░░Từ điển Sinh học░░

Status
Không mở trả lời sau này.
L

lananh_vy_vp

Vần G phần sinh lý thực vật

Gạo
phần ruột quả của hạt thóc, gồm một khối nội nhũ chứa các hạt tinh bột với cây mầm ở một góc (khi giã, cây mầm rụng ra, nên hạt G bị lẹm đi); ngoài có lớp vỏ quả mỏng màu vàng hay đỏ (khi giã bị vụn thành cám), được hai mảnh vỏ trấu và hai mày (râu) bao bên ngoài hạt thóc.
gao-ngon.jpg

Gạo(cây)
tương tự như các loài cây khác trong chi Bombax, còn có tên gọi khác là mộc miên hay hồng miên. Trong một số hệ thống phân loại cũ, người ta đưa nó vào họ Gạo (Bombacaceae).
Là loài cây ở vùng nhiệt đới với thân cây cao và thẳng với lá rụng vào mùa đông. Các hoa đỏ với 5 cánh hoa mọc vào mùa xuân trước khi cây ra lá non. Quả nhỏ chứa các sợi tương tự như sợi bông. Thân cây có các gai để ngăn cản sự tấn công của động vật.
hoagao1sm.jpg

Gấc
là loài cây dây leo,có quả nhiều gai nhọn,hình bầu dục,khi chín màu đỏ cam ,ruột chỉ có hạt.
a3e4efe7-8cfc-4ad6-a4cb-68aeea28897d.jpg

Giáng hương
cây hoa này hoa mọc thành chùm, lá dày ( gần giống là lược vàng) , có rễ phụ dài.
2092007211726.jpg

Giới bạch ( Allum macrostemon Bge. )
thân to, hoa nhỏ vàng.
u3_gioi_tu257.JPG

Giáp trúc đào( Nerium indicummill)
Cây nhỡ, mọc đứng, nhẵn, cao 4-5m. Cành mềm dẻo. Lá mọc vòng 3, hình mác, dai, cứng, mặt trên xanh thẫm, mặt dưới nhạt hơn, gân đều song song ở hai mặt gân chính. Hoa mọc thành xim ở ngọn, màu hồng hay trắng. Đài 5, ống hình chuông. Tràng nhiều cánh (con số thay đổi), ổ gốc có vảy hình chỉ. Nhị 5, không có đĩa mật. Bầu gồm 2 noãn riêng biệt có lông ở đỉnh, noãn đính theo 8 hàng, mỗi hàng 10 noãn. Quả đại 2, dài 15-20cm.
TRUC%20DAO_Hinh%20dai%20dien.JPG

Giấp cá
còn có tên là cây diếp cá, dấp cá. Tên khoa học là Houttuynia cordata. Họ lá giấp Saururaceae. Tên tiếng Anh của nó là heartleaf (lá hình tim) hay lizardtail (đuôi thằn lằn).
Giấp cá có nguồn gốc ở Nhật Bản, miền nam Trung Quốc và Đông Nam Á, là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt, có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40 cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc. Toàn cây vò có mùi tanh như mùi cá.
1899288.jpg

Gòn(bông)
là một loài cây nhiệt đới thuộc bộ Cẩm quỳ (Malvales) và họ Cẩm quỳ (Malvaceae) nghĩa rộng, trước đây được tách ra trong họ riêng gọi là họ Gạo (Bombacaceae), có nguồn gốc ở Mexico, Trung Mỹ, Caribe, miền bắc Nam Mỹ và khu vực nhiệt đới miền tây châu Phi (phân loài Ceiba pentandra guineensis).
128923847_c18dd3075c.jpg

Gỗ
là một dạng tồn tại vật chất có cấu tạo chủ yếu từ các thành phần cơ bản như: xenluloza (40-50%), hemixenluloza (15-25%), lignin (15-30%) và một số chất khác. Nó được khai thác chủ yếu từ các loài cây thân gỗ.
tree-wood-texture-2.JPG

Gừng
(Zingiberaceae), họ cây thảo, sống lâu năm, có thân rễ lớn chứa nhiều chất dự trữ. Lá có bẹ dài, ôm lấy nhau thành thân giả. Hoa có màu; phần dưới của tràng dính lại thành ống, phần trên chia thành ba thùy. Bộ nhị chỉ còn lại một nhị sinh sản. Bầu dưới, 3 ô, chứa nhiều noãn đảo. Quả mang, ít khi quả mọng. Có khoảng 45 chi, hơn 1 300 loài. Phân bố ở nhiệt đới và cận nhiệt đới.
images72974_T8-2.jpg
 
Last edited by a moderator:
L

lananh_vy_vp

Vần H-Phần sinh lý thực vật

Hạt
noãn phát triển sau khi thụ tinh. Gồm: vỏ, phôi và những mô dự trữ chuyên hoá (nội nhũ hay ngoại nhũ). Vỏ phát triển từ vỏ noãn; phôi phát triển từ hợp tử (bộ phận quan trọng nhất của H); nội nhũ từ nhân thứ cấp được thụ tinh của túi phôi; ngoại nhũ từ phôi tâm. H được chia thành bốn kiểu: H chỉ có vỏ và phôi (như H của họ Đậu, Bầu bí, Cúc, Cải, vv.), đặc trưng là phôi to, phân hoá tốt, lá đầu tiên của phôi là lá mầm, phát triển thành cơ quan dự trữ; H có vỏ, phôi, nội nhũ (như H cây một lá mầm, họ Hoa hồng, họ Cà), nội nhũ phát triển, phôi tâm phân hoá hoàn toàn; H có vỏ, phôi, ngoại nhũ (như họ Rau muối, Cẩm chướng, vv.), phôi phát triển khác nhau và chiếm vị trí khác nhau đối với nội nhũ; H có cả nội nhũ và ngoại nhũ là các mô dự trữ (như H họ Súng, Chuối, Hồ tiêu), nội nhũ phát triển yếu chỉ có vai trò hút.
Giá+trị+dinh+dưỡng+của+một+số+loại+đậu+hạt.jpg

Hà thủ ô đỏ
(danh pháp khoa học: Fallopia multiflora, đồng nghĩa: Polygonum multiflorum) là một loài hà thủ ô cây thân mềm, thuộc họ Rau răm (Polygonaceae), bộ Cẩm chướng (Caryophyllales). Loài cây được sử dụng làm thuốc.
Hà thủ ô đỏ chủ yếu được biết đến như là một vị thuốc bổ, trị suy nhược thần kinh, ích huyết, khỏe gân cốt, đen râu tóc.
Rehmannia-glutinosa-2.jpg

Hẹ
có tên gọi khác là cửu thái, cửu thái tử, khởi dương thảo và nhiều tên khác. Danh pháp khoa học là Allium ramosum (dạng hoang dã) hay Allium tuberosum (dạng gieo trồng) (đồng nghĩa: Allium odorum, Allium chinense?), thuộc họ Hành (Alliaceae). Các văn bản gần đây chỉ liệt kê nó dưới tên gọi Allium ramosum. Một số nhà thực vật học còn đặt cả các giống hoang dã và giống gieo trồng vào A. ramosum do có nhiều dạng trung gian tồn tại. Mùi vị của nó là trung gian giữa tỏi và hành tăm.
Garlic-Chives.jpg

Hẹ tây
là từ chung được sử dụng để chỉ tới hai loài khác nhau trong chi Allium. Hẹ xám Pháp (griselle), được nhiều người coi là "hẹ tây thật", có danh pháp khoa học Allium oschaninii, là loài mọc hoang dã từ Trung Á tới Tây Nam Á. Một biến thái khác của hẹ tây là phân loài Allium cepa aggregatum.
shallot.jpg

Hoa
là bộ phận chứa cơ quan sinh sản, đặc trưng của thực vật có hoa. Về mặt cấu trúc thực vật học, hoa là một dạng cành đặc biệt.
Cấu tạo đầy đủ lý tưởng của hoa bao gồm: cuống hoa, lá bắc, bao hoa, tràng hoa (cánh hoa), bầu hoa, nhị hoa, nhụy hoa.
hoa_phuong.jpg

Hoàng liên
(danh pháp khoa học Coptis) là một chi của khoảng 10–15 loài thực vật có hoa trong họ Mao lương (Ranunculaceae), có nguồn gốc ở châu Á và Bắc Mỹ.
hoang-lien-chan-ga.jpg

Hòe
(Sophora japonica), cây gỗ lớn, họ Đậu (Fabaceae). Cao 5 - 10 m, đường kính thân 15 - 30 cm, thân hơi vặn khúc, gốc xù xì, có tính chất trang trí. Lá kép lông chim lẻ. Hoa cánh bướm màu vàng hoặc trắng sữa. Quả giáp dài 25 - 50 mm, rộng 20 - 30 mm, dày 5 - 10 mm, có 1 - 6 hạt, dài 7 - 9 mm, giữa các hạt quả hơi thắt lại. H ưa đất phù sa ven sông, đất cát, đất đồi thấp. Cây H mọc hoang và được trồng khắp nơi ở Việt Nam. Có thể gây trồng bằng hạt, chiết, giâm cành. Cây sống được khoảng 40 năm.
hoa%20hoe.jpg

Hoa hồng
Rosidae), phân lớp thực vật hạt kín, gồm cây thân gỗ, thân thảo, dây leo và nhiều dạng lá rất khác nhau. Hoa mẫu 5, đính noãn trung trụ, tiến hoá theo hướng thích nghi thụ phấn nhờ côn trùng. Gồm rất nhiều bộ và đại diện có tầm quan trọng thực tế lớn như Hoa hồng (Rosales), Đậu (Fabales), Cam (Rutales), Nhân sâm (Araliales).
DSCN1301.jpg

Hồ tiêu
còn gọi là cổ nguyệt, hắc cổ nguyệt, bạch cổ nguyệt (danh pháp hoa học: Piper nigrum) là một loài cây leo có hoa thuộc họ Hồ tiêu (Piperaceae), trồng chủ yếu để lấy quả và hạt, thường dùng làm gia vị dưới dạng khô hoặc tươi.
Hồ tiêu là một loại dây leo, thân dài, nhẵn không mang lông, bám vào các cây khác bằng rễ. Thân mọc cuốn, mang lá mọc cách. Lá như lá trầu không, nhưng dài và thuôn hơn. Có hai loại nhánh: một loại nhánh mang quả, và một loại nhánh dinh dưỡng, cả hai loại nhánh đều xuất phát từ kẽ lá. Đối chiếu với lá là một cụm hoa hình đuôi sóc. Khi chín, rụng cả chùm. Quả hình cầu nhỏ, chừng 20-30 quả trên một chùm, lúc đầu mầu xanh lục, sau có mầu vàng, khi chín có mầu đỏ. Từ quả này có thể thu hoạch được hồ tiêu trắng, hồ tiêu đỏ, hồ tiêu xanh và hồ tiêu đen. Đốt cây rất dòn, khi vận chuyển nếu không cận thận thì cây có thể chết. Quả có một hạt duy nhất.
3209593433_e66a640fef_b.jpg

Huyết dụ
(danh pháp khoa học: Cordyline) là một chi của khoảng 15 loài thực vật một lá mầm thân gỗ, được phân loại trong họ Asparagaceae (họ Măng tây) hoặc trong họ được tách ra theo tùy chọn là họ Laxmanniaceae theo như phân loại của hệ thống APG, nhưng được các tác giả khác đặt trong họ Agavaceae hay họ Lomandraceae. Chi này có nguồn gốc ở khu vực miền tây Thái Bình Dương, từ New Zealand, miền đông Australia, đông nam châu Á, Polynesia và Hawaii.
huyetduin.jpg

Hướng dương
(danh pháp khoa học: Helianthus annuus) là một loài thực vật chỉ sống một năm thuộc họ Asteraceae với bông hoa lớn (inflorescence). Thân cây hướng dương có thể cao tới 3 mét, với đường kính bông hoa là 100cm. Hoa hướng dương là loài hoa biểu tượng của Kansas và là một trong các loài hoa biểu tượng của thành phố Kitakyushu, Nhật.
250px-A_sunflower.jpg

Hương nhu tía
hay còn có tên é tía, é rừng, é đỏ, tên khoa học Ocimum tenuiflorum (đồng nghĩa Ocimum sanctum) là một loài thực vật thuộc họ Hoa môi (Lamiaceae)
Cây nhỏ, sống hằng năm hoặc nhiều năm. Thân màu đỏ tía, có lông quặp. Lá có cuống dài, thuôn hình mác hoặc hình trứng, mép có răng cưa, hai mặt đều có lông. Hoa màu tím, mọc thành chùm, xếp thành vòng 6-8 chiếc một chùm, ít phân nhánh. Quả bế. Toàn cây có mùi thơm.
stylenews_3_1292928212.jpg
 
Last edited by a moderator:
G

girlbuon10594

Vần K - Chủ đề sinh lý thực vật

Kim ngân (danh pháp khoa học: Lonicera, đồng nghĩa: Caprifolium Mill.) là chi thực vật gồm một số loài cây bụi hoặc dây leo trong họ Kim ngân (Caprifoliaceae) thực vật bản địa của Bắc bán cầu. Có khoảng 180 loài kim ngân, ở Trung Quốc có độ da dạng cao nhất với hơn 100 loài, châu Âu và Bắc Mỹ mỗi nơi có khoảng 20 loài. Các loài phổ biến gồm có Lonicera periclymenum[1] (kim ngân châu Âu), Lonicera japonica (kim ngân trắng phổ biến ở Nhật Bản, Trung Quốc, Việt Nam) và Lonicera sempervirens. Kim ngân rất thu hút chim ruồi.
200px-Lonicera_japonica2.jpg


