời. Thụ trả lời thay tôi bằng cách bồng ẳm tôi lên giường biến tôi thành hổ cái, đánh thức những rực rào của hai bầu ngực tôi liên tục rúc lên những hồi còi dài. Tôi kẹp cứng Thụ không cho anh xổng thoát về với bãi tha ma. Tôi chỉ giật thót mình sau vung vấp nhận ra bãi tha ma vẫn còn ở đó.
 
F

fantastic_97

tiếp~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~

Đám giỗ ông nội Thụ sau đấy một tháng. Hai vợ chồng lại thu xếp nhảy tàu lụi hụi về ngôi nhà mái ngói ba gian chất chứa bí mật dòng dõi đế vương. Thụ im lặng suốt quãng đường, mắt trống trải khi tàu vào ga. Tôi nghe tiếng rao bán hàng rong vọng lại thập thòm lẫn tiếng nghiến đường ray. Tâm trạng tôi lẫn lộn. Mơ hồ kinh sợ, mơ hồ mong chờ.
Sau cúng lễ, y như lần trước, Thụ đi ngủ sớm. Tôi níu kéo.
“Đêm nay anh ôm em ngủ được không? Hôm trước em thấy sợ”.
“Em lại tính giở trò gì đây? Trời thiêu lửa mà ôm nhau ngủ?”
Giọng Thụ cục cằn, ánh mắt liếc xéo chẳng mấy yêu thương. Tôi trơ hẫng trước thái độ của chồng, ở thành phố Thụ chưa khi nào nói với tôi bằng giọng như vậy. Ngón tay tôi rụt vội. Hình như làn da mỏng tanh bị bỏng.
Mẹ chồng tôi không mấy vồn vã. Bỏm bẻm trầu cau, gương mặt tôi tối, bà vấn lại khăn trên đầu, mắt nhìn đâu đâu. Làm như mẹ chồng tôi cố tình thức khuya để canh chừng con dâu. Tôi ngó ngón cái tím bầm của mẹ chồng rồi lại ngó lên bàn thờ, vẫn ngôi mộ bằng tro nung và những tấm hình phủ mặt. Tôi cẩn thận đi tắm trước khi lên phản. Phòng tắm tuềnh toàng được quây chiếu lệ bởi những tàu dừa, dưới ánh trăng non vệt ra hình thù kỳ quái. Lớp trăng non lướt mỏng đến tấm phản soi lờ mờ gương mặt Thụ. Trong bóng tối nhìn gương mặt chồng có nét an bình đủ đầy, tôi bớt sợ. Mẹ chồng tôi đã tắt nến. Cơn buồn ngủ đến thản nhiên, một cách thanh bình tựa như nỗi hãi sợ và thân thể tôi là hai tách biệt không liên hệ. Tôi ríu mắt chìm ỉm vào giấc ngủ.
Thức giấc, tôi thấy mình khát cháy cổ họng. Làn môi khét khô căng rạn và mồ hôi lấm tấm trên trán, tôi nghĩ mình bị sốt. Người tôi ơn ởn. Mặt phản ẩm rít. Ngoài sân cửa nhà mở toang và ánh trăng vẫn đang rọi những mảng sáng cuối cùng. Đúng lúc tôi chống tay định nhỏm dậy thì tấm màn đỏ nhúc nhích và tứ chi nặng trĩu. Từ sau tấm màn đỏ, những chiếc bóng bay ra lũ lượt tích tụ thành mảng đen lớn. Trái tim tôi muốn nhảy dựng khỏi lồng ngực, tôi nhắm chặt hai mắt trong kinh sợ tột cùng, nhưng vẫn cảm giác rõ rệt trước mặt khối đen đang lẩn nhẩn về phía mình. Tựa quả đất đang nặng nề đè nghiến tấm phản. Trời ơi, tôi phải gọi Thụ, mảng áo trắng ba lỗ chồng tôi lóa rực như con mắt anh mở thao láo trong đen đặc ám mờ. Chỉ cần khẽ nhích cánh tay là tôi có thể đụng vào Thụ nhờ anh cứu giúp. Hình như chồng tôi còn thức, hai tròng trắng ươn ướt trừng trừng. Anh nằm ngửa, hai tay xếp trước bụng ngay ngắn như một xác chết mở mắt. Một thoáng tôi nghĩ chồng tôi đang nhìn lên trần. Một lúc tôi nghe hơi thở Thụ đều đều vung vãi. Làm sao anh lại có thể ngủ ngon đến vậy? Chưa bao giờ tôi ghét cái khuôn mặt phinh phính bình lặng của Thụ như lúc này, anh bỏ mặc tôi đơn độc, nhoài nhã. Khí quyển mỗi phút một nực nồng, rít ẩm, ngột ngạt. Thời gian như bất tận, tôi không dám ngoái lại nhìn mảng đen đã rất gần, chỉ tích tắc nữa sẽ ập xuống mình. Tay chân tê cứng mà lạ thay, hai con ngươi tôi mở to chưa từng thấy, sáng xuyên thủng màn đêm, đến nỗi tôi nhìn được cả những sợi lông mi của chính mình đang vòng cung lên vầng trán căng rát, xót rạn mồ hôi. Dường như Thụ vừa dịch lưng. Anh lăn sát vào tôi hơn, một chút nữa thôi là anh chạm vào người tôi, nhưng Thụ bất động ở ranh giới ma mãnh ấy, bây giờ tôi nhìn rõ hai mắt anh không nhắm tý nào, thậm chí mở to hơn thường ngày. Mảng đen đã thôi uốn lượn trên mền vải, nó thò hẳn vào lùng sục từng bộ phận thân thể tôi. Bàn tay lần rờ trọn đường viền môi, nắn từng chiếc răng xinh xắn, hệt như khi Thụ trườn lên tôi thổi khúc dạo đầu. Đến hai núm vú bàn tay đang lạnh lẽo chợt nóng rẫy. Mỗi ngón thiêu rụi tôi như lửa. Màn đen rẫy rùng khi có tiếng giầy rón rén trên sân gạch và bóng áo cánh khen khét mùi đàn ông hiện ra. Cô út về tới. Bàn tay vẫn lẩn nhẩn nơi êm ái mượt mà làn da bụng con gái. Tôi đinh ninh em chồng mình sẽ nhìn thấy, sẽ tri hô lên và mọi người nhào tới hất mảng đen, chặt bàn tay vô liêm sỉ khỏi người mình. Nhưng Thắm chỉ trân trân ngưỡng cửa nhìn ngắm, hai hàm răng bít chặt, bước những bước ngắn vội vào buồng. Tôi nghe tiếng cười đắc ý sát gần. Bàn tay bắt đầu mạnh bạo hơn gỡ lớp vải kết mồ hôi, bóc tách thuần thục. Mồ hôi tướp ướt đùi non, rãi rà rề xuống mặt phản trơn rít. Rồi khi bàn tay túm trọn lụa nhiễu đen óng, mảng đen bỗng tan loãng hiện rõ hình dáng một con người nghênh ngáo. Tôi hiểu mình phải im lặng, im lặng trong sợ hãi tột tận đời người. Khói đen tan biến hết. Tôi hét lên, tôi thấy mình hét lên một tiếng sập trời khi lờ mờ nhận ra đường nét trên gương mặt đang đè mình. Tia nhìn xéo sắc lạnh, hàm răng hơi nhô đanh ác đầy quen thuộc. Chưa kịp định thần, chiếc quần tôi đã bị kéo phăng bằng một động tác như ảo thuật. Mồ hôi rìn rịn bức bối hai đùi, đúng khi tôi cảm được sự cương cứng thúc lên bụng thì cánh cửa buồng mở toang và mẹ chồng tôi hiện ra với chiếc bật lửa. Tôi muốn vùng chạy khỏi nỗi nhục nhã ê chề. Bóng đen vẫn nhịch, từng phân nhịch xuống. Đôi mắt mẹ chồng nhìn vào phản làm tôi hãi hùng hơn tất cả những gì đang chịu đựng. Tia nhìn sòng sọc, hằn học, cay nghiệt bổ tát mỗi phân vuông cơ thể tôi loã lồ. Ánh mắt ấy như muốn thiêu cháy mỗi sợi lông măng hình hài tôi. Cố vùng vẫy, cằn đạp thoát cái nhìn của bà, tôi quên cả bóng đen đang nhinh nhích đã gần kề cửa sông con gái. Bóng tối tan chảy, lửa bùng lên loang khét tấm màn đỏ. Mẹ chồng tôi phẩy lia phẩy lịa nắm nhang khắp bàn thờ như điên dại. Bóng đen rít lên một tiếng man rợ xoẹt ngang lửa nhang. Bụng tôi kéo một vật gì dài cứng thép. Hụt hẫng rơi tòm tôi xuống đâu đâu. Tôi thấy có làn gió thổi mát sợi tóc, những làn gió làm ngả rạp bãi ngô lao xao. Dưới ánh sáng nhập nhoàng bó nhang tỏa khói, mẹ chồng tôi lê bước chậm chạp về buồng. Và Thụ khịt khịt mũi đạp chân vào đùi trần của vợ. “Sao nửa đêm ai lại thắp nhang thế này?” Lưng Thụ thẳng đứng như bị điện giật khi anh mở mắt. “Em.. em.. em cởi truồng?” Đập mạnh cánh tay xuống phản trong nỗi cứu sinh, tôi choàng tỉnh, biết mình vẫn nguyên vẹn hình hài. Kéo quần lên, tôi quay lưng lại Thụ không giải thích một lời. Giấc ngủ đến ngon tuyệt diệu trong đời. Tôi không biết mắt Thụ hằn lên những tia đỏ dại cuồng.
Tôi thức sớm không phải bởi tiếng gà gáy, không bởi ánh nắng chói lóa xuyên tấm liếp cứa da cứa thịt. Tôi thức dậy bởi giọng nói mỉa mai kéo dài đu đượi chua đôi môi hóng hớt của Thắm xỉa xuống tấm phản, đầy tiêu ớt cay xé đã làm tôi choàng tỉnh. “Làm dâu thời buổi này kể ra cũng sướng thật”. Lảng ánh mắt của Thắm, tôi thấy mẹ chồng đang ngồi ngoài hè, trông bà nhỏ thó như một đứa trẻ. Bà ngó lơ vườn tược cây cối trong im lặng lâng láo của loài rắn. Im lặng u ám như đêm qua mẹ chồng tôi không thấy con dâu cởi truồng tênh hênh trên mặt phản, đã không phẩy lia lịa bó nhang trước bàn thờ. Dưới bếp Thụ quần đùi bên rổ khoai lang tím. Anh ngừng nhai nhìn tôi không biểu lộ cảm xúc nào. Đôi mắt Thụ vô hồn, tròng mắt anh quạnh quẽ rờn rợn.
“Đêm qua anh ngủ có ngon không?”
 
