Đọc sách trực tuyến: Quốc văn giáo khoa thư (Nguồn: e-thuvien.com)

Status
Không mở trả lời sau này.
H

hocmai.diendan

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Xin chào tất cả các bạn!

Chủ đề này được mở ra nhằm giúp các bạn có thêm thông tin tham khảo cho việc trau dồi đạo đức và nhân cách sống thông qua những câu chuyện được lấy từ quyển sách Quốc văn giáo khoa thư. Bộ sách nằm trong hệ thống sách giáo khoa bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên được đem vào sử dụng để giảng dạy theo quy chế Cải cách giáo dục của Toàn quyền Đông Dương ngày 21/12/1917.

Đây là các cuốn sách được xuất bản và tái bản nhiều lần từ năm 1923-1948, do bốn tác giả Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình phúc và Đỗ Thận biên soạn.

1279716584.nv.jpg


Bìa sách Quốc văn giáo khoa thư. Hình minh họa do Nam Sơn và Nguyễn Văn Thọ vẽ


Hy vọng rằng thông qua thông qua một phần nội dung được trích dẫn trong quyển sách Quốc văn giáo khoa thư, các bạn sẽ hiểu hơn về các bài học dạy làm người được đúc rút ra từ tri thức, trí tuệ, thuần phong mĩ tục của dân tộc Việt Nam của lớp người đi trước từ đó rút ra bài học cho chính bản thân mình.

Bất cứ mọi ý kiến, thảo luận nào khác các bạn chia sẻ TẠI ĐÂY. Chủ đề không cho phép bất cứ một trường hợp thảo luận nào ngoài nội dung trong sách.
 
1

11thanhkhoeo

QUỐC VĂN GIÁO KHOA THƯ

Sách này do NHA HỌC CHÍNH ĐÔNG PHÁP
đã giao cho các ông:
TRẦN TRỌNG KIM, NGUYỄN VĂN NGỌC,
ĐẶNG ĐÌNH PHÚC, ĐỖ THẬN

biên soạn

Vài lời thưa trước

“Quốc văn giáo khoa thư cùng cuốn Luân lý giáo khoa thư hai cuốn sách xuất bản từ những năm 30 - 40, là một trong những cuốn sách giáo khoa tiếng Việt được dạy song hành ở các trường tiểu học Việt Nam trong suốt những thập niên thuộc nửa đầu thế kỷ XX. Qua đó cho thấy sự coi trọng vấn đề luân lý, đạo đức con người của người xưa, nó không chỉ là một môn học thông thường mà là một nội dung lớn xuyên suốt quá trình phát triển trí óc và tâm hồn trẻ thơ. Nay cuốn sách được tái bản lại, tuy một số nội dung không còn phù hợp hoàn toàn với quan điểm giáo dục hiện nay song xét về mặt ý nghĩa và giá trị giáo dục thì vẫn còn, xin trân trọng giới thiệu tới các bậc phụ huynh, quý thầy cô cùng các em học sinh các cấp tìm đọc và tham khảo”.

Trên đây là “Lời giới thiệu ngắn” cuốn Quốc văn giáo khoa thư (QVGKT) Nhà xuất bản Trẻ, in tháng 03/2007, đăng trên website nhà xuất bản này.

Trước đó, ngày 01/12/2005, trong bài Tinh thần Quốc văn giáo khoa thư đăng trên website Khoa học & Đời sống, tác giả Nguyễn Quý Định cũng đã đánh giá rất cao cuốn QVGKT. Ông cho rằng “Những công trình biên soạn hiên tại, chưa có bộ sách giáo dục nào sánh kịp” và ông “ước mong sao những nhà giáo dục, mô phạm của Việt Nam đương đại nên trích những bài hay của QVGKT vào những bài tập đọc cho cấp tiểu học hiện nay”.

Mới đây, trên tạp chí Kiến thức ngày nay (số 655, ngày 20/10/2008), trong bài Đọc “Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư” nghĩ về quyển sách dạy văn cách nay hơn nữa thế kỷ, tác giả Thái Lý cũng cho rằng cuốn Quốc văn giáo khoa thư có giá trị giáo dục tốt hơn các sách giáo khoa môn Văn cấp I hiện nay và tác giả cũng cho rằng nên tuyển chọn những bài có giá trị trong đó làm bài đọc thêm trong sách giáo khoa môn Văn cấp I:

“Sau một thời gian dài ồn ã bàn luận về sách giáo khoa, cách dạy và cách học môn văn trong nhà trường phổ thông, nội dung sách giáo khoa môn văn nhìn chung đã có những tiến bộ rõ rệt. Tuy nhiên, sách giáo khoa môn văn cấp I vẫn còn kém xa quyển sách dạy văn cách nay hơn nửa thế kỷ: Quốc văn giáo khoa thư (Việt Nam Tiểu học Tùng thư xuất bản, Nhà xuất bản Trẻ tái bản năm 1995).

(…) Trong tập truyện ngắn Hương rừng Cà Mau, nhà văn Sơn Nam kể chuyện anh phái viên nhà báo Chim Trời và anh Tư Có ở cái xứ Cà Bây Ngọp khỉ ho cò gáy trong rừng U Minh tranh nhau đọc nguyên văn những bài học trong Quốc văn giáo khoa thư đã hằn sâu trong ký ức.

Anh Tư Có đã có câu nhận xét “xanh rờn” khi nói về việc bền chí học hành trong sách: Văn chương nghe như đàn Nam Xuân: Nước mềm, đá rắn, thế mà nước chảy mãi đá cũng phải mòn. Sợi dây nhỏ, cây gỗ lớn, vậy mà dây cưa[*] mãi cũng đứt. Con kiến nhỏ, cái tổ to, thế mà kiến tha lâu cũng đầy tổ. Người ta cũng vậy…

Dù có những khiếm khuyết nhất định (được soạn thảo vào thời Pháp thuộc), Quốc văn giáo khoa thư vẫn xứng đáng là vốn quý trong kho tàng văn chương và sách giáo khoa của Việt Nam. Nên chăng tuyển chọn những bài có giá trị, có ý nghĩa giáo dục nhân cách trong Quốc văn giáo khoa thư đưa vào những bài đọc thêm của môn Văn cấp I, các em học sinh cấp I ngày nay hẳn sẽ thích thú được thấy sách giáo khoa dạy ông bà ngày xưa làm người người ra sao.”
[*] Trong bản ebook Hương rừng Cà Mau do bạn Trantrakhuc cũng ghi là “cưa”, nhưng trong Quốc văn giáo khoa thư, Nxb Thanh Niên, 2000, in là “cứa”.


