[Văn 9]: Những đề bài có thể các bạn sẽ cần

S

s0cbay_kut3

Sự thành công của tác phẩm "Chuyện người con gái Nam xương" so với truyện cổ tích "Vợ chàng Trương"

I. Nhan đề tác phẩm: Chuyện người con gái Nam xương phản ánh 1 nội dung cụ thể, góp fần tăng tính hiện thực cho tác phẩm. Nội Dung đề cập đến câu chuyện về số phận của 1 người cụ thể.

II. Thể loại: Thể loại truyền kì nhưng phản ánh cuộc sông đời thường.

III. Nội Dung:

a, Cốt truyện thêm các chi tiết, sự việc khác hơn so với Vợ chàng trương.
- Nguyễn Dữ thêm sự việc Trương Sinh đem 100 lạng vàng để cưới Vũ Nương=> mối tình mang tính chất mua bán, thể hiện sự yếu thế, nghèo khó của nhà Vũ Nương.
- Sáng tạo thêm lời trăn trối của mẹ chồng. Lời nói ấy không dễ gì có được từ XHPK xưa khi mà mối quan hệ mẹ chồng nàng sâu rất phức tạp. Lời nói ấu có giá trị tăng thêm tính bi kịch cho câu chuyện: Mong muốn, ước mơ của người mẹ không bao giờ thực hiện được.
- Xây dựng một chi tiết bất ngờ: lời nói của trẻ. Lời nói này được đưa ra dần dần, ngày thêm gay cấn: "Ô hay...cha tôi ak.." làm cho câu chuyện được thắt nút chặt chẽ. hợp với lôgic câu chuyện.
- Sáng tạo chi tiết có giá trị nghệ thuật rất độc đáo: "cái bóng", vừa có giá trị thắt nút, vừa phát sin, thổi bùng mâu thuẫn, đẩy mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm==> tăng tính gợi cảm cho câu chuyện.
- Sáng tạo ra phần 2 của câu chuyện: màn kì ảo kết hợp với phần kết thúc rất lạ làm câu chuyện vừa đậm màu sắc truyền kì, vừa mang giá trị hiện thực. ĐÓ chính là sự kết hợp hài hòa giữa lãng mạn với hiện thực trog tác phẩm.

IV. Nghệ thuật khắc họa nhân vật:

So với Vợ chàng Trương thì nhân vật Vũ Thị Thiết được tác giả chú trọng nhiều đến việc miêu tả tâm lí, tâm trạng qua hành động, lời nói.
+ Tâm trạng: lo lắng (khi chồng ra trận), lo lắng cho mẹ già đau yếu, lo lắng nuôi con nhỏ.....Đau khổ, uất ức khi bị nghi oan...
+ hành động: Rót chén rượu đầy, chăm sóc mẹ già, qua lời nói vs chồng 3 lần, nói với trời đất ở bến Hoàng Giang.
+ sáng tạo những tình huống bất ngờ, đặt nhân vật vào đó, nhân vật tự bôc lộ tính cách.
==> Nhân vật trong truyện Nguyễn Dữ sinh động hơn, fức tạp hơn, mang chiều sâu cuộc sống hơn nhân vật trong cổ tích
 
L

luongtrangc

LÀNG nè pà con!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!
Một buổi chưa oi ả, ông II nhớ làng quá nên đến phòng tông tin nghe ngóng tin tức k/c. Ong rất vui vì nghe được nhìu tin hay: ta đánh được nhìu giặc, thu được nhìu súng ống. Trên đường từ phòng thông tin về nhà, ông gặp mấy người từ Gia Lâm lên, ông bất ngờ nghe được tin làng ông theo Tây từ những ngày này. Ong bàng hoàng đau đớn. Về nhà ông nằm vật ra giường nhìn lũ con tủi thân, nước mắt ông cứ giàn ra.Mấy ngày sau đó ông khôg giám đi đâu, chỉ quanh quẩn xó nhà, lúc nào cũng nơm nớp lo sợ người ta bàn về "chuyện ấy". Rồi ông nghe tin ở đây khôg chứa nhười dân làng chợ Dầu nữa. Ong chở nên tuyệt vọng , chỉ còn bít tâm sự với đứa con nhỏ để vơi đi nỗi buồn. Rồi 1 buổi chiều nọ ,có ông CTX làng chợ Dầu lên cải chính .ông II bít được làng ông khôg theo giặc, Tây nó đốt nhà ông ,làng ông. Ông II rất vui và lại đi khoe làng với mọi người.
_________The end __________
 
S

s0cbay_kut3

Vẻ đẹp "Sắc-Tài-Tình" của Kiều qua đoạn trích "Chị em Thúy Kiều"