F

fantastic_97

tiếp ~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
Tôi hỏi gắng gượng. Dường như tôi không hỏi Thụ, nhưng tự vấn chính mình. Tôi không biết chồng mình có nhìn thấy những gì đêm qua trên tấm phản, có nghe tiếng hét mà tôi đã thét lên? Thụ vẫn nhai, khoai lang thì đâu cần nhai nhiều thế, hở Thụ? Miệng anh nhều nhào chất bột chẳng đẹp chút nào.
“Em dậy muộn quá đấy”.
Thụ không trả lời tôi. Câu nói của anh tôi biết hiểu thế nào. Tôi phải tự trả lời cho nghi hoặc của mình, phải tự mình chèo chống qua vùng lũ xoáy. Nhưng tôi biết hỏi ai, tìm ai bây giờ? Bàn tay thon ơi, bàn tay diệu kỳ ơi, bàn tay có biết không, trả lời tôi đi. Tôi thay áo quần, bỏ ra bộ đồ ẩm rít mồ hôi nhàu nhĩ, quần lót đặc quánh thứ chất nhầy ngà tôi chẳng biết gọi tên.
Khi trở lên nhà, mẹ chồng tôi không còn ngồi trước hiên. Cả Thụ và cô Thắm cũng lảng lờ nơi nào. Tôi bỗng thấy mình như được cởi dây trói vô hình. Bàn tay ngón dài sáng nay càng thanh tao lạ lùng. Không xui khiến, nó kéo roạc tấm màn đỏ trước bàn thờ, tựa muốn cho tôi thấy điều gì. Quả thực chưa bao giờ tôi nhìn kỹ bàn thờ tổ tiên nhà Thụ. Bây giờ đập ngay vào mắt tôi là hai huân chương liệt sĩ, một Điện Biên, một đường 9 Nam Lào. Hai tấm ảnh truyền thần dương cặp mắt dài dại song vẫn là tia nhìn lạnh lẽo đầy hãnh tiến. Thụ chưa kể tôi nghe về những tấm huân chương này bao giờ. Sống lưng tôi lại ởn sốt. Những đôi mắt đang chằm chằm hắt tia nhìn sắc lạnh lên thân thể. Đôi mắt liếc xéo của những người đàn ông dòng dõi đế vương chết rồi vẫn đội lên đầu xứ sở Trung Hoa. Tôi quay lưng trước đôi mắt đêm qua đã vờn rượt lên tấm thân nóng ẩm kích động đàn bà của mình. Tôi chạy ra sân, chạy xuyên cánh đồng ngô đã vàng trĩu, bóng nhẫy những quả bắp căng rửng hạt tròn. Gió đượm mùi đất ẩm, mùi khô quánh trộn với nước sông tù hãm miết hơi dần dật vừa vuốt ve vừa sờ soạn chiếc áo cánh thêu cành hoa đỏ đậm vắt ngang hai bầu ngực tôi đang thở gấp. Bên trong chúng chẳng có gì mà vẫn bị kềm hãm. Tôi muốn thân thể tôi được giải phóng, tôi muốn bầu ngực mình núng nẩy tự nhiên reo hát. Chúng đang kêu lớn lên rằng đêm qua trí óc tôi không mơ, chúng đã bị vầy vò, bị liếm láp, bị nát nghiền. Tia nhìn xéo sắc lạnh, hàm răng hơi nhô của những tấm hình trên mộ bia thản nhiên, tráo trơ hãnh tiến một cách bình lặng. Bình thường như tôi đã bị cưỡng hiếp. Nhưng sao tôi không chống cự? Phải chăng tôi đồng loã, phải chăng tôi đã ưỡn người lên chờ đón? Phải chăng vòng quay đã được sắp đặt từ buổi trưa ngốt ngát bất thường tuổi thơ đến buổi chiều Bảo tàng Dân Tộc Thụ đổ bóng xuống đời tôi? Nhưng suốt những năm thiếu nữ tôi đã mong chờ, tôi đã khát cháy, giờ đây nó hiện hình sao tôi hoang mang? Vòng quay số phận cuộc đời tôi không phải vòng quay yêu thương. Tôi là ai, từ đâu đến? Tổ tiên đế vương Trung Hoa tay dài chạm gối nhà Thụ muốn gì?
Bãi tha ma thênh thang trước mặt. Gió sớm từ sông rì rào đổ thốc qua quần bò áo cánh đen. Thân xác tôi buôn buốt, nhưng nhức từng cơn, nhưng là sự nhưng nhức kích động, hỏi đòi và đau đớn. Tôi sợ chính mình. Cành hoa thẫm đỏ vắt ngang hai bầu ngực vẫn chỉ chực vểnh lên đĩ thoả. Nó đang mơn trớn, dỗ dành hoang đàng. Thung lũng mồ mả mười một ngôi mộ đẫm rượt sương đêm. Những cọng cỏ chà cứa vào chân tôi hay chân tôi lướt lên chúng mời mọc? Mười một ngôi mộ yên bình, sự yên bình thái quá một u mê. Tôi muốn những ngôi mộ nứt đất chui ra từng bóng ma, từng oan hồn liệt sĩ xéo sắc, tay dài chạm gối. Tôi nghĩ mình sẽ không sợ hãi. Tôi muốn họ trả lời tôi họ muốn gì ở đứa con gái nhiều xúc cảm này và có gan hãy hãm hiếp tôi giữa ban ngày ban mặt. Vẫn chỉ là im lặng. Má tôi nóng hực, miệng tôi lại khát cháy. Giật tung hàng khuy áo, cành hoa đỏ thẫm đứt đôi, tôi xoay vòng quanh mười một ngôi mộ. Vú tôi rứng tràn không khí. Vú tôi là đời sống, là hơi thở, là khí quyển. Mồ mả là quá khứ, là huân chương, là tổ quốc. Tôi chạy giữa bãi tha ma thênh thang hoang dại. Tôi múa điệu múa da thịt tươi tốt, thách thức thần linh, thách thức âm hồn dòng dõi Trung Hoa nhà Thụ. Tôi tung tăng thể xác, đôi bầu vú tự do khiêu khích cho đến lúc bàn tay xa lạ có năm ngón thuôn mềm đưa lên cài lại hàng khuy áo ngay ngắn. Tôi đứng nhìn bàn tay của chính mình như nhìn bàn tay của một kẻ chất phác quả quyết giắt tay tôi lầm lũi trở về. Có phải bàn tay của kẻ nào đó còn dính vào cườm tay tôi đã hiểu không thể nào chống cự nổi chiếc bàn thờ to dài quá cỡ với tấm màn đỏ nhức nhối chất chứa cả một quá khứ phi phàm?
 