Kim tiền thảo (Danh pháp khoa học là Desmodium styracifolium (Osb.) Merr.), thuộc họ Ðậu - Fabaceae, ở Việt Nam còn được gọi là cây Vẩy rồng, cây mắt trâu.
Cây nhỏ cao 40-80cm, mọc bò. Thân rạp xuống, đâm rễ ở gốc rồi mọc đứng. Cành non hình trụ, khía vằn và có lông nhung màu gỉ sắt. Lá mọc so le gồm một hoặc ba lá chét, dài 2,5-4,5cm, rộng 2-4cm, lá chét giữa hình mắt chim, các lá chét bên hình bầu dục, mắt chim; mặt trên lá màu lục lờ và nhẵn, mặt dưới có lông trắng bạc và mềm. Cụm hoa chùm hay chùy ở nách hay ở ngọn, có lông mềm màu hung hung, thường có lá ở gốc các hoa. Hoa màu hồng, xếp 2-3 cái một. Quả thõng, hơi cong hình cung, có ba đốt.
Ra hoa tháng 6-9, kết quả tháng 9-10

Khế là một loài cây thuộc họ Oxalidaceae, có nguồn gốc từ Sri Lanka và được biết đến rộng rãi tại Đông Nam Á. Cây khế cũng được trồng tại Ghana, Brasil và Guyana. Tại Hoa Kỳ nó được trồng với quy mô thương mại tại miền nam Florida và Hawaii.
Cây khế có lá kép dài đến 50 cm. Hoa khế màu hồng, xuất hiện hoặc tại nách lá, hoặc tại đầu cành. Cây khế có nhiều cành, cao đến khoảng 5 m. Khác với nhiều cây nhiệt đới khác, cây khế không cần nhiều nắng. Quả khế thuộc dạng quả táo (dạng quả nạc, có nhiều hạt), màu vàng hoặc xanh, có 5 múi (cho nên lát cắt ngang của quả có hình ngôi sao). Quả khế giòn, có vị chua ngọt, hao hao giống vị của quả dứa. Các hạt nhỏ, màu nâu. Có hai giống là khế chua và khế ngọt. Khế chua thường có múi nhỏ, còn khế ngọt thường có múi to và mọng hơn. Quả khi còn non có màu xanh, khi chín ngả sang màu vàng.
250px-Averrhoa_carambola_ARS_k5735-7.jpg


Keo dậu hay keo giậu (danh pháp khoa học: Leucaena leucocephala), còn có tên khác là táo nhơn, bọ chét, bình linh, keo giun, là một loài cây gỗ nhỏ, loài cây này tại Việt Nam thường được trồng làm hàng rào nên người ta thường gọi là keo dậu. Nó thuộc về chi Keo dậu trong họ Đậu và sinh trưởng ở vùng nhiệt đới. Tán rộng, vỏ cây màu xám. Lá thuộc dạng lá kép lông chim 2 lần chẵn, trên cuống lá cấp 1 có các tuyến hình chậu (một đặc điểm điển hình thuộc phân họ trinh nữ). Hoa tự đầu trạng, tràng hoa màu trắng. Quả tạo thành chùm. Hạt khi xanh có thể ăn được và thường dùng làm thuốc trục giun, khi quả chín, hạt chuyển màu nâu đen.
240px-Leucaena_leucocephala.jpg


Keo lá tràm có danh pháp khoa học là Acacia auriculiformis là một loài cây thuộc chi Acacia. Loài này trong tiếng Việt còn có tên gọi khác là keo lưỡi liềm, tên này được sử dụng nhiều khi loài này mới nhập nội vào Việt Nam (thập kỷ 1960-1970), sau này người ta sử dụng rộng rãi tên gọi keo lá tràm. Keo lá tràm được phân bố tự nhiên ở vùng Indonesia và Papua New Guinea. Hiện tại được trồng rộng rãi tại nhiều quốc gia ở vùng nhiệt đới.
250px-Acaciaauriculiformis1web.jpg


Cây kim vàng (Barlerialupulina lindl) hay còn gọi là gai kim vàng, gai kim bóng, thuộc họ Ô rô
30190750_cay-kim-vang-4807.jpg


Keo tai tượng (danh pháp khoa học: Acacia mangium), còn có tên khác là keo lá to, keo đại, keo mỡ là một cây thuộc phân họ Trinh nữ (Mimosoideae). Địa bàn sinh sống của chúng ở Úc và châu Á. Người ta sử dụng keo tai tượng để quản lý môi trường và lấy gỗ.[1] Cây keo tai tượng có thể cao 30 m với thân thẳng[2].
250px-Starr_031013-0012_Acacia_mangium.jpg


KÉ ĐẦU NGỰA: (Xanthium sirumarium; tk. thương nhĩ), cây thảo, họ Cúc (Asteraceae). Thân nhỏ. Lá mọc so le. Hoa tự hình đầu. Quả giả hình thoi, có móc. Mọc hoang khắp nơi ở Việt Nam. Trong quả có glucozit làm hạ glucozơ huyết, xanthatin và xanthium kháng khuẩn. Dùng cành lá hoặc quả phơi khô chữa mụn nhọt, mẩn ngứa, tràng nhạc, chảy nước mũi hôi. Dùng dưới dạng thuốc sắc.
Ke_Dau_Ngua.jpg


KHOAI LANG: (Convolvulaceae; cg. Bìm bìm), họ cây thảo sống một hoặc nhiều năm, đôi khi cây bụi, một số thân leo, các bộ phận của cây có nhựa mủ trắng, rất hiếm gặp cây gỗ nhỏ. Lá mọc cách, nguyên, chia thuỳ hay xẻ lông chim. Hoa lớn mọc ở tận cùng hay nách lá. Hoa lưỡng tính, đều, mẫu 5, có lá bắc. Đài rời, xếp thành van. Tràng dính, hình phễu. Nhị 5 dính vào gốc tràng, xếp xen kẽ với cánh hoa. Đĩa mật phát triển. Quả nang chia thuỳ, ít khi quả nạc. Hạt có phôi lớn. Gồm 50 chi, 1.500 loài. Phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Việt Nam có chi KL (Ipomoea) có tới 35 loài, đáng chú ý là rau muống, rau muống biển, bìm bìm biếc, cây KL (Ipomoea batatas; tk. lang, dây lang), cây hoa màu lương thực. Thân và cành mọc bò, lá hình tim, có mũi nhọn. Rễ củ màu đỏ, trắng, ruột củ màu trắng, tím, vàng, màu nghệ (khoai nghệ). Hoa hình ống rỗng, màu hồng tím. Được trồng nhiều nơi để lấy củ ăn; ngọn non có thể làm rau xanh, có tính nhuận tràng, thân và lá làm thức ăn nuôi lợn. KL là cây lục bội thể. Nguồn gốc ở Châu Mĩ nhiệt đới, hiện nay được trồng khắp các vùng nhiệt đới và một số vùng cận nhiệt đới, ôn đới. Ở các nước nhiệt đới, KL dễ ra hoa, hạt, nhưng thường trồng bằng đoạn dây, hoặc bằng mầm củ. Có 3 nhóm giống: 1) Nhóm củ thịt mềm, ăn ngon, như khoai lim Bắc Ninh, khoai điệp Quảng Nam, khoai mật Đà Lạt, khoai trắng giấy Nam Bộ, KL bí (ruột vàng). 2) Nhóm củ thịt khô, dễ thái lát, làm bột như KL phụng Nam Bộ, chủng Tainung 55 - 57 Đài Loan. 3) Nhóm củ thịt xơ, năng suất cao nhưng chất lượng kém, thường dùng cho chăn nuôi như KL Hồng Quảng, Bất Luận Xuân. Sản lượng KL hằng năm trên thế giới khoảng 133 triệu tấn, năng suất cao nhất ở Nhật Bản 22 tấn/ha. Thường năng suất canh tác thấp hơn tiềm năng sản lượng đạt được ở các thử nghiệm rất xa.
khoai_lang.jpg



KHUÊ TẢO: (Diatomeae, tk. tảo silic), họ tảo đơn bào, kích thước nhỏ (4 - 2.000 μm), vỏ silic, sống trong môi trường nước ngọt và nước biển. Hoá thạch KT có thể tập trung và hình thành đá điatomit, một loại đá có những lỗ hổng li ti, dùng làm đá mài hoặc làm chất hấp thụ.
Cyclotella.jpg


Kèo nèo:(Limmocharis flava)Cây thân cỏ, nổi trên mặt nước, cao đến 80cm, lá dày dạng trái xoan tròn, màu xanh bóng, cuống dài có rãnh. Cụm hoa dạng hoa tán, hoa có cuống dài, màu vàng tươi, quả nang có hạt.
2169.JPG



Ké trơn(Pavonia rigida)
-Loài này mọc ở rừng thưa ở vùng thấp đến độ cao 1500m, từ ninh thuận trở vào đến Tây Ninh
-Cây nhỏ mọc thành bụi, cao 1 - 1.5m. Lá có phiến hình tim tròn, có lông hình sao cứng, nhám, mép lá có thuỳ cạn. Hoa đơm thành cụm hoa dày ở ngọn các nhánh; cánh hoa màu hồng đỏ, ống nhị dài, đứng, lá noãn 5. Quả nang trong dài, có lông, không có gai móc; hạt có nhiều lông vàng.
2327.JPG


Kơ nia(Irvingia malayana)
-Mọc trong rừng mưa nhiệt đới thường xanh mưa mùa ẩm hay rừng cây nửa rụng lá, ít gặp trong rừng thưa. Khi nhỏ cây ưa bóng và chỉ tái sinh dưới tán rừng. Có khả năng chiu hạn. Không bị chết do chất độc hóa học
-Cây gỗ lớn, thường xanh, cao 15 - 30m hay hơn đường kính 40 - 60cm hay hơn, gốc thường có khía. Vỏ thân màu nâu hồng hay xám hồng, bong thành mảng rất nhỏ, thịt vỏ dày 6cm, có sạn màu vàng. Cành con màu nâu, nhiều bì khổng. Tán cây hình trứng, rậm rạp, màu xanh thẫm
3113.JPG


Ké hoa đào còn có tên là ké hoa đỏ, thổ đỗ trọng, hồng hài nhi, dã mai hoa, dã miên hoa, dã đào hoa... Đây là loại cây nhỏ, có thể cao đến 1 m, cành phân nhiều nhánh, toàn thân có lông mềm. Lá mọc so le, phía dưới gần như hình tròn hoặc hình tim, phía trên hình bầu dục, chia thùy nông, có răng cưa. Hoa mọc ở kẽ lá, có màu hồng. Quả hình cầu dẹt, có gai. Cây thuốc này thường mọc hoang dã ở nhiều nơi, được dùng rễ và toàn cây làm thuốc.
91103206_64a0bc534a.jpg
 
G

girlbuon10594

Lạc, còn được gọi là đậu phộng hay đậu phụng , là một loài cây thực phẩm thuộc họ Đậu có nguồn gốc tại Trung và Nam Mỹ. Nó là loài cây thân thảo Lá mọc đối, kép hình lông chim với bốn lá chét, kích thước lá chét dài 1-7 cm và rộng 1-3 cm. Hoa dạng hoa đậu điển hình màu vàng có điểm gân đỏ, cuống hoa dài 2-4 cm. Sau khi thụ phấn, quả phát triển thành một dạng quả đậu dài 3-7 cm, chứa 1-4 hạt (ánh), và quả (củ) thường dấu xuống đất để phát triển.
240px-Koeh-163.jpg


Lúa là một trong năm loại cây lương thực chính của thế giới, cùng với ngô (Zea Mays L.), lúa mì (Triticum sp. tên khác: tiểu mạch), sắn (Manihot esculenta Crantz, tên khác khoai mì) và khoai tây (Solanum tuberosum L.).