1. Sắc đẹp khiến thiên nhiên ganh ghét.

+, Miêu tả nhan sắc Thúy Kiều, Nguyễn Du đặc tả vào 1 nét bao trùm: "Đôi mắt". Đôi mắt là sự thế hiện phần tinh anh của tâm hồn và trí tuệ. Cái sắc sảo của trí tuệ, cái mặn mà của tâm hồn đều liên quan đến đôi mắt. Nhà nghiên cứu Vũ Hạnh đã từng nói về đôi mắt Kiều: "Thúy Kiều quả có đôi mắt, và đôi mắt nàg không chỉ để thấy mà còn biết, không chỉ ngắm nhìn mà còn khám phá, không chỉ tiếp thu mà còn phản ứng, không chỉ có chiều sâu thăm thẳm soi thấu đáy lòng, đôi mắt Kiều còn có chiều rộng bao la, gói hết những đau khổ, có cả chiều cao vời vợi của những hi sinh chua xót lạ lùng "
+, Kiều có vẻ đẹp của tuyệt thế giai nhân, sắc đành đòi một, trên đời không ai sánh bằng. Đó là vẻ đẹp có thể sánh với vẻ đẹp của các đại mĩ nhân trong văn học cổ Trung Hoa, có thể làm nghiêng nước nghiêng thành như vẻ đẹp của Tây Thi, Điêu Thuyền.... Vẻ đẹp của Kiều là vẻ đẹp vượt ngưỡng, không một khuôn mẫu nào có thể ôm trùm. Vẻ đẹp ấy không tạo nên sự hài hòa giữa con người với tự nhiên, mà lại làm cho thiên nhiên phải ghen ghét đố kị. Xã hội Phong kiến chỉ chấp nhận cái thường thường, cái phải đạo, sự bình quân chứ không thừa nhận cái nổi trội, cái tót vời. Bởi vậy sự "đòi 1" trong nhan sắc Thúy Kiều tự đó đã chứa mầm hậu họa. Vẻ đẹp đó dự báo một số phận đầy tai ương, sóng gió, bất hạnh.

2. Tài hoa, trí tuệ.

+, Nếu khi miêu tả Thúy Vân, Nguyễn Du không nhắc đến một tài hoa nào thì khi miêu tả Thúy Kiều, tài hoa lại được miêu tả rất kĩ. Tài hoa của Kiều có được là do thông minh, trời phú, không phải do cố gắng luyện tập, rèn dũa kì công. Kiều là người con gái đa tài mà tài nào cũng đạt đến trình độ hoàn thiện, xuất chúng. Cái tài của Kiều là cái tài toàn diện, lí tưởng theo quan niệm thảm mĩ Phong Kiến : nàng giỏi Cầm, Kì Thi, Họa... Các từ "làu", "ăn đứt", "nghề riêng" nhấn mạnh sự điêu luyện, tài năng tuyệt đỉnh của nàng. Trong bốn cái tài của Kiều, tài đàn là nổi bật nhất. Kiều giỏi về âm luật, giỏi đến mức 'làu bậc". Cây đàn mà nàng chơi là đàn Hồ Cầm, tiếng đàn của nàg ăn đứt bất kì nghệ sĩ nào. Kiều còn biết sáng tác âm nhạc, khúc đàn mà nàng sáng tác là "thiên bạc mệnh", buồn thê thiết làm cho lòng người sầu não, đau khổ.

3. Cái "Tình" sâu thẳm.

+, Thúy Kiều còn là cô gái mặn mà về tình cảm. "Thiên bạc mệnh" mà nàg sáng tác buồn bã, lâm li, não nùng như định mệnh dai dẳng bám lấy cuộc đời kiều. Cung đàn ấy thể hiện tiếng lòng của một trái tim đa sầu đa cảm, một trái tim biết đồng cảm sẻ chia với những phận hồng nhan mà bạc mệnh. Trái tim nàng yếu đuối nhưng chứa đầy yêu thương mà sau này ta có thể thấy rõ hơn ở 2 đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" và "Thúy Kiều báo ân báo oán". Có thể thấy qua cách miêu tả Nguyễn du về Tài và Sắc, Nguyễn Du đã ngầm báo trước cuộc đời Kiều sẽ đầy sóng gió, bất hạnh như chính "thiên bạc mệnh" mà nàng sáng tác.
+ Khi miêu tả "sắc" của Kiều, Nguyễn Du đã khéo léo đưa cái "tình" và trong đôi mắt. Đôi mắt như nước hồ thu, đôi mắt chan chứa "tình"

4. Đánh giá chung:

+, ND: Có thể thấy vẻ đẹp của Thúy Kiều là sự kết hợp của cả sắc-tài-tình. Đó là vẻ đẹp quá hoàn hảo, quá lý tưởng, vượt cả chuẩn mực của Xã hội phong kiến phi tình người.

+, NT: Vẽ chân dung Thúy Kiều, Nguyễn Du vẫn vận dụng bút pháp quen thuộc trong văn học trung đại: Sử dụng những hình ảnh thiên nhiên đẹp đã trở thành quy ước để nói về vẻ đẹp của con người, sử dụng bút pháp gợi chứ không miêu tả cụ thể tỉ mỉ. Đó là bút pháp ước lệ tượng trưng đặc sắc mà Nguyễn Du đã dùng một cách hoàn hảo.

+, Cảm hứng nhân đạo: Qua việc miêu tả chân dung thúy Kiều, Nguyễn Du đã bộc lộ sự trân trọng, đề cao vẻ đẹp của con người. ông không chỉ ca ngợi vẻ đẹp nhan sắc mà hơn hết trân trọng, ngưỡng mộ tài năng, tâm hồn con người. Đồng thời khi miêu tả vẻ đẹp con người, nhà thơ đã dự cảm số phận, bộc lộ sự lo âu cho số phận con người. Đặt Thúy Kiều trong thời đại Nguyễn Du, thời đại Phong Kiến trọng nam khinh nữ thì Cảm Hứng nhân đạo đó của Nguyễn DU rất sâu sắc và tiến bộ.



 
S

s0cbay_kut3

Thay lời bé Thu kể lại tâm trạng của bé sau khi được ngoại giải thích vê vết sẹo trên mặt cha.