TỰA


Trong những thập niên đầu thế kỷ 20, bộ sách Quốc văn giáo khoa thư được Nha học chính Đông Pháp cho giảng dạy ở các trường tiểu học – tức cấp I ngày nay – trên toàn cõi Việt Nam.

Tác giả bộ sách là các ông: Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc, Đỗ Thận, những người có kiến thức thuộc hàng uyên bác ở vào thời ấy.

Có thể nhận định chung rằng những bài trong bộ sách này là nhằm góp phần bồi dưỡng cái vốn kiến thức cơ bản, thuộc loại đầu đời, để cho các em nên người. Cụ thể, ở trong gia đình là đứa con có hiếu với ông bà, cha mẹ, thuận thảo với anh chị em, ở nơi trường học là người học trò nghiêm túc, chăm ngoan, biết kính yêu thầy, biết giúp đỡ bạn, ngoài xã hội là một công dân giàu lòng tự trọng, luôn giữ phẩm hạnh của mình, biết tự hào về cội nguồn dân tộc, biết trân trọng vẻ đẹp quê hương, thương yêu đồng bào, đồng loại như yêu bản thân mình. Cùng với trách nhiệm bảo vệ môi trường xã hội, là sự giữ gìn đạo lý, thượng tôn pháp luật, bộ sách còn khuyên các em bảo vệ mội trường thiên nhiên, chống lại việc phá tổ chim đến tệ xử ác đối với loài vật.

Không chỉ kể truyện ngày nay, sách còn nhắc chuyện ngày xưa, không chỉ lấy những tấm gương từ trong lịch sử dân tộc, sách còn rút những bài học từ trong lịch sử nước ngoài, không chỉ kể chuyện con người, sách còn mượn truyện loài vật, nói chung sách đã dẫn dắt các em vào các vấn đề bao quát từ đạo làm con, làm dân đến những vấn đề nhỏ bé, từ cách ăn mặc, viết thư, đến môn vệ sinh thường thức hàng ngày. Bằng lối hành văn giản dị, gãy gọn, hài hoà được lý và tình, sách nêu lên cả mặt phải cũng như mặc trái của nhiều sự việc, vận dụng được nhiều kiến thức cả trong truyền thống cũng như hiện đại, kết hợp được nhiều giá trị đạo lý đông phương cùng với tây phương.

Qua nhiều năm tháng, bao nhiêu thế hệ đã kế tiếp nhau trên ghế nhà trường cảm thụ chung cái vốn liếng tinh thần như thế, và nội dung sách đã thành sợi dây nghĩa tình thắm thiết nối liền họ với nhau, như một gia đình văn hoá đậm đà màu giáo-khoa-thư.

Hẳn nhiên, qua nhiều biến chuyển của thời gian và những biến đổi lớn trên đất nước, lời văn của sách và nhiều kiến thức chứa đựng đã bị thực tế vượt qua, nhưng về cốt lõi, giá trị của sách vẫn đáng trân trọng, xét trên nhiều mặt. Bởi các tiêu chuẩn đạo đức mà sách truyền dạy cho các con em, ở trong gia đình, nơi chốn học đường và trên bình diện xã hội, đều còn giữ được giá trị truyền thống, giá trị nhân văn cần thiết cho sự vươn lên của mọi con người. Ngoại trừ một số bài mang rõ ý hướng chính trị của thời thuộc Pháp – điều mà ở vào thời đó sách phải chấp nhận cho thế tồn tại công khai – đã được loại bỏ, chúng tôi có in lại đúng nguyên tác từ các bản in thời trước cùng phần minh hoạ vốn được khắc gỗ ngày nào, kèm theo những dòng giải thích, bình luận ngắn gọn phù hợp quan điểm của ngày nay, để chuyến trở về nguồn này có giá trị kế thừa cần thiết.

(Trích: E-thuvien.com)
 
Last edited by a moderator:
1

11thanhkhoeo

MỘT ÔNG QUAN THANH LIÊM

Ông Trịnh Đàm Toàn làm quan đời xưa, có tiếng là người nhân từ trung hậu, chỉ siêng việc nước giúp dân yên, hết lòng bênh vực những kẻ hèn yếu. Thường ai cho gì ông cũng không lấy. Một ngày kia, có người đem lễ một bao trà, ông không muốn nhận, người kia cứ nói mãi, ông nể lòng, bảo cất đi. Đến khi xem ra thì thấy trong bao toàn những đồ vàng cả. Ông không nói gì, lại đậy nắp lại, rồi cho gọi người ấy đến mà bảo rằng: “Vừa rồi ta tưởng hết trà uống, mà nhà ngươi lại có lòng tốt đem cho, thì ta lấy. Nhưng bây giờ xem ra thì trong nhà hãy còn đủ uống”. Nói xong đưa bao trà trả lại. Nói rồi ông cũng không tỏ cho ai biết là người ấy người ấy đến cầu cạnh mình. Ấy, không những ông là một người làm quan thanh liêm mà lại có tính hồn hậu, không hay đem chuyện bí mật của người ta mà thổ lộ ra ngoài.

Giải nghĩa: Thanh liêm: trong sạch, nghiêm chỉnh. Nhân từ: thương người. Trung hậu: ăn ở có đạo lý, có tình nghĩa. Cầu cạnh: tìm cách để xin một ân huệ nào đó. Hồn hậu: hiền lành, tốt bụng. Bí mật: kín đáo. Thổ lộ: bày tỏ ra ngoài.



CHUYỆN MỘT NGƯỜI THỢ ĐÁ CÓ LƯƠNG TÂM

Người ta ở đời phải ăn ở có trung hậu thành thực, dẫu được giàu sang mà làm điều trái đạo, thì thế nào (1) cũng không làm, mà làm điều ngay lành, thì dẫu có cực khổ, cũng cố (2) làm cho được.

Xem (3) như đời xưa, người Sái Kinh là một đứa gian nịnh có quyền thế, thấy bọn Tư Mã Quang là trung thần, không chịu vào đảng với mình, bèn đem lòng ghen ghét, sai thợ khắc tên những ông ấy vào bia đá, bày ở các phủ huyện để làm cho xấu xa.

Lúc ấy có một người thợ đá tên An Dân, không chịu khắc, nói rằng: “Chúng tôi ngu ***, không hiểu ý làm sao, nhưng cứ như bọn ông Tư Mã Quang thì ai cũng khen là chính trực, mà sao lại bảo là gian tà, tôi không nỡ khắc”. Quan phủ giận, toan bắt tội. An Dân khóc mà nói rằng: “Bắt làm thì tôi xin làm, nhưng xin tha cho, đừng bắt khắc tên người thợ đá ở dưới bia”. Quan phủ nghe câu ấy, cũng thẹn mặt với người thợ đá.