250px-Koeh-232.jpg



Cây Lá ngón còn có tên là Co ngón, Thuốc rút ruột, Hồ mạn trường, Hồ mạn đằng, Đại trà đằng, Hoàng đằng, Câu vẫn, Đoạn trường thảo... Tên khoa học là Gelsemium elegans Benth (Medica elegans Gardn) thuộc họ Mã tiền

La_ngon.jpg



hay lá cây là một bộ phận của thực vật bậc cao có chức năng quang hợp. Lá cây chứa nhiều tế bào mô dậu và nhiều lục lạp. Lá cây có chức năng quang hợp, dự trữ chất dinh dưỡng, nước, thoát hơi nước, tham gia vào quá trình hút nước và khoáng của rễ cây.
200px-Leaf_1_web.jpg


Lá đơn là một dạng lá cây mà phiến lá gắn liền trực tiếp với thân cành cây. Chỉ có 1 cấp cuống lá, khi thay lá theo sinh lý, toàn bộ phần phiến lá và cuống sẽ rơi rụng cùng một thời điểm. Lá đơn chủ yếu xuất hiện ở lá dạng phiến và lá dạng dải.
220px-L%C3%A1_%C4%91%C6%A1n_nguy%C3%AAn.JPG



Lá lốt là cây thân thảo đa niên, có tên khoa học Piper lolot thuộc họ Hồ tiêu (Piperaceae), gồm các loài như trầu không, hồ tiêu v.v. Một số địa phương còn gọi là "nốt", (ở Nam bộ có nơi gọi là "Lá lốp").
Cây lá lốt cao khoảng 30-40 cm, mọc thẳng khi còn non, khi lớn có thân dài không thể mọc thẳng mà trườn trên mặt đất. Lá đơn, có mùi thơm đặc sắc, nguyên, mọc so le, hình tim, mặt lá láng bóng, có năm gân chính phân ra từ cuống lá; cuống lá có bẹ. Hoa hợp thành cụm ở nách lá. Quả mọng, chứa một hạt. Lốt thường được trồng bằng cách giâm cành nơi ẩm ướt, dọc bờ nước, để lấy lá làm gia vị và làm thuốc. Bò nướng lá lốt là một món ăn đặc sắc của Việt Nam. Lá và thân chứa các ancaloit và tinh dầu, có thành phần chủ yếu là beta-caryophylen; rễ chứa tinh dầu có thành phần chính là benzylaxetat.
240px-Lalot.jpg


Cây Lược vàng có tên khoa học là Callisia fragrans thuộc họ Thài lài (Commelinaceae), cây lược vàng còn có tên là (địa) lan vòi, lan rũ, cây bạch tuộc, trái lá phất dũ, giả khóm.
250px-Callisia_fragrans_-_Luoc_vang.jpg


Lựu hay còn gọi là thạch lựu (danh pháp khoa học Punica granatum) là một loài thực vật ăn quả thân gỗ nhỏ có chiều cao từ 5-8 mét. Lựu có nguồn gốc bản địa Tây Nam Á và được đem trồng tại vùng Kavkaz từ thời cổ đại. Nó được trồng rộng rãi tại Gruzia, Afghanistan, Algérie, Armenia, Azerbaijan, Iran, Iraq, Ấn Độ, Israel, Maroc, Pakistan, Syria, Thổ Nhĩ Kỳ, lục địa Đông Nam Á, Malaysia bán đảo, Đông Ấn, và châu Phi nhiệt đới.[1] Được di thực vào châu Mỹ Latinh và California bởi những người định cư Tây Ban Nha vào năm 1769, ngày nay lựu được trồng tại một số vùng của bang California và Arizona để sản xuất đồ uống.
Lựu là loài cây lâu năm. Lá đơn, nguyên, mọc đối, cuống ngắn. Hoa mọc đơn độc hoặc tụ họp thành cụm 3-4 cái ở ngọn cành, hoa màu đỏ tươi, nở vào mùa hè. Hoa có 5-6 lá đài hợp ở gốc, 5-6 cánh hoa màu đỏ, rất nhiều nhị bầu nhiều ô chứa nhiều noãn xếp chồng lên nhau. Quả mọng hình cầu có vỏ dày, đầu quả còn 4 - 5 lá đài tồn tại; vỏ quả dày, khi chín màu vàng, đỏ. Trong quả có vách ngang chia thành 2 ngăn chứa nhiều hạt 5 cạnh, có vỏ hạt mọng, sắc hồng trắng. Mùa quả từ tháng 9 đến tháng 2 tại Bắc bán cầu, từ tháng 3 đến tháng 5 tại Nam bán cầu.
250px-Illustration_Punica_granatum2.jpg



Lục bình là một loài thực vật thuỷ sinh, thân thảo, sống nổi theo dòng nước, thuộc về chi Eichhornia của họ Họ Bèo tây (Pontederiaceae).
Cây lục bình mọc cao khoảng 30cm với dạng lá hình tròn, màu xanh lục, láng và nhẵn mặt. Lá cuốn vào nhau như những cánh hoa. Cuống lá nở phình ra như bong bóng xốp ruột giúp cây bèo nổi trên mặt nước. Ba lá đài giống như ba cánh. Rễ bèo trông như lông vũ sắc đen buông rủ xuống nước, dài đến 1m.
240px-Water_hyacinth_bloom.jpg


Lạc tiên, còn gọi là cây lạc[1], người dân Nam Bộ gọi là cây/dây nhãn lồng[2], dây chùm bao, (danh pháp khoa học: Passiflora foetida), thuộc Họ Lạc tiên (Passifloraceae), là một cây có lá và quả ăn được. Cây có nguồn gốc từ tây nam Hoa Kì, Mexico, vùng Caribe, Trung Mỹ và Nam Mỹ. Đây là một loài dây leo có quả ăn được[5]
240px-Passiflora_foetida.bloem.jpg


Lông cu li (danh pháp khoa học: Cibotium barometz) là một loài dương xỉ mộc trong họ Dương xỉ vỏ trai (Dicksoniaceae)[1] mà chúng ta vẫn quen gọi là họ Cẩu tích.
Tên gọi cẩu tích là từ Hán-Việt, có nghĩa là xương sống con chó do hình thù giống như xương sống chó. Cẩu tích là loài bản địa từ Trung Quốc cho tới phía tây bán đảo Mã Lai. Khi mọc thẳng cây chỉ cao tới 1 m, nhưng nó thường mọc bò, tạo thành các cụm cây trên các sườn đồi tại các khu rừng thưa và tại các khu vực có dấu chân người. Các lá lược dài tới 3 m. Các ổ túi bào tử mọc ở rìa các lá chét con. Cẩu tích được sử dụng trong y học cổ truyền Trung Hoa và Đông Nam Á. Mặc dù từng có sự phân bố khá rộng, nhưng cẩu tích đã bị thu hái tích cực tại Đông Nam Á dẫn tới sự suy giảm về lượng quần thể và số lượng cây trong mỗi quần thể. Người ta cho rằng nó là cây cừu Tartar truyền thuyết trong thời kỳ Trung cổ[1]. Cẩu tích là một trong số ít các loài dương xỉ mộc mà Carl Linnaeus ban đầu đã đặt trong họ Polypodiaceae trong cuốn Species Plantarum của ông[1].

LIỄU SAM: (Cryptomeria fortunei), cây gỗ lớn, họ Bụt mọc (Taxodiaceae). Thân thẳng tròn, cao tới 25 - 40 m, đường kính 90 - 100 cm. Vỏ màu nâu đỏ. Cành xoè rộng. Lá hình dùi, dài 0,5 - 1,5 cm, mọc vòng, sống dai trên cành. Nón đơn tính cùng gốc. Nón đực có nhiều nhị xếp xoắn ốc. Nón cái mọc lẻ đầu cành, có nhiều vảy không hoá gỗ hoàn toàn, xếp xoắn ốc, mỗi vảy mang 2 - 9 noãn thẳng. Quả non chín trong 1 năm. Hạt thường có cánh. Cây nguyên sản ở Nhật Bản và Trung Quốc, mọc ở 30 - 40o vĩ Bắc, độ cao 600 - 2000 m; được nhập trồng từ 200 năm nay ở Anh, Ấn Độ, Liên Xô. Ở Việt Nam, đã nhập trồng loài LS Nhật Bản (Cryptomeria japonica) ở Quảng Ninh (Yên Tử), Quảng Bình, Hà Nội. Cây ưa đất sâu, chua. Khí hậu mát ẩm. Ra nón tháng 3 - 4; nón chín tháng 10 - 11. Gỗ tốt, dùng trong xây dựng, làm cầu, làm cột điện, đóng đồ mộc. Cây có dáng đẹp, mọc nhanh, gỗ mềm, thơm, nên thường được trồng làm cảnh. Trồng bằng cành hoặc cây con.
Option_Cryptomeria_Yoshino.jpg


LÚA MẠCH: tên gọi chung một số cây hạt cốc ôn đới, gồm các loài: tiểu mạch (x. Lúa mì); đại mạch (cg. mạch bia; x. Đại mạch); hắc mạch (cg. mạch đen); tiểu hắc mạch; yến mạch; kiều mạch.
images


: Cây gỗ nhỏ. Lá có phiến nhỏ, hình tam giác tròn, mép có răng nhọn, nhỏ, tận cùng thành tơ dài, gân phụ 5-7 cặp; cuống dài hơn phiến. Cụm hoa ngù; cuống hoa dài 4-6cm, không lông, đài có 5 răng; cánh hoa cao 1cm, nhị nhiều, chỉ nhị dài 6-8mm, vòi nhuỵ 4-5, quả hình xá lị 4 x 3cm, có lỗ bì tròn.
image


Linh đăng Cỏ sống nhiều năm, có thân mọc đứng cao 30-80cm, có gốc to, hoá gỗ, rễ ăn sâu. Lá kép, 3 lá chét dài 1,5-2,5cm, mép có răng mịn ở nửa trên, gân phụ khít nhau, 7-8 cặp, lá kèm hẹp cao 1-1,3cm, đính vào cuống. Hoa tim tím hay xanh lơ, ít khi trắng, cao 1cm, xếp thành chùm ở nách lá. Quả xoắn cao 5mm, nhẵn hoặc hơi có lông, chứa nhiều hạt.
 
Last edited by a moderator:
G

girlbuon10594

Vần M - Chủ đề sinh lý thực vật

Mía là tên gọi chung của một số loài trong chi Mía (Saccharum), bên cạnh các loài lau, lách. Chúng là các loại cỏ sống lâu năm, thuộc tông Andropogoneae của họ Hòa thảo (Poaceae), bản địa khu vực nhiệt đới và ôn đới ấm của Cựu thế giới. Chúng có thân to mập, chia đốt, chứa nhiều đường, cao từ 2-6 m. Tất cả các dạng mía đường được trồng ngày nay đều là các dạng lai ghép nội chi phức tạp. Chúng được trồng để thu hoạch nhằm sản xuất đường.
250px-Cut_sugarcane.jpg


Mây là tên gọi chung cho khoảng 600 loài cây, chủ yếu thuộc các chi Calamus (khoảng 400 loài) và Daemonorops (khoảng 115 loài), phân bố tự nhiên thuộc các khu vực nhiệt đới của châu Á, châu Úc, châu Phi.
240px-Koeh-023.jpg


Mào gà là tên gọi chung của một số loài thực vật thuộc chi Celosia - chúng là những cây làm cảnh hay có thể ăn được, có hình dạng và sử dụng tương tự như cây rau dền. Chúng được gọi là cây mào gà do màu sắc và hình dạng hoa giống như mào của gà. Celosia argentea là loài cây làm rau và lấy hạt làm ngũ cốc, đặc biệt ở Tây Phi, Trung Phi và Đông Nam Á. Nó là loại rau quan trọng nhất ở miền nam Nigeria, ở đó nó có tên gọi là soko.
250px-CelosiaCristataYellowToreador.jpg


Họ Mai hay (các tên gọi khác: họ Mai vàng, họ Lão mai), danh pháp khoa học Ochnaceae, bao gồm chủ yếu là các cây gỗ hay cây bụi, ít thấy cây thân thảo. Các loài trong họ này được tìm thấy trong các khu vực cận nhiệt đới và nhiệt đới. Chúng có đại diện nhiều nhất tại khu vực Nam Mỹ. Họ này có khoảng 26-35 chi và khoảng 495-600 loài, tùy theo hệ thống phân loại.
250px-Ochna_serrulata2.jpg


MUN: (Diospyros mun), cây gỗ trung bình, họ Thị (Ebenaceae). Cao 15 - 18 m, cành nhánh nhẵn, tán rậm, lá mềm, mọc cách, hình trứng nhọn, gân giữa và gân bên nổi rõ. Hoa vàng đơn tính, hoa đực mọc thành xim 3 - 5 hoa (mẫu 4) ở nách lá, hoa cái mọc đơn độc. Quả nhỏ, đường kính 1,5 - 2 cm nhẵn, đen, vỏ dày, mang đài tồn tại xẻ 4 thuỳ. Lõi gỗ màu đen, cứng và bền, thường dùng làm đồ gỗ quý, mĩ nghệ. Quả và lá dùng nhuộm đen. Cây ưa sáng, mọc chậm, sống lâu, ở độ cao dưới 600 - 700 m. Cây phân bố ở Việt Nam từ Quảng Bình vào Nam Bộ.
images


Mộc lan (danh pháp khoa học: Magnolia) là một chi lớn gồm khoảng 210 loài[1] thực vật có hoa thuộc phân lớp Magnoliidae, họ Magnoliaceae.
Các loài mộc lan có phân bố rời rạc, với trung tâm chính là Đông Á và Đông Nam Á và các vùng tập trung nhỏ hơn là đông Bắc Mỹ, Trung Mỹ, vùng Caribe, và một số loài ở Nam Mỹ. Tên khoa học của chi Mộc lan được đặt theo tên của nhà thực vật học người Pháp Pierre Magnol. Mộc lan là một chi thực vật cổ đã tiến hóa trước khi ong xuất hiện, hoa mộc lan đã phát triển để khuyến khích sự thụ phấn bởi côn trùng cánhh cứng. Do đó, hoa mộc lan có lá noãn cứng để tránh bị hỏng do bọ cánh cứng ăn và bò quanh. Các mẫu hóa thạch của M. acuminata được xác định có niên đại khoảng 20 triệu năm, và một số hóa thạch của các loài thực vật thuộc họ Mộc lan được xác định niên đại 95 triệu năm. Một đặc điểm nguyên thủy khác của các loài mộc lan là chúng không có đài hoa và cánh hoa tách biệt.
200px-Magnolia_wieseneri.jpg


Mướp đắng, miền Nam Việt Nam gọi là Khổ qua (danh pháp khoa học: Momordica charantia) là một cây leo mọc ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới thuộc họ Bầu bí, có quả ăn được, thuộc loại đắng nhất trong các loại rau quả.
Tên gọi trong tiếng Anh của mướp đắng là bitter melon hay bitter gourd được dịch từ tiếng Trung: 苦瓜 (kǔguā) khổ qua; (苦 khổ: đắng; 瓜 qua: mướp; 苦瓜 khổ qua: mướp đắng[1])
200px-Momordica_charantia_Blanco2.357.png