Ý 1: Hoàn cảnh (thời điểm bé Thu kể lại tâm trạng)
- ngay sau khi nghe ngoại giải thích

Ý 2: Tóm tắt ngắn gọn hoàn cảnh dẫn đến tâm trạng:

Đó là ngày cuối cùng trong ba ngày phép ngắn ngủi của ba tôi. Trong bữa ăn khi ba gắp cái trứng cá cho tôi, tôi đã hắt nó ra khỏi bát. Ba tôi đã tức giận và đánh tôi, tôi bỏ sang nhà ngoại. Đêm đó tôi đã được ngoại giải thích về vết sẹo trên mặt ba. Đó là một vết thương, môt chính nhân tội ác đã để lại trên gương mặt của 3 tôi. Hiểu ra sự thật, lòng tôi bộn bề bao cảm xúc và suy nghĩ.

Ý 3: Tâm trạng của bé thu sau khi được ngoại giải thích

- Tôi bàng hoàng, sửng sốt trước những điều ngoại vừa kể. Trời ơi! Người đàn ông với vết sẹo xấu xí và dữ dằn trên gương mặt ấy là ba tôi sao? Sao mấy ngày nay ko ai giải thích cho tôi cả. Tôi đau khổ, day dứt và ân hận vô cùng, chỉ vì vết sẹo trên mặt khiến tôi hiểu nhầm mà tôi đã nỡ có những lời nói, cử chỉ lạnh lùng, vô lễ với ba. Nhớ lại những câu nói trổng, những thái độ ngang bướng của mình trong ba ngày qua, tôi thấy đau đớn và day dứt vô cùng.
- Thương ba, hình dung lại vết sẹo trên gương mặt ba tôi lòng tôi thấy thương ba vô hạn. Ba đã phải chịu đựng bao đau đớn do kẻ thù gây nên. Vậy mà tôi lại còn làm cho trái tim ba đau đớn thêm 1 lần nữa. Ba khao khát được nghe tiếng gọi "ba", khao khát 1 cử chỉ và vòng tay âu yếm của tôi. Vậy mà tôi đã.........
- (tâm trạng hối tiếc) 8 năm qua, tôi khao khát giây phút được hội ngộ với người ba yêu thương, hằng ôm ấp hình ảnh ba trong trái tim mình và khao khát mong chờ ngày gặp mặt để cất lên một tiếng gọi ba mà tôi đã ấp ủ bao năm tháng qua. Vậy mà khi ba trở về, vì hiểu nhầm mà tôi đã để 3 ngày phép ngắn ngủi của ba trôi qua. Tôi ước thời gian có thể quay trở lại để tôi có thể sửa chữa lỗi lầm của mình. Tôi sẽ sà vào lòng ba, vòng tay ôm hôn ba, tôi sẽ hôn lên vết sẹo bởi đó là ba tôi. Tôi sẽ không rời ba một phút giay nào nữa.
- Căm giận kẻ thù, căm phẫn trước tội ác của kẻ thù. Chúng đã gây ra bao đau đớn cho ba tôi, làm biến dạng cả khuôn mặt đến mức rôi không nhận ra ba mình nữa. Chúng lại còn đẩy cha con tôi vào một hoàn cảnh éo le khiến ngày gặp mặt của ba con tôi đầy nước mắt.

Ý 4: Vẫn còn ngày mai, tôi vẫn còn có cơ hội gặp ba, để nói lời xin lỗi, cất lên tiếng gọi ba, để được ba ôm ấp trong vòng tay....

Bao ý nghĩa ấy khiến tôi thao thức, trằn trọc không ngủ được. Tôi nằm chờ trời hửng sáng......
 