F

fantastic_97

tiếp ~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~

Thụ mang ánh nhìn lạnh lẽo trên suốt chuyến tàu xuôi về thành phố. Tôi có cảm giác anh giống một pho tượng ai đặt cạnh mình. Anh náu lặng, làn da chỗ đỏ ửng chỗ nhợt nhạt. Những cánh đồng trơ hoác gốc rạ chạy tăm tắp trong nhập nhoạng hoàng hôn. Tôi không dám nhìn thẳng mặt chồng, chỉ len lén chăm chú lên đôi tay Thụ dường như dài hơn, bất động hơn, khoanh vòng nhiều hơn trước vùng ngực phẳng. Tôi muốn tự mình mân mê bầu vú, để tìm lại cử chỉ âu yếm của chồng. Nhưng tàu cứ tiếp tục rì rì, nhởn nhơ trên con đường dài trơ trẽn. Tôi muốn Thụ hét lên, chửi rủa thành lời những gì đang khoét rỗng đầu anh. Không còn nghi ngờ gì, Thụ đã nhìn thấy cảnh đêm qua, Thụ biết tất cả. Nhưng sao anh không cứu tôi, anh không thiêu cháy bóng đen man rợ bảo vệ vợ mình. Hay Thụ đồng lõa, bán tôi cho những bài vị liệt sĩ khát đói? Tôi đâm hận anh vô cùng. Hận lây sang những ngày sau đó khi đã yên ấm nơi thị thành náo nhiệt, khi chiếc bàn thờ bỏ mặc bụi phủ nhà quê. Mà không là giận nữa, một nỗi hoài nghi thường trực ngày đêm.
Cuộc sống vợ chồng dần dà ngường ngượng. Thụ vẫn chăm chút tôi nhưng sự chăm chút đượm mùi sầu thảm. Chẳng còn lửa cháy, chẳng còn nồng nàn. Tôi thôi không hực lên hổ cái mỗi đêm trên người Thụ. Tôi không vồ nuốt lấy anh, hối hả rúc mặt vào trong nách anh tìm hương vách nhà rông của buổi trưa nào ở Bảo tàng Dân Tộc. Thụ cũng chẳng mấy mặn mà chuyện ái ân. Bàn tay anh thôi vuốt ve bóp nắn. Tôi cũng thôi cắn đầu lưỡi Thụ có mùi cỏ đắng. Mỗi sáng sớm thức giấc, tôi không còn cảm giác tội nghiệp nào cho Thụ. Và anh cũng không còn véo mũi tôi cảnh cáo đêm qua. Chúng tôi lặng im, không la hét, không dọ hỏi để tìm nguyên nhân, không một giải thích nào. Ngầm hiểu với nhau. Như đã cài trong đầu tôi và Thụ chuyện phải xảy ra để mà chấp nhận. Đời sống bình lặng, trong bình lặng giấu diếm giằng xé với những mẩu đối thoại đều đều như kinh nhật tụng.
“Hôm nay anh đi làm mệt lắm không?”
...
“Em trông mắt anh trũng sâu, đừng gắng sức nữa”.
...
Nhưng thân thể tôi thì không im lặng. Đêm khuya, khi đèn đường nguội lạnh, cạnh mình Thụ xoay lưng thin thít thì làn da tôi lại hực hội khát thèm. Tôi thấy vú tôi nở ra trong đêm tối, nở lớn như một đóa vạn thọ bất chợt bung cánh, to bằng một cái bát. Thân thể tôi giống một quả mít tố nữ ngậy thơm đợi bổ đôi. Lẫn trong thao thức, tôi nhớ tấm huân chương liệt sĩ Điện Biên lấp lánh, huân chương Đường 9 Nam Lào sáng choang động đậy. Đùi tôi thèm được rát rẫy mồ hôi, bụng thèm cảm giác cứng cáp quệt ngang đâm vào. Tôi biết như thế là tội lỗi, nhưng rồi lại tự nhủ đó là một thứ tội tổ tông mà chẳng ai có quyền chê trách.
Tôi biết phải chấp nhận để tồn tại. Tôi yêu Thụ và anh cũng yêu tôi thực lòng. Sống trên đời ai chẳng có nỗi khổ, đâu riêng gì vợ chồng tôi. Nhưng rồi giỗ tổ lại đến và tôi không thể giấu diếm khoác lên mình bộ mặt bình lặng được nữa. Thụ cũng vậy, sau sự việc, đôi má anh hóp sâu chẳng còn phúng phính. Ngày oi nồng khi hai vợ chồng nhìn tờ lịch, thu xếp cặm cụi về quê. Nếu là những lần trước, tôi sẽ liến thoắng hỏi Thụ giỗ ai mà về. Giờ đây như một lẽ thường tình, tôi chẳng cần phải hỏi. Một năm mười sáu đám giỗ, cứ thế mà ngược tàu. Tôi lại mơ hồ kinh sợ, mơ hồ mong chờ, phập phồng theo tiếng nghiến đường ray với bãi tha ma chập chùng. Mọi chuyện vẫn diễn ra như bất kỳ đám giỗ nào nhà Thụ với nhang khói, với âm thanh khấn vái xin xít, ập è nơi đầu lưỡi Thụ. Chỉ khác một điều, lần cúng giỗ này vào buổi trưa. Mẹ chồng tôi bảo các cụ báo mộng cho bà làm như thế. Tất nhiên các cụ đã nói thì phải nghe. Ai nào dám cãi nửa lời. Còn nhớ ngày cưới, mẹ Thụ gọi tôi ra góc riêng, giọng bà nhỏ quá mức mà làm tôi run rẩy. “Chị về làm dâu trưởng nhà này trách nhiệm nặng nề. Lấy chồng theo thói nhà chồng, mọi thứ đều có lễ nghi, trên dưới, cứ thế mà làm. Chị làm khác sẽ rước hoạ vào thân, tôi nói trước”. Hân hoan hạnh phúc tôi quên mất giọng nói sắc ngọt của mẹ chồng hôm ấy. Trưa nay nó vọng rõ mồn một, thấu tim óc đứa con gái đang nuôi những vực thẳm khổng lồ trong mình chẳng khác nền trời không xanh lồng lộng cũng đang nuôi những tảng mây tối sáng lừ đừ. Thụ đi nhanh qua khoảng sân rát nắng, phịch lưng xuống phản nặng nề.
“Sáng nay dậy sớm đi tàu mệt quá, nghỉ trưa cho lại sức. Em thần người ra đấy làm gì, nghỉ đi”.