MĂNG: mầm hoặc thân non cuả cây họ Tre nứa. M được phân biệt M theo gốc mẹ: măng trúc, mai, vầu, giang, nứa, lồ ô... M còn được phân biệt theo phần sử dụng: măng củ (hay sừng bò, khi thái lát gọi là măng lưỡi lợn), măng vòi (hay búp), măng lá (bẹ). M có loại ngọt, loại đắng.
imagesq=tbn:ANd9GcTW3OJT27t3vKJ7m8mzVBegqaSpk3VdS4yNc8SiegRwb54mraE&t=1&usg=__TLgJXT-Pgz4oYbzkVj7Uv1A2VlQ=


Mướp hương hay mướp ta, mướp gối, có tên khoa học là Luffa aegyptiaca hay Luffa cylindrica (tên cũ), là một loài thuộc chi Mướp (Luffa), tên tiếng Anh là Smooth Luffa hay Egyptian Luffa. Đây là loài cây bản địa của Bắc Phi
200px-Luffa_aegyptiaca_Blanco2.334-cropped.jpg


MĂNG CỤT: (Clusiaceae; cg. bứa), họ cây gỗ hay cây bụi thường xanh, cành mọc ngang. Trong nhiều bộ phận cuả cây có túi tiết hay ống tiết nhựa màu vàng. Lá đơn, nguyên, mọc đối, không có lá kèm. Hoa nhỏ thường đơn tính hoặc lưỡng tính cùng gốc, mọc đơn hay họp thành cụm. Đài 2 - 6 lá màu lục. Tràng 2 - 6 cánh rất dễ rụng. Nhị nhiều, rời. Nhụy 3 - 5, có khi tới 15. Bầu trên. Noãn cong hay đảo. Quả khô hay thịt. Hạt nhiều, không nội nhũ. Có 40 chi, hơn 350 loài. Phân bố ở vùng nhiệt đới ẩm. Việt Nam có 5 chi, hơn 40 loài. Đại diện: cây MC (Garcinia mangostana; tk. giáng châu) là loại cây ăn quả nhiệt đới lâu năm. Cao 20 - 25 m. Cành mọc thấp. Vỏ có chứa nhựa vàng. Lá dày, hình thuôn, đầu nhọn, cuống dày. Có hoa đực và hoa lưỡng tính, cánh trắng, mẫu 4, nhiều nhị. Quả tròn, mang đài tồn tại. Vỏ quả rất dai, xốp, màu đỏ rượu vang; quanh hạt có áo hạt trắng, ngọt, thơm ngon. Cây nguồn gốc ở Malaixia và Inđônêxia, được trồng nhiều ở Nam Bộ Việt Nam. Trồng 5 - 7 năm mới có quả; hơn 10 năm mới có nhiều quả nhất. Vỏ quả chát được dùng để chữa bệnh lị.
images


Cây mưa tại các nước khác được biết đến với các tên gọi: Saman tree, Rain tree, Monkey pod, Filinganga, Gouannegoul, Marmar, T amalini, Palo de China... Còng có danh pháp khoa học là Samanea saman và rất nhiều danh pháp đồng nghĩa khác như: Albizia saman, Enterolobium saman, Inga saman, Pithecellobium saman... cây thuộc phân họ Mimosoideae, họ Fabaceae, bộ Đậu (Fabales).
240px-Samanea-saman.jpg


MĂNG TÂY: (Asparagus officinalis), cây rau ôn đới, họ Loa kèn trắng (Liliaceae), được trồng lấy chồi non làm rau ăn. Cây có thân rễ sống dai, sinh ra những chồi hình trụ, màu trắng, trên ngọn màu lục, mang nhiều vảy hình tam giác. Cây được đưa vào Việt Nam từ cuối thế kỉ 19, trồng ở ngoại thành Hà Nội, Hải Phòng, Đà Lạt... Cây được dùng để chữa một số bệnh (tim, huyết áp cao, lợi tiểu) nên cũng được coi là cây thuốc bổ.
Mang%20tay.jpg


MẬN: (Prunus triflora = P. salicina), cây ăn quả lâu năm họ Hoa hồng (Rosaceae). Cây nhỡ, lá dài nhọn ở hai đầu, mép lá có răng cưa nhỏ, khi non cuộn hình tổ sâu ở trong chồi. Hoa họp từng nhóm 3 hoa, màu trắng, có 25 - 30 nhị đực. Quả hạch màu đỏ, tím vàng hoặc trắng. Năng suất 15 - 30 kg quả trên một cây. Là cây nguồn mật. Ở Việt Nam, các tỉnh phía bắc (Lạng Sơn, Lào Cai, Sơn La) có nhiều chủng ngon, như M hậu, M Tam Hoa, M Lạng Sơn, M Vân Nam. Ở Miền Nam, vùng trồng nổi tiếng ở trại Hầm có các chủng M Đà Lạt, M đỏ, M đỏ bạch lạp, M vàng, M Vân Nam. Mùa quả tháng 1 - 6. Một số cây M Đà Lạt là cây ghép.
images


MÂY SONG: nhóm cây leo đặc biệt trong rừng nhiệt đới và cận nhiệt đới, họ Cau (Arecaceae), có 14 chi, khoảng 600 loài. Ở Việt Nam, biết khoảng 32 loài thuộc 5 chi: chi Korthalisa có 2 loài, Myrialepis có 1 loài, Plectocomia có 5 loài, Daemonorops có 3 loài và Calamus có 21 loài. MS được khai thác để làm các vật dụng hàng ngày, hàng mĩ nghệ, đặc biệt là mặt hàng xuất khẩu được ưa chuộng. Ngày nay, nhiều nước đã trồng MS thay cho khai thác tự nhiên. Inđônêxia trồng được 5 loài thuộc chi Calamus và là nước xuất khẩu nhiều MS nhất; Thái Lan trồng được 6 loài. Đẩy mạnh việc trồng MS là cơ hội tận dụng đất, góp phần bảo vệ đất, bảo vệ môi trường và cung cấp nguyên liệu. Một số loài được trồng làm cây cảnh.
images


MỘC HƯƠNG: (Saussurea lappae; tk. vân mộc hương, quảng mộc hương), cây thảo, sống lâu năm, họ Cúc (Asteraceae). Lá ở gốc to, có lông. Cụm hoa hình đầu, màu lam tím. Quả bế hơi dẹt và cong queo. Rễ hình trụ hoặc hình chuỳ, vị đắng, có mùi thơm hắc đặc biệt, có tinh dầu, ancaloit, inulin. Trồng ở vùng núi mát. Dùng rễ phơi sấy khô, chữa cảm lạnh, ỉa chảy, lị, nôn mửa, bí tiểu tiện; dưới dạng thuốc sắc, bột, viên. Có thể mài với nước uống để uống. Các cây thổ mộc hương (Inula helenium) và xuyên mộc hương (Jurinea soulide) cũng dùng như trên. Vị thuốc nhập từ Trung Quốc.
images


Mộc nhĩ là tên chung để chỉ một trong ba loài sau, do chúng đều có hình dạng giống như tai và mọc trên thân cây. Mộc nhĩ đen: Hai loài có họ hàng gần nhưng khác nhau của các loại nấm ăn được thuộc bộ Auriculariales, được sử dụng chủ yếu trong ẩm thực châu Á, đặc biệt là các nước phương Đông
images


Rau mùi hay còn gọi là ngò, ngò rí, ngổ[1], ngổ thơm[1], hồ tuy, nguyên tuy, hương tuy, là loài cây thân thảo sống hằng năm thuộc họ Hoa tán (Apiaceae), có nguồn gốc bản địa từ Tây Nam Á về phía tây đến tận châu Phi.
Cao 35-50 cm, thân nhẵn, phía trên phân nhánh. Lá ở gốc có cuống dài, có 1 đến 3 lá chét, lá chét hình hơi tròn, xẻ thành 3 thuỳ có khía răng to và tròn; những lá phía trên có lá chét chia thành những thùy hình sợi nhỏ và nhọn. Hoa trắng hay hơi hồng, hợp thành tán gồm 3-5 gọng, không có tổng bao; tiểu bao gồm 2-3 lá chét đính ở một phía. Quả bế đôi hình cầu, nhẵn, dài 2-4 mm, gồm hai nửa (phân liệt quả), mỗi nửa có bốn sống thẳng và hai sống chung cho cả hai nửa.
240px-Koeh-193.jpg


Mâm xôi còn có tên gọi khác là cây chè ngấn.Thân cành mâm xôi tua tủa gai.Hoa mâm xôi xoè nở từng chùm từ lưng buổi sáng.quả nhỏ giống quả nhỏ,có màu đen hoặc đỏ.
images


Mít là loài thực vật ăn quả, mọc phổ biến ở Đông Nam Á và Brasil. Nó là cây thuộc họ Dâu tằm (Moraceae), và được cho là có nguồn gốc ở Ấn Độ và Bangladesh. Quả mít là loại quả quốc gia của Bangladesh. Tên gọi khoa học của nó là Artocarpus integrifolia.
images


Cây mai dương còn gọi là trinh nữ nâu, trinh nữ đầm lầy, tên khoa học là Mimosa pigra, thuộc chi Mimosa và họ Mimosaceae, có nguồn gốc vùng nhiệt đới Nam Mỹ, có họ hàng với cây trinh nữ vốn mọc rất nhiều ở Việt Nam.
200px-Mimosa_pigra.jpg
 
G

girlbuon10594

Vần N - Chủ đề sinh lý thực vật

Ngô, bắp hay bẹ (danh pháp khoa học: Zea mays L. ssp. mays) là một loại cây lương thực được thuần canh tại khu vực Trung Mỹ và sau đó lan tỏa ra khắp châu Mỹ. Ngô lan tỏa ra phần còn lại của thế giới sau khi có tiếp xúc của người châu Âu với châu Mỹ vào cuối thế kỷ 15, đầu thế kỷ 16.
200px-Zea_mays.jpg


Nhãn (danh pháp khoa học: Dimocarpus longan)
240px-Dimocarpus_longan_fruits.jpg


NẤM HƯƠNG: (Lentinus edodes), loài nấm họ Nấm hương (Pleurotaceae). Chân dính vào thân cây chủ, trên có màng mũ hình ô dày và dai. Mặt trên mũ màu nâu, mặt dưới có nhiều phiến mỏng toả từ chân ra tới mép mũ. Mũ có mang các bào tầng chứa các bào tử.
namdongco.jpg


NẤM ĐẢM : (Basidiomycetes), lớp nấm thật mà các bào tử hữu tính là các bào tử đảm hình thành ở bên ngoài, trên đầu tận cùng các tế bào chuyên hoá, gọi là đảm. Đảm hình thành trên một lớp sinh sản rắn chắc là tầng sinh bào tử, mỗi đảm thường mang 4 bào tử đảm. Gồm 2 phân lớp Homobasidiomycetes có bộ nấm mũ và Heterobasidiomycetes có nấm gỉ sắt và nấm than. Có khoảng 30 nghìn loài.
090612cl3nam2.jpg


NẤM BẤT TOÀN: (Deuteromycetes = Fungi imperfecti), lớp gồm phần lớn các loài nấm hiển vi, giai đoạn hữu tính chưa được phát hiện hay đã bị thoái hoá trên con đường tiến hoá của chúng. Sinh sản bằng các bào tử đính. Có khoảng 3 nghìn loài

NẤM MEN: (Saccharomycetaceae), họ nấm túi trần, đơn bào, có thể sống cả trong điều kiện ưa khí và kị khí. Tế bào hình cầu hay bầu dục. Sinh sản chủ yếu vô tính nảy chồi tạo thành mạng phân nhánh, trong điều kiện bất lợi có thể hình thành bào tử hữu tính (thường 4 hoặc ít khi 8 bào tử). Có vai trò quan trọng trong công nghiệp rượu bia và bánh mì do chúng tạo ra rượu và cacbon đioxit (CO2) trong quá trình hô hấp kị khí. Thường dùng Saccharomyces cerevisiae sản xuất cồn, làm nở bột mì, S. uvarum, S. carlsbergensis, S. vini... làm rượu vang, bia. Gần đây, còn sử dụng S. cerevisiae làm đối tượng gây tái tổ hợp gen trong công nghệ di truyền.
Ii_06r1.jpg


NẤM TẢO: (Phycomycetes), lớp nấm thật, kí sinh. Nhiều loài sống nơi ẩm hoặc ở nước, số ít sống hoàn toàn trong nước. Gồm hai lớp: Nấm trứng và Nấm tiếp hợp. Sinh sản hữu tính bằng noãn giao hay tiếp hợp. Đại diện: Pythium và mốc (Mucor). Được chia thành các phân lớp dựa theo số roi có trên các bào tử vô tính.

NẤM NHẦY:1) Myxomycophyta, ngành sinh vật đơn giản mang tính chất của cả động vật và thực vật. Cơ thể có nhiều nhân, không có vách tế bào, chuyển vận theo kiểu amip tiêu hoá thức ăn, do đó có một số được ghép vào động vật nguyên sinh như Mycetozoa. Một số chi có vách tế bào bằng xenlulozơ được hình thành bên trong các túi bào tử là đặc tính của thực vật. Có khoảng 500 loài. Gồm có 4 lớp: Acrasiales, Labyrinthulales, Mycomycetes, Plasmodiophorales.
2) Myxomycetes, lớp lớn nhất trong ngành NN. Thể sinh dưỡng của nấm lưỡng bội và có dạng một khối sinh chất nhiều nhân (thể hợp bào) tiêu hoá thức ăn. Sinh sản bằng các bào tử có roi, được hình thành bên trong các túi bào tử. NN phát triển trên gỗ mục, lá mục trong rừng ẩm ướt. Phần lớn NN hoại sinh, một số gây hại cây trồng.
ch2.ht9.jpg


NỨA : (Neohouzeaua dulloa), loài cây nhỡ, họ phụ Tre nứa (Bambusoideae), họ Lúa (Poaceae). Mọc thành bụi, có bụi trên 200 cây. Thân thẳng cao 15 m, đường kính 4 - 6 cm. Có lóng và đốt, lóng dài 15 - 20 cm, đặc biệt dài 50 cm. Thân lá, bẹ mo có nhiều lông silic màu vàng. Hoa thành chùm nhỏ. Bao hoa không phát triển
images


NÓN : (sinh), cơ quan sinh sản của thực vật hạt trần và một số dương xỉ.