L

lykem_1997

Phân tích Hội thoại và Đối thoại trong "Truyện Kiều"
I. HỘI THOẠI TRONG TRUYỆN KIỀU
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du tập trung ngòi bút của mình vào nhân vật chính là Thúy Kiều. Ngay cả với Kim Trọng, ông cũng chỉ nói đến việc chàng trở lại vườn Thúy sau khi kể xong về cuộc đời Kiều trong suốt 15 năm lưu lạc. Đối với những gì không liên quan tới việc thể hiện tính cách của Thúy Kiều, không phục vụ cho việc biểu hiện tình cảm nhân đạo cao cả của ông đối với nàng thì Nguyễn Du hoàn toàn gạt bỏ.
Ngoài nhân vật chính, Nguyễn Du lại xây dựng được hàng loạt nhân vật có cá tính và đã trở thành những nhân vật điển hình trong văn học: Kim Trọng, Từ Hải, Thúc Sinh, Hoạn Thư, Tú Bà, Sở Khanh, Mã Giám Sinh... Ngay cả những nhân vật tưởng như rất phụ chỉ được nêu ra trong một số ít câu thơ, ông cũng để lại cho người đọc những hình ảnh khó quên.
Như trong quyển Truyện Kiều đối chiếu, chúng tôi đã lập bản so sánh thì thấy cả hai hồi V, VI trong cuốn Kim Vân Kiều Truyện dài tới 40 trang trong bản dịch của Viện Văn học, Nguyễn Du cũng chỉ viết có 20 câu thơ chen vào đoạn tả việc Kiều quyết định bán mình ở đoạn trước. Trong tác phẩm của mình, Nguyễn Du đã lược bỏ tới hai phần ba của nguyên truyện: từ phần hoàn thành thủ tục hôn thú của Kiều với Mã Giám Sinh, cuộc vận động và quá trình Thúc Sinh chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh của Tú Bà, các trận đánh giữa quân của Từ Hải với quan quân của triều đình, quá trình Hồ Tôn Hiến dụ hàng...
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du sử dụng lại cách kể của Thanh Tâm Tài Nhân mà câu chuyện diễn biến theo dòng thời gian đơn tuyến cũng vì đó là cách kể phổ biến trong các Truyện thơ Việt Nam thời bấy giờ. Tuy nhiên, ông loại bỏ hẳn một loạt nhân vật như Bộ Tân, Vệ Hoa Dương, người bảo trợ cho Thúc sinh chuộc lại Thúy Kiều, một loạt các tướng sĩ của Hồ Tôn Hiến...
Tuy có giữ lại những sự việc, biến cố, nhân vật nhưng Nguyễn Du đã thay đổi thứ tự cách trình bày và thêm nhiều tình tiết, nhất là những đoạn tả tâm lý và thiên nhiên để tập trung cho việc thể hiện nhân vật trung tâm của mình. Muốn thấy rõ được việc Nguyễn Du tập trung vào nhân vật Thúy Kiều, ta chỉ cần nêu hai điểm sau đây:
–Trong Truyện Kiều có 73 cuộc thoại và 33 lần độc thoại nội tâm thì riêng Thúy Kiều đã nói tới 76 lượt lời trong 45 cuộc thoại với 512 câu thơ và độc thoại nội tâm 18 lần với 130 câu thơ. Nghĩa là trong 3.254 câu Kiều thì tác giả đã dành riêng cho nhân vật chính 642 câu chỉ để tả lời ăn tiếng nói của nàng (hoặc trong lúc trò chuyện với các nhân vật khác hoặc trong những lúc nàng tự nhủ mình): gần một phần năm tác phẩm.
– Chỉ đề tả 6 lần Thúy Kiều đánh đàn mà Nguyễn Du cũng đã dành tới 104 câu thơ trong đó riêng 2 lần đàn cho Kim Trọng nghe lúc đầu và cuối truyện đã có: 34 + 24 = 58 câu. Cho nên nhân dân ta đặt tên cho tác phẩm của Nguyễn Du là Truyện Kiều cũng không phải là không có lý do.
Lời của các nhân vật chiếm tới 1.212 dòng thơ đối thoại tức một phần ba tác phẩm. Nếu kể cả 211 dòng độc thoại nội tâm thì có tới 1.423 dòng thơ trên 3.254 tức 43,7% dành cho hội thoại. Đây chính là đặc trưng của tiểu thuyết hiện đại bởi qua đó tính cách nhân vật được bộc lộ một cách trực tiếp. Với tỉ lệ lời thoại cao nên kịch tính cao và Truyện Kiều mang tính chất khá hiện đại. Trong quyển Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, giáo sư Phan Ngọc đã phải dành hẳn một chương viết về tính chất kịch trong truyện với nhan đề: Cách bố cục Truyện Kiều theo yêu cầu của kịch là vì vậy. Cho nên, nghiên cứu hội thoại trong Truyện Kiều là một vấn đề khá thú vị. Trong chương này, chúng tôi sẽ trình bày vấn đề và dùng các thuật ngữ trong quyển Ngữ dụng học của Nguyễn Đức Dân (NXB Giáo dục –1998), đặc biệt là trong chương 3: Hội thoại, như các thuật ngữ: song thoại, tam thoại, đa thoại, cuộc thoại, lượt lời, cặp thoại, mở lời, thân thoại, kết thoại. Chúng tôi chỉ thay đổi thuật ngữ “độc thoại” bằng đơn thoại để tránh nhầm lẫn và thêm một thuật ngữ nữa là số lần thoại: Đó là số lần độc thoại và hội thoại.
Nói đến hội thoại, ta cũng nên đề cập đến cấu tạo của từ hội thoại trong Truyện Kiều, không chỉ trong lời thoại của nhân vật mà ngay trong ngôn ngữ tác giả. Ở đây ta có thể nêu đủ các kiểu cấu tạo từ hội thoại như thêm, bớt, thay đổi yếu tố:
– yếu tố đa phong cách cộng với yếu tố không có nghĩa khi đứng riêng thành từ hội thoại mang tính miêu tả cụ thể và sắc thái bình giá âm tính như bạc phau, đen rầm trong:
0911. Nàng thì dặm khách xa xăm,
Bạc phau cầu giá, đen rầm ngàn mây,
– yếu tố đa phong cách cộng với yếu tố đa phong cách có nghĩa không tương hợp với nghĩa của yếu tố thứ nhất thành từ hội thoại mang tính miêu tả cụ thể (mang ý nhấn mạnh) có sắc thái bình giá âm tính như nông sờ, tròn trặn, tìm tõi, nhắn nhe...
– yếu tố đa phong cách hai âm tiết cộng với yếu tố lặp lại một bộ phận của yếu tố thứ nhất thành từ hội thoại mang sắc thái bình giá âm tính như lạ nước, lạ non, ăn xổi ở thì...
– yếu tố đa phong cách cộng với yếu tố định ngữ có tính ẩn dụ thành từ hội thoại mang tính miêu tả cụ thể, khoa trương và sắc thái bình giá âm tính như sạch sành sanh, sạch làu làu...
– tạo thành từ hội thoại nhờ ẩn dụ hoặc hoán dụ, thành từ hội thoại mang tính miêu tả cụ thể và sắc thái bình giá âm tính như Dễ lòa yếm thắm trôn kim – Làm chi bưng mắt bắt chim khó lòng...