Thụ nói với tôi bực bõ. Làm như tôi cản trở gia tộc anh chuyện gì đó, làm như tôi chưa phục tòng khuôn phép gia đình anh đúng mức hay tôi phá đám giỗ nhà này. Tôi băn khoăn thắc mắc vì sao Thụ phải đổi giọng mỗi khi có sự hiện diện của chiếc bàn thờ? Thụ nói với tôi hay xin phép mẹ? Anh không nhìn tôi mà cũng chẳng nhìn mẹ đang ngấp nghé cửa buồng. Anh nhìn tấm màn đỏ bất động đang rang lửa. Bao nhiêu nhang thắp lúc nãy cháy cằn, tàn tro giữ nguyên dựng đứng như hình chĩa ngọn chông, trơ khấc tàn bạo. Thốt nhiên tôi muốn sập màn che giấu. Nhang cháy không cuộn thành vòng, không có điều tốt. Tia liếc xéo từ căn buồng mẹ chồng tôi bùng rát khuôn mặt, tôi ngoái đầu, chỉ là hai cánh cửa khép im lìm. Dạo này mẹ Thụ không còn nhìn thẳng mặt tôi nữa. Những cái liếc xéo lởm chởm nguyền rủa của bà hơn một hôn mê, một thôi miên hoà lẫn tiếng xoong chảo cô út vùng vằng ném đập ngoài giếng dìm xuống nước chìm ỉm trong nhiệt độ tăng cao và chiếc quạt tai voi xoay lấc láo. Tôi ỉm mình trong bỏng rát chật chội, hãm bức mê man. Tôi nói thầm nhà quê là thế ấy, lập đi lập lại cho đến khi giấc ngủ đến, rồi vô cớ thức giấc. Lại khát. Thụ dang rộng tay, một chân gác lên đùi tôi như kềm giữ. Ngạc nhiên chưa! Thụ không có thói quen này. Vừa lúc tôi gượng mình vươn vai thì lặng phắc đất trời. Trong tư thế ưỡn ngửa, tôi trơ cứng bất động. Đám mây nằng nặng trôi qua khoảnh sân làm tối sầm gian nhà, tối sầm bức màn đỏ tôi đã kéo che những nén nhang cháy quằn quại. Sau bức màn đỏ, bóng đen thản nhiên bước ra. Lần này hiện rõ hình hài con người. Tôi không còn sợ hãi mà nghênh mặt ngắm nhìn. Nó mang trong mình dáng hình của một lão già Trung Quốc nào đó đầy quyền uy chập chờn trên cái nền lát gạch tàu. Lão Tàu xa xăm, bí ẩn, vừa đen tối vừa có sức hút lạ kỳ, quyến rũ khác thường, vừa giông giống bố chồng tôi. Tôi chăm chăm theo dõi mà vẫn phân định bên ngoài mây xám đã quệt qua khoảng sân, hắt thứ ánh sáng âm âm xuống lũ cây cối, và chỉ cách vài thước, mặt trời đang hực nắng nhựa đường. Cơn khát gắt gỏng nhức nhối trong cuống họng làm mặt mũi tay chân tôi chìm sâu trong nỗi hoảng loạn của thể xác dù phần trí não vẫn tỉnh táo. Khát mỗi sợi tóc. Khát từng nếp gấp làn da. Khát mỗi đốt xương. Khát từ hàng mày. Khát xuống viền môi. Khát trên đồi cao vươn ưỡn. Khát xuống thảo nguyên dang rộng. Khát như chờ đợi bóng đen nhịch nhịch, đến gần tưới nước. Mồ hôi tướp xót mi mắt. Mồ hôi rịn rạn da thịt đùi non. Nhỏ giọt giọt xuống mặt phản đen bóng. Phản này Thụ nói có từ lâu lắm, dễ đã bảy tám đời ngủ nghê, ăn uống, sinh con đẻ cái và khâm liệm. Tấm phản mang quá khứ của gia đình Thụ, xa xôi, chất chồng. Còn tôi, hiện tại, một đứa con dâu đĩ thỏa đang ưỡn ngửa căng rát đón chờ. Bóng đen đã đứng ở khoảng giữa hai chân tôi tách rộng. Từng đường nét trên gương mặt lạnh lùng không hề xa lạ hiện rõ. Sao mà giống Thụ đến thế. Rõ ràng là Thụ. Chân Thụ đã rơi khỏi đùi tôi tự lúc nào giống thả cho tôi tự do đối mặt bóng đè. Anh vẫn nằm nghiêng, quay hai con mắt nửa nhắm nửa mở, như muốn chứng kiến. Lúc đôi tay quờ xuống rà rẫm, tôi biết trước chiếc bóng muốn gì, thứ mà mọi đàn bà trên thế gian khi nằm ngửa đều biết. Tôi dang rộng chân lúc nghe tiếng ho buồng trong dội lại. Tiếng ho càng lớn tôi càng dang rộng chân như muốn thách thức. Chính tôi cũng không hiểu vì sao mình có thể dang chân trong lúc tứ chi bất động, muốn vùng dậy mà không được. Cơ thể tôi không vâng phục trí não nhưng vâng phục thèm khát của cái bàn thờ. Những tiếng ho đứt rời, cằn cộc, tiếp tục cay thét, làm như mẹ chồng tôi muốn biểu lộ ganh ghét với chỗ tôi đang nằm. Hai bàn tay thả xuống mạnh bạo, riết róng, hơi thở dập dồn. Nó luồn sâu bóp từng mạch máu chảy sôi huyết quản con gái đôi mươi. Gương mặt sà sát vùng cổ như muốn hút sức sống tôi căng rứng. Rồi lồng ngực bỏng rát, tôi vỡ vụn. Nó đang banh trái tim tôi ra. Tôi hét, tôi vùng vẫy, tôi van xin, hổn hển, oằn oại rên rỉ. Ông muốn gì ở tôi. Tôi biết phận dâu con, tôi sẽ làm tròn bổn phận. Mỗi năm tôi sẽ làm cơm cúng mười sáu đám giỗ. Tôi sẽ dọn sạch thung lũng mồ mả, sẽ lau bóng nhoáng bàn thờ. Sẽ sinh mười một đứa cháu trai cho ông. Bóng đen tảng lờ. Hai bàn tay bạo lực hung hãn khoét sâu, ngoáy vòng. Tôi điên đảo, đau đớn, nộ cuồng rồi tôi cười gằn thỏa mãn với ý nghĩ mẹ chồng tôi cũng đã nằm trên tấm phản này cũng đã dang chân cho nó ngoáy vòng. Sáng tối lẫn lộn. Tôi nhắm mắt cho trăm đời dòng dõi đế vương quần thảo, cho đến lúc đỉnh đầu nhức buốt, tôi bật nức nở man dại. Tiếng ho buồng trong lúc ấy hộc từng cơn xé phổi. Gần như Thụ bị bắn tung vào góc nhà, tôi có cảm giác thế, đôi mắt anh trừng trừng căm hận. Tiếng càu nhàu của Thụ cắt đứt giấc ngủ tôi mề mệt.
 