Giải nghĩa: Trung hậu: ngay thẳng, hiền lành, trước sau như một. Trái đạo: ngược với đạo lý, lẽ phải. Quyền thế: quyền hành và thế lực, chỉ những kẻ có chức vị lớn. Trung thần: Kẻ bề tôi hết lòng phục vụ nhà vua. Bọn: ở đây có nghĩa là những người cùng chung một tình cảm, một lý tưởng, khác với tiếng bọn ngày nay mang ý nghĩa coi rẻ, để chỉ sự tập hợp của những người nhân cách không ra gì. Chính trực: đường hoàng, ngay thẳng. Gian tà: làm điều gian dối, tàn ác. Thẹn mặt: mắc cỡ, xấu hổ.

---------------
(1) làm sao
(2) ráng
(3) Coi
 
Last edited by a moderator:
1

11thanhkhoeo

TÔI ĐI HỌC

Năm nay tôi lên bẩy (1) tuổi. Tôi không chơi đùa lêu lổng (2) như mấy năm còn bé. Tôi đi học. Tôi học đọc, học viết, học tính, học vẽ và nhiều khoa học khác nữa.

Tô cố tôi học. Tôi chăm tôi học, học sao cho mau tấn tới cho “văn hay chữ tốt” cho cha mẹ và thầy giáo được vui lòng.

Giải nghĩa: Lên bẩy: được bảy tuổi (Bẩy là phát âm theo miền Bắc). Lêu lổng: tha hồ chơi đùa không ai ngăn cấm. Còn bé: còn nhỏ (bé là tiếng quen dùng ở miền Bắc). Khoa học: ở đây có nghĩa là môn học, như luân lý, toán, địa lý, sử v.v… Tấn tới: mỗi ngày một khá hơn, giỏi hơn. Văn hay: ở đây chỉ bài làm có kết quả.



CON CÒ MÀ ĐI ĂN ĐÊM

(Cao dao) Bài học thuộc lòng

Con cò mà đi ăn đêm,
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao,
Ông ơi ông vớt tôi nao!
Tôi có lòng nào, ông hãy xáo măng.
Có xáo thì xáo nước trong,
Đừng xáo nức đục đau lòng cò con.

Giải nghĩa: Lộn cổ: đâm đầu xuống. Vớt: lôi từ dưới nước lên. Nao: như nào, là một tiếng đệm sau lời kêu nài. Xáo măng: nấu chung với măng tre để làm món ăn.
 
Last edited by a moderator:
1

11thanhkhoeo

ĐI HỌC PHẢI ĐÚNG GIỜ


Xuân đi học coi người hớn hở,
Gặp câu Thu đi ở giữa đàng,
Hỏi rằng: "Sao đã vội vàng,
Trống chưa nghe đánh, đến tràng làm chi?
Thôi, hãy hượm, đừng đi, anh ạ.
Này con khăng tôi đã sẵn rổi.
Cùng nhau ta hãy đánh chơi.
Lát rồi ta sẽ tới nơi cũng vừa."
- Thu đáp lại: "Dẫu giờ còn sớm,
Cũng nên đi, kẻo chậm làm sao?
Nếu chờ khi đánh trống vào,
Dầu ta rảo bước tài nào kịp cho.
Trễ giờ ta phải nên lo."


Giải nghĩa: - Hớn hở = người nom có dáng vui vẻ. - Hãy hượm (= hưỡn) = thong thả, đừng đi vội. - Con khăng = con khăng thường làm bằng hai miếng tre hay gỗ, vót tròn, một miếng dài, một miếng ngắn. - Rảo bước = đi mau chân.



AI ƠI, CHỚ VỘI KHOE MÌNH



Con bươn bướm kia, cánh vàng rực rỡ, lại có những đốm đen, đốm đỏ, trông rõ thật đẹp. Một hôm, bay nhởn nhơ trên bụi cây ở vệ đường. Hết ngành nọ, sang ngành kia, thảnh thơi vui thú. Tưởng mình đã đẹp, thì ai chẳng kính yêu. Ngờ đâu có ba anh học-trò đi học về, bỗng trông thấy bướm kia đang bay ở bụi cây trước nặt, vội vàng, anh thì lấy nón úp, anh thì lấy sách đập, xô đẩy nhau đuổi bắt cho được.

Con bươm bướm kia đã vào tay lũ trẻ, thôi thì hết anh này lôi cánh, lại đến anh kia kéo chân, thật là rã rời tơi tả, chẳng được bao lâu mà hóa ra tửng mảnh. Ấy cũng vì con bươm bướm có cái sắc đẹp, mà phải những cái tai hại thảm thiết như thế. Thật đáng thương thay!


Giải nghĩa: - Nhởn nhơ = nhí nhảnh, làm bộ làm dáng. - Ngành = nhành. - Thảnh thơi = nhàn hạ phong lưu, không có bận bịu điều gì. - Rã rời tơi tả = tan nát ra. - Thảm thiết = ********, đáng thương xót.
 
Last edited by a moderator:
1

11thanhkhoeo

Tối ở nhà

Cơm nước xong, trời vừa tối. Ngọn đèn treo, thắp giữa nhà. Cha ngồi đọc nhật báo. Anh đang ngồi cúi xuống xem sách hay làm bài. Mẹ và chị, kim chỉ vá may. Ở bên cạnh, hai đứa em nhỏ đang nghe bà kể câu chuyện cổ tích, thỉnh thoảng lại khúc khích cười với nhau rất vui vẻ.

Ban ngày đi làm ăn khó nhọc; tối đến cả nhà được đông đủ sum vầy như vậy, tưởng không có cảnh nào vui hơn (*).

Giải nghĩa:

Nhật báo: báo ra hằng ngày.
Chuyện cổ tích: chuyện đời xưa.
Sum vầy: hội họp, quây quần, gần gũi bên nhau
 
1

11thanhkhoeo

LÒNG THẢO HIẾM CÓ



Mẫn tử Khiêm, mẹ mất sớm, bị người dì ghẻ ác nghiệt, xử tàn nhẫn lắm. Mùa rét chỉ cho Mẫn tử mặc một manh áo mỏng, còn hai con riêng mình, thì cho mặc áo bông, áo mền tử tế.

Một hôm, người cha sai Mẫn tử đi đẩy xe, Mẫn tử rét quá, lập cập vấp ngã. Cha quở mắng, Mẫn tử cũng không nói gì. Sau cha biết người dì ghẻ để cho Mẫn tử phải chịu đói rét, và thường khi lại còn hành hạ khổ sở, thì muốn đuổi ngay đi.

Mẫn tử biết ý, can cha rằng: "Dì con mà còn ở lại, thì chỉ có một mình con chịu rét mà thôi, chớ dì con mà không ở đây nữa, thì ba anh em chúng con đều bị đói rét cả."