II. ĐƠN THOẠI.
Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng nhất của con người. Trong giao tiếp, có giao tiếp một chiều và giao tiếp hai chiều. Trong giao tiếp một chiều chỉ có một bên nói còn bên kia tiếp nhận, không phát biểu. Hình thức này thường gặp ở những mệnh lệnh, lời khấn và ngày nay trong diễn văn và lời của các xướng ngôn viên truyền thanh – truyền hình. Vậy là đơn thoại khi chỉ có một nhân vật phát biểu còn các nhân vật khác chỉ nghe hoặc không phát biểu, một người nói ra thành lời có người nghe nhưng không có lời đáp lại. Còn độc thoại dành cho nhân vật kịch nói một mình, hoàn toàn khác với độc thoại nội tâm là lời tự nhủ, tự mình nói với mình của các nhân vật sẽ được trình bày ở sau. Trong 31 lần đơn thoại của Truyện Kiều thì 11 lần là của Thúy Kiều. Lần đầu tiên, nàng chỉ nói có một câu:
0605. Quyết tình nàng mới hạ tình:
– “Rẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha!”.
Lần thứ hai là 14 câu nàng tâm sự với mẹ khi “Một nhà huyên với một Kiều ở trong”:
0877. – “Hổ sinh ra phận thơ đào,
“Công cha nghĩa mẹ kiếp nào trả xong!
0879. “Lỡ làng nước đục bụi trong,
“Trăm năm để một tấm lòng từ đây...
Thúy Kiều nói nàng xấu hổ vì sinh ra là phận gái, không biết kiếp nào mới đền ơn được cha mẹ, bây giờ đã lỡ chỉ còn biết để lại tấm lòng thương nhớ cho cha mẹ.
0881. “Xem gương trong bấy nhiêu ngày,
“ Thân con chẳng kẻo mắc tay bợm già.
0883. “Khi về bỏ vắng trong nhà,
“Khi vào dùng dắng, khi ra vội vàng.
0885. “Khi ăn khi nói lỡ làng,
“Khi thầy khi tớ, xem thường xem khinh,
0887. “Khác màu kẻ quý người thanh,
“Ngẫm ra cho kỹ như hình con buôn...
Nhận xét của Thúy Kiều rất có cơ sở, nếu ta chú ý đến 22 câu thơ tả đoạn độc thoại nội tâm của Mã giám sinh (0823–0844) thì thấy quả là hắn quá dùng dắng trước khi vào phòng Thúy Kiều, để khi ra lại quá vội vàng nên mới có cảnh:
0849. Đêm xuân một giấc mơ màng,
Đuốc hoa để đó mặc nàng nằm trơ.
mà kết thúc là nàng đành phó mặc cho số mệnh, sống chết nơi quê người:
0889. “Thôi con còn nói chi con,
“ Sống nhờ đất khách thác chôn quê người!”
Vương bà đã phải lặng người đi vì đau đớn:
0891. Vương bà nghe bấy nhiêu lời,
Tiếng oan đã muốn vạch trời kêu lên.
Lần thứ ba đơn thoại trong Truyện Kiều lại là lời khấn của Tú bà mong cho cửa hàng đắt khách:
0941. – “Cửa hàng buôn bán cho may,
“Đêm đêm Hàn thực, ngày ngày Nguyên tiêu.
0943. “Muôn nghìn người thấy cũng yêu,
“Xôn xao anh yến, dập dìu trúc mai.
0945. “Tin nhạn vẫn, lá thư bời,
“Đưa người cửa trước, rước người cửa sau!”
Tuy lời khấn của mụ Tú bà chỉ gồm có 6 câu mà ta cũng thấy có 4 lần tác giả dùng sóng đôi cú pháp : Một lần tiểu đối 3–3 và ba lần tiểu đối 4–4, đều là những câu bát cắt đôi, lời khấn cũng thực là nghiêm chỉnh và bài bản bởi mụ đã thuộc lòng. Những lần tiếp theo là lời báo mộng của Đạm Tiên hẹn gặp Kiều ở sông Tiền Đường:
0995. Rỉ rằng: –“Nhân quả dở dang,
“Đã toan trốn nợ đoạn trường được sao?
0997. “Số còn nặng nghiệp má đào,
“Người dầu muốn quyết, trời nào đã cho.
0999. “Hãy xin hết kiếp liễu bồ,
“Sông Tiền Đường sẽ hẹn hò về sau.”
Rồi lời tỏ tình bâng quơ của Sở Khanh nhằm lừa gạt Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích:
1065. – “Than ôi sắc nước hương trời,
“Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây?
1067. “Giá đành trong nguyệt trên mây,
“Hoa sao hoa khéo đoạ đầy bấy hoa?
1069. “Nổi gan riêng giận trời già,
“Lòng này ai tỏ cho ta hỡi lòng?
1071. “Thuyền quyên ví biết anh hùng,
“Ra tay tháo cũi sổ lồng như chơi!”.
Rồi Thúc sinh 1395–1402, Hoạn thư với 4 lần: 1558 – 1560, 1583–1588, 1599–1560, 1690– 1620. Tiếp theo là Thúc sinh 1678–1682, Thầy số đoán vận mệnh của Thúy Kiều cho Thúc sinh nghe: 1692–1698... Riêng Hoạn bà mắng nhiếc Thúy Kiều rồi lại ra lệnh đánh đòn cũng là một đơn thoại lời lẽ hết sức “buông tuồng”:
1727. Bất tình nổi trận mây mưa,
Diếc rằng: – “Những giống bơ thờ quen thân.
1729. “Con này chẳng phải thiện nhân,
“Chẳng phường trốn chúa thì quân lộn chồng.
1731. “Ra tuồng mèo mả gà đồng,
“Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào
1733. “Đã đem mình bán cửa tao,
“Lại còn khủng khỉnh làm cao thế này!
1735. “Nào là gia pháp nọ bay!
“Hãy cho ba chục biết tay một lần!”
Và còn nhiều nữa đến những lần độc thoại cuối cùng là lời kể của ông lão họ Đô, của Thúc sinh và của một người vô danh ở Hàng Châu với Kim Trọng về số phận của Thúy Kiều. Ba lần đơn thoại này là điển hình về một lối kể chuyện mạch lạc khéo léo mà tầng tầng lớp lớp, chia ra từng đoạn cách biệt nhưng gắn bó chặt chẽ đã từng được đưa vào sách giáo khoa giảng dạy trong nhà trường phổ thông. Những lời thoại trên chỉ là lời nói của một nhân vật có người nghe nhưng không lời đáp lại.
 