NHUỴ :bộ phận sinh sản cái của hoa, nằm chính giữa hoa, do lá noãn biến thành.
images


NHÀI : (Oleaceae), họ cây bụi, có khi thân leo hay cây gỗ. Lá mọc đối. Trong thân và lá thường gặp tinh thể canxi oxalat. Cụm hoa chùm hay xim ở kẽ lá, ít khi mọc đơn. Hoa đều, lưỡng tính, có khi đơn tính.
images


NGỌC LAN: (Magnoliaceae), họ gồm những cây gỗ lớn, đôi khi cây bụi. Lá nguyên, mọc cách, thường xanh đôi khi sớm rụng, luôn luôn có lá kèm bao quanh chồi, sớm rụng để lại sẹo ở gốc lá. Các bộ phận của cây có tế bào tiết tinh dầu. Hoa to, lưỡng tính, đế lồi. Bao hoa phân rõ ràng thành đài và tràng. Nhị nhiều, rời, xếp xoắn ốc. Lá noãn nhiều, xếp xoắn ốc. Quả kép, hạt có nội nhũ phẳng. Có 12 chi, 210 loài
images



NHÂN SÂM : (Araliaceae; tk. ngũ gia bì), họ cây gỗ nhỡ hoặc cây bụi, ít khi là cây thảo nhiều năm, có thân rễ. Lá mọc cách, nguyên hoặc xẻ chân vịt hoặc kép lông chim. Lá có lá kèm nhỏ, sớm rụng hoặc dính vào cuống lá. Hoa nhỏ mọc thành cụm hình tán hoặc hình đầu ở ngọn hay ở nách lá. Hoa lưỡng tính mẫu 5, thường đều. Bầu hạ, quả hạch hoặc mọng.
images


NHO: (Vitaceae), họ cây bụi, cây leo, thân gỗ, có tua cuốn (chỉ có một số loài cây bụi đứng thẳng hay gỗ nhỏ)
images


NHÓT: (Elaeagnaceae), họ cây ăn quả nhỏ, cành dài, mềm, đôi khi có gai. Lá màu lục, mặt trên lá có những vảy nhỏ lấm tấm hình sao, mặt dưới có lông màu trắng bạc. Hoa chỉ có 4 lá đài, 4 nhị, không tràng
images


NA: (Annonaceae; cg. mãng cầu), họ cây thân mộc có nhiều cành nhánh dài và mềm.
images


Cây núc nắc: Cây nhỡ, cao 8 - 10m. Thân ít phân cành. Vỏ cây màu xám tro, mặt trong màu vàng. Lá xẻ 2 - 3 lần lông chim, dài tới 1,5m. Hoa to màu nâu đỏ sẫm mọc thành chùm ở ngọn thân. Quả dẹt, cong chứa nhiều hạt dẹt, có cánh mỏng.
nucnac.JPG
 
G

girlbuon10594

Vần O - Chủ đề sinh lý thực vật

Ô môi là loài thực vật có danh pháp khoa học: Cassia grandis L.f., thuộc phân họ Vang. Cây gỗ trung bình, cao 10 - 20 m, phân cành lớn, mọc ngang thẳng, vỏ thân nhẵn, những cành non có lông màu rỉ sắt, cành già màu nâu đen
240px-Cassia_grandis_fruit.jpg


Oải hương (danh pháp khoa học: Lavandula angustifolia) là một loại cây thuộc họ Hoa môi (Lamiaceae). Cây oải hương là loại cây bụi thường niên có mùi thơm nồng, xuất xứ từ vùng Địa Trung Hải.
250px-Koeh-087.jpg


Ớt, là một loại quả thuộc các cây thuộc chi Capsicum của họ Cà (Solanaceae). Ớt là một loại quả gia vị cũng như lọai quả làm rau (ớt Đà Lạt) phổ biển trên thế giớiỚt có nguồn gốc từ châu Mỹ; ngày nay nó được trồng khắp nơi trên thế giới và được sử dụng làm gia vị, rau, và thuốc.
200px-Thai_peppers.jpg


Osaka là một loài cây cảnh cho bóng râm và đẹp mới được du nhập vào trồng ở Việt Nam.
240px-Erythrina_fusca.jpg


Ô liu (danh pháp khoa học Olea europaea) là một loại cây nhỏ thuộc Họ Ô liu (Oleaceae). Bản địa của ô liu là miền duyên hải Địa Trung Hải, đến Iran ven bờ nam biển Caspi. Trái Ô liu là một nông phẩm giá trị ở vùng Địa Trung Hải dùng để làm dầu ô liu.
200px-Olivesfromjordan.jpg


Ổi ta (danh pháp khoa học: Psidium guajava) là loài cây ăn quả thường xanh lâu năm, thuộc họ Đào kim nương, có nguồn gốc từ Brasil.
116px-Psidium_guajava_fruit.jpg


Ô rô (Acanthus ilicifolius L.) thuộc họ ô rô (Acanthaceae). Tên khác là ô rô gai, ô rô nước, ắc ó, lão thử lặc, là một cây nhỏ, cao 0,5-1,5m. Thân tròn nhẵn, màu lục nhạt, có lấm tấm đen. Lá mọc đối, không cuống, phiến cứng, hình mác, dài 15-20cm, rộng 4-8cm, gốc tròn, đầu nhọn sắc. Cây mọc hoang chủ yếu thành từng đám lớn bên bờ các kênh rạch và trên đất lầy thụt ở cửa sông thông ra biển; rải rác ở các ao hồ và vùng đồng chiêm trũng.
images


Cây óc chó: Tùy từng địa phương mà cây óc chó cũng có những tên gọi khác nhau như cây sung dại (miền Bắc) hay ổi dại (miền Nam), vì quả của nó nhỏ bằng trái trứng cá, hình giống quả ổi nhỏ mới mọc, nhưng bên trong ruột mềm, chứa những hạt như ruột quả sung.
images
 
G

girlbuon10594

Vần P - Chủ đề sinh lý thực vật

Chi Phong hay Chi Thích (danh pháp khoa học: Acer) là khoảng 125 loài cây gỗ hay cây bụi, chủ yếu có nguồn gốc ở châu Á, nhưng có một số loài có mặt tại châu Âu, Bắc Phi và Bắc Mỹ. Tên gọi phổ biến của các loài trong tiếng Việt là "phong" hay "thích".
250px-Acer-saccharinum-leaves-e.jpg


Họ Lan, hay họ Phong lan, (danh pháp khoa học: Orchidaceae) là một họ thực vật có hoa, thuộc bộ Măng tây (Asparagales), lớp thực vật một lá mầm.
200px-Haeckel_Orchidae.jpg


Phượng hay phượng vĩ, phượng vỹ, xoan tây, điệp tây hoặc hoa nắng[cần dẫn nguồn] (danh pháp khoa học: Delonix regia) (họ Fabaceae), là một loài thực vật có hoa sinh sống ở vùng nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới.
230px-Royal_Poinciana.jpg
 
Last edited by a moderator:
G

girlbuon10594

Vần Q - Chủ đề sinh lý thực vật

Chi Quỳnh (danh pháp khoa học: Epiphyllum), là một chi thực vật gồm khoảng 19 loài thuộc họ Xương rồng (Cactaceae), có nguồn gốc từ Trung Mỹ. Tên gọi chung của chúng trong tiếng Việt là quỳnh, hoa được gọi là hoa quỳnh. Các loài quỳnh thường được trồng để làm cảnh và hoa nở về đêm nên được mệnh danh là nữ hoàng của bóng đêm. Thân và lá một số loài quỳnh cũng được thêm vào trong một số dạng của loại đồ uống gây ảo giác ở khu vực rừng mưa Amazon là ayahuasca.
200px-Wei%C3%9FeNachtbl%C3%BCte.jpg


Quýt Hương Cần là một loại quả ngọt trồng nhiều ở Thừa Thiên - Huế, Việt Nam. Tỉnh Thừa Thiên - Huế có nhiều loại đặc sản về hoa quả nổi tiếng như long nhãn (nhãn xưa chỉ dành cho nhà vua dùng), măng cụt, bưởi Thanh Trà... ngoài ra, bên dòng sông Bồ, còn có quýt Hương Cần.
200px-Qua_quyt.jpg


Quyết là nhóm thực vật bậc cao, sống ở cạn.Có rễ,thân,lá thật; có mạch dẫn.Thân thấp,hình trụ. lá non thì cuộn tròn
 
G

girlbuon10594

Vần S - Chủ đề sinh lý thực vật

Sếu (Cơm nguội vàng ) hay còn gọi là cây phác, cơm nguội Trung Quốc (tên khoa học: Celtis sinensis Pers., tiếng Trung: 朴树) là một loài thực vật thuộc chi Cơm nguội, họ Gai dầu (Cannabaceae).
200px-HK_NanLianGarden_ChineseHackberry.JPG


Cây sấu hay sấu tía, sấu trắng hoặc long cóc (danh pháp khoa học: Dracontomelon duperreanum) là một loài cây sống lâu năm, lá thường xanh/bán rụng lá thuộc họ Đào lộn hột (Anacardiaceae)
220px-Fruits_of_Dracontomelon_duperreanum.JPG


Cây sung hay ưu đàm thụ hoặc tụ quả dong (danh pháp khoa học: Ficus racemosa, đồng nghĩa Ficus glomerata Roxb., 1802) là loại thân cây gỗ lớn, mọc nhanh, thuộc họ Dâu tằm (Moraceae). Cây mọc hoang dại ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới tại những nơi đất ẩm bìa rừng, nhiều nhất là ven các bờ nước ao, hồ, sông, suối.
200px-Caysungodaklak.jpg


Chi Sao (danh pháp khoa học: Hopea) là một chi thực vật thân gỗ lớn của họ Dầu (Dipterocarpaceae). Chi này được mang tên của Jhon Hope (1725-1786) nhà thực vật học đầu tiên quản lý vườn thực vật Hoàng gia Anh. Chi thực vật này gồm khoảng 104 loài, phân bố tự nhiện từ Sirilanka và miền nam Ấn Độ tới Nam Trung Hoa, kéo xuống tới New Guinea. Chủ yếu là các loài thuộc tầng cây ưu thế sinh thái rừng nhiệt đới đất thấp, tuy nhiên cũng có những loài vươn cao hơn (chẳng hạn như loài Hopea nutans)
200px-Leaves_of_Hopea_odorata.jpg


Cây sứ là một chi nhỏ chứa 7-8 loài cây có nguồn gốc ở khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Mỹ. Các tên gọi phổ biến trong tiếng Việt là cây đại, bông sứ, chăm pa. Chi này chủ yếu là cây bụi hay cây gỗ với lá sớm rụng. P. rubra (cây đại thông thường hay đại hoa đỏ), có nguồn gốc Mexico, Trung Mỹ và Venezuela, sinh ra hoa có màu từ vàng tới hồng, phụ thuộc vào giống cây trồng. Chi này cũng có quan hệ họ hàng với trúc đào (Nerium oleander). Cả hai đều chứa nhựa màu trắng sữa rất độc, tương tự như của chi Đại kích (Euphorbia).
240px-Plumeria_alba_flowers.jpg


Chi Súng (danh pháp khoa học: Nymphaea) là một chi chứa các loài thực vật thủy sinh thuộc họ Súng (Nymphaeaceae). Tên gọi thông thường của các loài trong chi này, được chia sẻ cùng với một số chi khác trong họ này, là súng. Các lá của chi Nymphaea có vết khía chữ V nối từ mép lá tới cuống lá oiử khu vực trung tâm. Chi này có khoảng 50 loài, với sự phân bổ rộng khắp thế giới.
300px-Hoa_S%C3%BAng.jpg


Họ Sen là một họ thực vật có hoa chỉ có một chi duy nhất là Nelumbo.Họ này chỉ được một số ít các nhà phân loại học công nhận. Các loài trong họ này thường được gộp chung vào họ Súng
250px-Nelumbo_lutea_blossom.jpeg


Su su hay su le trong phương ngữ miền Trung Việt Nam (danh pháp khoa học: Sechium edule), (tiếng Trung gọi là dưa phật thủ (Phật thủ qua), tiếng Pháp dùng tại các lãnh thổ hải ngoại của Pháp ở Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương gọi là "chouchou" (Réunion, Île Maurice), "chouchoute" (Nouvelle-Calédonie, Polynésie thuộc Pháp) - phát âm như su-su trong tiếng Việt, có lẽ đây là nguồn gốc tên tiếng Việt của loại quả này) là một loại cây lấy quả ăn, thuộc họ Bầu bí, cùng với dưa hấu, dưa chuột và bí. Cây này có lá rộng, thân cây dây leo trên mặt đất hoặc trên giàn.
240px-Sechium_edule_dsc07767.jpg


sa kê là một loài cây gỗ có hoa trong họ Dâu tằm (Moraceae), bản địa của bán đảo Mã Lai và các đảo miền tây Thái Bình Dương, nhưng hiện nay đã được trồng rộng khắp trong khu vực nhiệt đới.
240px-Artocarpus_altilis.jpg