Người cha nghe nói, cho là phải, và người dì ghẻ thấy Mẫn tử hiếu đễ như thế, lấy làm cảm động, từ đó cư xử với Mẫn tử rất là tử tế.


Giải nghĩa. - Tàn nhẫn = làm cho người ta đau đớn, khổ sở. - Áo mền = áo lót có lần dựng ở giữa. - Can = ngăn không để ai làm một việc gì. - Cảm động = thấy việc gì ở ngoài mà động đến trong lòng.
 
1

11thanhkhoeo

LÒNG KÍNH YÊU CHỊ



Ông Lý-Tích làm quan to đời xưa. Ông đã già mà vẫn yêu kính chị một cách khác thường. Một hôm, bà chị ốm, ông thân hành đi nấu cháo cho chị ăn, chẳng may gió quạt ngọn lửa cháy cả râu. Bà chị nói rằng; "Nhà thiếu gì đầy tớ mà em lại khổ thân như vậy?" - Ông đáp lại rằng: "Nay chị đã già, mà em cũng già rồi, dẫu em có muốn nấu cháo cho chị ăn mãi, phỏng đã dễ mà được hay sao?"

Một người như ông Lý Tích, làm quan quyền quí bao nhiêu mà yêu chị như thế, thật là đáng khen thay!

Ôi! Anh chị em là cùng một cha mẹ sinh ra, ở với nhau từ thuở nhỏ dại cho đến khi khôn lớn, dạy bảo nhau, bênh vực nhau, lúc vui cười, lúc buồn-bực, bao giờ cũng có nhau, thì cái tình thân ái biết bao giờ cho phai nhạt đi được!


Giải nghĩa. - Ốm = đau. - Thân hành = Tự mìnhh đi làm lấy. - Khổ thân = để thân mình phải chịu điều khổ. - Quyền quí = có quyền tước sang trọng. - Thân ái = yêu mến thân thiết.
 
1

11thanhkhoeo

KÍNH TRỌNG NGƯỜI GIÀ CẢ

Một lũ học trò ngồi xúm xít ở hàng nước, đang cười cười nói nói. Có một cụ già lưng còng, tóc bạc, cũng muốn vào hàng nước nghỉ. Nhưng mấy cái ghế chật ních cả rồi, cụ cứ loanh quanh (xa xẩn) đứng ở ngoài.

Một cậu học trò ít tuổi nhất, thấy thế, vội vàng đứng ngay vậy, nhường chỗ mời cụ ngồi. Sau lại cầm hộ cả cái điếu đưa cho cụ hút thuốc. Mấy cậu ngồi bên cạnh, bây giờ cùng bảo nhau ngồi dồn lại cho rộng chỗ.

Cụ già ăn thuốc xong, khen các cậu rằng:

“Các cậu là học trò tràng nào, mà khéo học được những điều lễ phép như thế! Lão đây thật lấy làm quí hoá cái nết của các cậu”.

Giải nghĩa:
Xúm xít: tụ họp nhiều người lại một chỗ. Chật ních: không còn chỗ hở nào. Cầm hộ: cầm giúp (hộ là tiếng quen dùng ở miền Bắc). Ăn thuốc: (lối nói quen dùng ở miền Bắc) tức hút thuốc lào. Tràng: (tiếng quen dùng ngày xưa) trường. Lão: tiếng người già tự xưng.



LÒNG THƯƠNG KẺ TÔI TỚ

Ông Lưu Khoan thuở xưa là một ông quan có tiếng nhân từ. Một hôm, ông mặc áo, đội mũ chỉnh tề, sắp đi chầu. Con thị tì bưng bát cháo lên hầu. Chẳng may lỡ tay đánh đổ cháu ra áo chầu. Con thị tì sợ hãi, vội vàng lấy tay vuốt chỗ cháo đổ. Ông Lưu Khoan không đổi sắc mặt, từ từ nói rằng: “Mầy có bỏng tay không?”

Ôi! Tay người ta bỏng thì đau đớn nhiều, áo quí mà hoen bẩn là việc nhỏ. Ông Lưu Khoan biết quên cái áo bị bẩn của mình, mà chỉ nghĩ đến tay bỏng của người đầy tớ, thật là người có đại độ, biết thương người dưới.

Giải nghĩa: Nhân từ: có lòng thương người. Chỉnh tề: ngay ngắn, đàng hoàng. Chầu: vào triều để tiếp đón vua và nghe vua ra các mệnh lệnh. Thị tì: tiếng gọi người ở gái trong nhà quan ngày xưa. Không đổi sắc mặt: ý nói không chút giận dữ. Bỏng: (tiếng quen dùng ở miền Bắc) phỏng, dộp. Hoen bẩn: (tiếng quen dùng ở miền Bắc) bị vấy điều dơ, bị các chất dơ làm cho xấu đi. Đại độ: có độ lượng lớn, có bụng rộng rãi, biết bao dung và thương người.
 
1

11thanhkhoeo

LỜI KHUYÊN CON
(Ca dao)
Bài học thuộc lòng

Con ơi, muốn nên thân người,
Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha.
Gái thì giữ việc trong nhà,
Khi vào canh cửi, khi ra thêu-thùa.
Trai thì đọc sách, ngâm thơ,
Dùi mài kinh sử để chờ kịp khoa.
Mai sau nối được nghiệp nhà,
Trước là đẹp mặt, sau là ấm thân.


Giải nghĩa. - Canh cửi = dệt tơ, dệt vải. - Dùi mài = chăm-chỉ học-hành. - Kinh-sử = sách vở học để đi thi. - Kịp khoa = đây là kịp khoa thi.





THƯƠNG NGƯỜI NHƯ THỂ THƯƠNG THÂN


Thấy người hoạn nạn thì thương,
Thấy người tàn tật lại càng trông nom.
Thấy người già yếu ốm mòn,
Thuốc thang cứu giúp, cháo cơm đỡ đần.
Trời nào phụ kẻ có nhân,
Người mà có đức, muôn phần vinh hoa.
Nguyễn Trãi gia huấn.


Đại ý
- Trong bài nói phải thương hết cả mọi người cùng khổ, hoạn nạn, như người tàn tật, người già cả, người ốm yếu. làm điều hay thì gặp hay, dù không nữa, thì trong bụng cũng được hả hê.


Giải nghĩa.- Trông nom = coi sóc. - Hoạn nạn = những điều sẩy đến làm cho lo lắng khổ sở. - Phụ = quên ơn, bội nghĩa. - Có nhân = có lòng thương yêu mọi người. - Có đức = có bụng tốt, ăn ở tử tế với mọi người. - Vinh hoa = sang trọng, sung sướng.
 