L

lykem_1997

III. SONG THOẠI
Trong giao tiếp hai chiều, bên này nói bên kia nghe và phản hồi trở lại. Lúc đó vai trò của hai bên thay đổi: bên nghe trở thành bên nói và bên nói lại trở thành bên nghe. Đó là hội thoại. Hoạt động giao tiếp phổ biến nhất, căn bản nhất của con người là hội thoại. Hội thoại có thể chỉ gồm hai bên. Đó là song thoại. Cũng có thể có ba bên hoặc nhiều bên, đó là tam thoại hoặc đa thoại.
Đề cập tới vấn đề hội thoại trước hết có thuật ngữ cuộc thoại, vì nói tới hội thoại là nói tới cuộc thoại. Đó là một lần nói chuyện, trao đổi giữa những cá nhân trong xã hội, ít nhất là hai người. Ngắn là những cuộc thoại chỉ chứa một cặp câu như: chào – chào, hỏi – đáp, đề nghị – đồng ý, ra lệnh – vâng lệnh... Một cuộc thoại có những đặc điểm nội tại là: luân phiên lượt lời (mỗi lúc có một người nói và không nói đồng thời), sự liên kết giữa các lượt lời để tạo sự liên kết hội thoại, mỗi cuộc thoại lại đều có một mục đích chứa đựng một hay nhiều chủ đề.
Ngoài ra, muốn cuộc thoại thành công, mỗi bên phải tôn trọng những nguyên lý hội thoại là nguyên lýù cộng tác và nguyên lý lịch sự.
Lấy lần song thoại cuối cùng giữa Thúy Kiều và Kim Trọng để xét: Đây là đêm động phòng hoa chúc. Khi thấy tình hình có vẻ nghiêm trọng:
3143. Tình nhân lại gặp tình nhân,
Hoa xưa ong cũ mấy phân chung tình.
Thúy Kiều đã phải mở thoại bằng hai câu:
3145. Nàng rằng: –“Phận thiếp đã đành,
“Có làm chi nữa cái mình bỏ đi!
Chúng ta cần nhớ là trong cuộc thoại trước diễn ra rất gay go qua năm lượt lời với 63 câu thơ, Thúy Kiều mới đồng ý cho việc làm lễ thành hôn và lần này là vấn đề mấu chốt nhất, nàng phải tiếp tục bằng 18 câu để thuyết phục Kim Trọng:
3147. “Nghĩ chàng nghĩa cũ tình ghi,
“Chiều lòng gọi có xướng tuỳ mảy may.
3149. “Riêng lòng đã thẹn lắm thay,
“Cũng đà mặt dạn mày dày khó coi!...
3161....”Chữ Trinh còn một chút này,
“Chẳng cầm cho vững, lại dày cho tan!
3163. “Còn nhiều ân ái chan chan,
“Hay gì vầy cánh hoa tàn mà chơi?”
Tiếp đó là lời chấp nhận miễn cưỡng của chàng:
3173. “...Gương trong chẳng chút bụi trần,
“Một lời quyết hẳn, muôn phần kýnh thêm.
3175. “Bấy lâu đáy bể mò kim,
“Là nhiều vàng đá, phải tìm trăng hoa?
3177. “Ai ngờ lại họp một nhà,
“Lọ là chăn gối mới ra sắt cầm!”
Tiếp theo là lời cảm tạ của Thúy Kiều để dẫn đến đoạn thoại tiếp giữa hai người trong lần đánh đàn cuối cùng.
Trong nguyên lý cộng tác, mỗi người phải hướng đúng mục đích của cuộc thoại với những phương châm về lượng (không nói thừa hoặc thiếu), phương châm chất (không nói điều mình tin là sai hoặc không có bằng chứng chính xác) và các phương châm quan hệ (đóng góp những điều có liên quan), phương châm cách thức (nói mạch lạc ngắn gọn, tránh tối nghĩa mơ hồ). Đối thoại thường gồm hai yếu tố đặc trưng: trao lời và đáp lời có sự tương tác qua lại bởi vì giao tiếp luôn luôn có mục đích. Tùy năng lực sử dụng ngôn ngữ của mỗi người và điều kiện giao tiếp cụ thể mà sự tương tác của ngôn ngữ đối thoại có cường độ mạnh yếu và có phạm vi ảnh hưởng về không gian rộng hẹp, thời gian ngắn dài, số lượng đối tượng nhiều ít khác nhau vì thế lời nói có tác động khôn lường. Mở đầu lời chấp nhận của Kim Trọng lại là mấy câu hết sức tế nhị:
3165. Chàng rằng: –“Gắn bó một lời,
“Bỗng không cá nước chim trời lỡ nhau.
3167. “Xót người lưu lạc bấy lâu,
“Tưởng thề thốt nặng cũng đau đớn nhiều.
3169. “Thương nhau sinh tử đã liều,
“Gặp nhau còn chút bấy nhiêu là tình...
Nguyên lý lịch sự là đặc biệt quan trọng vì tính tế nhị lịch sự là một yếu tố tác động tới các hiện tượng, qui luật và cấu trúc ngôn ngữ. Nó có ảnh hưởng rất lớn tới các phát ngôn trong quá trình giao tiếp. Theo đó, phải giữ gìn thể diện cho người đối thoại, có phép lịch sự tích cực gồm những hành vi đề cao người khác, quan tâm tới người khác, lại có phép lịch sự tiêu cực gồm những hành vi tránh làm phương hại tới thể diện của người khác và nếu không thể tránh được thì biết làm giảm nhẹ mức độ của những hành vi phương hại đến thể diện đó. Nói chung đó là nói giảm mức độ của phát ngôn không lịch sự và nói tăng mức độ của những phát ngôn lịch sự hay làm cho người nghe tìm được cái may trong cái rủi, tìm được cái lợi trong cái tổn thất... Chính nguyên lý lịch sự đã đòi hỏi Kim Trọng nói những lời đầy tình nghĩa sau đây trong lượt thoại trước:
3115. “Xưa nay trong đạo đàn bà,
“Chữ Trinh kia cũng có ba bảy đường.
3117. “Có khi biến, có khi thường,
“Có quyền, nào phải một đường chấp kinh.
3119. “Như nàng lấy Hiếu làm Trinh,
“Bụi nào cho đục được mình ấy vay?...
Trong một cuộc nói chuyện, người ta có thể trao đổi từ vấn đề này sang vấn đề khác. Nhưng bao giờ cũng có lúc bắt đầu và lúc kết thúc. Chúng làm nên ranh giới của một cuộc thoại. Lúc bắt đầu được gọi là mở thoại, luôn luôn do một bên chủ động. Lúc kết thúc cũng do một bên chủ động đề ra gọi là kết thoại. Giữa phần mở thoại và kết thoại là phần trung tâm của cuộc thoại, gọi là thân thoại. Trong cuộc thoại cuối cùng của Truyện Kiều, thân thoại gồm năm lượt lời, kết thoại là bốn câu hứa hẹn của Kiều sẽ không chơi đàn nữa:
3211. Nàng rằng: –“Vì chút nghề chơi,
“Đoạn trường tiếng ấy hại người bấy lâu.
3213. “Một phen tri kỷ cùng nhau,
“Cuốn dây từ đấy về sau xin chừa.”....
-----------còn phần 4 và 5 em sẽ tìm thêm------------
 
