Sinh [Sinh 11] Game về động vật

Status
Không mở trả lời sau này.
0

0872

Cá hề là loài cá biển sống ở các dải đá ngầm và rạn san hô. Hai mươi chín loài đã được phát hiện. Trong tự nhiên, chúng thường sống cộng sinh với hải quỳ. Tùy thuộc mỗi loài, cá hề có màu vàng, cam, đỏ nhạt, đen nhạt xen bởi các sọc trắng.
Tùy thuộc mỗi loài, cá hề có màu vàng, cam, đỏ nhạt, đen nhạt xen bởi các sọc trắng. Những cá thể lớn nhất có thể đạt tới 18 xentimét (7,1 in), trong khi một số chỉ ngắn 10 xentimét (3,9 in).
Cá hề sống ở các vùng nước ấm ở Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, bao gồm dải san hô Great Barrier Reef và Biển Đỏ. Một số loài phân bố bó gọn, số khác lại sống trải rộng. Chúng thường sống rất chung thủy, đặc biệt là chi Heteractis và Stichodactyla, và loài Entacmaea quadricolor. Cá hề ăn các các động vật không xương sống có nguy cơ làm hại hải quỳ, còn phân phân của cá hề cung cấp chất dinh dưỡng cho hải quỳ. Cá hề là động vật ăn tạp. Hải quỳ lại bảo vệ cá hề khỏi các loài động vật ăn thịt khác bằng chất độc của mình.
Cá hề là loài cá duy nhất không bị nhiễm độc bởi hải quỳ. Có khá nhiều giả thuyết đã được nêu ra:
Dịch nhầy bao ngoài con cá cấu tạo bởi đường hơn là protein. Từ đó, hải quỳ không thể nhận ra cá hề để tấn công bằng các tế bào châm ngứa.
Sự đồng tiến hóa của các loài cá hề và hải quỳ đã làm cho cá hề miễn dịch được với chất độc của hải quỳ. Thí nghiệm đã cho thấy cá hề Amphiprion percula có thể tự chống lại chất độc từ Heteractis magnifica, nhưng không được hoàn toàn, một khi da không còn nước nhầy, chúng lập tức bị hải quỳ tấn công.
Cá hề sống ở các khóm nhỏ trong hải quỳ. Đây cũng là nơi để chúng sinh sản. Khi con cái chết đi, Tính trạng đực sẽ trội hơn và con đực trở thành con cái. Có thể gọi đây là sinh sản lưỡng tính. Bởi vì tất cả các cá hề sinh ra đều là đực, về sau có con biến thành cái và có con vẫn là đực đến khi chết
Cá hề để trứng trên mỗi tầng của hải quì. Trong tự nhiên, cá hề được sinh ra trước hoặc sau ngày trăng tròn. Con bố sẽ bảo vệ trứng cho tới nở (khoảng 6 tới 10 ngày sau đó). Chúng ăn tạp: tảo, sinh vật phù du, động vật thân mềm, và các loài giáp xác nhỏ.
Tùy từng loài, cá hề có thể đẻ từ hàng trăm đến hàng nghìn trứng. Cá hề cũng thường xuyên dùng làm trang trí trong cá bể cá cảnh nước mặn.
 
V

vitconxauxi_vodoi

Lâu rồi vịt không ghé qua pic
Cho vịt ra con tiếp theo ha ;)

1310435204.img.jpg
 
F

forever_miss_you

giống vooc vá chân nâu wa
Chi Chà vá hay Chi Doọc là tên gọi trong tiếng Việt để chỉ các loài trong chi Pygathrix. Chi này theo CITES kể từ ngày 10 tháng 7 năm 2006chỉ chứa ba loài là:
• Chà vá chân nâu hay chà vá chân đỏ: Pygathrix nemaeus
• Chà vá chân đen: Pygathrix nigripes
• Chà vá chân xám: Pygathrix cinerea
Các tên gọi dùng chung cho ba loài này là voọc vá, voọc chà vá, voọc linh, khỉ chú lính (cách gọi của người Tày), dộc (cách gọi của người Mường), elơva (cách gọi của người Ê Đê)[1].
Các loài khỉ trong phân họ Colobinae này có bề ngoài khá sặc sỡ. Chà vá chân nâu có hai chân với màu nâu đỏ sáng đặc trưng (từ đầu gối tới mắt cá chân) cùng các vệt đỏ quanh mắt. Ngược lại, chà vá chân xám trông ít sức sống hơn, với các chân có màu xám lốm đốm và mặt màu vàng da cam. Cả hai đều có thân màu xám lốm đốm, lông trên tay và bàn chân màu đen và má màu trắng, mặc dù các lông trên má của chà vá chân nâu dài hơn của chà vá chân xám. Chà vá chân đen có màu lông trên toàn bộ chân màu đen. Hai chân và đuôi dài cho phép chúng trở thành những động vật rất nhanh nhẹn trên các cành và ngọn cây, là nơi sinh sống của chúng.
Mặc dù chúng còn được gọi là "voọc chà vá", nhưng trên thực tế chúng có quan hệ họ hàng gần gũi với các loài khỉ mũi dài và voọc mũi hếch, hơn là với các loài voọc thực sự.
 