1

11thanhkhoeo

ANH NÓI KHOÁC


Tí và Sửu đi qua một đám ruộng bí. Tí chợt trông thấy quả bí to, nói rằng: "Chà! Quả bí đâu mà to như thế kia!" Sửu có tính hay nói khoác, cười mà bảo rằng: "Thế đã lấy gì làm to. Tôi đã từng thấy những quả bí to hơn nhiều. Có một bận, thật mắt tôi trông thấy một quả bí to bằng cả một cái nhà ở trước mặt ta kia kìa. - Tí nói: "Thế đã lấy gì làm lạ. Tôi còn nhớ một bận tôi trông thấy cái xanh đồng to vừa bằng cả cái đình làng ta ấy". - Sửu hỏi: "Cái xanh ấy dùng để làm gì mà to quá như thế?" - "À, thế bác không biết à. Cái xanh ấy dùng để luộc quả bí của bác vừa nói ấy mà."

Sửu biết Tí chế nhạo mình, mới nói lảng ra chuyện khác.

Nói điều gì phải cho đúng với sự thật, chớ nên bịa đặt ra mà người ta chê cười.


Giải nghĩa. - Nói khoác = nói quá sự thật. - Quả = trái. - Xanh = đồ bằng đồng dùng để đun nấu, có hai quai, và khác với cái chảo, vì nó bằng trôn.



CON CHỒN VÀ CON GÀ TRỐNG​



Một hôm, con chồn gặp con gà trống ở bụi tre. Gà sợ, kêu rối rít. Chồn cũng sợ chủ nhà họ bắt được, thì họ đập chết. Chồn bèn lấy lời ngon ngọt dỗ gà rằng: "Sao bác lại gắt gỏng như vậy? Tôi với bác là họ hàng bà con với nhau cả đấy mà." Gà thấy chồn nói dễ nghe, cất tiếng gáy vui vẻ lắm. Chồn khen nức nở: "Ôi chao! bác gáy sao mà hay như thế! Song tôi còn nhớ ngày xưa ông nhà ta gáy còn hay hơn mấy, vì lúc cụ gáy cụ cứ nhắm mắt lại." Gà lại gáy, nhưng vẫn còn ngờ vực, chỉ nhắm có một mắt mà thôi. Chồn ở dưới làm như gõ nhịp, vừa cười vừa nói: "Ôi chao ôi hay quá! Nhưng nếu bác nhắm cả hai mắt lại mà gáy, thì tôi chắc bao nhiêu gà ở xung quanh đây nghe tiếng chỉ những nổi cơn ghen lên mà chết!" Gà đắc ý, nhắm tít cả hai mắt lại, định gáy cho thật hay, nhưng vừa há mỏ, chồn đã nhẩy chồm lên cắn cổ mà tha về tổ để ăn thịt.

Ôi! Mật ngọt chết ruồi! Hay ưa nịnh hót có khi hại đến thân.


Giải nghĩa. - Chồn = giống vật mõm dài và nhọn, tai to, đuôi dài, hay bắt gà và chim, ta thường gọi là cáo, nhưng không được đúng vì cáo thuộc về loài mèo. - Rối rít = chíu chít. - Gắt gỏng = rầy rà. - Gõ nhịp = đánh cái gì để cùng họa theo vào tiếng đàn, tiếng hát. - Nhắm tít = nhắm kín mắt lại, hai mi mắt như dính liền với nhau. - Mật ngọt chết ruồi = câu tục ngữ, nghĩa đen: con ruồi thấy mật ngọt, ham ăn mà chết; nghĩa bóng: người ta vì ưa lời nịnh mà hại đến thân.
 
1

11thanhkhoeo

CHƠI ĐÙA KHÔNG PHẢI LÀ VÔ ÍCH​

Cứ đến giờ chơi, học trò ra cả ngoài sân, đứa thì chạy nhảy, đứa thì đánh quay (đánh vụ), chơi đùa ầm ĩ, thật vui vẻ. Duy có cậu Tí cứ cầm quyển sách đọc, không chịu chơi.

Thầy giáo thấy thế đã nhiều lần, một hôm gọi cậu Tí lại hỏi. Cậu ấy thưa rằng: “Thưa thầy, con tưởng đã đi học, thì chỉ chăm lo học hành, chơi đùa làm gì cho phí thời giờ”. Thầy nói: “Cũng khá khen cho con là đứa chăm học. Nhưng miễn là đừng lười biếng thì thôi, chứ chơi đùa chạy nhảy, cũng không phải là vô ích. Nếu con mãi miết học cả ngày, không nghỉ một phút nào, thì trí khôn sinh quẫn, mà thân thể cũng mỏi mệt, học sao tinh tường được. Vậy phải có học và có chơi, thì sự học mới dễ dàng và chóng tấn tới.

Giải nghĩa: Phí: uổng. Mãi miết: quá chú tâm vào một việc gì. Miễn là: chỉ cốt là, quí hồ là. Quẫn: mệt mỏi và mất sáng suốt. Tinh tường: sáng tỏ.


CHỖ QUÊ HƯƠNG ĐẸP HƠN CẢ
Một người đi du lịch đã nhiều nơi. Hôm về nhà, kẻ quen người thuộc, làng xóm láng giềng đến chơi đông lắm. Một người bạn hỏi: “Ông đi du sơn du thuỷ, thế tất đã trông thấy nhiều cảnh đẹp. Vậy ông cho ở đâu là thú hơn cả?” Người du lịch đáp rằng: “Cảnh đẹp mắt tôi trông thấy đã nhiều, nhưng không đâu làm cho tôi cảm động, vui thú bằng lúc trở về chốn quê hương, trông thấy cái hàng rào, cái tường đất cũ kỹ của nhà cha mẹ tôi. Từ cái bụi tre ở xó vườn, cho đến con đường khúc khuỷu trong làng, cái gì cũng gợi ra cho tôi những mối cảm tình chứa chan, kể không sao xiết được.”

Giải nghĩa: Du lịch: (du: chơi, lịch: trải) đi thăm chơi nhiều nơi. Du sơn du thuỷ: chơi chỗ núi, chỗ sông, ý nói đã xem nhiều phong cảnh đẹp. Thế tất: ắt hẳn. Quê hương: làng quê, nơi mình sinh ra và lớn lên có nguồn gốc tổ tiên ở đấy. Khúc khuỷu: quanh co, gập gẩy, không thẳng một chiều. Chứa chan: đầy tràn, nhiều, bề bộn. Không sao xiết được: không sao hết được. Tiếng xiết quen dùng ngày xưa, nay ít phổ biến.
 
