Sinh [Sinh 11] Game về động vật

Status
Không mở trả lời sau này.
T

thaonhib4


Thông báo:


Ai có nguyện vọng tuyển mod của box sinh thì tham gia nhé. Mong sẽ sớm được hợp tác với mọi người. Chúc thành công!

_Thân ái! thaonhib4_



:TUYỂN MOD CHO BOX SINH HỌC :
khi%20%2886%29.gif
khi%20%2886%29.gif
khi%20%2886%29.gif
:​
~~> Nhanh tay đăng kí và tham gia để trở thành 1 mod sinh nào..!
:M038::M038::M038::M038::​
 
Last edited by a moderator:
G

giang_224



đây là loài bướm attacus (còn gọi là bướm Atlas hay bướm khế)Loài bướm này được đặt tên là Atlas vì những đường vân ngang dọc nhiều màu sắc trên cánh của chúng gợi nhớ đến những vạch trên bản đồ.

Ở Trung Quốc, chúng được gọi là “bướm đầu rắn” cũng vì những hoa văn trên cánh giống như da rắn.

Các nhà khoa học cho biết các đường vân này dùng để dọa những loài thiên địch nguy hại.

Bướm Atlas được tìm thấy ở những khu rừng nhiệt đới và cận nhiệt ở Đông Nam Á và cũng khá phổ biến ở khu vực quần đảo Malaysia.

Để đạt kích thước sải cánh từ 25cm trở lên, một con nhộng phải mất thời gian khoảng 6 tuần.

Nhưng loài bướm này chỉ sống được khoảng hai tuần. Chúng không có miệng hoàn chỉnh mà chỉ sống nhờ vào chất béo mà chúng tích lũy được khi còn là nhộng.

Chúng là những loài sinh vật có quỹ đạo bay không mấy đẹp mắt và cũng chẳng bay xa. Mục tiêu của chúng khi lột xác trở thành bướm đó là để duy trì nòi giống.:D
 
L

l0v3_sweet_381

Rùa tai đỏ (Trachemys scripta elegans) là loài động vật thuộc bộ rùa (Testudinata), lớp bò sát (Reptilia), phân bố tự nhiên ở các vùng nước nội địa Bắc Mỹ. Đây là loài rùa cỡ nhỏ (chiều dài của mai rùa chỉ đạt khoảng 20-25cm), ở vùng lưng, cổ của loài rùa này thường hay có mảng đỏ, trên mai rùa có những sọc vàng cam.

Do có vẻ đẹp hình thái và khả năng thích ứng cao (rất dễ nuôi) nên rùa tai đỏ được bán để nuôi làm vật cảnh. Ở nước ta, loài rùa tai đỏ đã có mặt hơn 10 năm nay và được bán làm vật nuôi cảnh, nhiều nhất là ở Hà Nội và TP.HCM. Tuy nhiên, cho đến thời điểm này vẫn chưa thấy có văn bản chính thức của cơ quan chức năng cho phép nhập và nuôi loài rùa này.

Khả năng thích nghi cao, đặc biệt là với điều kiện khí hậu ấm áp, nhiều ao hồ, đầm lầy, sông suối như ở nước ta, nếu để rùa tai đỏ thoát vào thiên nhiên thì chúng sẽ nhanh chóng phát triển và hình thành quần thể theo hướng tự nhiên hóa. Khi đó chúng sẽ đe dọa các loài bản địa. Chưa kể một số nghiên cứu còn cho thấy loài này có thể mang vi khuẩn Salmonella, khi nhiễm vào thức ăn sẽ gây độc hại cho con người.

Lo ngại về khả năng xâm hại của loài rùa tai đỏ này đối với loài bản địa, Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN) đã liệt kê loài này trong danh sách 206 loài xâm hại toàn cầu và 100 loài xâm hại nguy hiểm nhất thế giới. Do vậy nên hết sức cẩn trọng với rùa tai đỏ. Không nên nuôi thương phẩm để tránh xảy ra những tai họa như với ốc bươu vàng.
 