K

key_bimat

Hình tiếp theo :
b%20306%20(1).jpg

Nhìn bộ lông của con chim này màu đen mà cái đuôi màu trắng vậy nhỉ :D ( gợi ý đấy nhé ;) )
 
V

vitconxauxi_vodoi

@forever_miss_you : là vọoc quần đùi trắng đó em :D khi nào rảnh qua vườn quốc gia Cúc Phương ở Ninh Bình mà ngắm con đó :p
@key_bimat: chim oanh đuôi trắng hả em ;)
 
A

abcdey

soa vắng vẻ quá z ooooooooooooooooooooooooooooo************************************aaaaaaaa
 
K

key_bimat


@key_bimat: chim oanh đuôi trắng hả em ;)
Dạ vâng ạ, đó là chim oanh đuôi trắng :D

Tên Tiếng Anh : White-tailed Robin
Tên Khoa Học : Cinclidium leucurum
là một loài chim trong họ Muscicapidae

Chim Oanh đuôi Trắng có chiều dài khoảng 15đến 16 cm với một mầu lông xanh thẩm và xanh đen, hai bên cánh có mầu nâu đen phía dưới đuôi được xen vào khoảng 8 lông trắng, nhưng phần trắng này chỉ khoảng 2 phần 3 lông đuôi của chúng. mỏ và khóe mắt mầu đen. nên ở việt nam gọi là ( Oanh Đuôi Trắng ).
trong khi đó chim mái lại có mầu nâu xám, và phần trắng cấu trúc giống như chim trống nhưng lại mờ nhạt hơn chim trống

Ở rừng Việt Nam chúng được phân bố nhiều ở vùng Nam, Tây Nam, Tây Nguyên DaLat và Cát Tiên Lâm Đồng ,Cũng như một vài nơi khác ( VQG Cúc Phương, Mã Đà ), nhưng thưa dần. Giống như một số loài chim oanh khác chúng thường sống ở rừng rậm rạp và có độ ẩm cao.
thức ăn của chúng là những loài côn trùng như sâu bọ, các loại trái cây rừng và một số loài côn trùng trong các cây gỗ mục.
đây là loài chim di cư theo mùa, nhưng phạm vi di cư của chúng không lớn lắm chúng có giọng hót khá hay, nhưng lại ít người biết đến. mùa sinh sản của chúng từ tháng 3 đến tháng 6 trong năm

Chim oanh Đuôi Trắng thường đẻ từ 3 đến 4 trứng và làm tổ trong các bọng cây hoặc những cháng ba của cây trong những nơi râm rạp


Câu tiếp theo đây ạ :p
choangchachung.jpg

 
A

abcdey

Choàng choạc hung Rufous Treepie (Dendrocitta vagabunda) là một thành viên của Họ Quạ (Corvidae.) Nó có cái đuôi dài và có các tiếng hót lớn làm cho nó rất dễ thấy. Nó được tìm thấy phổ biến ở các khu rừng chà mở, khu vực nông nghiệp, rừng cũng như các khu vườn đô thị. Giống như chim quạ khác nó dễ thích nghi, ăn tạp và cũng dễ nuôi.

Mô tả:

Đây là loài chim mà Các giới đều giống nhau và màu sắc chính là màu hung quế với một cái đầu đen và đuôi dài màu xám vànghiêng về màu đen. Cánh có một bản vá trắng. loài confusable là Treepie xám Tuy nhiên thiếu lớp phủ sáng màu đỏ heo. Các phần dưới bụng hung nâu( màu da cam-nâu) bộ cánh màu đen. mỏ, chân và bàn chân màu đen.

