Sinh [Sinh 11] Game về động vật

Status
Không mở trả lời sau này.
H

happy.swan

Sam biển.
Sam biển là loài hải sản thường sống ở những vùng nước sâu vỏ cứng như mai cua, mình tròn vẹt, đường kính độ gang tay, tám chân càng nhỏ dưới bụng, phần dưới là mũi nhọn ba cạnh dài cỡ hai tấc.
 
K

key_bimat

images

Hình này nhìn quen quá nhỉ :)
___________________________

Happy new year
 
H

happy.swan

Sư tử.
Sư tử (Panthera leo) là một loài động vật có vú thuộc chi Báo, họ Mèo (Felidae), loài vật này còn có biệt danh là Chúa tể sơn lâm. Đối với sư tử đực thì rất dễ dàng nhận ra được bởi bờm của nó, có thể nặng tới 250 kg (550 lb). Sư tử cái nhỏ hơn nhiều, cân nặng tới 180 kg (400 lb). Trong tự nhiên sư tử sống khoảng 10–14 năm, trong điều kiện giam cầm chúng có thể sống trên 20 năm. Sư tử là loài động vật ăn thịt sống theo bầy đàn thành từng gia đình, bao gồm các con sư tử cái, con của chúng cả đực lẫn cái, và con đực không có quan hệ họ hàng gì nhưng sẵn sàng giao phối với các con sư tử cái trưởng thành. Các con sư tử cái làm nhiệm vụ săn mồi cho cả đàn trong khi con đực chủ yếu làm nhiệm vụ bảo vệ và duy trì lãnh thổ. Các con đực sẽ rời khỏi bầy đàn khi chúng trưởng thành. Khi con đực khác chiếm bầy đàn hoặc khi nó hất cẳng được con đực thủ lĩnh trước, kẻ xâm chiếm có thể giết chết tất cả các con non còn lại trong đàn mà không phải là con của nó.
Sư tử là một trong những loài mèo có khả năng tình dục mạnh nhất. Trong thời gian động đực của con cái, con đực và con cái có thể giao phối trong vòng 5-7 ngày cứ sau mỗi 10 đến 20 phút. Tuy nhiên, phải mất 6-9 chu kỳ động đực thì con cái mới có thể mang thai.
 
V

vitconxauxi_vodoi

Thỏ là động vật có vú nhỏ được xếp vào họ Leporidae thuộc bộ Lagomorpha, sinh sống ở nhiều nơi trên thế giới. Thỏ được phân loại thành 7 loại, điển hình như thỏ rừng Châu Âu (Oryctolagus cuniculus), thỏ đuôi bông (giống Sylvilagus; 13 species), thỏ Amami (Pentalagus furnessi, 1 loài thỏ quý hiếm ở Amami Oshima, Nhật). Còn nhiều loài thỏ khác trên thế giới; thỏ đuôi bông, thỏ cộc và thỏ rừng được xếp vào bộ Lagomorpha. Tuổi thọ của thỏ từ 4 tới 10 năm, thời kỳ mang thai khoảng 31 ngày.

~>Tiếp nhé ;))

392tno_ranla.jpg


Năm mới chúc pic luôn đông khách,mọi người vui vẻ,thành công trong cuộc sống nha ^^'
 
K

key_bimat

Uầy, ủa chứ anh ( chị ) vitconxauxi_vodoi hình như là ra hai loài rắn cùng lúc phải không nhỉ :D


1.
290811KHCNran07.jpg




- Rắn san hô xanh
Rắn san hô là một trong những loài có nọc độc rất cao trong dòng họ Elapidae, chúng có thể được tìm thấy trong tất cả các khu rừng nhiệt đới tại Đông Nam Á. Tuyến nọc độc nằm khắp cơ thể, thậm chí kéo dài đến tận đuôi ở một số lòai.

Chúng phân bố rộng rãi khắp Thái Lan, Malaysia, Singapore, Indonesia và Borneo nhưng lại thường khó tìm thấy vì tính chất sống về đêm. Chúng thường ẩn mình dưới lá, rác hay các mảnh vụn của cây và thường liều mạng săn mồi khi đêm đến.



