Sinh [Sinh 11] Game về động vật

Status
Không mở trả lời sau này.
H

happy.swan

Chim sâm cầm.
Sâm cầm là một loài chim cỡ trung bình, nặng 0,5-0,8 kg, thân bầu, to hơn con le le và nhỏ hơn con vịt trời. Đầu và cổ phủ lông đen, mắt đỏ. Mỏ nhọn màu vàng nhạt, mào là một cục thịt rộng màu trắng ngà, hơi nhô lên. Lông ở lưng và bụng màu xám, đuôi màu thẫm hơn. Đôi cánh ngắn phớt tím. Chân cao màu lục xám nhạt, có 4 ngón, 2 ngón giữa có 3 đốt, 2 ngón bên có 2 đốt; các ngón đều có màng mỏng khá rộng.
 
V

vitconxauxi_vodoi

4_28_1305526780_66_20110513125904_ImageHandler_002.jpg


Tiếp nào :x
 
S

sj_oppa

Đứng đầu trong danh sách loài động vật thông minh nhất là một loài khỉ lớn: hắc tinh tinh. Khả năng trí tuệ đầy ấn tượng của chúng từ lâu đã thu hút được sự quan tâm của con người.

Chúng có khả năng chế tạo và sử dụng các công cụ, đi săn theo bầy đàn và có khả năng giải quyết một số vấn đề phức tạp. Chúng cũng có thể học ngôn ngữ ký hiệu để giao tiếp với con người và dựa vào đó, chúng có thể nhớ tên người trong suốt nhiều năm trôi qua dù không gặp họ.

Nhưng có lẽ khả năng tuyệt vời nhất của tinh tinh là sử dụng biểu tượng cho các đối tượng và kết hợp các ký hiệu theo thứ tự để truyền đạt một ý tưởng phức tạp.
 
A

abcdey

Có phải đây là con chim đầu rìu mỏ dài phải không anh
Đây là loài chim có cỡ trung bình với mỏ rấ dài, mảnh và cong dần xuống. Lưỡi ngắn. Chân ngắn. Chim có tập tính sống thành đôi hay đàn nhỏ khỏang 5-7 con. Làm tổ trong hốc cây hay ghẽ đá. Trung bình đẻ từ 3-5 trứng, nở từ 3-4 con.Ở TP.HCM, laòi này hiếm thấy trong các tiệm bán chim cảnh, thỉnh thỏang có người bán dạo tên đường phố với tên gọi là chim Gõ Kiến. Thực ra chúng thích ăn kiến và trứng kiến nhưng long phải là chim Gõ Kiến mà thuộc họ Đầu rìu (Upupidae). Tên đúng của nó làm chim Đầu rìu hay chính xác hơn là Đầu rìu mỏ dài. Tên Anh là Hoopoe và tên khoa học là Upupa epos.
Khi trưởng thành, chim trống và chim mái giống nhau về kích thước cũng như màu long.
Hai bên đầu hung nhạt hơi phớt hồng. Trên đầu, từ trán đến gáy có màu lông dài. Có thể dựng lên hay xẹp xuống tùy ý. Có lẽ vì vậy mà chim mang biệt danh là chim Đầu rìu. Màu long hung hơi thẫm, mỗi lông đề có phần mút đen.. Lưng trên, vai, mép cámh và lông bao cánh nhỏ nâu nhạt, hơi phớt hung. Một dải đen chạy từ vai qua phần đuôi lưng, xen kẻ dải trắng hơi hung. Cánh tròn có 10 lông cánh sơ cấp. Lông bao cánh lớn đen ó mút trắng. Lông cánh sơ cấp đen với một dải trắng ở gần mút. Lông cánh thứ cấp đen với 4 dải trắng. Lông cánh thứ cấp đen có dải trắng và dải hung xếp nghiêng. Hông trắng. Chim có 10 lông đuôi. Trên đuôi đen. Đuôi đen có ánh lục, giữa đuôi có dải trắng rộng. Cằm, họng và ngực hung nhạt hơi nâu. Bụng sau và sườn trắng có vạch đen rộng ở phiến lông ngoài . Dưới đuôi trắng. Mắt nâu hay nâu đỏ. Mỏ đen, gốc mỏ xám hồng, chân xám.
Kích thước: cánh 126-152; đuôi 100-110; giò 20-22; mỏ 42-66 mm.
Phân bố: Myanma, Thái Lan, Nam Trung Quốc, Malaysia. Ở nước ta, lòai này có hầu hết các vùng từ Bắc vào Nam.
Thức ăn: trong tự nhiên, Đầu rìu thích sục xạo trong đám lá cây rụng, trong bọng cây, trong thân cây mục……. tìm ăn côn trùng nhỏ, ấu trùng của côn trùng. Ở lồng nuôi chúng cũng nhanh chóng thích nghi thức ăn chế biến ( bột chế biến, cám viên gà con…). Tuy nhiên, để bộ lông ư sáng cần bổ sung thức ăn tươi sống như cào cào, trứng kiến, sâu tươi… một lượng ít nhiều tùy giai đọan phát triển của chúng.
Chăm sóc: cần choc him tắm nắng mỗi ngày hay cách nhật. Mỗi tuần choc him tắm nước một lần. Nếu rảnh rỏi, có thể cho tắm 2-3 lần/ tuần.
Lồng nuôi: có thể bằng tre hay kim loại với kích cỡ như lồng nuôi chích chòe than là phù hợp( đường kính đáy 33 cm, cao 42 cm, 52 nan).
Nên nuôi từ chim con, chim càng nhò càng nuôi khó, nhưng sau này chúng càng khôn, mến hủ quấn quýt không rời.
 