F

fantastic_97

tiếp ~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~

“Em thấy tháng sao không mang băng vệ sinh? Con gái mà đoảng quá. Mau dậy thay áo quần, lau chùi tấm phản đi”.
Vẫn bàn tay mảnh dẻ đập xuống phản giúp tôi dậy. Tôi nhìn Thụ rười rượi uất ức. Anh mở mắt, anh chứng kiến, anh vờ như không có chuyện gì. Anh cũng không còn để ý chu kỳ của vợ. Tôi chỉ vừa sạch vài ngày làm sao thấy tháng? Vả lại thứ máu loang áo Thụ, thứ máu đen đặc mặt phản, thứ máu quện bệt đùi tôi không phải máu đàn bà mỗi tháng. Mà là máu tươi chảy róc từ vết thương rách toác bị đâm sâu hung bạo. Mọi người bảo tôi bị bóng đè, nhưng bóng đè chỉ là giấc mơ khi đang ngủ, còn tôi rã rời, hai đùi nhớp nháp máu trộn nước con gái.
“Em còn ngồi ỳ ra đấy, làm nhanh lên, mẹ dậy bây giờ?”
Thụ chưa hết câu thì cửa buồng kẹt mở. Khuôn mặt mẹ chồng tôi đỏ gắt, tay lóc xóc quạt nan. Dừng cái nhìn nơi mảng áo đỏ con trai, nơi mặt phản ướt đen, bà ngẩng đầu bước thẳng đến bàn thờ kéo roạc tấm màn đỏ sang bên, châm lửa đốt nhang. Trưa chuyển về chiều, không ngọn gió nào chạy loạn. Tôi ngồi chết lặng. Vợ anh bị hiếp nhưng Thụ chỉ sợ mẹ dậy. Thụ tốc áo qua đầu ra giếng dội ào ào như muốn dội chất hờn căm trên mình anh hay muốn rửa ráy những dơ bẩn thay cho vợ. Tắm xong, anh trở thành một người khác.
Chúng tôi không đủ sức lực, can đảm mang trên mình bộ mặt bình thản thường nhật cố dối lừa bản thân được nữa. Thụ ít nói hẳn đi, gần như là im lặng. Hiếm hoi mới thấy nụ cười của anh, có chăng là trong một vài lần xã giao bắt buộc. Đôi má anh hóp, ngày một sâu hơn. Tôi thường lén nhìn chồng, nhưng Thụ đã vĩnh viễn không còn sờ nắn bàn tay tôi mà khen ốm mập, ngắn dài. Ngôi nhà của chúng tôi ở thành phố giống một am thờ. Đôi khi tôi hận anh. Vì lấy anh tôi mới về căn nhà xưa cũ đó, mới nằm trên tấm phản ấy, mới ra nỗi đoạ đầy bây giờ. Nhưng Thụ không còn nhìn thẳng mặt tôi. Hình như anh không muốn nhìn bất cứ cái gì, không muốn nghe bất cứ điều gì. Có bận, tôi bắt gặp anh ngồi câm điếc trong buồng tắm cả buổi chiều, ánh mắt vô hồn. Tôi thương chồng và thương chính mình. Thụ đau đớn một tôi đau đớn mười. Tôi là đứa hư hỏng. Tôi biết mình bị hãm hiếp trước bàn thờ tổ tiên nhà chồng, trước mặt chồng, nhưng tôi lại bồn chồn, mong nhớ, thậm chí khát thèm cảm giác ấy. Tôi đạp quẫy, nội chiến, tâm linh héo rũ. Tôi thay rèm cửa màu đỏ, khăn trải giường màu đỏ, bao gối màu đỏ, cố trang trí căn nhà hao hao giống một trang thờ với nhiều tấm màn đỏ. Thụ không phản ứng gì.
Đêm này qua đêm khác, khi tấm rèm cửa trong ngôi nhà thành phố bắt đầu phai màu nhức nhối, tôi và Thụ lại ngược tàu về ngôi nhà mang nhiều oan khuất. Trước hôm đi tôi bị lên một chiếc nhọt ở chỗ thật tai hại. Nó nằm gần cái đàn bà ê ẩm, đỏ tấy. Thụ thấy tôi nhăn nhó tỏ vẻ thông cảm, anh bảo tôi nếu đau quá không về cũng được, anh sẽ thưa lại với mẹ. Nhưng tôi đời nào bằng lòng, đời nào để chiếc phản trống trơn mình Thụ đêm dài. Chỗ của tôi là ở đấy. Không hiểu sao tôi thấy mình khoẻ mạnh, háo hức lạ thường. Tôi ngượng ngùng tự thừa nhận với mình nghiện mười sáu đám giỗ, mười một ngôi mộ, tấm phản đen bóng, cả tiếng ho cục thét buồng trong. Tôi phê cảm giác khát cháy, nhào nhoẽ mồ hôi. Chiếc bóng đen đúa làm tôi mê hoặc, xô đẩy tôi trong gầm thét cuộn trào. Thụ đau đáu trước thái độ phấn khích của tôi, dường như anh biết từ trước tôi sẽ phản ứng ra sao. Nhìn mặt anh lạnh lẽo, tôi hiểu. Cẩn thận, Thụ bắt tôi trần truồng dạng chân, chống tay trong phòng tắm, ghé sát cặp kính cận xem xét. Tôi sướng run lên vì cử chỉ thân mật này của chồng. Từ ngày ở quê lên, chưa khi nào anh ân cần đến thế. Tôi thầm cảm ơn chiếc nhọt, biết đâu nhờ nó, tất cả sẽ thay đổi. Ngón tay anh ve vuốt dịu dàng, người tôi mềm nhũn. Nhưng anh dịu dàng lâu quá, dịu dàng tôi không chịu nổi. Tôi muốn anh bóp nát, bục vỡ, tan oà chiếc nhọt. Một lần chồng vợ đã đời để quên hết. Ngón cái của Thụ cứ chờm hỡm trước cánh cửa dang rộng ẩm sâu. Tự nhiên tôi muốn buông một câu chửi thề, chửi thề một lần trong đời. Cánh cửa tự động cài khóa. Sao Thụ không cứ thế mà làm? Cứ thế cắm phập xuống. Cứ thế khoan sâu. Sao cứ chờm hỡm đấy mà dịu với chả dàng? Tôi bật khóc, nghĩ rằng nỗ lực cứu sông, cứu thuyền thế là hết.