Su hào là một giống cây trồng thân thấp và mập của cải bắp dại, được chọn lựa vì thân mập, gần như có dạng hình cầu, chứa nhiều nước của nó. Su hào được tạo ra từ quá trình chọn lọc nhân tạo để lấy phần tăng trưởng của mô phân sinh ở thân, mà trong đời thường được gọi là củ. Nguồn gốc tự nhiên của nó là cải bắp dại.
240px-KohlrabiinMarket.jpg


So đũa hay điền thanh hoa lớn (danh pháp khoa học: Sesbania grandiflora, đồng nghĩa Aeschynomene grandiflora) là một cây nhỏ thuộc chi Sesbania trong họ Đậu (Fabaceae). Người ta tin nó có nguồn gốc từ Ấn Độ hay Đông Nam Á và mọc ở những nơi nóng ẩm.
250px-Starr_050518-1632_Sesbania_grandiflora.jpg
 
G

girlbuon10594

Vần T - Chủ đề sinh lý thực vật

Tre là một nhóm thực vật thường xanh đa niên thân gỗ, thuộc Bộ Hòa thảo, Phân họ Tre, Tông Tre (Bambuseae), một số loài của nhóm này rất lớn, và được coi là lớn nhất trong Bộ Hòa thảo. Tre cũng là một loại thực vật có hoa, nhưng chỉ nở hoa một lần duy nhất vào lúc cuối đời. Thường thì tre có thời gian nở hoa trong khoảng 5 - 60 năm một lần. Hoa tre có mùi hương hơi nồng và có màu vàng nhạt như màu đất.
200px-Bamboo_forest.jpg



Trúc hay Cương Trúc (danh pháp khoa học: Phyllostachys) là một chi thuộc tông Tre. Các loài này là thực vật bản địa châu Á, tập trung nhiều ở Trung Quốc, Nhật Bản nhưng hiện tại đã được trồng làm cảnh rộng rãi ở cả vùng ôn đới hoặc cận nhiệt đới...
240px-Trucdlcukuinvnet.jpg


Cây trứng cá hay còn gọi là mật sâm (danh pháp khoa học: Muntingia calabura), loài duy nhất trong chi Muntingia, là một loài thực vật có hoa có nguồn gốc ở miền nam Mexico, Caribe, Trung Mỹ và miền tây Nam Mỹ về phía nam của Peru và Bolivia. Chi này đã từng được các hệ thống phân loại khác nhau xếp trong các họ khác nhau, như họ Đoạn (Tiliaceae) hay họ Côm (Elaeocarpaceae), nhưng trong phân loại của APG và sau này là APG II thì người ta đã tách nó ra thành một họ riêng trong bộ Cẩm quỳ (Malvales) với danh pháp Muntingiaceae cùng các chi Dicraspidia, Neotessmannia với mỗi chi này chỉ có 1 loài.[1]
240px-Muntingia_calabura_Blanco2.425.jpg


Chi Thốt nốt hay chi Thốt lốt[1] (danh pháp khoa học: Borassus) là một chi của 5-10 loài thốt nốt thuộc họ Cau (Arecaceae), có nguồn gốc ở khu vực nhiệt đới châu Phi như Ethiopia, Niger, Nigeria, miền bắc Togo, Senegal v.v, miền nam châu Á và New Guinea. Chúng là các loại cây thân cau/dừa cao thẳng đứng, có thể cao tới 30 m. Lá dài, hình chân vịt, dài 2 - 3 m. Các lá chét dài 0,6-1,2 m. Cuống lá (mo) mở rộng. Hoa nhỏ, mọc thành cụm dày dặc, thuộc loại đơn tính khác gốc. Hoa đực nhỏ, có 3 lá đài, 3 cánh rời xếp lợp, 6 nhị ngắn, bao phấn 2 ô. Hoa cái to, gốc có lá bắc, đài và tràng rời, bầu hình cầu, có 3 - 4 ô, 3 đầu nhị cong. Quả lớn màu nâu hoặc nâu hạt dẻ hình dạng hơi tròn với 3 hạch, hạt thuôn chia 3 chùy ở đỉnh. Tại Việt Nam mọc và được trồng ở các tỉnh khu vực Nam Bộ giáp với Campuchia. Tên gọi thốt nốt trong tiếng Việt có nguồn gốc từ tiếng Khmer th'not. Đây là loài cây biểu tượng không chính thức của Campuchia.
240px-Borassus_flabellifer.jpg



Ngành Thông (Pinophyta) nhiều tài liệu tiếng Việt cũ còn gọi là ngành Hạt trần (Gymnospermae), [1] gồm các loài cây thân gỗ lớn hoặc nhỡ, ít khi là cây bụi hoặc dây leo thân gỗ. Lá hình vảy, hình kim, hình dải, ít khi hình quạt, hình trái xoan hoặc hình lông chim. Cơ quan sinh sản thường đơn tính, có cấu tạo nón khác với cấu tạo hoa, gồm các lá bào tử xếp xoắn ốc hoặc xếp vòng trên một trục ngắn có dạng nón. Thụ phấn nhờ gió, ít khi nhờ côn trùng. Lá noãn mở không bao hạt, mang một đến nhiều lá noãn ở nách hoặc mép. Hạt có phôi thẳng, mang một đến nhiều lá mầm. Gỗ tương đối mềm, chỉ có quản bào chưa có mạch gỗ và sợi gỗ.
250px-Araucaria_heterophylla_01.jpg


Thanh long một loài cây được trồng hay lấy quả, là tên của một vài chi của họ xương rồng. Người ta cho rằng nó có nguồn gốc từ Trung và Nam Mỹ. Nó cũng được trồng ở các nước như Trung Quốc, Đài Loan và trong khu vực Đông Nam Á như Việt Nam, Malaysia, Thái Lan, Philippines. Việc trồng loại ruột trắng vỏ đỏ hay hồng ở Thái Lan, Trung Quốc, Đài Loan, Philippines v.v. là lấy giống từ Bình Thuận, Việt Nam và hiện nay (năm 2005) mới chỉ trong giai đoạn bắt đầu.
220px-Hylocereus_undatus_red_pitahaya.jpg


Thạch đen, hay còn gọi là sương sáo (phương ngữ miền Nam), hoặc thủy cẩm Trung Quốc (danh pháp khoa học Mesona chinensis Benth.) là một loài thực vật thuộc chi Thủy cẩm (Mesona), họ Hoa môi. Loài này mọc mạnh tại các khu vực Đông Á như đông nam Trung Quốc, Đài Loan, trên những vùng đất cỏ, đất cát và đất khô.[1]

Thông thiên (danh pháp khoa học: Thevetia peruviana, tên khác là Cascabela thevetia), là loài cây thuộc họ Trúc đào có lá hình mác, mọc so le, thân cây cao khoảng 3 đến 4 mét. Thông thiên có xuất xứ từ châu Mỹ, thường gặp ở một số nơi như Kula, Maui, Waihee, Kihei, Kahana Beach, Hawaii...Cây thân gỗ. Toàn cây có tiết mũ màu trắng. Ở Việt Nam, hoa thông thiên có màu vàng rực, ở một số nơi khác hoa có màu vàng cam, hoa thường có 5 cánh. Trái có hình thoi màu xanh.
210px-Yellow_Oleander_%28Thevetia_peruviana%29_leaves_%26_flowers_in_Kolkata_W_IMG_8007.jpg
 
G

girlbuon10594

Vần V - Chủ đề sinh lý thực vật

Cây vải, còn gọi là lệ chi (danh pháp khoa học: Litchi chinensis) là loài duy nhất trong chi Litchi thuộc họ Bồ hòn (Sapindaceae). Nó là loại cây ăn quả thân gỗ vùng nhiệt đới
250px-Lychee.jpg


Vú sữa: Lá của vú sữa là thường xanh, mọc so le, hình ôvan đơn, mép liền, dài 5-15 cm; mặt dưới bóng như màu vàng khi nhìn từ xa. Các hoa nhỏ màu trắng ánh tía và có mùi thơm ngát. Đây là loại cây lưỡng tính (tự thụ phấn). Quả của nó tròn, có lớp vỏ màu tía hoặc nâu ánh lục khi chín, thường có màu xanh lục xung quanh đài hoa, với kiểu hình sao trong cùi thịt. Có một vài giống cho quả màu trắng ánh xanh lục. Vỏ nhiều latex (nhựa mủ) và không ăn được. Các hạt dẹt có màu nâu nhạt và cứng. Nó ra quả quanh năm sau khi đạt đến 7 năm tuổi trở lên. Lớp cùi thịt của quả là ăn được và ngon, dùng làm các món tráng miệng; nó có vị ngọt và nói chung hay được phục vụ dưới dạng tươi hoặc làm lạnh (khoảng 10-15°C). Lá của nó được dùng ở một số khu vực làm dạng như chè và người ta coi nó có tác dụng chống các bệnh *** đường và thấp khớp. Vỏ cây được coi là có chứa chất bổ và có tác dụng kích thích, nước sắc vỏ cây được dùng để chống ho. Loại quả vỏ màu tía có lớp vỏ dày hơn và cùi thịt đặc hơn còn loại quả vỏ màu nâu-lục có vỏ mỏng và nhiều cùi thịt nhão.
240px-Chrusophyllum_cainito.jpg


Vối có thể cao tới 12 - 15 m, vỏ màu nâu đen, nứt dọc, cành nhánh nhiều vảy. Lá hình trái xoan, phiến dày, cuống ngắn, lá già có chấm đen ở mặt dưới. Hoa nhỏ, màu trắng lục, họp thành cụm 3 - 5 hoa ở nách lá. Nụ hoa dài, 4 cánh, nhiều nhị. Ra hoa tháng 5 - 7. Quả hình cầu hay bầu dục, nhăn nheo, khi chín màu tím.
240px-Cleistocalyx_nervosum_dried_seeds.jpg
 
G

girlbuon10594

Vần X - Chủ đề sinh lý thực vật

Chi Xoài (danh pháp khoa học: Mangifera) thuộc họ Đào lộn hột (Anacadiaceae), là những loài cây ăn quả vùng nhiệt đới
250px-Black_mango_unripe.jpg


Xoài hôi
hay muỗm (danh pháp khoa học: Mangifera foetida Lour.) là một loài thực vật thuộc họ Đào lộn hột (Anacardiaceae). Loài này có tại Indonesia, Malaysia, Myanma, Singapore, Thái Lan, và Việt Nam.
200px-Mangif_foetid_070412_3648_ltn.jpg


Xoài thơm, hay xoài Kuwini, xoài Saipan (danh pháp khoa học: Mangifera odorata; tiếng Anh thường gọi là Kuwini Mango, Saipan Mango, hoặc Fragrant Mango) là một loài thực vật thuộc họ Anacardiaceae. Loài này có ở Guam, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan, và Việt Nam. Xoài thơm là một cây xoài có thể là loài bản địa của châu Á nhiệt đới, đặc trưng của Tây Malaysia. Quả có màu cam nhạt và vị ngọt khi chín. Nhựa cây toả ra một mùi thơm rất đặc trưng và có thể nhận biết từ xa. Hoa ra quanh năm và cũng có mùi thơm. Nhựa từ quả xoài thơm chưa chín rất độc. Quả có dạng cầu hoặc gần cầu, có màu xanh đậm và xanh khi chín.
200px-Mangif_odor_071229-2990_khjo.jpg


Cây xạ đen thuộc cây dây leo thân gỗ, mọc thành búi, dễ trồng, nhánh non tròn, không có lông, lá không rụng theo mùa, phiến bầu dục xoan ngược,gân phụ 7 cặp, bìa có răng thấp. Cuống 5 - 7mm. Chùm hoa ở ngọn hay ở nách lá, dài 5 - 10cm. Cuống hoa 2 - 4mm. Hoa mẫu 5. Cánh hoa trắng, Hoa cái có bầu 3 ô. Quả nang hình trứng, dài cỡ 1cm, nổ thành 3 mảnh. Hạt có áo hạt màu hồng. Ra hoa tháng 3 - 5; Ra quả tháng 8 - 12.
news_1488.jpg


Xương rồng (danh pháp khoa học: Cactaceae) thường là các loài cây mọng nước hai lá mầm và có hoa. Họ Cactaceae có từ 24 đến 220 chi, tùy theo nguồn (90 chi phổ biến nhất), trong đó có từ 1.500 đến 1.800 loài. Những cây xương rồng được biết đến như là có nguồn gốc từ châu Mỹ, nhất là ở những vùng sa mạc. Cũng có một số loại biểu sinh trong rừng nhiệt đới, những loại đó mọc trên những cành cây, vì ở đó mưa rơi xuống đất nhanh, cho nên ở đó thường xuyên bị khô.Cây xương rồng có gai và thân để chứa nước dự trữ. Xương rồng gần như là loại thực vật của Tân thế giới, ngoại trừ duy nhất là Rhipsalis baccifera, sinh trưởng chủ yếu ở vùng nhiệt đới của Cựu thế giới, chủ yếu ở vùng nhiệt đới châu Phi, Madagascar và Sri Lanka cũng như ở vùng nhiệt đới châu Mỹ. Loài này được cho là mới định cư gần đây ở Cựu thế giới (trong vài nghìn năm gần đây), có thể là do các loài chim di cư mang theo dưới dạng hạt không tiêu hóa được. Nhiều loài xương rồng khác đã thích hợp với môi trường sống mới trên các phần khác nhau của thế giới do sự đem theo của con người.
250px-Sahuaro_in_bloom_2.jpg