Last edited by a moderator:
H

happy.swan

Chim chích bông.
Các loài chích bông sinh sống trong khu vực nhiệt đới Cựu thế giới, chủ yếu tại châu Á.

Các loài chim chích này thông thường có màu sáng, với phần trên có màu xanh lục hay xám và phần dưới màu trắng, vàng hay xám. Phần đầu của chúng thông thường có màu hạt dẻ.

Chích bông có các cánh ngắn và thuôn tròn, đuôi ngắn, chân khỏe, mỏ dài và cong. Đuôi thường dựng đứng, như ở hồng tước. Nói chung người ta hay bắt gặp chúng ở các đồng rừng thưa, các trảng cây bụi và các khu vườn.

Chích bông có kiểu làm tổ đặc biệt. Các phần rìa của các lá to bị chúng mổ thủng và khâu lại với nhau bằng các sợi tơ thực vật hay tơ nhện để làm nôi và trong đó chúng làm tổ từ cỏ.
 
A

abcdey

Chim sâu hay còn gọi là chích bông thuộc họ Chim sâu (danh pháp khoa học: Dicaeidae) là một họ trong bộ Sẻ (Passeriformes). Họ này bao gồm 2 chi là Prionochilus và Dicaeum, với tổng cộng 44-48 loài. Họ này đôi khi cũng được gộp vào trong họ mở rộng là họ Hút mật (Nectariniidae). Các loài chim của họ Melanocharitidae và họ Paramythiidae, từng có thời được gộp trong họ này. Các loài chim trong họ được tìm thấy ở vùng nhiệt đới miền nam châu Á và Australasia, từ Ấn Độ kéo dài về phía đông tới Philippines và phía nam tới Australia. Họ này là phổ biến trong các môi trường sống ưa thích của chúng, chiếm một khoảng rộng môi trường, từ các môi trường ở sát mực nước biển tới các khu vực miền núi. Một vài loài, như chim tầm gửi của Australia, được ghi nhận như là loài chim sống du cư trên các khu vực thuộc khoảng phân bố của chúng[1].