L

l0v3_sweet_381

TRÂU NƯỚC LÙN :D

_______________

Được tìm thấy tại Philippines, trước đây bi đe dọa tuyệt chủng vào năm 2000, và bây giờ chỉ còn lại từ 30 đến 200 con.
 
V

vitconxauxi_vodoi

Trâu nước lùn Mindoro: Được tìm thấy trên đảo Mindoro của Philippines, chúng từng sinh sống ở nhiều nơi trên hành tinh. Giờ đây trâu nước lùn chỉ xuất hiện trong một khu vực có diện tích khoảng 300 km vuông. Mối đe dọa lớn nhất đối với chúng là sự bành trướng của các nông trại - nhân tố khiến môi trường sống của chúng bị thu hẹp.
Tiếp tiếp nào cả nhà:x
ff443239-a559-4480-863a-5fcd6e83bff1.jpg
 
S

sj_oppa

Chim cú lợn khoang hay còn được gọi là Cú lợn khoang lớn (tên khoa học: Tyto tenebricosa) là một loài chim ăn thịt thuộc họ Cú lợn, bộ Cú mèo, được tìm thấy tại những khu vực phía Đông Nam Australia, vùng núi rừng nhiệt đới New Guinea và đảo Flinder trong eo biển Bass.

Đặc điểm hình thái:
Loài cú lợn này trên đầu và rải rác trên hai cánh có những đốm lông nhỏ màu trắng mịn. Chim mái thường sáng màu hơn chim trống. Chiều dài chim mái vào khoảng 37-43 cm, trọng lượng chừng 750-1000 gram. Chim trống nhỏ hơn một chút với chiều dài từ 37-43 cm, trọng lượng trung bình 500-750 cm. Chiều dài của cánh trung bình của chúng từ 30-40 cm. Chúng có một đôi mắt đen rất lớn trên một khuôn mặt hình đĩa tròn. Đĩa mặt thường có màu xám sậm hoặc đen, có thể có cạnh trắng. Phần thân trên của chúng có màu đen hoặc màu xám sậm còn phần thân dưới nhạt màu hơn. Đuôi ngắn và chân to khỏe, màu đen.

Khu vực phân bố:
Loài chim này chủ yếu phân bố tại những khu vực phía Đông Nam Australia, vùng núi rừng nhiệt đới New Guinea và đảo Flinder trong eo biển Bass.
Chế độ dinh dưỡng:
Loài chim này săn bắt và ăn thịt nhiều loài động vật có vú khác nhau, từ những con thú có túi lớn cho đến những loài gặm nhấm, những loài động vật sinh sống trên cây. Đôi khi chúng cũng có thể ăn cả các loài côn trùng và các loài chim nhỏ hơn.

Mô tả chi tiết:
Chim cú lợn khoang có một tiếng kêu khá đặc biệt, giống như một tiếng thét xuyên vào trong không gian và có thể kéo dài đến hai giây. Chúng là loài chim săn mồi vào ban đêm và thường ẩn mình trong những thân cây rỗng, trong các hang động hoặc những tán cây cao, dày rậm vào ban ngày. Loài chim này cũng không phân biệt lãnh thổ và thường được tìm thấy trong những khu rừng bạch đàn, rừng cây cao su, các khu rừng cây dương xỉ và cây ăn quả... Chúng thường đi săn trong những khu vực khô nhưng lại ngủ và sinh sản trong những khu vực ẩm ướt.

Loài chim này thường sinh sống định cư trong một khu vực đã chọn trong suốt cuộc đời của mình. Chúng làm tổ trong những thân cây rỗng lớn hoặc trong những hang động. Chim mái thường ở lại trong tổ một vài tuần trước khi sinh ra một hoặc hai quả trứng màu trắng. Thời gian sinh sản của chúng thường là từ tháng Giêng cho tới tháng Sáu. Thời gian ấp trứng thường là 42 ngày. Những con chim trống sẽ cung cấp thức ăn cho chim mái trong suốt quá trình nằm tổ và ấp trứng vì chim mái rất ít khi rời tổ trong khoảng thời gian đó. Chim non được sinh ra có màu xám và có thể bay được sau ba tháng, tuy nhiên chúng thường ít khi rời khỏi tổ và được chim bố mẹ chăm sóc trong vòng một năm.
 
