''Con trâu'' Con vật quen thuộc trong làng quê Việt Nam
Và hôm nay, chúng ta hãy đến với Trâu rừng Châu Phi nhé :
- Trâu châu Phi (tên tiếng Anh: African buffalo hoặc Cape buffalo (trâu Cape), danh pháp hai phần: Syncerus caffer) là một loài trâu bò lớn ở châu Phi.[2] Loài trâu này không có họ hàng gần với trâu nước hoang dã châu Á lớn hơn chút ít, tổ tiên loài vẫn còn chưa rõ ràng. Syncerus caffer caffer, trâu Cape, là phân loài điển hình và lớn nhất, sinh sống ở nam và đông châu Phi. S. c. nanus (trâu rừng rậm) là phân loài nhỏ nhất, thường sống nơi khu vực rừng rậm ở trung và tây châu Phi, trong khi S. c. brachyceros ở tây châu Phi và S. c. aequinoctialis trong xavan trung Phi. Sừng trâu trưởng thành là đặc điểm tiêu biểu của loài, cặp sừng hợp nhất tại bệ góc, tạo thành một lá chắn xương liên tiếp được gọi là một "cái bướu". Trâu được xét là một loài động vật rất dữ tợn, vì chúng húc và giết chết hơn 200 người mỗi năm. Trâu châu Phi không là tổ tiên của bò nhà và chỉ có họ hàng xa với nhiều loài trâu bò lớn khác. Do tính khí không thể đoán trước, khiến trâu châu Phi rất nguy hiểm với con người, trâu châu Phi chưa bao giờ được thuần hóa, không giống trâu nước tại châu Á. Trừ con người, trâu Cape châu Phi có vài loài săn mồi không tính đến sư tử và có khả năng phòng vệ bản thân. Là một thành viên của họ "năm loài thú săn lớn", trâu Cape là chiến lợi phẩm có nhu cầu lớn đối với hoạt động săn bắn
Mô tả :
Hộp sọ trâu châu Phi Trâu châu Phi rất cường tráng. Chiều cao bờ vai khoảng từ 1 đến 1,7 m (3,3 đến 5,6 ft) và chiều dài từ đầu đến hết thân khoảng từ 1,7 đến 3,4 m (5,6 đến 11,2 ft). So với các loài lớn khác thuộc phân họ Bovinae, trâu châu Phi có một cơ thể dài nhưng chắc nịch (chiều dài cơ thể có thể vượt qua trâu nước hoang dã, nặng hơn và cao hơn) và chân ngắn nhưng chắc nịch, kết quả trong một chiều cao khi đứng tương đối ngắn. Đuôi dài khoảng 70 đến 110 cm (28 đến 43 in). Trâu đồng cỏ nặng 500 đến 900 kg (1.100 đến 2.000 lb), con đực thường lớn hơn con cái, đạt phạm vi trọng lượng lớn hơn. Trong so sánh, trâu sống nơi rừng rậm, khoảng 250 đến 450 kg (600 đến 1.000 lb), chỉ bằng một nửa kích thước.[4][5] Đầu thấp; đỉnh đầu nằm dưới sống lưng. Các móng phía trước rộng hơn so với phía sau, đó là liên kết với sự cần thiết hỗ trợ trọng lượng của phần phía trước của cơ thể, nó nặng hơn và mạnh mẽ hơn phần lưng. Trâu đồng cỏ có bộ lông màu đen hoặc nâu sẫm tùy lứa tuổi. Trâu đực lớn có vòng tròn màu trắng xung quanh mắt. Trâu cái bộ lông có xu hướng hung đỏ hơn. Trâu rừng rậm thường có màu nâu hơi đỏ với cặp sừng cong ngược và vút nhẹ lên. Nghé con của cả hai loại có bộ lông màu đỏ. Một đặc trưng tiêu biểu của cặp sừng trâu đực châu Phi trưởng thành là sự hợp nhất bệ góc sừng, tạo nên một lá chắn xương liên tiếp được gọi là một "cái bướu". Từ góc sừng, cặp sừng phân tách hướng xuống, sau đó cong nhẹ lên trên và hướng ra ngoài. Trâu đực lớn, khoảng cách giữa hai điểm cuối cặp sừng có thể đạt trên 1 mét. Cặp sừng hình thành hoàn chỉnh khi con vật đến 5 hoặc 6 năm tuổi. Trâu cái, sừng đạt trung bình, nhỏ hơn 10-20% và bướu ít nổi bật. Sừng trâu rừng rậm có kích thước nhỏ hơn so với trâu đồng cỏ, thường đo được ít hơn 40 xentimét (16 in), hầu như không bao giờ hợp nhất.