Đầu lưỡi có dạng lông chim ở nhiều loài, như ở Dicaeum nigrilore[2]
Có ít sự biến đổi giữa các loài trong họ. Chim sâu là các loài chim mập mạp, với cổ và chân ngắn. Các loài chim nhỏ này có kích thước từ 10–18 cm, 5,7- 12 gam (từ nhỏ như ở chim sâu lùn tới lớn như ở chim sâu đốm). Các loài chim sâu có đuôi ngắn, mỏ ngắn, cong và dầy cùng chiếc lưỡi hình ống. Đặc trưng cuối cùng phản ánh tầm quan trọng của mật hoa trong khẩu phần ăn của nhiều loài. Chúng cũng có hệ tiêu hóa đã tiến hóa để thích nghi với việc tiêu hóa có hiệu quả các loại quả mọng của tầm gửi[1]. Chúng thường có màu lông xỉn màu, mặc dù ở một vài loài thì chim trống có bộ lông màu đỏ tươi hay đen bóng.
Mật hoa tạo thành một phần của khẩu phần ăn, mặc dù chúng cũng ăn quả mọng, nhện và sâu bọ[3]. Quả của 21 loài tầm gửi trong 12 chi cũng được tìm thấy như là một phần thức ăn của chim sâu, và người ta cho rằng tất cả các loài chim sâu có sự thích nghi trong việc ăn các loại quả mọng này và thải hạt của chúng rất nhanh. Chim sâu có thể xuất hiện trong các bầy kiếm ăn hỗn hợp loài với chim hút mật và vành khuyên, cũng như với các loài chim sâu khác.
Người ta còn biết rất ít về cơ sở sinh học trong sinh sản của chim sâu[1]. Ở các loài có sự thu thập dữ liệu thì chúng dường như tạo thành các cặp một vợ một chồng để sinh sản, nhưng sự phân chia lao động thì có thay đổi; ở chim sâu ngực đỏ cả hai bố mẹ đều tham gia vào việc xây tổ, ấp trứng và chăm sóc nuôi dưỡng chim con, nhưng ở Mistletoebird thì chỉ một mình chim mái đảm nhận hai công việc đầu tiên. Chim sâu đẻ 1-4 trứng, thường trong tổ hình bọng làm từ các loại sợi thực vật, treo lơ lửng trên các cây nhỏ hay cây bụi. Thời gian ấp trứng đã ghi nhận có rất ít, nhưng nằm trong khoảng 10-12 ngày, với chim con đủ lông đủ cánh sau 15 ngày.
Phần lớn các loài chim sâu là nhanh nhẹn trong môi trường sống của chúng và không bị đe dọa bởi các hoạt động của con người[1]. Năm loài được IUCN coi là gần bị đe dọa, 2 loài được liệt kê là dễ thương tổn và một loài, chim sâu Cebu, được liệt kê là cực kỳ nguy cấp. Sự mất môi trường sống là nguyên nhân chính gây ra sự suy giảm của các loài này
 
0

0872

Con này là rùa đầu to
Thông tin:

Rùa đầu to (danh pháp hai phần: Platysternon megacephalum) là một loài động vật phân bố tại các vùng núi cao tại một số nước Đông Nam Á như Việt Nam, Lào, Thái Lan, Myanma, Campuchia và ở Trung Quốc. Đây là loài duy nhất trong họ Platysternidae thuộc bộ Rùa Testudines. Đặc điểm nhận dạng của rùa đầu to là chúng có đuôi rất dài (bằng chiều dài thân), đầu (được phủ bởi các mảnh sừng rất cứng) không thụt vào mai được, hàm trên tạo thành móc (chính vì thế nên chúng còn được gọi là rùa mỏ vẹt), xương sọ đặc và dày. Rùa đầu to sống ở ven suối trong rừng, nơi nước trong và chảy chậm. Ban ngày chúng ẩn dưới các tảng đá hoặc phơi nắng trên bờ suối, chúng đi tìm mồi lúc sẩm tối hoặc ban đêm. Thức ăn của chúng là động vật không xương sống, các loài thân mềm hoặc động vật giáp xác nhỏ. Khi trưởng thành rùa có thể đạt kích thước mai khoảng 20 cm
Ở Việt Nam, rùa đầu to nằm trong danh mục bò sát của Vườn Quốc Gia Hoàng Liên,Vườn quốc gia Ba Bể, Khu bảo tồn Tây Yên Tử, Vườn Quốc Gia Phong Nha- Kẻ Bàng, Vườn Quốc Gia Tam Đảo và phân bố ở cả khu vực Miền Trung (Quảng Trị), Tây Nguyên. Hiện nay số lượng loài này đang suy giảm nghiêm trọng do diên tích rừng nguyên sinh mất dần (rất hiếm gặp chúng trong các khu rừng thứ sinh) và đặc biệt là do tình trạng săn bắt quá mức để mua bán trao đổi với nước ngoài. Ngay cả nỗ lực bảo tồn và sinh sản loài này của Chương trình bảo tồn rùa ở Vườn Quốc Gia Cúc Phương cũng gặp khó khăn. Rùa đầu to có tên trong Sách đỏ động vật Việt Nam, với mức độ đe dọa hạng R.
 
A

abcdey

còn nữa bạn à
Rùa đầu to có đặc điểm:
Rùa cỡ trung bình nhỏ. Đầu to, không thụt vào trong mai được. ở bên đầu có một vệt vàng nhạt chạy từ mắt tới cổ. Mỏ to, giống như mỏ chim vẹt. Mai rất dẹp, màu xám. Bụng màu vàng rất nhạt.
Rùa sống ở các suối trong rừng, có nhiều đá tảng, nước sâu, trong và có dòng chảy chậm. Ban ngày chúng ẩn dưới các tảng đá hoặc phơi nắng bên bờ suối. Rùa kiếm ăn vào lúc xẩm tối hoặc ban đêm. Thức ăn chủ yếu là cá nhỏ, thân mềm, cua, giun đất và những động vật không Phân bố:
Trong nước: Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Lai Châu, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Sơn La, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, Kontum, Gia Lai.
Thế giới: Trung Quốc, Mianma, Thái Lan, Lào, Cămpuchia sống khác. Rùa đẻ 2 trứng vào mùa hè.