1

11thanhkhoeo

NGƯỜI SAY RƯỢU


Các anh hãy trông người kia đi ngoài đường. Mặt đỏ gay, mắt lờ đờ, quần áo xốc xếch, chân đi xiêu bên nọ, vẹo bên kia, múa chân múa tay, mồm nói lảm nhảm, chốc lại ngã chúi một cái. Lũ trẻ đi theo sau, reo cười chế nhạo. Thỉnh thoảng anh lại đứng lại, nói những chuyện gì ở đâu đâu. Người qua lại, trông thấy cũng phải tránh xa.

Người ấy vừa ở hàng rượu ra. Chỉ tham mấy chén rượu mà thành ra say sưa, mất cả tư cách con người, có khi như là con vật vậy, thật là đáng khinh bỉ.

Hỡi các anh, các anh đã trông thấy người say rượu như thế, thì nên lấy đó làm gương mà giữ mình.


Giải nghĩa. - Xốc xếch = xệch-xạc = không được gọn gàng. - Tư cách = phẩm giá.



NGƯỜI NGHIỆN THUỐC PHIỆN



Trông thấy Chánh Còm, ai cũng biết là người nghiện. Trước khi, thầy là người béo tốt phương phi, tinh nhanh khôn khéo, mà bây giờ thì mặt bủng da chì, xo vai rụt cổ, giọng nói khàn khàn, cái môi thâm sịt, nom người lẻo khoẻo như cò hương. Thầy mới ăn thuốc phiện mấy năm nay mà đã khác hẳn đi như vậy.

Thầy Chánh Còm từ khi đa mang thuốc xái đến bây giờ, thành ra lười biếng, chậm trễ. Sáng dậy, ít ra cũng phải mươi lăm điếu mới mở mắt ra được, và cả ngày quanh quẩn cạnh bàn đèn, chỉ cái xe (thoe) cái lọ, ngoài ra không thiết đến việc gì nữa.

Xem thế mới biết thuốc phiện là một thứ thuốc độc rất hại. Nó hại sức khỏe, hại tinh thần. Nó làm mất thì giờ, mất tiền của, có khi mất cả phẩm giá con người nữa. Vậy ta chớ nên hút thuốc phiện.


Giải nghĩa. - Nghiện = nghiền, ghiền. - Phương phi = vạm vỡ, trông ra dáng. - Tinh nhanh = lanh lợi. - Thâm sịt = đen sì. - Lẻo khoẻo = lỏng khỏng. - Cò hương = cò ma. - Đa mang = mang lấy, mắc phải; đa mang thuốc xái = từ khi mang lấy bệnh nghiền. - Lười biếng = làm biếng. - Cái xe = cái dọc tẩu. - Cái lọ = cái ống cái nối.
 
1

11thanhkhoeo

NGƯỜI TA PHẢI LÀM VIỆC

Người làm ruộng có trồng trọt cấy cày, thì ta mới có thóc gạo mà ăn. Thợ nề, thợ mộc có làm nhà, thì ta mới có nhà mà ở. Thợ dệt có dệt vải, thợ may có may áo, thì ta mới có đồ mặc vào mình. Quyển sách ta học cũng phải có người làm, người in. Cái đường ta đi cũng phải có người sửa, người quét. Nói tóm lại, nhất thiết một chút gì ta cần dùng đến, cũng là có người chịu khó làm việc mới nên.

Giải nghĩa:
Trồng trọt: có nơi gọi là trồng trỉa hoặc trồng tỉa, tức là làm cho các loại cây hoa màu được mọc ra, lớn lên và có kết quả. Thóc: (tiếng quen dùng ở miền Bắc) lúa. Nhất thiết: bất cứ cái gì cũng phải như vậy.


KHUÂN TẢNG ĐÁ
Trời nhá nhem (chạng vạng) tối. Tôi thấy một ông già hì hục khuân một tảng đá. Nhắc lên, để xuống đến bốn năm lần, mới đem được từ giữa đường đến chỗ bụi cây mà bỏ đấy. Tôi lấy làm lạ, chạy lại hỏi, thì ông cụ vừa thở vừa nói rằng: “Lão đi lỡ vấp phải tảng đá này, sầy cả chân, đau lắm. Nên lão khuân bỏ vào đây, sợ cứ để đấy, lại có người vấp ngã nữa chăng.”

Tôi thấy nói, lấy làm nghĩ. Ông cụ già chịu nhọc mình một lúc, để đỡ cho người đi đêm trên con dường không vấp phải tảng đá, cũng là một việc làm phúc đáng khen vậy.

Giải nghĩa
: Nhá nhem: (tiếng thường dùng ở miền Bắc) chạng vạng, còn gọi là tranh tối tranh sáng. Hì hục: làm một việc gì một cách nặng nhọc. Lão: tôi, hay ta, tiếng của người già tự xưng. Sầy: rách da. Đấy: (tiếng thường dùng ở miền Bắc) đó. Làm phúc: làm điều tốt lành cho kẻ khác.
 
1

11thanhkhoeo

HỌC TRÒ BIẾT ƠN THẦY​

Ông Carnot xưa là một ông quan to nước Pháp, một hôm nhân lúc rảnh việc về chơi quê nhà. Khi ông đi ngang qua tràng học ở làng, trông thấy ông thầy dạy mình lúc bé, bấy giờ đã đầu tóc bạc phơ, đang ngồi trong lớp dạy học. Ông ghé vào thăm tràng và chạy ngay lại trước mặt thầy giáo, chào hỏi lễ phép mà rằng: “Tôi là Carnot, thầy còn nhớ tôi không?” Rồi ông ngoảnh lại khuyên bảo học trò rằng: “Ta bình sanh, nhất là ơn cha, ơn mẹ, sau ơn thầy ta đây, vì nhờ có thầy chịu khó dạy bảo, ta mới làm nên sự nghiệp ngày nay.”

Giải nghĩa: Rảnh việc: Không có việc phải làm, thong thả. Bình sanh: sống ở đời. Sự nghiệp: những gì đáng kể do mình xây dựng nên trong cuộc sống.



ĐI HỌC ĐỂ LÀM GÌ?

Bác hỏi tôi đi học để làm gì. Tôi xin nói bác nghe.

Tôi đi học để biết đọc những thư từ người ta gửi cho tôi và viết những thư từ tôi gửi cho người ta. Tôi đi học để biết đọc sách, đọc nhật báo, thấy điều gì hay thì bắt chước.

Tôi đi học để biết tính toán, biết mọi sự vật và biết phép vệ sinh mà giữ thân thể cho khoẻ mạnh.

Nhưng tôi đi học cốt nhất là biết luân lý, cho hiểu cách ăn ở để thành người được người con hiếu thảo và người dân lương thiện.

Giải nghĩa: Hiếu thảo: biết cách ăn ở có đạo lú với cha mẹ. Lương thiện: hiền lành, tử tế.
 