Và hôm nay, chúng ta hãy đến với Trâu rừng Châu Phi nhé :
- Trâu châu Phi (tên tiếng Anh: African buffalo hoặc Cape buffalo (trâu Cape), danh pháp hai phần: Syncerus caffer) là một loài trâu bò lớn ở châu Phi.[2] Loài trâu này không có họ hàng gần với trâu nước hoang dã châu Á lớn hơn chút ít, tổ tiên loài vẫn còn chưa rõ ràng. Syncerus caffer caffer, trâu Cape, là phân loài điển hình và lớn nhất, sinh sống ở nam và đông châu Phi. S. c. nanus (trâu rừng rậm) là phân loài nhỏ nhất, thường sống nơi khu vực rừng rậm ở trung và tây châu Phi, trong khi S. c. brachyceros ở tây châu Phi và S. c. aequinoctialis trong xavan trung Phi. Sừng trâu trưởng thành là đặc điểm tiêu biểu của loài, cặp sừng hợp nhất tại bệ góc, tạo thành một lá chắn xương liên tiếp được gọi là một "cái bướu". Trâu được xét là một loài động vật rất dữ tợn, vì chúng húc và giết chết hơn 200 người mỗi năm. Trâu châu Phi không là tổ tiên của bò nhà và chỉ có họ hàng xa với nhiều loài trâu bò lớn khác. Do tính khí không thể đoán trước, khiến trâu châu Phi rất nguy hiểm với con người, trâu châu Phi chưa bao giờ được thuần hóa, không giống trâu nước tại châu Á. Trừ con người, trâu Cape châu Phi có vài loài săn mồi không tính đến sư tử và có khả năng phòng vệ bản thân. Là một thành viên của họ "năm loài thú săn lớn", trâu Cape là chiến lợi phẩm có nhu cầu lớn đối với hoạt động săn bắn
Mô tả :
Hộp sọ trâu châu Phi Trâu châu Phi rất cường tráng. Chiều cao bờ vai khoảng từ 1 đến 1,7 m (3,3 đến 5,6 ft) và chiều dài từ đầu đến hết thân khoảng từ 1,7 đến 3,4 m (5,6 đến 11,2 ft). So với các loài lớn khác thuộc phân họ Bovinae, trâu châu Phi có một cơ thể dài nhưng chắc nịch (chiều dài cơ thể có thể vượt qua trâu nước hoang dã, nặng hơn và cao hơn) và chân ngắn nhưng chắc nịch, kết quả trong một chiều cao khi đứng tương đối ngắn. Đuôi dài khoảng 70 đến 110 cm (28 đến 43 in). Trâu đồng cỏ nặng 500 đến 900 kg (1.100 đến 2.000 lb), con đực thường lớn hơn con cái, đạt phạm vi trọng lượng lớn hơn. Trong so sánh, trâu sống nơi rừng rậm, khoảng 250 đến 450 kg (600 đến 1.000 lb), chỉ bằng một nửa kích thước.[4][5] Đầu thấp; đỉnh đầu nằm dưới sống lưng. Các móng phía trước rộng hơn so với phía sau, đó là liên kết với sự cần thiết hỗ trợ trọng lượng của phần phía trước của cơ thể, nó nặng hơn và mạnh mẽ hơn phần lưng. Trâu đồng cỏ có bộ lông màu đen hoặc nâu sẫm tùy lứa tuổi. Trâu đực lớn có vòng tròn màu trắng xung quanh mắt. Trâu cái bộ lông có xu hướng hung đỏ hơn. Trâu rừng rậm thường có màu nâu hơi đỏ với cặp sừng cong ngược và vút nhẹ lên. Nghé con của cả hai loại có bộ lông màu đỏ. Một đặc trưng tiêu biểu của cặp sừng trâu đực châu Phi trưởng thành là sự hợp nhất bệ góc sừng, tạo nên một lá chắn xương liên tiếp được gọi là một "cái bướu". Từ góc sừng, cặp sừng phân tách hướng xuống, sau đó cong nhẹ lên trên và hướng ra ngoài. Trâu đực lớn, khoảng cách giữa hai điểm cuối cặp sừng có thể đạt trên 1 mét. Cặp sừng hình thành hoàn chỉnh khi con vật đến 5 hoặc 6 năm tuổi. Trâu cái, sừng đạt trung bình, nhỏ hơn 10-20% và bướu ít nổi bật. Sừng trâu rừng rậm có kích thước nhỏ hơn so với trâu đồng cỏ, thường đo được ít hơn 40 xentimét (16 in), hầu như không bao giờ hợp nhất.