Nhưng khi đêm xuống trên tấm phản, tôi nằm sấp, cánh cửa lại mở tanh bành. Sông ngập nước. Tỳ ép mắt mũi xuống mặt phản, tôi không ngờ bóng đen nhanh đến vậy. Không rà rẫm xoa xuê, không hít hà rờ ngửi. Vừa kịp hiện ra sau tấm màn đỏ đã thẳng thừng cắm trên cắm dưới vào lòng sông. Lần đầu tiên tôi không khát nước. Gẫy gập, cắt khúc tôi trong cơn xoáy liệt. Bốc cao, phịch hạ, chèn lấp, tọng đầy, thả hút mê man. Thân thể tôi ngầy ngậy, nước tràn miệng. Lần đầu tiên tôi hưởng thú đau đớn mà thỏa mãn. Tiếng ho ngừng lặng sau cao trào. Thụ ấm ớ giữa cơn mê lãng nhoẹt nào, trừng trừng mở mắt, bọt mép nhoè môi. Lúc cử động được chân tay tôi thấy mình hẫng nhẹ. Có gì khang khác. Sực nhớ tới mụn nhọt tôi đưa tay xuống dưới. Trời ơi. Xẹp nhép. Khô cong. Không còn mủ vàng, không còn đau tấy. Lao mình ra sân, dưới ánh trăng già tôi gào thét điên dại với hai hàm răng nghiến chặt. Trăng lạnh tanh, vàng võ. Tôi quỵ gục hoàn toàn. Tôi thương tôi và tôi ghét tôi. Tôi đã đồng loã, đã kiễng chân lên rên rỉ rồi sau đấy lại nghĩ mình bị hãm hiếp, lại căm oán bóng đen tổ tiên nhà Thụ. Rồi lại mong chờ, lại hứng háo thèm thuồng. Bóng đen ấy hiểu tôi thích gì, nó tràn lấp dục vọng trong tôi và đẩy Thụ xa cách. Hai bàn tay tôi dưới trăng xanh trắng, bấu chặt, xiết nhau. Tôi hiểu những ám dấu của cơ thể, hiểu mười ngón tay kỳ diệu đang mưu tính điều gì.
Bàn tay da mỏng tanh của tôi bắt đầu động đậy. Bàn tay diệu kỳ không trọng lượng và cũng không chấp nhận, không đồng loã, không thỏa hiệp mọi chuyện. Nó muốn tôi thoát khỏi mê man. Những ngón dài trắng xanh đầy kiên quyết tỳ ép ngòi bút trên tờ giấy. Nó thúc bách tôi phải ly hôn với Thụ. Bàn tay ký lên trang giấy, nhưng thân thể tôi ù lỳ không nhúc nhích, không muốn cử động mà ngồi yên vít chắc vào mặt phản, nhất quyết không đi đâu. Thân thể tôi đã u mê trong nhang khói bấy lâu, cưỡng lại bàn tay với tất cả sức lực của nhung nhớ những phập mạnh, đâm sâu. Bàn tay mảnh dẻ cầm bút, bất lực với tự do đã nắm được ở đầu ngón tay nhưng bị trọng lượng thân thể buộc trói.
Rồi máu không còn nhỏ xuống chân tôi nữa. Cơ thể thỏa mãn trong im lặng. Cái thai trong bụng tôi, không phải của Thụ, không của bất kỳ người đàn ông nào cứ lớn dần. Thụ thay đổi, xoay sang vỗ về, chăm sóc vợ từng ly từng tý. Anh thường xoa xoa bụng vợ, thường xuyên nhìn lên vách như anh muốn báo cáo với những chiếc bóng đang canh chừng cẩn mật, tiến trình tăng trưởng của đứa bé. Con tôi sẽ tiếp nối truyền thống Trung Quốc, sẽ tiếp tục thờ cúng bóng tối, sẽ tiếp tục banh dạng trên phản cho các liệt sĩ thỏa mãn. Nếu là bé trai, con trai tôi sẽ bảo vệ cái bàn thờ, nếu là bé gái, con gái tôi sẽ tiếp tục hiến dâng cho những tấm huân chương. Tôi đã khinh ghét cái thai, đã tính đến chuyện giết nó đi nhưng ý nghĩ chỉ thoáng qua nhanh như một cơn gió độc làm nổi gai khắp cùng châu thân. Tôi thương giọt máu của mình.Tôi thương đứa bé vô tội cũng bất lực như tôi đã bất lực, đã khép mình làm bổn phận sinh nở, di truyền một quyền lực. Mỗi ngày tôi ra ngồi trước sân, đưa bàn tay nhẹ hẫng ra trước mắt, ngắm xem làn da mỏng tanh đang óng ánh dưới nắng, rồi lấy bàn tay ấy vuốt ve đứa trẻ đang quẫy nhè nhẹ, thấy yêu thương vô hạn hòn máu tôi đang mang trong mình, yêu thương tràn lấp tâm hồn đến chẳng nói thành lời. Không biết có người mẹ nào yêu thương bào thai của cha chồng cấy vào bụng như tôi? Không biết có người mẹ nào yêu thương di sản của tăm tối như tôi? Thi thoảng tôi cũng nhìn lên vách, đoán tìm những chiếc bóng mà tôi biết đang rình rập sau bức tường, đã lao xuống mình tôi cướp mất phần trinh trắng tuổi thơ một buổi trưa hè nào và sẽ còn lao xuống cướp nốt thai nhi tôi đang mang. Thi thoảng tôi nói với những oan hồn chuyên hành nghề bòng đè, tôi đã sẵn sàng và con tôi cũng sẵn sàng, chúng tôi sẵn sàng như những người nghèo sẵn sàng bán máu. Chúng tôi không biết chọn lựa vì cơ thể chúng tôi đòi hỏi những nhục cảm mà bóng tối ban phát. Chúng tôi bất lực, chỉ còn những ước mơ mà không chiếc bóng nào có thể tước đoạt. Tôi đưa tay mình ra sáng. Nắng lung linh trên năm ngón dài ngắn thanh tao lạ thường. Chiến tranh, giông gió, bão lũ, hán hạn, tôi có thể chết đi rồi mà bàn tay vẫn nguyên vẹn. Tôi đinh ninh điều ấy. Con tôi sẽ có bàn tay của mẹ. Một bàn tay không béo gầy, không trọng lượng, chỉ có làn da mỏng tanh nhưng biết níu giữ tự do cho dù bị thân thể buộc trói. Nắng tắt, mà bàn tay vẫn óng ánh diệu kỳ.
 