1

11thanhkhoeo

CÔNG VIỆC NHÀ NÔNG
(Ca dao)
Bài học thuộc lòng


Tháng giêng là tháng ăn chơi,
Tháng hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà.
Tháng ba thì đâu đã già,
ta đi ta hái về nhà phơi khô.
Tháng tư đi tậu trâu bò,
Để ta sắp sửa làm mùa tháng năm.
Sáng ngày, đem lúa ra ngâm,
Bao giờ mọc mầm, ta sẽ vớt ra.
Gánh đi ta ném ruộng ta,
Đến khi lên mạ, thì ta nhổ về.
Sẵn tiền mượn kẻ cấy thuê,
Cấy xong rồi mới trở về nghỉ ngơi.​

(Còn nữa)


Giải nghĩa.
- Tậu = mua cái gì để làm của riêng của mình, như tậu nhà, ruộng, v.v.... - Ngâm = để lâu dưới nước. - Mầm = mộng.



CÔNG VIỆC NHÀ NÔNG​

(Ca dao)
Bài học thuộc lòng
(tiếp theo)


Cỏ lúa dọn đã sạch rồi,
Nước ruộng vơi mười, còn độ một hai.
Ruộng cao đóng một gàu giai,
Ruộng thấp thì phải đóng hai gàu sòng.
Chờ cho lúa có đòng đòng,
Bấy giờ ta sẽ trả công cho người.
Bao giờ cho đến tháng mười,
Ta đem liềm hái ra ngoài ruộng ta.
Gặt hái ta đem về nhà,
Phơi khô, quạt sạch, ấy là xong công.

Giải nghĩa. - Vơi = lưng = không đầy, kém đi, cạn đi. - Gàu giai = một thứ gàu có dây, phải hai người cầm mà tát nước. - Gàu sòng = một thứ gàu buộc vào ba cái cọc, một người tát. - Đòng đòng = hoa lúc còn non, chưa ra khỏi cái màng bọc ở ngoài.
 
1

11thanhkhoeo

LÀM CON PHẢI CHO DỄ DẠY


Làm con mà biết yêu mến cha mẹ, ân cần đến cha mẹ thì cha mẹ cũng đã vui lòng lắm rồi. Nhưng muốn cho cha mẹ được vui lòng hơn nữa, thì con phải vâng lời dạy bảo. ý mình muốn làm gì, mà cha mẹ bảo đừng, mình cũng phải thôi; ý mình không muốn làm, mà cha mẹ bảo làm, mình cũng phải làm. ta phải biết rằng cha mẹ ngăn cấm điều gì cũng là muốn cho mình được hay. vậy mình vâng lời cha mẹ, tức là ích lợi cho mình. Cũng ví như ông thầy thuốc bắt người ốm phải kiêng nhịn vật gì, là để chữa cho người ấy mau khỏi.

Những con nhà không chịu nghe lời cha mẹ thường hay hại đến thân. Ca dao ta có câu:

Cá không ăn muối cá ươn,
Con cãi cha mẹ trăm đường con hư.


Giải nghĩa. - Ân cần = săn sóc đến luôn. - Ươn = nặng mùi.



CÓ HỌC PHẢI CÓ HẠNH


Sài Thế Viễn, thuở bé đi học, không chuộng nghề văn chương mấy, chỉ chuyên chú về đường tâm tính tức là khoa tu thân luân lý vậy. Có người thấy thế, bảo ông rằng: "Đi học cốt là để cầu cho được văn hay chữ tốt, thi đỗ làm quan, chớ tâm tính học tưởng không cần gì cho lắm". Ông Sài Thế Viễn đáp: "Học hành ai cũng muốn cầu cho giỏi, nhưng học giỏi mà lại giữ được phẩm hạnh mới thật là đáng quí. Chớ học mà không có hạnh cũng chẳng làm gì. Phẩm hạnh tức là danh giá của con người ở đời vậy."

Nhiều người nghe nói, cười ông Sài Thế Viễn là vu khoát.

Sau, ông thi đỗ tiến sĩ, làm quan đến bậc thượng thư, nổi tiếng là một người có phẩm hạnh.


Giải nghĩ.a
- Chuyên chú = để cả tâm chí nghĩ vào một việc gì. - Tâm tính = đây tức là nết ăn ở của người ta. - Tu thân = sửa mình. - Hạnh = cách ăn ở tử tế. - Vu khoát = viển vông, không thiết với sự thật.
 
1

11thanhkhoeo

CHỚ NÊN HAM MÊ CỜ BẠC


Tính ham mê cờ bạc là một tính rất xấu, nó làm cho người ta phải nhiều sự thiệt hại và mất cả phẩm giá. Ai đã mắc phải tính xấu ấy thì chẳng mấy người tránh khỏi sự nghèo khổ túng bấn, rồi sinh ra gian lận điên đảo, vì cờ bạc là một cách ăn chơi tổn hại nhiều tiền. Họa là mới có khi được, mà được thì xa phí hết ngay, còn khi thua thì nhiều, mà thua mãi thì thành ra công nợ, có khi đến nỗi vong gia thất thổ, phải đi ăn mày ăn xin, ăn trộm ăn cắp, làm những điều hèn hạ xấu xa. Đã cờ bạc thì còn danh giá gì! Dẫu ông gì bà gì, mà đã ngồi vào đám bạc, thì cũng thành ra đê tiện. Ai cũng gọi là con bạc, đồ cờ bạc.

Bởi thế cho nên các anh phải giữ gìn, đừng bắt chước những phường cờ bạc, đừng có tập nhiễm lấy cái thói xấu ấy.


Giải nghĩa. - Gian lận = giả dối để lừa đảo người ta. - Điên đảo = gian dối, lật lọng. - Họa là = may. - Xa phí = chi tiêu hoang toàng vô ích. - Vong gia thất thổ = mất nhà mất ruộng. - Hèn hạ = đê tiện. - Con bạc = bợm bạc. - Tập nhiễm = tập quen, không bỏ được.



KÍNH (GƯƠNG) ĐEO MẮT


Có một bác nhà quê *** nát, thấy một ông cụ già hễ khi đọc sách, thì lại đeo kính vào mắt. Bác tưởng rằng đeo kính thì đọc được sách. Một hôm, bác ra tỉnh, vào ngay một hiệu để mua kính.

Bác giở một quyển sách ra, cầm trước mắt để thử kính (gương). Bác thử luôn đến năm bảy thứ kính, mà thứ nào bác cũng chê rằng xấu, không thể xem được sách. Nhà hàng lấy làm lạ, hỏi rằng: "Vậy ông có biết đọc không đã?" Người nhà quê gắt lên, trả lời rằng: "Ô hay! Nếu tôi mà biết đọc, thì hà tất tôi phải đến đây mua kính của bác." Nhà hàng phì cười, bảo rằng: "Đây tôi không có thứ kính nào đọc được sách cả. Ông muốn xem được sách, xin hãy về học quốc ngữ cho thông đã."