L

lykem_1997

IV. TAM THOẠI – ĐA THOẠI.
Như trên đã nói tam thoại – đa thoại là những cuộc thoại có từ ba người trở lên. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng tam thoại khác về căn bản với song thoại. Tuy nhiên, trong cuộc tam thoại cũng chỉ có một người nói, hai người nghe còn lại có thể cùng là người tiếp nhận chính yếu cũng có thể có người là đối tượng trực tiếp có người là đối tượng gián tiếp (thứ yếu).
Cuộc thoại đầu tiên trong Truyện Kiều xảy ra sau hội Đạp Thanh, trước nấm mồ Đạm Tiên giữa ba chị em Thúy Kiều. Thúy Kiều chính là người mở thoại:
0059. Rằng: –“Sao trong Tiết Thanh Minh,
Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?”
Dẫn đến việc kể lại của Vương Quan về cuộc đời của Đạm Tiên:
0061. Vương Quan mới dẫn gần xa:
– “Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi,
“Nổi danh tài sắc một thì,
“Xôn xao ngoài cửa kém gì yến anh...
0079. “... Trải bao thỏ lặn ác tà,
Ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm!”.
Tiếp nhận lời kể này là cả hai chị em Thúy Kiều, Thúy Vân nhưng lời thoại tiếp lại là của Thúy Kiều đã sẵn mối thương tâm, nàng khóc lóc thương cho số phận khách má hồng rồi khấn khứa đề thơ đến nỗi Thúy Vân phải nhận xét:
0105. Vân rằng: – “Chị cũng nực cười,
“Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa!”
Tiếp theo là lời biện hộ của Thúy Kiều, lời Vương Quan khuyên nên chấm dứt câu chuyện:
0113.... “Ở đây âm khí nặng nề,
“Bóng chiều đã ngả dặm về còn xa.”
Và lời dẫn giải của Thúy Kiều rồi đến cảnh Dấu giày từng bước in rêu rành rành và lời kết thoại của Thúy Kiều:
0125. Mặt nhìn ai nấy đều kinh,
Nàng rằng: –“ Này thực tinh thành chẳng xa.
0127. “Hữu tình ta lại gặp ta,
“Chớ nề u hiển mới là chị em...”.
Nếu như cấu trúc cuộc song thoại giữa A và B có dạng AB AB AB thì cấu trúc của tam thoại phức tạp hơn nhiều. Các lượt lời giữa 3 người A, B, C không theo một trình tự xác định, A có thể nói cho cả B và C nghe, có thể nói cho riêng B hoặc C nghe. Trong mỗi tình huống có thể B và C cùng đáp lại, lại có thể chỉ một trong hai người đáp lại. Cuộc tam thoại thứ hai trong Truyện Kiều xảy ra sau buổi Thúy Kiều trao duyên cho Thúy Vân, nàng khóc lóc và ngất đi:
0763. Hỏi sao ra sự lạ lùng,
Kiều càng nức nở hở không ra lời.
0765. Nỗi nàng Vân mới rỉ tai:
– “Chiếc vành này với tờ bồi ở đây!”
0767. – “Vì cha làm lỗi duyên mày,
“Thôi thì việc ấy sau này đã em.
0769. “Vì ai rụng cải rơi kim?
“Để con bèo nổi mây chìm vì ai?
0771. “Lời con dặn lại một hai,
“Dẫu mòn bia đá dám sai tấc vàng.”
0773. Lạy thôi nàng mới rén chiềng:
– “Nhờ cha trả được nghĩa chàng cho xuôi.
0775. “Sá chi thân phận tôi đòi,
“Dẫu rằng xương trắng quê người quản đâu!”
Trong cuộc tam thoại này lúc đầu Kiều chưa nói được nên mở đầu bằng lời thoại của Thúy Vân đến lời của Vương ông và kết thoại bằng 3 câu của Thúy Kiều.
Theo thống kê của chúng tôi ở sau, trong Truyện Kiều có 73 cuộc thoại gồm đủ các thể loại, hết sức đa dạng.
 