____________________________________________________________________________________-

BÔI ĐEN CHỖ NÀY------->THẰNG NGU NÀO VỪA BÔI ĐEN CHỖ NÀY=))=))=))=))=))=))=))=))=))=))=D>=D>=D>=D><:p<:p<:p<:p<:p:cool::cool::cool::cool::cool:
 
Last edited by a moderator:
K

key_bimat

Tiếp nào :D
Câu này cực dễ lun ;))
images

Dạo này mọi người ít khi post câu hỏi và trả lời nhỉ :(
 
S

sj_oppa

Họ Voi (danh pháp khoa học: Elephantidae) là một họ của các động vật da dày, và là họ duy nhất còn tồn tại thuộc về bộ có vòi (hay bộ mũi dài, danh pháp khoa học: Proboscidea). Họ Voi hiện có ba loài còn tồn tại là: voi bụi rậm châu Phi và voi rừng châu Phi (có thể được hiểu chung là voi châu Phi) và voi châu Á (ngày trước được hiểu như là voi Ấn Độ). Chúng phân bố ở châu Phi, Ấn Độ và vùng Tây Nam Á. Có một loài nữa là voi ma mút cũng được biết đến nhưng đã bị tuyệt chủng ở thời kỳ băng hà cách đây chừng 10.000 năm.
Voi là động vật có vú lớn nhất còn sinh sống trên mặt đất ngày nay. Con voi nặng nhất được công nhận là con voi bị bắn hạ tại Angola năm 1974. Nó là một con voi đực, nặng 12.000 kg (26.400 pao). Các loài voi nhỏ nhất, với kích thước chỉ cỡ con bê hay con lợn lớn, là các loài voi tiền sử đã sinh sống trên đảo Crete cho tới khoảng năm 5000 TCN, và có thể là tới những năm khoảng 3000 TCN. Các hộp sọ còn sót lại, nằm rải rác của chúng, với lỗ vòi lớn duy nhất đặc trưng ở phía trước, có lẽ là cơ sở của niềm tin về sự tồn tại của những người khổng lồ một mắt (cyclops) trong Odyssey của Homer.
Các nghiên cứu gần đây về các di tích động vật tại miền trung Trung Quốc cho thấy người tiền sử ăn thịt voi. Voi hiện nay là động vật được bảo vệ, và việc nuôi nhốt như là động vật cảnh bị cấm trên toàn thế giới.
 
K

key_bimat

Câu tiếp theo : ( Mọi người khi trả lời nhớ ra câu hỏi để bạn khác trả lời tiếp nhé :D )
images
 
L

l0v3_sweet_381

Câu tiếp theo : ( Mọi người khi trả lời nhớ ra câu hỏi để bạn khác trả lời tiếp nhé :D )
images

Ngựa vằn
_____________
Ngựa vằn là những loài thuộc phân chi Hippotigris và Dolichohippus, nổi bật với những vằn trắng và đen xen kẽ. Chúng là loài động vật sống theo bầy đàn. Không giống như các loài có quan hệ gần gũi như ngựa và lừa, ngựa vằn không được thuần hóa.
__________________
Tiếp :
images
 
T

thienlong233

con này là con rắn, màu xanh ~~~> rắn xanh :D đúng ko e????
_______________________________________________
 
H

harrybotter5

lâu rồi không vào box

vào để khuấy động box giùm chị Nhi ;))

4_28_1288412104_64_images2059633_anh5.jpg


con gì đây ;))
 
S

sj_oppa

Bưng sọc tenrec*
Tenrecs mưa đá từ Madagascar, nhà để một số các loài kỳ quặc - bao gồm cả Aye Aye và Lemur. Tua tủa lông và mạnh dạn nghỉ ngơi trong các sọc màu vàng và nâu, sinh vật này sẽ tấn công sẽ là những kẻ tấn công, mục đích để lái xe về nhà barbs gây chết người có thể tháo rời vòng quanh cổ

( *) Tenrec là một chi động vật có vú trong họ Tenrecidae, bộ Afrosoricida.
.
 
Status
Không mở trả lời sau này.
Top Bottom