K

key_bimat

Chim Cú Lợn Khoang phải ko nhỉ :D
Chim cú lợn khoang hay còn được gọi là Cú lợn khoang lớn (tên khoa học: Tyto tenebricosa) là một loài chim ăn thịt thuộc họ Cú lợn, bộ Cú mèo, được tìm thấy tại những khu vực phía Đông Nam Australia, vùng núi rừng nhiệt đới New Guinea và đảo Flinder trong eo biển Bass.
Đặc điểm hình thái:
Loài cú lợn này trên đầu và rải rác trên hai cánh có những đốm lông nhỏ màu trắng mịn. Chim mái thường sáng màu hơn chim trống. Chiều dài chim mái vào khoảng 37-43 cm, trọng lượng chừng 750-1000 gram. Chim trống nhỏ hơn một chút với chiều dài từ 37-43 cm, trọng lượng trung bình 500-750 cm. Chiều dài của cánh trung bình của chúng từ 30-40 cm. Chúng có một đôi mắt đen rất lớn trên một khuôn mặt hình đĩa tròn. Đĩa mặt thường có màu xám sậm hoặc đen, có thể có cạnh trắng. Phần thân trên của chúng có màu đen hoặc màu xám sậm còn phần thân dưới nhạt màu hơn. Đuôi ngắn và chân to khỏe, màu đen.
Khu vực phân bố:
Loài chim này chủ yếu phân bố tại những khu vực phía Đông Nam Australia, vùng núi rừng nhiệt đới New Guinea và đảo Flinder trong eo biển Bass.
Chế độ dinh dưỡng:
Loài chim này săn bắt và ăn thịt nhiều loài động vật có vú khác nhau, từ những con thú có túi lớn cho đến những loài gặm nhấm, những loài động vật sinh sống trên cây. Đôi khi chúng cũng có thể ăn cả các loài côn trùng và các loài chim nhỏ hơn.
Mô tả chi tiết:
Chim cú lợn khoang có một tiếng kêu khá đặc biệt, giống như một tiếng thét xuyên vào trong không gian và có thể kéo dài đến hai giây. Chúng là loài chim săn mồi vào ban đêm và thường ẩn mình trong những thân cây rỗng, trong các hang động hoặc những tán cây cao, dày rậm vào ban ngày. Loài chim này cũng không phân biệt lãnh thổ và thường được tìm thấy trong những khu rừng bạch đàn, rừng cây cao su, các khu rừng cây dương xỉ và cây ăn quả... Chúng thường đi săn trong những khu vực khô nhưng lại ngủ và sinh sản trong những khu vực ẩm ướt.
Loài chim này thường sinh sống định cư trong một khu vực đã chọn trong suốt cuộc đời của mình. Chúng làm tổ trong những thân cây rỗng lớn hoặc trong những hang động. Chim mái thường ở lại trong tổ một vài tuần trước khi sinh ra một hoặc hai quả trứng màu trắng. Thời gian sinh sản của chúng thường là từ tháng Giêng cho tới tháng Sáu. Thời gian ấp trứng thường là 42 ngày. Những con chim trống sẽ cung cấp thức ăn cho chim mái trong suốt quá trình nằm tổ và ấp trứng vì chim mái rất ít khi rời tổ trong khoảng thời gian đó. Chim non được sinh ra có màu xám và có thể bay được sau ba tháng, tuy nhiên chúng thường ít khi rời khỏi tổ và được chim bố mẹ chăm sóc trong vòng một năm.
Câu tiếp theo
b902b2f0-5f95-46e8-996e-6b71e5af3578.jpg
 
A

abcdey

Đây là con chin khướu ý mà
Khướu (Timaliidae) họ chim, thuộc bộ Sẻ (Passeriformes) gồm các loài chim rất đa dạng, có cỡ trung bình, một số loài khướu cỡ nhỏ. Bộ lông khướu mềm, dày, xốp, thường có màu xỉn, cánh tròn, chân khỏe và cao, thích nghi với việc di chuyển trên mặt đất và trên các cành cây, có tiếng hót vang và hay.