Xương cá là một loại cây thuộc họ xương rồng, không lá, không gai. Có nơi lại gọi là cây nọc rắn, cây càng tôm, cây xương khô, cây giao hay cây san hô xanh. Cây mọc hoang nhiều nơi.
3910_110.jpg


Xà cừ hay sọ khỉ là một loại cây thuộc Họ Xoan . Xà cừ mọc ở Benin, Burkina Faso, Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Chad, Bờ Biển Ngà, Gabon, Gambia, Ghana, Guinea, Guinea-Bissau, Mali, Niger, Nigeria, Senegal, Sierra Leone, Sudan, Togo, và Uganda.Cây ưa sáng mọc nhanh, dễ trồng hạt nẳy mầm rất khoẻ, tái sinh hạt và chồi đều mạnh. Cây tăng trưởng rất nhanh, có thể phát triển tốt trên mọi địa hình, mọi loại đất, rất phù hợp với nền đất cát của vùng ven biển miền trung Việt Nam, cây chịu hạn và gió bão rất tốt. Đặc biệt cây có khả năng đề kháng với sâu bệnh rất cao (chưa thấy tài liệu nào đề cập đến vấn đề sâu bệnh của loài cây này)
200px-Khaya_senegalensis_HN_VN.JPG


Xuyến chi là một loài thuộc họ cúc. Cây xuyến chi thuộc dạng hoang dại mọc ở những nơi không gian thoáng. Cây cao chừng 0,3m đến 0,4m. Cành rậm thường mọc theo từng nhóm. Vào mùa xuân có hoa, sau đó các nhụy hoa có hạt trong mỗi nhụy, đầu nhụy có các múi gai. Các nhụy này di chuyển theo gió hoặc có một con vật, cả con người các nhụy này có các múi gai bám chặt vào. Di chuyển đến những nơi gặp điều kiện thuận lợi thì sinh trưởng tiếp theo.
200px-Cayxuyenchixanh.jpg


Cây xoan hay xoan ta, xoan nhà, xoan trắng, sầu đông, thầu đâu, (danh pháp khoa học: Melia azedarach; đồng nghĩa M. australis, M. japonica, M. sempervivens), là một loài cây thân gỗ lá sớm rụng thuộc họ Xoan (Meliaceae), có nguồn gốc ở Ấn Độ, miền nam Trung Quốc và Australia. Trong tiếng Anh nó được gọi là Chinaberry, Bead tree, Persian lilac (đinh hương Ba Tư), White cedar (tuyết tùng trắng) và một vài tên gọi khác. Tại Nam Phi nói chung người ta gọi nó một cách nhầm lẫn là Syringa, trên thực tế đó là tên gọi của các loài đinh hương. Chi Melia bao gồm 4 loài khác nữa, có mặt trong khu vực đông nam châu Á tới miền bắc Australia. Tất cả chúng đều là cây thân gỗ nhỏ với lá sớm rụng hoặc bán thường xanh
240px-Chinaberry1216.JPG


Cây xương rắn, tên khác: xương rồng tàu, xương rồng bát tiên, danh pháp khoa học: Euphorbia milii, thuộc Họ Đại kích(Euphorbiaceae) có nguồn gốc từ Madagascar.Cây bụi, phân cành nhánh nhiều, có nhựa trắng. Thân bò ngang xà hay hơi đứng, màu xám, gai rất nhọn, dài thẳng và có gốc lớn. Phiến lá hình bầu dục, đầu tròn và thuôn dần ở gốc thành cuống không rõ. Cụm hoa mọc trên cuống dài, 2 lá bắc to, tròn, màu sắc khác nhau bọc lấy bao hoa. Tổng bao có hình chuông; có 4 tuyến hình bầu dục.
250px-Euphorbia_sp_01.jpg
 
G

girlbuon10594

Vần Y - Chủ đề sinh lý thực vật

Yến mạch (Avena sativa) là một loại ngũ cốc lấy hạt. Trong khi những sản phẩm như cháo yên mạch và bột yến mạch phù hợp cho việc tiêu thụ của con người thì cách sử dụng thông thường của yến mạch là cho gia súc ăn
200px-Avena_sativa_L.jpg


Ý Dĩ là cây bản địa ở Việt Nam được trồng ngay từ thời cổ xưa như 1 cây thuốc quí và cây tinh bột nhiều chất bổ dưỡng,là cây ưa sáng và ưa ẩm
images


Yến phi: Cỏ sống lâu năm, thân hành hình cầu, đường kính 0,7 - 1,5cm, thân khí sinh cao 15 - 25cm. Lá hình dải, dài 6 - 10cm, rộng 0,3 - 1cm. Cụm hoa ngù ở đỉnh thân. Bao hoa 6 mảnh, màu mận chín. Nhị 6, chỉ nhị dài bằng 1/3 bao hoa. vòi ngắn, núm 3, cong ra ngoài. Quả dài 1 - 2cm, khi khô tự mở bằng dọc lưng.
3260.JPG
 
T

trihoa2112_yds

XẠ KHUẨN: nhóm vi khuẩn đặc trưng có dạng giống sợi nấm ( cơ quan sinh trưởng dạng sợi, bào tử đính ) đường kính khoảng 0,5 - 2 μm. Thường hoại sinh nhưng có thể kí sinh trên thân cây, gây bệnh ở củ và rễ cây, nhất là ở đất kiềm, đất cát, khi thời tiết khô hạn làm cho củ lở loét sần sùi ngay từ ngoài đồng ruộng.

XANTHOPHYLA: loại sắc tố vàng da cam, chuyển hoá từ carotene.

XEN ĐOẠN: đột biến trong đó một hoặc nhiều bazơ mới được thêm vào giữa các bazơ có trên phân tử axit nucleic.

XENLULOZƠ: [C6H7O2(OH)3]n. Polisacarit tạo khung của màng tế bào ở tất cả thực vật trừ một số nấm. Các phân tử X là những chuỗi không phân nhánh, hợp với nhau tạo nên cấu trúc vững chắc, có cường độ co dãn cao. Các phân tử Xenlulozo được cấu tạo từ vài nghìn đơn vị  - D - glucozơ nối với nhau bởi liên kết  - 1,4 – glucozit


XISTIN: axit amin chứa lưu huỳnh - đime của X. Trong phân tử protein được tạo thành do hai gốc X kết hợp với nhau qua cầu đisunfua (S - S), duy trì cấu trúc không gian của phân tử protein.

XITOCROM: các protein chứa nhân hem, hoạt động như các chất trung gian trong chuỗi vận chuyển điện tử.

XOANG BAO MANG:
1. Phần xoang tim nhận máu từ tĩnh mạch đưa đến.
2. Phần chính của xoang tai giữa nằm phía dưới xương búa.
3. Ở động vật lưỡng tiêm và động vật có bao, là xoang bên ngoài chuyên nhận nước từ mang chảy vào.

XOANG BAO TIM: xoang giữa lớp trong của màng bao tim và màng sát mặt tim.

XOANG TĨNH MẠCH: xoang có thành mỏng nằm phía sau và dưới tim ở cá và lưỡng cư, nhận máu tĩnh mạch (máu bị mất oxi) từ các mô của cơ thể dồn về, trước khi về tim. Ở các động vật có xương sống khác, xoang tĩnh mạch nhập vào tâm nhĩ phải.

XOANG TUỶ: xoang giữa của răng động vật có vú, chứa mô liên kết (tương tự keo), mạch máu, bạch huyết và các sợi thần kinh, được bọc trong lớp đentin.

XOẮN KHUẨN: nhóm vi khuẩn có hình dạng uốn lượn như làn sóng hoặc lò xo. Tế bào thường xếp riêng lẻ, có lông roi ở một hay hai cực. Hầu hết thuộc loại hoá dưỡng. Hô hấp ưa khí hoặc vi ưa khí hoặc kị khí.

XƠ HOÁ: hiện tượng tăng sinh các tế bào liên kết kèm theo sự sinh sản quá mức các chất gian bào trong một cơ thể như mô tuyến, mô thần kinh, mô cơ… (tăng sinh nguyên bào sợi, tế bào sợi, sợi tạo keo...), làm cho mô xơ cứng lại, một phần hay toàn bộ chức năng của mô bị ngừng trệ.

XUNG ĐỘNG THẦN KINH: ( Xung thần kinh vận động ) là các tín hiệu truyền dọc theo các nơron. Tất cả các XĐTK đều như nhau về dạng, cường độ và do thay đổi về tính thấm của màng sợi trục bởi các dòng ion đi ra hoặc đi vào tế bào nên đã gây những thay đổi về điện thế tác động dọc theo sợi trục. Ở trạng thái thụ động sợi trục có điện thế tĩnh khoảng (-) 70 mV bên trong màng do ion natri được bơm ra ngoài tế bào. Khi xung động đi qua, màng trở nên dễ thấm (trong thời gian rất ngắn) đối với ion natri và dòng ion này đi vào tế bào. Do đó làm điện thế biến đổi vào khoảng +30 mV là điện thế tác động. Các nơron có bọc myelin, cơ chế kể trên chỉ xảy ra ở eo Ranviê (Ranvier). Vỏ myelin tạo một bọc sợi trục, do đó điện thế tác động dẫn truyền nhanh hơn từ nơi này đến nơi khác (sự dẫn truyền nhảy). Ngay sau khi xung động đi qua có thời kì trơ, lúc này xung động không thể dẫn truyền được và natri được bơm ra ngoài nơron. Ở cơ thể sống, xung động sinh ra do sự khử phân cực cục bộ ở synap hoặc tế bào thụ cảm, với sợi trục bị tách riêng thì mọi biến đổi ở màng đều có thể sinh xung động. Vì xung động sinh ra theo kiểu tất cả hay là không, nên cường độ kích thích được thể hiện qua tần số và số lượng xung động giống nhau.

XƯƠNG: loại mô liên kết do chất căn bản của mô nhiễm nhiều muối khoáng (canxi, magie...) làm cho xương là mô rắn nhất trong cơ thể và thực hiện chức năng chống đỡ cho cơ thể.

XYLEM: mô dẫn nước ở thực vật có mạch. Gồm: yếu tố dẫn - những tế bào rỗng, đã chết (quản bào và mạch); mô nâng đỡ dạng sợi và các thể cứng với một ít mô mềm. . Thành tế bào thứ cấp của mạch và quản bào của X bị dày lên vì chứa chất licnin có sức chống đỡ vững chắc hơn. Xylem thứ cấp được tích tụ trong suốt đời sống của thực vật và tạo thành các vòng sinh trưởng hằng năm.
 
G

girlbuon10594

Vần Đ - Chủ đề sinh lý động vật

Đà điểu (danh pháp khoa học: Struthioniformes) là một nhóm các loài chim lớn, không bay có nguồn gốc Gondwana, phần lớn trong chúng hiện nay đã tuyệt chủng. Không giống như các loài chim không bay khác, các loài đà điểu không có xương chạc trên xương ức của chúng và như thế thiếu nơi neo đủ mạnh cho các cơ cánh của chúng, vì thế chúng không thể bay được mặc dù chúng có các cánh phù hợp cho việc bay lượn.
200px-StrausseNgorongoroKrater1977.jpg


Đại bàng hay Chim ưng là một loài chim săn mồi cỡ lớn thuộc bộ Ưng, lớp Chim, họ Accipitridae. Chúng sinh sống trên mọi nơi có núi cao và rừng nguyên sinh còn chưa bị con người chặt phá như bờ biển Úc, Indonesia, Phi châu... nhưng chủ yếu là Lục địa Á-Âu và Lục địa Bắc Mỹ
220px-Wedge_tailed_eagle_headshot.jpg


Đồi mồi: có tên khoa học là Eretmochelys imbricata, một loài thuộc bộ rùa, chúng sinh sống ở vùng nhiệt đới: có 2 loại là đồi mồi nước mặn và đồi mồi nước ngọt. Loài này đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng cao. Có tên trong sách đỏ, cần được bảo tồn.
338697.jpg


Đom đóm có màu nâu và thân mềm, thường có cánh cứng dai hơn các loài bọ cánh cứng khác
Lampyris_noctiluca.jpg


ĐA ĐA: tên gọi khác: chim bắt tép kho cà, gà gô), thuộc bộ Gà (Galliformes), họ Trĩ (Phasianidae) chi: Francolinus tên khoa học: Francolinus pintadeanus
chim1.jpg


ĐƯỜI ƯƠI : (Động vật học) Loài khỉ lớn, có thể đi hai chân như người.
1243237978.jpg


Đỉa biển( hải sâm ): là 1 loại đỉa sống ở biển
images


đẻ nhờ: do không thể tự mình ấp trứng nên phải đem trứng sang chỗ con khác để đẻ,khi con non ra đời, con mẹ tưởng đó là con mình nên thương yêu hết mực vì k bít đó k pải là con mình. Lúc lớn , con ở nhờ lại bay đi nơi khác và... lại đẻ nhờ...