Giải nghĩa.
- Nhà hàng = chỉ người bán kính. - Ô hay = hay chưa. - Hà tất = sao cần phải. - Thông = suốt, đây là nói học cho giỏi đã.
 
1

11thanhkhoeo

TRUYỆN NGƯỜI THỪA CUNG

Thừa Cung nhà nghèo mồ côi cha từ lúc hãy còn nhỏ. Khi mới lên tám, làm nghề chăn lợn (heo) để nuôi thân. Trong làng có ông Từ Tử Thịnh mở tràng dạy học, học trò xa gần đến học đông lắm. Thừa Cung mỗi khi chăn lợn qua tràng, thấy tiếng giảng sách, thì dừng lại nghe, trong lòng lấy làm vui lắm, muốn đi học. Sau anh ta xin đến ở nhà học để dọn dẹp, quét tước. Từ Tử Thịnh thấy Thừa Cung mặt mũi khôi ngô, thuận cho ở. Lúc rãnh việc, anh ta chỉ chăm chăm chúi chúi học hành. Được vài ba năm Thừa Cung thành một người học trò giỏi, có tiếng thời bấy giờ.

Nghèo mà chụi học như vậy, chẳng đáng khen lắm ru!

Giải nghĩa: Lợn (tiếng quen dùng miền Bắc) heo. Nuôi thân: kiếm cái ăn nuôi sống bản thân mình. Tràng (tiếng xưa) trường. Khôi ngô: sáng sủa, có vẻ thông minh. Rãnh việc: không có việc. Lắm ru!: (tiếng xưa) làm sao!


CHỮ NHO​

Thời nội thuộc nước Tàu, có mấy ông thái thú Tàu sang cai trị nước ta, mở trường học và khuyến khích việc học chữ nho.

Đến khi nước Việt Nam đã lấy lại quyền tự chủ rồi, thì chữ ấy vẫn dùng để viết công văn như chỉ dụ, chế, sắc nhà vua, tờ sức, tờ bẩm của các quan, luật lệ, đơn từ và cả những giấy má việc tư nữa, như thư tín, khế ước, chúc thư, văn tế; chữ ấy vẫn dạy trong các trường học và dùng trong việc thi cử, còn tiếng ta thì không dùng đến. Chữ ấy các nhà văn sĩ ta phần nhiều cũng dùng để làm thơ văn, sách vở nữa.

Chữ nho ở bên nước ta không đọc như người Tàu đọc, lại đọc một cách riêng của ta và đã có lắm chữ thành hẳn tiếng ta rồi. Bởi vậy ta nay cũng phải học và biết ít nhiều để nói tiếng ta và viết văn ta cho thông.

Giải nghĩa:
Chữ nho: chữ của người Trung Hoa được phổ biến ở nước ta và đọc theo lối riêng của ta, và còn gọi là chữ Hán vì được truyền chính thức từ đời nhà Hán sang cai trị nước ta. Nội thuộc nước Tàu: bị nước Tàu đô hộ. Khuyến khích: khuyên nhủ, thúc giục. Công văn: giấy tờ có tính cách chung, tức của triều đình. Chỉ dụ: mệnh lệnh nhà vua ban ra. Chế, sắc: những gì vua viết ra để phong thưởng tước phẩm cho các quan. Tờ sức: tờ tập hợp, kêu gọi. Thư tín: gọi chung các thư gởi. Khế ước: giấy giao kèo của hai bên. Chúc thư: lời người chết dặn lại. Văn tế: văn đọc trước quan tài hay nắm mồ người chết. Nhà văn sĩ: người dùng lời văn để viết các loại sách truyện. Ngày nay ta gọi là nhà văn, không có tiếng sĩ ở sau (nếu đã có tiếng “nhà”)
 
1

11thanhkhoeo

KHÔNG NÊN HÀNH HẠ LOÀI VẬT


Một con bò kéo một cái xe chở hàng hóa rất nặng. Xe lên dốc, con bò cố sức kéo mãi, nhưng cái xe cũng không xê xích được chút nào. Người phu xe vội vàng nhảy xuống, lấy tay vỗ về con bò, rồi mồm thì nói năng dịu dàng như thúc giục, tay thì bắt vào bánh xe, cố đẩy cho xe đi. Một lát, xe lên khỏi dốc, người phu xe để cho con bò đứng nghỉ, và lại đến bên cạnh vuốt ve, ra dáng thương yêu lắm.

Người phu xe ân cần tử tế với con bò như vậy, thật là đáng làm gương cho những quân độc ác, hung tợn, cứ hay đánh đập loài vật rất thậm tệ. Loài vật không phải là vô tri vô giác, mà lại giúp ta được công kia việc nọ, ta nên trông nom, săn sóc, chớ có hành hạ đánh đập nó.


Giải nghĩa. - Cố = ráng. - Xê xích = chuyển đi, nhích lại. - Thúc giục = bảo làm việc gì cho mau lên. - Bắt = để tay vào quay bánh xe. - Vô tri vô giác = không biết, không cảm gì cả. - Hành hạ = làm khổ sở.



KHÔNG NÊN PHÁ TỔ CHIM


Thằng Sửu thấy ở trên cành cây có một tổ chim chích chòa, ba con chim mới nở, thì lấy làm mừng lắm. Nó trèo lên, bắt xuống, để chơi.

Chị nó trông thấy, ngăn lại mà bảo nó rằng: "Em ơi! Chớ nên bắt! Chim nó đang sung sướng thế mà em bắt nó, thì nó cực khổ biết là dường nào! Em thử nghĩ chốc nữa, mẹ nó tha mồi về, mà không thấy con, thì đau đớn thế nào. Vả những con chim con ấy mà em bắt về, thì dẫu em chăm chút nó thế nào, nếu nó không chết, thì cũng chẳng sao bằng mẹ nó săn sóc, nuôi nấng nó được. Thôi em ơi! Em đừng làm khổ nó vô ích, đem về trả mẹ nó. Sau nó lớn lên, nó bay, nó lượn, đẹp mắt em, nó kêu, nó hót, vui tai em, nó ăn sâu, ăn bọ thì hoa quả thóc lúa của nhà ta và của thiên hạ được đỡ hại."

Sửu nghe chị nói, lại đem cái tổ chim lên để vào chỗ cũ.


Giải nghĩa. - Tổ = ổ. - Chăm chút = săn sóc. - Lượn = bay đi bay lại nhiều lần. - Thiên hạ = cả mọi người.
 
Status
Không mở trả lời sau này.
Top Bottom