Phần lớn khướu sống thành đàn nhỏ, trong các tầng cây bụi hay dưới tán rừng, chủ yếu sống định cư.
Tổ hình chén hoặc tổ có mái che. Phần lớn các loài khướu, con trống và con mái có bộ lông và vóc dáng giống nhau.



I. Các loài khướu:
Trên thế giới có 254 loài khướu. Việt Nam có 95 loài, được xếp vào loài đặc hữu Việt Nam, phân bố ở các tỉnh miền Trung Việt Nam (như Quảng Bình, Quảng Trị), nam Trung bộ và đặc biệt ở Lâm Đồng. Khướu mun (tên khoa học là Garrulax chinensis lugens) được nuôi làm cảnh từ những năm 1994-1995 nhưng là vì chim rừng, nên khó nuôi. Chim khướu chọn nuôi đá nhau là chim khướu bạc má (có tên khoa học là Garrulax chinensis), khác với khướu đầu trắng (Garrulax lexcholophus).
Ở vùng Kỳ Anh (Hà Tĩnh), A Lưới núi Bạch Mã (Thừa Thiên-Huế) có loài khướu gọi là khướu mỏ dài, tên khoa học là Jabouilleia danjoui, đây là loài chim đặc hữu quý của Việt Nam vừa có giá trị khoa học vừa có giá trị thẩm mỹ. Chim khướu này khi trưởng thành có mỏ dài, không cong, đuôi ngắn, bộ lông nâu hung vàng. Cằm, họng và giữa bụng trắng nhạt, sống định cư ở rừng độ cao 1000m.
Ngoài ra, còn có 2 loài chim khướu có giá trị nữa trong 95 loài khướu ở Việt Nam là khướu mỏ dẹt đuôi ngắn và khướu xám.
Khướu mỏ dẹt đuôi ngắn: Tên khoa học là Paradoxomus davidianus tonkinensis, cũng là họ Timaliidae, bộ sẻ Passeriformes. Chim này có đầu hung nâu tươi, đuôi nâu thẫm, cánh viền màu hung tươi, mắt hung nâu, chân xám hồng. Chúng sống ở các bụi tre nứa trên các vùng đồi có độ cao 600-1000m, có rất nhiều ở Bắc Cạn.
Khướu xám: Tên khoa học là Garrulax maesi, đây là loài chim khi trưởng thành, phần lông trước mắt dưới mắt, má và cằm cùng dãy lông mày có màu đen nhạt. Hai bên đầu có vệt trắng rộng chạy từ phía sau mắt đến cổ; tai xám nhạt; bụng và ngực phớt nâu. Mắt nâu hoặc đỏ. Chân xám đen.
Khước xám sống ở rừng rậm thường xanh nguyên sinh, thứ sinh và rừng khai thác. Người ta gặp chúng ở khu vực Lài Cao, Yên Bái, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Phú Thọ, Vĩnh Phúc… ở độ cao 1600m. Đây là loại chim hiếm, quý.

Vùng phân bố và đặc điểm màu sắc.