2.
290811KHCNran05.jpg




- Rắn hồng
Rắn Liophidium Pattoni trưởng thành dài khỏang 40cm, con mồi của chúng là những loài gặm nhấm nhỏ và thằn lằn. Những vết màu hồng tươi trên lưng làm chúng trở thành một trong các loài rắn sặc sỡ nhất Madagascar.



Và sau đây là hình tiếp theo :p
Loài rắn này cũng dữ tợn lắm nhỉ :D
p8.jpg

 
Last edited by a moderator:
A

abcdey

Có phải đây là rắn hổ mang chúa
Thân rắn hổ mang chúa không dày và trọng lượng ít khi vượt quá 20 kg. Đầu, lưng màu nâu xám, vàng lục hay màu chì. Những vảy thân từ giữa cơ thể tới hết đuôi có viền xám đen. Nọc độc của rắn hổ mang chúa chủ yếu là đầu độc thần kinh, và con rắn này hoàn toàn có thể giết chết một người chỉ bằng một cú cắn[2]. Tỷ lệ tử vong có thể lên đến 75%, nhưng phần lớn các cú cắn của nó có mức nọc độc không gây hại[2][3][4]. Rắn hổ mang chúa thường sống trong hang dưới nhũng gốc cây lớn hay thân cây gỗ trong rừng, bên bờ suối... thức ăn là các loài rắn khác, chim, chuột, thằn lằn, kì đà. Rắn hổ mang chúa đẻ trứng vào khoảng tháng 4-5.Rắn hổ mang chúa sống trên mặt đất, nhưng leo cây và bơi rất giỏi, kiếm ăn cả ban ngày và ban đêm.Trên thế giới, rắn hổ mang chúa phân bố tại Nêpan, Ấn Độ, Mianma, Trung Quốc, Thái Lan, Lào, Campuchia, Philippin, Malaixia, Indonesia và Việt Nam.
Riêng tại Việt Nam, loài rắn này có tại Lào Cai, Yên Bái, Bắc Thái, Vĩnh Phú, Hà Tây, Hòa Bình, Hà Bắc, Quảng Ninh, Nam Hà, Ninh Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh, Đắc Lắc, Lâm Đồng, Phú Yên, Ninh Thuận, Bình Thuận, Tây Ninh, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu (Côn Đảo) Thất Sơn - An GiangRắn hổ mang chúa được cho là một món ăn có nhiều giá trị bổ dưỡng nên hay bị săn bắt, Rắn hổ mang chúa là loài rất quý hiếm rất cần được bảo vệ.
 
R

rancanheo

Tê giác là các loài động vật nằm trong số 5 chi còn sống sót của động vật guốc lẻ trong họ Rhinocerotidae. Tất cả 5 chi nói trên đều có nguồn gốc ở châu Phi hay châu Á. Đặc trưng nổi bật của động vật có sừng này là lớp da bảo vệ của chúng được tạo thành từ các lớp chất keo với độ dày tối ưu khoảng 4 inch được sắp xếp theo cấu trúc mắt lưới.
 
V

vitconxauxi_vodoi

url

Tiếp nhé ;)
Hình ảnh trước vịt ra key_bimat trả lời đúng rồi..lưu ý Vịt là chị nhé ;) không phải là anh đâu
 
B

be_mum_mim

Chim mỏ sừng.

Von der Decken của Hồng hoàng ("Tockus deckeni") là một Hồng hoàng. Chim mỏ sừng là một gia đình chim sẻ gần nhiệt đới được tìm thấy ở Đông Phi, đặc biệt là phía đông của Thung lũng Rift, từ Ethiopia nam Tanzania. Nó chủ yếu được tìm thấy trong cây bụi gai và môi trường sống khô cằn tương tự. Nó thường bao gồm Hồng hoàng là một phân loài của Jackson.