F

fantastic_97

bài tiếp ~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~

Tấm vé cào
Mấy hôm nay buổi sáng trời se lạnh, nhưng trưa và chiều lại nắng như đổ lửa. Huy vẫn như thường lệ đến công ty xổ số để nhận vé đi bán từ lúc 5 giờ sáng, khi phố xá mới chỉ loáng thoáng những người đi buôn bán, những chiếc xe ba gác chở hàng xuống chợ. Huy đi bán vé số đã ba năm, kể từ khi mẹ Huy sinh thêm thằng Cu Tí. Nhà có bảy miệng ăn mà chỉ biết nhìn vào đôi bàn tay của bố, bằng nghề khuân vác và làm thợ hồ. Là anh cả Huy phải nghỉ học để bớt phần gánh nặng cho gia đình. Ði bán vé số từ sáng sớm đến tận chiều khắp phố cùng ngõ hẻm, có ngày Huy thu nhập được 10-15 nghìn đồng. Chính vì vậy mà Tết vừa qua các em của Huy đều có quần áo mới, có bánh chưng mà chưa bao nhiêu cái Tết trước nhà Huy không có.
Nhưng điều mà Huy không bao giờ tin nổi là gần đây mỗi lần về nhà, Huy thường bị mất cắp hai vé. Chính điều này mẹ Huy cũng không tin. Có bữa bà còn cho rằng Huy nói xạo, lời lỗ thế nào chứ ai thèm lầy hai tấm vé số làm gì!
Cơm chiều xong, Huy lại đem xấp vé cào ra đếm rõ ràng vẫn bị mất hai cái Huy càu nhàu :
- Có đứa nào lấy vé của tao không?
Mấy đứa em lao nhao :
- Em không lấy, em không lấy! Em không lấy...
Mẹ Huy thở dài :
- Chớ con bán sao mà để mất hoài vậy?
Chỉ có bố Huy lặng lẽ không nói không rằng vác rựa đi làm.
Trưa hôm nay Huy ghé về nhà ăn cơm rồi lại phát thiện vẫn bị mất hai vé. Ðàn em đã đi chơi và đi học hết, chỉ có bố Huy ngồi xoay lưng đang loay hoay trong tay cái gì đó. Huy nhẹ nhàng lại gần, thấy trong tay bố hai chiếc vé. Huy kêu lên :
- Bố ơi! Bố đừng cào, để con bán kiếm lời..

Chiếc xe Toyota bóng lộn đỗ phịch trước cửa nhà hàng Bạch Ðằng. Trong xe bước ra một người đàn ông béo tốt và một người đàn bà ăn mặc diêm dúa, với kiểu trang điểm trông thật cầu kỳ. Họ khoác tay nhau bước vào nhà hàng. Vài câu chuyện, rồi tiếng mở nắp bia “Pựt... pựt”. Người đàn ông :
- Uống đi em! Trúng quả này chúng ta thắng chắc trong tay 150 triệu...
Huy nhẹ nhàng tiến gần lại hai người.
- Thưa cô, thưa chú, mua dùm vé cho cháu!
Người đàn ông đưa bàn tay to rút hai cái và giao lại cho người đàn bà ngồi cạnh. Ngón tay cái móng đỏ chót cào sột soạt lên tấm vé. Bà ta hét toáng lên :
- A! Trúng rồi... 50 triệu đồng...
Huy bàng hoàng khi nhận ra đúng hai tấm vé vương vết bẩn do bố cầm sáng nay, với bao mong ước “gặp may” một lần cho các con đỡ khổ, được học hành đến nơi đến chốn...
Tự nhiên Huy òa khóc.
 