Trên thế giới, lòai chim khướu tập trung thành từng nhóm nhỏ, sống trong đám rừng tre hoặc trong những bụi cây rậm rạp. Tập trung ở miền nam Trung Quốc, phía tây tỉnh Vân Nam và khắp Đông Dương.
Khướu được nuôi và biết nhiều nhất là khướu bạc má Garrulax chinensis, khướu mun Garrulax chinensis lugens và khướu đầu trắng Garrulax lexcholophus. Khướu đầu trắng còn có tên gọi khác là bù chao, hoặc gọi đầy đủ là bù chao đầu bạc. Khướu đầu trắng hót không hay bằng hai con trước, nhưng bù lại chúng có thể bắt chước, nhại lại giọng húyt sáo của con người nên nuôi chúng rất vui cửa vui nhà.
Tại Việt Nam, chim khướu có mặt khắp nơi từ bắc miền Nam đến sát biên giới phía Bắc Việt Nam. Rất hiếm gặp tại tuyến rừng Bù Đăng – Bù Đốp đổ ra. Khướu có giọng hót rất lớn, rền và vang xa, đồng thời cũng có thể bắt chước được một số giọng hót đa dạng khác nên chúng cũng được gọi là khướu bách thanh.
Màu sắc của chúng tùy theo từng địa phương:
-Khướu đen tòan thân có màu đen, sống các vùng ven thuộc Quảng Trị, Quảng Bình. trở ra.
-Từ Quảng Trị, Quảng Bình trở ra, khướu có màu xám tro.
-Miền Trung, khướu có màu xám xanh đậm.
-Khu vực Đèo Chuối (Bảo Lộc) có màu xám xanh.
-Từ Bù Na trở ra, khướu có màu lông vàng nâu.
Khướu mun: Tòan thân có màu xám đen, màu tối nhưng nhìn sạch sẽ vì bộ lông óng mượt. Trên đầu lớt phớt vài cọng lông trắng, dưới hầu đen mun, chân đen, mỏ đen, ức cũng có vệt màu đen lan xuống lồng ngực. Chú ý con khướu đen nào có vệt đen nào càng dài càng quí.
Khướu bạc má: tòan thân có màu hung hung đỏ, hai bên má có đốm trắng bằng móng tay. Là lọai khướu có giọng hót hay và đa dạng nhất, thông minh nhất trong các lọai chim khướu. Từ “khướu bách thanh” là dùng chỉ khướu bạc má. Khướu bạc má có thể bắt chước rất nhiều giọng, giọng hót dài, đa âm đa sắc. Đặc biệt là khướu bạc má sống tại vùng Blao và Lâm Đồng.
 
V

vitconxauxi_vodoi

Khướu đầu trắng hay còn gọi là Khướu mào trắng, chim Bồ chao hoặc Bạch đầu ông (tên khoa học: Garrulax leucolophus) là một loài chim trong họ Họa mi (Timaliidae). Đây là loài chim đặc hữu quý của Việt Nam, vừa có giá trị khoa học vừa có giá trị thẩm mỹ. Môi trường sống tự nhiên của Khướu đầu trắng là những vùng miền núi cao ẩm ướt, các vùng cây bụi, đồng cỏ và đồn điền có độ cao lớn với khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới. Chúng chủ yếu sinh sống ở những vùng rừng có độ cao trên 1000m. Phần lớn khướu Đầu trắng sống thành đàn nhỏ, trong các tầng cây bụi hay dưới tán rừng,hoặc ngay ở các trang trại cà phê đã trồng lâu năm, chủ yếu sống định cư. Tổ hình chén hoặc tồ có mái che. Phần lớn các loài khướu, con trống và con mái có bộ lông và vóc dáng giống nhau. Chúng ăn các loại côn trùng, cào cào, ếch nhái và cả các loại trái cây đã chín. Mùa sinh sản vào khoảng từ tháng 3 đến tháng 9 trong năm.
Đặc điểm hình thái:
Chim khướu này khi trưởng thành có mỏ dài thẳng màu đen, đuôi ngắn, bộ lông màu nâu hung vàng. Bộ lông Khướu đầu trắng mềm, dày, xốp, thường có màu nâu nhạt, phần lưng màu nâu đỏ, trên đầu có cái mào trắng muốt, ngực và bụng cũng có màu trắng,hai bên mắt có vệt đen kéo dài, cánh tròn, chân khỏe và cao, thích nghi với việc di chuyển trên mặt đất và trên các cành cây. Loài chim này có tiếng hót vang nhưng không trong và ồn ào, giọng hót không hay lắm. Tuy nhiên chúng lại là loài rất hay hót!
Khu vực phân bố:
Loài chim này là loài đặc hữu, chỉ được tìm thấy tại Việt Nam.
Chế độ dinh dưỡng:
Trong tự nhiên chim khướu đầu trắng ăn các loại côn trùng, cào cào, ếch nhái và cả các loại trái cây rừng đã chín.
 
B

be_mum_mim

Chim cắt.
Chim cắt có tên thường gọi là chim diều hoặc chim ó (biến thể gọi là đại bàng, chim ưng), tên khoa học là Falconidae.
 