Đỉa – loài sinh vật vốn khiến rất nhiều người phải khiếp sợ thường xuất hiện ở những đầm lầy, hồ ao tù đọng, chuyên rình rập để hút máu người và gia súc mỗi khi có cơ hội
nghien-cuu-dia2.jpg


Đớp ruồi cằm xanh : là 1 loài chim bộ lông trên lưng màu xanh
3033520437_f4308d035c.jpg


Đại bàng đầu trắng là loại chim thường sống ở trên những đỉnh núi rất cao. Ở độ cao đó, chúng có thể bay vút lên, và với đôi mắt tinh nhanh, có thể nhìn rất rõ thế giới phía dưới, đặc biệt là con mồi mà chúng muốn bắt, ví như cá - món ăn ưa thích nhất của đại bàng.
wsxm1gca0a2k9ocajdxzxqcalv1g7ecayq41kmcakb0i4wcac9psc8cahbdc6vca.jpg



chim đớp ruồi họng đen : là loại chim nhỏ, chỉ bằng chim khuyên , lông nâu đen, sấu sí, nhưng dọng hót thì từ trời suống, chưa từng nghe dọng đặc trưng chỉ nghe dọng bắt chước khi đi đánh loại chim khác
l_niltava.jpg


ĐỘNG VẬT ĂN CỎ : động vật có khả năng phân giải xenlulozơ của thành phần tế bào thực vật trước khi tiêu thụ các chất trong tế bào.
images


ĐỘNG VẬT ĂN TẠP: động vật ăn thức ăn có nguồn gốc động vật và thực vật.
 
G

girlbuon10594

Vần Ê - Chủ đề sinh lý động vật

Ếch là loài động vật thuộc lớp lưỡng cư, chúng có khoảng 3900 loài, sống chủ yếu ở rừng mưa nhiệt đới với có kích thước, màu sắc và hình dáng đa dạng.
images
 
G

girlbuon10594

Vần G - Chủ đề sinh lý động vật

(danh pháp khoa học: Gallus gallus, Gallus gallus domesticus) là một loài chim đã được con người thuần hoá cách đây hàng ngàn năm. Một số ý kiến cho rằng loài này có thuỷ tổ từ loài chim hoang dã ở Ấn Độ và loài gà rừng lông đỏ nhiệt đới ở vùng Đông Nam Á. Trong thế giới loài chim, chúng là loài vật có số lượng áp đảo nhất với 23 triệu con (thống kê 2003).
images


Gà gô tuyết
(danh pháp khoa học: Lerwa lerwa) là một loài chim trong họ Trĩ (Phasianidae) của bộ Gà (Galliformes). Loài này cũng là loài độc nhất của chi Lewa. Nó là loài gà lôi lớn có cựa, sinh sống trong khu vực Himalaya của Ấn Độ, Nepal và Trung Quốc. Chiều dài loài gà này đạt tới 38-40 cm. Gà mái cân nặng 450–580 g còn gà trống nặng khoảng 550–700 g.
240px-Lerwa_lerwa.jpg



Gà rừng là một chi gồm 4 loài chim thuộc họ Trĩ (Phasianidae) tồn tại ở Ấn Độ, Sri Lanka và khu vực Đông Nam Á. Chúng là các loài chim lớn, với con trống có bộ lông sáng và tươi màu, nhưng nói chung khó phát hiện trong các khu vực rừng rậm rạp, nơi chúng sinh sống.
240px-Chick06.jpg


Gấu nâu có lông màu từ vàng hoe, nâu, đen hay tổ hợp của chúng; những chiếc lông dài bên ngoài thông thường pha trộn với màu trắng hay bạc, tạo ra ánh màu "nâu xám". Gấu nâu có u bướu to là cơ trên vai chúng, nó tạo ra sức mạnh cho các chân trước để dào bới. Đầu của chúng lớn và tròn với thiết diện mặt là lõm. Mặc dù có kích thước nặng nề, chúng có thể chạy tới 64 km/h (40 mph)
images


Giun đất thường sống ở những khu vực đất ẩm ướt có nhiều mùn hữu cơ. Chúng có vai trò to lớn đối với ngành nông nghiệp do chúng làm đất tơi xốp và tăng độ phì nhiêu của đất. Giun đất còn là thức ăn cho gia súc và gia cầm.
250px-Regenwurm1.jpg


Gặm nhấm (danh pháp khoa học: Rodentia) là một bộ trong lớp Thú, còn gọi chung là động vật gặm nhấm, với đặc trưng là hai răng cửa liên tục phát triển ở hàm trên và hàm dưới và cần được giữ ngắn bằng cách gặm nhấm.[1][2]
250px-White_Tailed_Squirrel.jpg


Gõ kiến là loài chim chủ yếu ăn sâu và kiến
images


Gián là một bộ bao gồm các loài côn trùng có thể mang mầm bệnh cho con người
images


giun móc là một ký sinh trùng giun tròn (giun đũa) sống trong ruột non của vật chủ, mà có thể là một động vật có vú như chó , mèo , hoặc con người
images


gà tre: là loại gà nhỏ lông trắng , chân ngắn, mào nhỏ.
Nhanrau7.jpg


GÀ ĐÔNG TẢO:
gà gốc từ vùng Đông Tảo (Hưng Yên, Việt Nam). Lông con trống màu đỏ nhạt và vàng đất; con mái màu vàng đất. Mào nụ kém phát triển. Tích và dái tai màu đỏ, kém phát triển. Thể chất khoẻ, xương to, điển hình chân to cao, cơ ngực và cơ đùi phát triển.
gadongtao.jpg


GỌNG VÓ: (Gerridae), họ côn trùng thuộc bộ Cánh nửa (Hemiptera). Cơ thể dài, cân đối. Chân dài, đặc biệt đôi chân thứ ba có đùi rất dài. Các bàn chân có nhiều búi lông không thấm nước giúp cho GV chạy được trên mặt nước với tốc độ lớn và dễ dàng. Sống ở mặt nước lặng (ao, hồ, ven bờ ao hồ) hoặc nơi nước chảy chậm. Có nhiều loài sống ở biển, có 2 loài sống trên đại dương thuộc chi Halobates. Ăn mồi sống và xác chết. Ở Việt Nam, mới phát hiện một số loài thuộc Gerris và Limnogonus là thiên địch của nhiều loài sâu hại lúa.
Gong%20vo.jpg


Gấu trúc đỏ: là loài động vật có vú ăn cỏ, đặc biệt là ăn lá tre
250px-Ailurus_fulgens_RoterPanda_LesserPanda.jpg



Gấu trắng Bắc Cực (danh pháp khoa học: Ursus maritimus) là một loài động vật có vú lớn của bộ Ăn thịt (Carnivora), họ Gấu (Ursidae). Chúng là loài động vật sống gần địa cực tìm thấy xung quanh Bắc Băng Dương và chúng là loài động vật ăn thịt lớn nhất trên đất liền.
250px-Polar_Bear_2004-11-15.jpg
 
G

girlbuon10594

Vần H - Chủ đề sinh lý động vật

Hà mã là một loài động vật có vú sống ở châu Phi là một loài ăn cỏ, thuộc 1 trong ba hoặc bốn loài thuộc họ Hippopotamidae còn sống sót.
499216240_3a08ea223a_d.jpg


Hổ, còn gọi là cọp, hùm, ông ba mươi (danh pháp khoa học: Panthera tigris) là một loài động vật có vú thuộc họ Mèo (Felidae), một trong bốn loại "mèo lớn" thuộc chi Panthera[4]. Hổ là một loại thú dữ ăn thịt sống.
Tiger.jpg



Hạc hay bộ Cò (danh pháp khoa học: Ciconiiformes) bao gồm nhiều loại chim lội, cao cẳng, kích thước lớn cùng với những cái mỏ lớn: cò, vạc, diệc, diệc bạch, cò quăm, cò mỏ thìa v.v. Các hóa thạch của bộ Ciconiiformes được biết đến từ cuối thế Eocen.
400px-Saddle-Billed_Stork.jpg


Hến là Động vật cùng họ với trai, cỡ nhỏ, vỏ cứng hình tròn, sống ở nước ngọt, thịt ăn được.
cimg1035.jpg


nhỏ ở bờ biển, bám vào đá thành tảng.
images


Hải ly: Động vật dạng hải ly là các động vật có vú với kích thước trung bình, mặc dù là lớn khi so sánh với phần lớn các động vật gặm nhấm khác. Chúng là động vật bán thủy sinh, với thân hình bóng mượt và các chân sau có màng như chân vịt, và trong môi trường nước thì chúng nhanh nhẹn hơn so với khi ở trên cạn. Đuôi của chúng dẹt và có vảy, một cơ chế thích nghi giúp chúng vận động uyển chuyển trong nước.
hai-ly.jpg


Hươu cao cổ là một động vật có vú thuộc bộ Guốc chẵn chuyên sinh sống tại Phi châu, đây là loài động vật cao nhất trong số các loài động vật trên cạn, và thuộc giống nhai lại.
448px-Giraffe_standing.jpg


Con hàu (Oyster), là loài động vật nhuyễn thể thuần đực. Từ thời xa xưa nó đã được ca tụng là "cá thánh"
 
G

girlbuon10594

Vần K - Chủ đề sinh lý động vật

Khỉ là một loài động vật thuộc lớp thú, bộ linh trưởng, ăn thực vật.
220px-Monkey_batu.jpg


Kiến là một động vật thuộc bộ Cánh màng, lớp Sâu bọ. Đây là loài sâu bọ có tính xã hội có khả năng sống thành tập đoàn lớn có tới hàng triệu con. Nhiều tập đoàn kiến còn có thể lan tràn trên một khu vực đất rất rộng, hình thành nên các siêu tập đoàn. Các tập đoàn kiến đôi khi được coi là các siêu cơ quan vì chúng hoạt động như một thực thể duy nhất.
250px-Formica_rufa2_mrowka_rudnica.jpg



Kangaroo, hay Chuột túi, là một nhóm các loài thú có túi thuộc họ Macropodidae (họ "chân to"). Từ kangaroo thường dùng để chỉ một số loài lớn nhất trong họ này như Kangaroo đỏ, Kangaroo Antilopin và Kangaroo xám. Kangaroo còn có nhiều loài nhỏ hơn. Kangaroo là biểu tượng của Úc.
250px-Kangaroo_and_joey03.jpg


Két là những loài chim thuộc bộ Psittaciformes,[2] với gần 372 loài trong 86 chi, chủ yếu sống ở vùng nhiệt đới ấm áp.
300px-Agapornis_roseicollis_-Peach-faced_Lovebird_pet_on_perch.jpg


Cá kiếm, đôi khi còn gọi là cá đao (danh pháp khoa học: Xiphias gladius) là một loài cá ăn thịt loại lớn, có tập tính di cư với mỏ dài và phẳng, ngược lại với mỏ tròn và trơn nhẵn của các loài các maclin. Nó là một loại cá thể thao phổ biến, cho dù hơi khó bắt. Cá kiếm có thân hình tròn và thuôn dài, khi trưởng thành mất hết toàn bộ răng và vảy
200px-Xiphias_gladius1.jpg


Chim Kiwi là các loài chim nhỏ nhất thuộc bộ Đà điểu nghĩa rộng (sensu lato), to bằng con gà, nặng 2-3 kg, cổ ngắn, mỏ rất dài và mảnh.
220px-Karuwai_at_August_2005_Health_Check.JPG


Kén: Cấu tạo bệnh lí gồm một hay nhiều ngăn trống, có màng bọc liên tục bao kín, thường chứa một chất lỏng hay chất nhầy; nguồn gốc do kí sinh trùng hoặc do sự tích lại của một chất bài tiết hay xuất tiết, với sự phát triển của mô bình thường hay mô phôi thai.
Ken_con_trung.jpg


Kì đà: Gồm những loài cỡ lớn; đuôi dài, nhọn; đầu lưỡi xẻ đôi
images



KHỦNG LONG: (L. Dinosauria; dinos - kinh khủng, sauria - thằn lằn), động vật thống trị trên đất liền ở đại Trung sinh, xuất hiện cách ngày nay 200 triệu năm và bị tuyệt diệt vào cuối Krêta cách nay 65 triệu năm. Có nhiều loài kích thước khác nhau, nhỏ chỉ bằng con mèo, lớn khổng lồ dài tới 30 m, nặng tới 30 tấn nhưng bộ óc lại rất nhỏ. Có loài ăn cây cỏ, có loài ăn thịt, có loài đi bốn chân, có loài đi trên hai chân: loài chân chim hoặc chân thằn lằn. Có nhiều giả thuyết để giải thích sự tuyệt diệt của KL vào cuối Krêta (kỉ Phấn), trong đó hai giả thuyết được nhiều người chấp nhận nhất. Một là vào cuối Krêta, những núi lửa khổng lồ như trên cao nguyên Đêcan (Deccan) phun ra những tro bụi khổng lồ trong hàng triệu năm khiến cho ánh sáng Mặt Trời không xuyên được xuống, bao nhiêu cây cỏ bị tiêu diệt, hậu quả là KL bị tuyệt diệt vì thiếu thức ăn. Hai là ánh sáng Mặt Trời bị che lại do một thiên thạch khổng lồ rơi xuống vùng vịnh Mêhicô [phía nam bán đảo Floriđa (Florida)], tung lên khí quyển một khối bụi khổng lồ, che khuất ánh nắng Mặt Trời trong nhiều năm.
khunglong.jpg


Kền kền:đầu và cổ hoàn toàn lông, thỉnh thoảng chỉ có vài lông bông trắng ở cổ. Vành lông ở phần dưới cổ dài màu trắng bao quanh vệt nâu ở ngực. Phần trên lưng nâu, phần dưới lưng, hông và trên đuôi trắng nhạt, gốc lông nâu nhạt. Lông bao cánh và vai nâu nhưng hơi nhạt hơn lưng, giữa lông hơi thẫm
5259.JPG


Kỳ nhông hay cự đà (danh pháp khoa học Iguana) là một chi gồm các loài thằn lằn
79px-Iguana_iguana_head.jpg
 
Status
Không mở trả lời sau này.
Top Bottom