Trong thời gian ủ bệnh, con cái đẻ hai hoặc ba quả trứng màu trắng trong một lỗ cây, bị chặn với xi măng làm bằng bùn, phân và bột trái cây. Chỉ có một khẩu độ hẹp, chỉ đủ lớn cho nam chuyển thực phẩm cho người mẹ và gà con.

Khi chim con và phụ nữ là quá lớn để phù hợp trong tổ, mẹ vỡ và xây dựng lại bức tường, sau đó cả hai cha mẹ nuôi gà con.

Loài này là một Hồng hoàng nhỏ có dưới chủ yếu là màu trắng, đầu và trên lưng đen. Nó có một cái đuôi dài và một dự luật cong dài mà thiếu một mu quan vo. Giới tính là tương tự, nhưng con cái có một dự luật màu đen, trong khi hóa đơn của nam giới là màu đỏ và kem.
 
I

i_love_t

Ếch vàng Panama cái và con của nó trong vườn thú Bronx New York, Mỹ. Da của ếch con có màu xanh lục để giúp chúng không bị động vật săn mồi phát hiện. Màu vàng sẽ thay thế màu xanh lục khi ếch bước vào giai đoạn trưởng thành.Loài ếch này thường sống ở các khu rừng nhiệt đới.

Màu vàng quý hiếm của nó chói lọi và kỳ diệu tựa như 1 phép màu đang hiện ra trước mắt bạn. Nhờ sắc màu hơi bị "ảo" này mà ếch vàng là một trong những biểu tượng của Panama đấy!
 
0

0872

Bổ sung thêm cho bạn này :)
Ếch vàng Panama (tên khoa học là "atelopus zetecki") có thể sống trong những khu rừng nhiệt đới, đặc biệt là trên núi hoặc gần các con suối. Da của ếch con có màu xanh lục để giúp chúng không bị động vật săn mồi phát hiện. Màu vàng sẽ thay thế màu xanh lục khi ếch bước vào giai đoạn trưởng thành. Màu vàng quý hiếm của nó chói lọi và kỳ diệu tựa như một phép màu đang hiện ra trước mắt bạn. Nhờ sắc màu này mà ếch vàng là một trong những biểu tượng của Panama.
Loài ếch vàng này đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng do trái đất nóng lên tạo điều kiện bùng phát loại nấm độc có khả năng giết chết những con ếch vàng.