V

vitconxauxi_vodoi

Chim cắt còn có tên gọi khác là chim ưng, đại bàng, tên khoa học là Falconidae, là “tay săn mồi” hết sức độc đáo trong tự nhiên. Một khi con mồi xấu số nằm trong tầm ngắm, với thị lực sắc bén cùng tốc độ “phóng lao” từ trên không đạt vận tốc 321km/h, chúng gần như chưa bao giờ để con mồi có khả năng thoát thân và sống sót. Người ta hay nói “nhanh như cắt” là vì thế

Tiếp nhé ;)

20120829-102648-3-ca-buom.jpeg
 
T

thien0526

Cá buồm (tên khoa học: Istiophorus) là một loài cá sống trong tất cả các đại dương trên thế giới. Chúng có màu xanh lam hay xám và có vây lưng giống như một cánh buồm thu nhỏ đặc trưng trên lưng, thông thường kéo dài trên toàn bộ phần lưng. Cá buồm là loại cá lớn nhanh, đạt tới 1,2-1,5 m trong một năm. Chúng là loại cá bơi nhanh nhất dưới biển, với vận tốc có thể lên tới 109 km/h (68 dặm Anh/h). Chúng kiếm ăn dưới bề mặt biển hoặc ở độ sâu trung bình và tìm bắt những con cá hay mực nhỏ.

Ước gì có một con =))=))=))=))
 
V

vitconxauxi_vodoi

Electric blue hap (Sciaenochromis ahli) là một loài cá thuộc họ Cichlidae. Nó được tìm thấy ở Malawi, Mozambique, and Tanzania. Môi trường sống tự nhiên của chúng là hồ nước ngọt.
Mọi người ai biết thêm gì về thông tin của chúng thì giới thiệu nhé ;)
 
S

sj_oppa

Koala, hay gấu túi, (Phascolarctos cinereus) là một loại thú có túi ăn thực vật sống tại Úc và là loài vật duy nhất hiện còn sống trong họ Phascolarctidae.
Tên khoa học của koala xuất xứ từ phaskolos trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là "túi" và arktos có nghĩa là "gấu". Chữ cinereus là chữ Latin nghĩa là "màu bạc". Chữ "koala" là tiếng thổ dân Úc nghĩa là "không uống".
Koala sống ở vùng ven biển phía đông Australia từ Adelaide đến bán đảo Cape York và một số nơi có lượng mưa đủ lớn để có rừng cây. Ở Nam Úc koala đã suýt bị tuyệt chủng vào đầu thế kỷ 20, nhưng sau đó bang Victoria đã bảo tồn chúng

Sinh sản

Koala cái trưởng thành đủ để sinh sản vào tầm 2 đến 3 tuổi, còn con đực ở độ tuổi 3 đến 4. Nếu khỏe mạnh, một koala cái có thể đẻ một con mỗi năm trong vòng 12 năm. Chu kì mang thai là 35 ngày. Rất hiếm khi có sinh đôi. Con đực và cái thường giao hợp trong khoảng từ tháng 12 đến tháng 3, tương ứng với mùa hè tại Nam Bán Cầu.
Koala mới sinh không có lông, chưa mở mắt, chưa có tai và chỉ bé bằng hạt đậu. Koala khi lọt lòng mẹ trèo lên cái túi lộn ngược của mẹ nó (có thể đóng mở theo ý muốn của koala mẹ) và bám vào một trong hai núm vú của mẹ. Koala nhỏ ở trong túi của mẹ trong khoảng 6 tháng đầu tiên, chỉ bú sữa. Trong thời gian này, nó phát triển tai, mắt và lông. Sau đó koala nhỏ sẽ bắt đầu đi ra ngoài. Khoảng 30 tuần tuổi, nó bắt đầu ăn thức ăn sệt gọi là "pap" do koala mẹ tiết ra. Koala nhỏ tiếp tục ở với mẹ khoảng 6 tháng sau, trèo trên lưng mẹ, bú sữa và ăn lá cây. Sau 12 tháng ở với mẹ, koala cái tự đi kiếm ăn ở vùng xung quanh; trong khi koala đực tiếp tục ở với mẹ tới tận 2 đến 3 tuổi.
 
Status
Không mở trả lời sau này.
Top Bottom