F

fantastic_97

bài tiếp ~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~

Thương quá rau răm
Ông Tư Mốt chỉ cái dãi xanh mù mù trong mưa, bảo cù lao Mút Cà Tha kìa. Văn ờ, nói thấy xa quá chú ha. Ông cười, gạt ngang, xa gì, đây tới đó mấy hồi. Rồi chiếc xuồng máy nhỏ mong manh rập rờn đi trong giông gió. Người thành phố ngồi ngấm cái “mấy hồi” của ông già, mừng tủi thấy màu xanh cây cỏ cù lao đã thẫm trước mắt (mà sau mới biết mình mừng hụt). Mưa dịu lại, hạt nhỏ rức nhưng gió mạnh lên, thổi xà quần, không biết đâu là chiều hướng. Ông Tư quăng cho Văn cái can nhựa còn ít xăng, bảo, tới khúc “mứt” nghen, coi chừng lật xuồng. Mà, có kịp coi gì, Văn thấy mình ngã ập xuống nước, hành lý trôi mất, lên tới bờ anh chỉ còn trụi trơ bộ đồ đang mặc. Ông Tư kè chiếc xuồng vô sau, dậm chân dậm cẳng bứt đầu gãi tóc như thể mình vừa lỡ tay làm nên cơn giông chiều nay. Bởi ông biết rằng, mưa gió kia, sóng nước mênh mông kia và cả màu chiều đang lịm dần kia sẽ làm cho người bác sỹ trẻ này thất vọng. Bác sĩ thứ sáu về làm việc ở trạm xá cù lao. Năm người trước đã ra đi, đi vì không chịu nổi thiếu thốn. Và buồn.
Cù lao Mút Cà Tha nằm gần cuối sông Dài, trên nó một chút có một nhánh sông khác rẽ về phía mặt trời, rộn rịp được đoạn đó rồi thôi. Mút Cà Tha nằm hiu hắt, lâu lâu mới thấy bóng dáng một con tàu lớ ngớ chạy vào rồi lại tẻn tò quay ra vì lầm đường, vì không biết đằng sau cù lao, sông cụt. Ngó sông vắng vẻ quá trời buồn, nhìn cảnh cù lao còn buồn hơn. Buồn từ mùi ổi chín phảng phất trong vườn, từ giọng người ới lên một tiếng rồi bặt, dư âm còn thâm u trên các ngọn cây, tiếng cạo cơm cháy xa vẳng trong nắng chiều... Từ mé rừng mắm chống lở đất phía bên này, đi hết vườn cây này gặp được một căn nhà thì lại tiếp đến vườn cây trái khác. Cuối cùng là bãi bồi, dây khoai lang bò xùm xòa phủ kín đất. Bóng người ẩn hiện dọn cỏ dưới các gốc cây. Bên đường thấp thoáng nhiều nấm đất con con của những đứa trẻ kiệt sức vì bị đẹn mà chỉ được rơ miệng bằng cỏ mực, những đứa trẻ bệnh sốt xuất huyết chỉ chữa bằng cạo gió, uống nước mía lau, rễ tranh, những đứa trẻ mắc thương hàn bị thủng ruột vì tự do chạy ra vườn ăn ổi chua, ổi chát... Những gò đất ấy đã cũ mèm rồi, bây giờ người cù lao hiểu biết nhiều, nhưng vẫn còn chuyện rủi may, còn người bị rắn độc cắn, chết trên đường ra bệnh viện huyện. Hôm ấy, trưởng ấp Tư Mốt tuyệt vọng nắm chặt hơi thở cuối của ông bạn láng giềng trong tay, tuyệt vọng thấy nó tan đi, ông về nhà viết lên tường trạm xá “Cương quyết chỉ chết vì già”.
Nhân viên y tế nào mới về ngó câu khẩu hiệu ấy cũng cười, cũng thương. Nhưng rồi nửa khuya ngồi ăn mì gói, nghe cú kêu lẫn tiếng radio khọt khẹt (để chút âm thanh đấy cho đỡ quạnh), vạch đi vạch lại tờ báo cũ mèm, họ sực nhớ phải về quê lấy vợ, lấy chồng, sực nhớ vợ mình mới sinh, sực nhớ tội nghiệp ba má đã già… Và họ từ giã cù lao. Ông Tư Mốt ờ ờ ra chiều thông cảm, vẻ mặt cố tỏ ra không buồn nhưng hàm râu xuôi xị. Họ ngoắc đò đi rồi chú còn đứng mãi trên bến, nghĩ giận đám trẻ cù lao đã được học hành nhưng chẳng đứa nào chịu quay về.
Nên chú bảo với bốn mươi ba nóc gia sống trên Mút Cà Tha, “Bất cứ người xứ lạ nào đến làm việc ở đất cù lao đều quý, mình phải đối xử cho tử tế, thiệt tử tế”. Gặp Văn lần đầu tiên, ông nghĩ ngay, phải giữ thằng nhỏ này ở lại cù lao, thấy cái mặt buồn buồn, ngó bộ đàng hoàng. Ông nghĩ là mình có cách, không có gì sâu nặng bằng tình cảm người với người. Thì ông đã rịt chân mấy thầy cô giáo cho đám trẻ cù lao đấy thôi. Hôm Văn đến, bà con ôm lại cho một đống áo quần, góp gạo đổ vô thùng, câu cá đem rọng. Rồi mấy con cá ốm nhom, trắng dờ con mắt, lội vật vờ tới lui chờ hoá kiếp mà Văn vẫn còn ngợp trong mớ lời mời, hết nhà này đến nhà khác, bữa thì cháo vịt, cháo rắn, bữa khác tôm nướng, lươn um...
Mà, trông Văn vẫn buồn, buồn chen giữa hai cái cười, nó tranh thủ cả khi Văn đưa ly rượu lên môi và để ly không xuống (còn lúc uống thì mặt Văn nhăn nhúm lại, vẻ buồn không rõ ràng). Hỏi làm sao buồn thì Văn cười, ủa, cháu có buồn gì đâu. Hỏi nhớ thành phố à, Văn cũng cười, không, thành phố có gì mà nhớ. Hỏi nghĩ sao mà tình nguyện về đất cù lao này, nghe tên Mút Cà Tha bộ không ớn sao, Văn (lại) cười, không, có nghĩ gì đâu, cháu chọn nơi nào hẻo lánh ít người... Nghe cái giọng như đời ta là lục bình, trôi đâu cũng được, càng xa càng tốt.
Nhưng trưởng ấp Tư Mốt phải làm cho anh chàng hiểu đời anh có ý nghĩa với đất này như thế nào, thiếu anh người cù lao sống không nổi chớ chơi à. Buổi sáng có người chạy lại than nhức đầu, sổ mũi, buổi chiều thêm chứng chóng mặt, đau mình. Vài ba chị phụ nữ đỏ mặt thập thò ngoài cửa, trong bụng rủa thầm ông già Tư Mốt, đau bụng kinh cũng bắt đi trạm xá, mắc cỡ gần chết. Trưởng ấp tà tà dài theo xóm, thấy ai rảnh rỗi là kêu, đứng đó làm gì, sao hỏng lại trạm xá cho bác sỹ người ta khám. Trời đất, bệnh gì mà khám chú Tư. Ông nói tỉnh bơ, khều khều bộ râu, “Có chứ sao không, hễ mầy nhậu xỉn là ói, để vậy không tốt, lại kiếm thằng Văn đi”. Mới đầu thì Văn không biết, nên thấy có bà cụ chống gậy lại bảo bác sỹ coi bệnh dùm, Văn hỏi bà bị gì, bà cười, tui suy nghĩ chưa ra. Thuốc hết, huyện chưa kịp gởi, Văn áy náy, tần ngần đưa mấy thứ B1, B6 cho con bệnh đau bao tử, uống xong, ông này phởn phơ đứng dậy, tươi rói bảo, trời đất ơi, thuốc chú mầy quá chừng hay. Văn đâm ra lạ. Cho tới bữa đám con nít khiêng một thằng bé ở truồng lại, nhao nhác nói chim của thằng Út Chót bị còng kẹp rồi, nó sưng chù vù nè chú bác sỹ ơi. Văn mắc cười quá, hỏi sao tới nông nổi vầy, thằng Út Chót khọm rọm lấy tay bụm chỗ đau, phều phào nói trong nước mắt, “Tại bác Tư biểu ai cũng phải đi khám cho chú bác sỹ vui, chú không bỏ về thành phố. Con đâu có bịnh, tính bắt còng kẹp chơi...”. Văn chỉ kêu được hai tiếng trời ơi.
Và anh hiểu tại sao ông già ấy lại quan tâm tới mình. Chiều nào ông cũng lại chỗ Văn, rủ rỉ rù rì. Ông biết giờ đó, bà mụ Năm, nhân viên thứ hai của trạm xá đã về nhà, có thể Văn thấy cô đơn. Ông kêu đám thanh niên lại chỗ Văn đàn hát tẳng tằng tăng, dẫn Văn đi câu cá hay soi ếch trong “mà”. Văn tham gia nhiệt tình nhưng không tha thiết như người đi đường thấy vật lạ thì cầm lên, rồi lại bỏ xuống, đi tiếp. Có lần ông Tư hỏi nhà Văn ở khúc nào, Văn bảo ở chỗ ấy chổ ấy mà trong bụng buồn cười, nghĩ nói cho có chứ chắc gì ông biết, nghe cái giọng như thể thành phố nhỏ bằng cù lao. Không ngờ ông biết thật, nói hồi giải phóng, trung đội ông đánh vô đường đó. Ban quân quản còn cấp cho ông căn nhà đằng trước có khoảng sân ngập tràn bông giấy rụng. Văn hỏi, rồi sao bác lại ra sống ở đây. Ông cười, vì cái đất này cần mình. Nói xong câu này, ông lén dò xét coi thằng nhỏ có bắt được cái ý nghĩa ngầm mà ông gởi gắm không, chỉ thấy Văn ngó lên trời, ngó xa xôi, hỏi nhìn gì, Văn ù ờ, bảo nhìn chim bay, không biết tụi nó bay tới đâu, về tận đâu. Trưởng ấp Tư Mốt thấy bất an, về nhà biểu con gái sớt nửa nồi bí hầm dừa bưng qua trạm xá. Con Nga dạ rồi tong tả đi.
 
Top Bottom