Tiếp:
0311201001Squirrels.jpg
 
Last edited by a moderator:
A

abcdey

Họ Sóc (danh pháp khoa học: Sciuridae) là một họ lớn trong bộ Gặm nhấm (Rodentia). Từ Sciuridae có nghĩa là "đuôi bóng" và nó chỉ tới phần phụ thêm vào mọc rậm rạp của nhiều thành viên trong họ này[1]. Nó bao gồm sóc cây, sóc đất, sóc chuột, macmot (bao gồm cả macmot châu Mỹ) và sóc bay thật sự. Sóc bay đuôi vảy châu Phi thuộc về họ Anomaluridae và không phải là sóc thật sự của họ Sciuridae. Họ Sciuridae được tìm thấy gần như trên mọi châu lục, ngoại trừ Australasia và châu Nam Cực.Họ Sciuridae nói chung là các động vật nhỏ, dao động về kích thước từ nhỏ như sóc lùn châu Phi chỉ dài 7–10 cm và cân nặng 10 gam, tới macmot Alps dài 53–73 cm và cân nặng 5–8 kg. Họ Sciuridae nói chung có thân hình mảnh dẻ với đuôi rậm rạp và mắt to. Bộ lông của chúng nói chung mềm và mượt, mặc dù ở một vài loài có thể là dày hơn. Màu lông của các loài dạng sóc biến động khá mạnh giữa các loài và thậm chí là ngay trong phạm vi loài.
Các chân sau nói chung dài hơn các chân trước, mỗi chân có 4 hay 5 ngón. Chân trước có ngón cái, mặc dù nó kém phát triển. Các chân của động vật họ sóc cũng có gan bàn chân mềm ở mặt dưới.[2]
Họ Sciuridae sinh sống trong gần như mọi môi trường sống, từ rừng mưa nhiệt đới tới sa mạc bán khô cằn, chỉ không có tại khu vực cận địa cực và các sa mạc khô nhất. Chúng chủ yếu là động vật ăn cỏ, với thức ăn là hạt và quả, nhưng nhiều loài ăn cả côn trùng và thậm chí là các loài có xương sống nhỏ. Trên thực tế, một số loài nhiệt đới gần như chỉ ăn côn trùng. Bộ răng của các loài dạng sóc tuân theo kiểu răng điển hình của động vật gặm nhấm, với các răng cửa lớn có tác dụng gặm nhấm và chúng phát triển ra trong suốt cả cuộc đời, còn các răng hàm có tác dụng nhai thì nằm cách các răng cửa một khoảng trống lớn.Các loài sóc nói chung có thị lực tốt, và điều này đặc biệt quan trọng cho các loài sống trên cây. Nhiều loài cũng có hệ thống cảm quan, với các ria mép hay các lông trên các chân.[2]
Họ Sciuridae sinh sản 1 đến 2 lần trong năm, với số lượng con non sinh ra không đồng nhất sau 3-6 tuần, phụ thuộc vào từng loài. Các con non sinh ra trần trụi, không răng, mù và yếu ớt. Ở phần lớn các loài chỉ có con mẹ chăm sóc con non. Chúng được cho bú tới khoảng 6-10 tuần tuổi và thuần thục sinh lý vào cuối năm thứ nhất của cuộc sống của chúng. Các loài sinh sống trên mặt đất nói chung có tính cộng đồng, thường sinh sống thành bầy, nhưng các loài sống trên cây thì phần lớn là đơn độc.Các loài sóc còn sinh tồn được chia ra thành 5 phân họ, với khoảng 50 chi và gần 280 loài. Mặc dù hóa thạch sóc cổ nhất đã biết, Douglassciurus, có niên đại vào thời kỳ tầng Priabona (Hậu Eocen, vào khoảng 37,5 - 35 Ma), nhưng động vật này dường như là sóc cây gần hiện đại, cho dù với hộp sọ nguyên thủy, và trên thực tế nó thường được đặt trong phân họ Sciurinae. Vì thế, dòng dõi sóc có thể có nguồn gốc từ thời gian sớm hơn thế.[3]
Chủ yếu từ cuối thế Eocen cho tới thế Miocen, có nhiều dạng sóc mà không thể đưa vào bất kỳ nhánh còn sinh tồn nào với sự chắc chắn cao. Ít nhất là một số trong số này có lẽ là hậu duệ của nhóm cơ sở cổ nhất của họ Sciuridae – nhóm "sóc nguyên thủy" mà người ta có thể dùng để gọi chúng do chúng thiếu toàn bộ các đặc trưng hình thái của sóc còn sinh tồn -, trước khi những loài này tiến hóa thành các phân họ ngày nay. Sự phân bố và đa dạng của các dạng tổ tiên và cổ đại như thế gợi ý rằng sóc như là một nhóm động vật có thể có nguồn gốc từ Bắc Mỹ.[3]
Bên cạnh các dạng hóa thạch ít được hiểu rõ này, phát sinh loài của sóc còn sinh tồn là tương đối dễ hiểu. Có ba dòng dõi chính, cụ thể là:
Dòng dõi thứ nhất là phân họ Ratufinae (sóc lớn phương Đông). Nhánh này chứa một nhóm nhỏ các loài sóc còn sinh tồn trong khu vực nhiệt đới châu Á nhưng đã từng phổ biến rộng khắp đại lục Á-Âu trong thời gian tiền sử.
Sóc lùn nhiệt đới Tân thế ở khu vực nhiệt đới Nam Mỹ là loài duy nhất còn sinh tồn của nhánh thứ hai (phân họ Sciurillinae).
Nhánh thứ ba là lớn nhất và chứa toàn bộ các phân họ còn lại với sự phân bố gần như toàn cầu. Điều này hỗ trợ tiếp giả thuyết rằng tổ tiên chung của mọi dạng sóc (còn sinh tồn và các dạng hóa thạch) đã sinh sống tại Bắc Mỹ do cả ba dòng dõi cổ nhất này dường như đã lan tỏa từ đây – nếu các dạng sóc có nguồn gốc Á-Âu thì người ta có thể dự kiến có các nhánh rất cổ tại châu Phi, nhưng các dạng sóc ở châu Phi lại dường như có nguồn gốc rất gần đây.[3]
Nhóm chính các dạng sóc này (nhánh ba) lại có thể chia làm 3 phần, là các phân họ còn lại. Phân họ Sciurinae là nhóm sóc duy nhất không có độ chắc chắn đáng kể khi xem xét về mặt phân loại học. Cụ thể là nó không rõ ràng một cách đầy đủ là các dạng sóc bay thật sự (tông Pteromyini) có quan hệ họ hàng xa ở mức nào đối với sóc cây (tông Sciurini); nhóm đầu tiên này thông thường đã từng được coi là một phân họ riêng nhưng hiện nay chỉ được coi là một tông của phân họ Sciurinae. Ngược lại, nhóm sóc thông (chi Tamiasciurus ở Bắc Mỹ) thường được đưa vào trong tông Sciurini, nhưng dường như cũng có khác biệt lớn tương tự như là nhóm sóc bay; vì thế đôi khi chúng được coi là tông khác biệt với tên gọi Tamiasciurini.[3][4]
Hai trong ba phân họ này có kích thước gần tương tự như nhau, chứa khoảng 70- 80 loài/mỗi phân họ; phân họ thứ ba khoảng 2 lần nhiều hơn. Phân họ Sciurinae chứa các dạng sóc sống trên cây, chủ yếu ở châu Mỹ và ở phạm vi hạn hẹp hơn tại đại lục Á-Âu. Phân họ Callosciurinae là đa dạng nhất tại nhiệt đới châu Á và chứa các dạng sóc cây, nhưng có sắc mạo khác đáng kể và dường như là "tao nhã" hơn, một ấn tượng được gia tăng bởi bộ lông thường rất sặc sỡ của chúng. Phân họ Xerinae – phân họ lớn nhất – chủ yếu là các dạng sóc đất (sống trên mặt đất) và cả các loài macmot lớn cùng chuột chó thảo nguyên; chúng có xu hướng thích sống thành bầy đàn hơn các dạng sóc khác.
 