Các biến thể và một số phân loài được công nhận. Các phân loài được đề cử được tìm thấy ở đông bắc của bán đảo phía nam Ấn Độ để Hyderabad. loài này nhạt màu và gọi pallida, loài vernayi của Đông Ghats là màu sáng hơn trong khi parvula của phía tây Ghats là kích thước nhỏ hơn Các loài ở Afghanistan và Pakistan. bristoli trong khi các mẫu ở miền nam Thái Lan là saturatior. EC Stuart Baker mô tả sclateri từ Chindwin trên các Hills Chin và kinneari từ Myanmar phía nam và tây bắc Thái Lan. loài ở miền đông Thái Lan, Đông Dương một là sakeratensis.Phân phối

Phạm vi cư trú của loài này là khá lớn, bao gồm tất cả các lục địa Ấn Độ lên dãy Himalaya, và đông nam Miến Điện , Lào, và Thái Lan trong các khu rừng mở bao gồm cây bụi, rừng trồng và vườn tược.

Hành vi và sinh thái

Đây là một loài thường sống trên cây , nó ăn trái cây, hạt , động vật không xương sống, bò sát nhỏ và những quả trứng ,và chim non,. Nó là vô cùng nhanh nhẹn trong khi tìm kiếm thức ăn, đeo bám săn mồi cùng với các loài không liên quan như chim chẻo bẻo. Nó đã được quan sát thấy ăn ký sinh trùng của hươu hoang dã.

Mùa sinh sản ở Ấn Độ là tháng tư-Tháng Sáu. Tổ được xây dựng trên cây và bụi và thường tổ xây dựng nông. và đẻ từ 3-5 trứng.

Loài chim này tiếng hót của nó là một liên kết bob-o-hoặc ko-tree là phổ biến nhất . Một tên địa phương cho tên gọi có nguồn gốc từ các tiếng hót thông thường trong khi các tên khác bao gồm Handi Chancha và Chor taka.
 
K

key_bimat

Là Rùa Đảo Pinta phải không bạn :D

Rùa đảo Pinta hay rùa đảo Abingdon (danh pháp khoa học: Chelonoidis nigra abingdoni) là một trong 11 phân loài của phức hợp loài rùa Galápagos - động vật đặc hữu của quần đảo Galápagos. Cá thể cuối cùng của phân loài này là một con rùa đực có tên gọi là George cô độc (tiếng Tây Ban Nha: Solitario Jorge, tiếng Anh: Lonesome George). Nó đã chết vào ngày 24-6-2012. Trong những năm cuối cùng của cuộc đời, George cô độc được coi là sinh vật hiếm nhất trên thế giới và là biểu tượng nổi bật cho những nỗ lực bảo vệ môi trường ở Galápagos nói riêng và quốc tế nói chung.

Câu tiếp theo :p

62_1290578466_chim_canh_cach_den_-_black_bulbul_-_hypsipetes_leucocephalus2.jpg

62_1290578466_chim_canh_cach_den_-_black_bulbul_-_hypsipetes_leucocephalus1.jpg
 
V

vitconxauxi_vodoi

CHIM CÀNH CẠCH ĐEN - Black Bulbul - Hypsipetes leucocephalus
Họ: Chào mào Pycnonotidae

Bộ: Sẻ Passeriformes

Chim đực trưởng thành:
Đầu, cổ và phần trên ngực trắng. Toàn phần còn lại của bộ lông đen hay nhạt, thỉnh thoảng có vệt nâu. Dưới đuôi thỉnh thoảng có viền trắng

Chim cái: Có bộ lông như chim đực nhưng mặt bụng thường màu xám thẫm. Bộ lông của phân loài này có nhiều biến đổi, có thể gặp những cá thể mà đầu có ít nhiều lông đen.
Mắt nâu thẫm, da mí mắt vàng. Mỏ và chân đỏ tươi.

Kích thước:
Cánh (đực): 119 - 125, (cái): 110 - 114; đuôi (đực); 95 - 102 (cái): 89 - 93: giò 17 - 18: mỏ 21 - 23mm.

Phân bố:
Phân loài cành cạch này phân bố ở miền Nam Trung Quốc và Bắc Đông Dương. Ở Việt Nam, về mùa Đông phân loài này có ở các vùng núi rừng từ biên giới phía Bắc cho đến đèo Hải Vân, Lâm Đồng (Bidoup Núi Bà).
 
K

key_bimat

Là Chim Ưng Đuôi Đỏ phải không ạ ;))

Loài chim ưng đuôi đỏ là loài chim ưng lớn và phổ biến ở Bắc Mỹ. Chúng thường được thấy ở khu vực Buteo, những khu đất nông nghiệp, đường cao tốc, công viên, đồng cỏ và những khu rừng cây thưa thớt.

Chim ưng đuôi đỏ nặng từ 3 – 4,4 kg và có sải cánh dài tới 1,5 mét. Tổ của chúng được đặt ở những thân cây tại các khu vực rộng lớn và chúng sẽ rất “máu chiến” trong việc bảo vệ lãnh thổ. Khi những con chim ưng xây tổ trong khu vực của con người, chúng có thể cảm nhận được sự hiện diện của con người. Những con chim ưng sẽ tìm cách xua đuổi những nguy hiểm này ra khỏi lãnh thổ của mình.