Last edited by a moderator:
A

abcdey

Gấu nâu (danh pháp khoa học: Ursus arctos) là một loài gấu có thể nặng tới 130–700 kg (300–1.500 pao). Gấu xám, gấu Kodiak và gấu nâu Mexico là Gấu nâu có lông màu từ vàng hoe, nâu, đen hay tổ hợp của chúng; những chiếc lông dài bên ngoài thông thường pha trộn với màu trắng hay bạc, tạo ra ánh màu "nâu xám". Gấu nâu có bướu to là cơ trên vai chúng, nó tạo ra sức mạnh cho các chân trước để dào bới. Đầu của chúng lớn và tròn với thiết diện mặt là lõm. Mặc dù có kích thước nặng nề, chúng có thể chạy tới 64 km/h (40 mph).
Gấu nâu là loài động vật ăn đêm là chủ yếu và về mùa hè chúng tích tới 180 kg (400 pao) mỡ, số mỡ này sẽ được tiêu thụ dần trong mùa đông khi chúng ngủ đông. Mặc dù chống không thực sự là ngủ đông do có thể thức dậy dễ dàng, chúng thích chui vào các chỗ được bảo vệ như hang, hốc hay chỗ lõm sâu để tránh thời tiết lạnh giá của các tháng mùa đông.
Là động vật ăn tạp, chúng ăn rất nhiều chủng loại thức ăn khác nhau, bao gồm quả mọng, rễ cây và chồi cây; nấm; cá, côn trùng hay các động vật có vú loại nhỏ. Gấu nâu ăn chủ yếu là thực vật, chiếm tới 75% năng lượng từ thức ăn của chúng. Một điều thú vị là chúng ăn rất nhiều nhậy trong mùa hè—đôi khi nhiều tới 20.000 - 40.000 trên ngày—và có thể cung cấp tới 1/3 năng lượng cho chúng.
Gấu nâu cũng đôi khi là những kẻ ăn trộm thức ăn của hổ, chó sói và báo sư tử. Người ta đã tìm thấy 2 con hổ đực bị giết chết bởi gấu nâu trong năm 2000.
Thông thường chúng là các động vật sống cô độc, nhưng gấu nâu tụ tập thành bầy dọc theo các con sông và suối trong mùa cá hồi sinh đẻ. Cứ mỗi năm gấu cái lại sinh được từ 1 - 4 gấu con, chúng chỉ nặng khoảng 1 pao (454 g) khi mới sinh.
[sửa]Phân bố

Đã từng phổ biến ở châu Á, châu Phi, châu Âu và Bắc Mỹ[2], gấu nâu hiện nay đã bị tuyệt chủng ở một số nơi và suy giảm về số lượng ở những khu vực khác. Chúng thích sống trong những khu vực tương đối thoáng, thông thường là miền núi. Gấu nâu sống phổ biến hiện nay từ miền đông Alaska từ Yukon và Lãnh thổ Tây Bắc, về phía nam xuyên từ British Columbia cho đến nửa phía tây của Alberta. Các quần thể cô lập sống tại tây bắc Washington, bắc Idaho, tây Montana và tây bắc Wyoming. Chủng gấu xám (U. arctos horribilis) là gấu nâu phổ biến của Bắc Mỹ lục địa; chủng gấu Kodiak (U. arctos middendorffi) bao gồm gấu nâu trên các đảo Kodiak, Afognak và Shuyak thuộc Alaska. Chủng gấu xám Mexico (U. arctos nelsoni) sinh sống tại miền bắc Mexico.
Ước tính có khoảng 200.000 gấu nâu trên thế giới. Quần thể lớn nhất nằm ở Nga, khoảng 120.000 con, Mỹ khoảng 32.500 con và Canada khoảng 21.750 con. 95% của quần thể gấu nâu Mỹ nằm ở Alaska. Ở châu Âu, có khoảng 14.000 con trong 10 quần thể riêng rẽ, sống từ Tây Ban Nha tới Nga. chủng (phân loài) Bắc Mỹ của gấu nâu. Trong tiếng Anh còn gọi chúng là bruin.Người ta cho rằng gấu nâu đã tiến hóa từ Ursus etruscus. Các hóa thạch cổ nhất có tại Trung Quốc, khoảng 0,5 triệu năm trước (Ma). Chúng đã tiến vào châu Âu khoảng 0,25 Ma, và vào Bắc Mỹ chỉ một thời gian ngắn ngay sau đó. Các di tích gấu nâu với niên đại thuộc thế Pleistocen là phổ biến trên đảo Anh, nơi mà người ta cho rằng chúng đã vượt qua gấu hang (Ursus spelaeus). Loài này tiến vào Alaska khoảng 0,1 Ma, mặc dù chúng đã không tiến xuống phía nam Bắc Mỹ cho tới khoảng 13.000 năm trước[3]. Người ta cho rằng gấu nâu đã không thể tiến xuống phía nam cho tới khi loài gấu mõm ngắn Arctodus simus to lớn hơn bị tuyệt chủng[4]. Một số nhà cổ động vật học lại đề xuất khả năng về hai đợt di cư tách biệt của gấu nâu: gấu xám được coi là phát sinh ra từ gấu hộp sọ hẹp, di cư từ miền bắc Siberi tới miền trung Alaska và phần còn lại của đại lục, trong khi gấu Kodiak phát sinh từ gấu hộp sọ rộng có ở Kamchatka và đã chiếm lĩnh bán đảo Alaska. Các hóa thạc gấu nâu đã phát hiện tại Ontario, Ohio, Kentucky và Labrador chỉ ra rằng loài này đã sinh sống xa hơn về phía đông so với các chỉ dẫn trong các ghi chép lịch sử.
 
Status
Không mở trả lời sau này.
Top Bottom