Hình ảnh tiếp theo :
fairypitta_pinit.jpg

Xem cận cảnh chút nha :D
FairyPitta.jpg
 
0

0872

Là Chim Ưng Đuôi Đỏ phải không ạ ;))

Loài chim ưng đuôi đỏ là loài chim ưng lớn và phổ biến ở Bắc Mỹ. Chúng thường được thấy ở khu vực Buteo, những khu đất nông nghiệp, đường cao tốc, công viên, đồng cỏ và những khu rừng cây thưa thớt.

Chim ưng đuôi đỏ nặng từ 3 – 4,4 kg và có sải cánh dài tới 1,5 mét. Tổ của chúng được đặt ở những thân cây tại các khu vực rộng lớn và chúng sẽ rất “máu chiến” trong việc bảo vệ lãnh thổ. Khi những con chim ưng xây tổ trong khu vực của con người, chúng có thể cảm nhận được sự hiện diện của con người. Những con chim ưng sẽ tìm cách xua đuổi những nguy hiểm này ra khỏi lãnh thổ của mình.

Hình ảnh tiếp theo :
fairypitta_pinit.jpg

Xem cận cảnh chút nha :D
FairyPitta.jpg

Con này là Đuôi cụt bụng đỏ đúng không bạn :D?
Tên khoa học: Pitta nympha

Chim Đuôi cụt bụng đỏ Fairy Pitta (Pitta nympha) là một loài chim dạng sẻ nhỏ. Nó là loài ở đông bắc châu Á tại Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc đại lục và Đài Loan, Thái Lan và, mùa đông chủ yếu là trên đảo Borneo ở phía đông Malaysia, Brunei, và Kalimantan ở Indonesia. Nó ăn sâu, nhện, côn trùng, sên, ốc. chim này được phân loại như là dễ bị tổn thương theo BirdLife International, với số lượng ước tính từ 2.500 đến 10.000 cá thể . số lượng suy giảm nhanh chóng do nạn phá rừng trong phạm vi sống của nó , chủ yếu do nông nghiệp và lấy gỗ..

Có các chủng quần sống định cư và di cư ở rừng. Hàng ngày kiếm ăn trên mặt đất.

Chim trưởng thành đầu đen với dải lông hung vàng nhạt chạy từ trước mắt đến gáy. Hai bên trán và đỉnh đầu nâu hung. Phần trên cơ thể có màu lục hồng, bao trên đuôi và một vệt ở cánh xanh da trời nhạt. Vệt trắng nhỏ ở cánh sơ cấp tạo thành đám trắng rộng nhìn rõ khi bay. Họng trắng, ngực, bụng trên và sườn hung xám. Giữa bụng và dưới đuôi đỏ tươi ở chim cái có màu xỉn hơn chim đực.

Nói chung nơi ở tự nhiên trong các vùng phân bố đều bị tác động tượng tự như đối với các loài chim rừng khác làm cho số lượng của chúng bị giảm và trở nên hiếm.
Giống các loài đuôi cụt khác. Cần kịp thời nghiên cứu, qui hoạch bảo vệ các vùng rừng rậm còn lại nơi có loài này cư trú.

Con tiếp theo:

Gallery_01_SANY0188.JPG
 
Last edited by a moderator:
A

abcdey

Cu rốc đầu vàng

Tên Latin:Megalaima oorti

Họ:Cu cu rốc Capitonidae



Chim trưởng thành:

Hai bên trán có hai điểm đỏ thẫm. Một vệt ở gáy và hai vệt ở hai bên cổ đỏ hơi nhạt hơn.Trán, đỉnh đầu và họng vàng nhạt. Trên mắt có dải lông mày rộng và màu đen viền xanh ở mép trên và dưới xung quanh mắt, tai và vòng trước cổ xanh. Phần còn lại của bộ lông lục tương tự như M.asiatica davisoni mép cánh và mép ngoài các lông cánh sơ cấp phớt xanh.

Mắt nâu. Da quanh mắt nâu vàng nhạt. Mỏ đen, gốc mỏ xám. Chân vàng lục.Kích thước:

Cánh: 82 - 97; đuôi: 65; giò: 25; mỏ: 32 mm.

Phân bố:

Loài cu rốc này có ở Nam Lào và miền Nam Trung bộ Việt Nam (Đà Lạt, Di Linh).
 
Status
Không mở trả lời sau này.
Top Bottom