L

lykem_1997

V. SỰ ĐA DẠNG CỦA CÁC HÌNH THỨC ĐỐI THOẠI TRONG TRUYỆN KIỀU
Ngoài những hình thức đối thoại như trên: đơn thoại, song thoại, tam thoại, đa thoại ta còn thấy trong Truyện Kiều có rất nhiều dạng đối thoại:
A. Đối thoại giữa người trần thế với người âm không chỉ trong giấc mộng mà cả khi tỉnh. Thúy Kiều nói chuyện với Đạm Tiên 4 lần thì 3 lần trong mộng còn một lần – lần thứ ba – trong cơn tuyệt vọng trước khi gieo mình tự tử trên sông Tiền Đường:
2623. –“Đạm Tiên nàng nhé có hay!
“Hẹn ta thì đợi dưới này rước ta.”
B. Có kiểu đối thoại trực diện mặt đối mặt lại có kiểu đối thoại gián tiếp. Người được nói đến ở xa nhưng người nói lại coi như là đang đứng ở trước mặt hoặc đang nghe mình nói. Đó là trường hợp khi Thúy Kiều trao duyên cho Thúy Vân, nàng như muốn nói cùng Kim Trọng đã về Liêu Dương:
0751. “Trăm nghìn gửi lạy tình quân!
“Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
0753. “Phận sao phận bạc như vôi?
“Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
0755. “Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
“Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”.
Ở đây ta thấy loại ngôn ngữ xóa nhòa khoảng không khi nhân vật thể hiện nỗi đau đớn thương xót đến tột cùng đối với người xa cách. Rồi trường hợp Vương ông than khóc kể lể về tình cảnh Thúy Kiều phải bán mình cho chàng Kim, ông đã kêu lên như muốn nói với chính con gái mình như thể nàng có thể nghe được lời ông nói:
2791. “Phận sao bạc bấy Kiều nhi!
“Chàng Kim về đó, con thì đi đâu?”
Trong những trường hợp này phát ngôn của nhân vật thể hiện nỗi đau đến cùng cực, đến độ đánh mất cả ý niệm về thời gian và không gian. Chính trong trường hợp đối thoại gián tiếp này, ngôn ngữ đã đảm nhiệm vai trò biểu đạt tình cảm như những lời độc thoại trong vở kịch.
C. Ngoài ngôn ngữ nhân vật tự nói về bản thân mình ta còn thấy trong đối thoại ở Truyện Kiều có ngôn ngữ nói về người khác mà “người khác“ ấy có thể là ngôi thứ hai tức là người nghe như khi Kiều nói với Tú bà:
1145.....Nhưng tôi có sá chi tôi,
Phận tôi đành vậy, vốn người để đâu?...
Và cũng có khi là ngôi thứ ba tức là người được nhắc đến như khi Thúy Kiều nói với Vương bà về Mã giám sinh:
0881. “...Xem gương trong bấy nhiêu ngày,
“Thân con chẳng kẻo mắc tay bợm già.
0883. “Khi về bỏ vắng trong nhà,
“Khi vào dùng dắng, khi ra vội vàng...
0887. “...Khác màu kẻ quý người thanh,
“Ngẫm ra cho kỹ như hình con buôn...”
D. Cũng là ngôn ngữ đối thoại gián tiếp nhưng lại có khi là ngôn ngữ đối thoại gián tiếp trong ngôn ngữ đối thoại trực tiếp của nhân vật xa lạ, như khi Thúy Kiều nghe câu nói của Sở Khanh:
1171. Sở Khanh lên tiếng rêu rao:
– “Nọ nghe rằng có con nào ở đây,
1173. “Phao cho quyến gió rủ mây,
“Hãy xem có biết mặt này là ai?”
Hắn biết là có Thúy Kiều ở đấy nhưng lại nói như không có nàng, đó là lời nói gián tiếp của Sở Khanh và qua câu hắn tường thuật lại tưởng như lời nói của một người khác mà hắn bịa ra là người này đã kể cho hắn nghe có con nào ở đây: Phao cho quyến gió rủ mây...
E. Lại cũng có khi là lời kể của nhân vật hay của người đối thoại nhắc lại lời dặn của một nhân vật thứ ba vắng mặt, đó là trường hợp Hoa Tì nhắc lại lời Hoạn thư cho Thúy Kiều biết khi nàng và Thúc sinh lén gặp nhau ở Quan Âm các:
1999. Bao nhiêu đoạn khổ tình thương,
Nỗi ông vật vã, nỗi nàng thở than.
2001. Dặn tôi: –“Đứng lại một bên!”
Chán tai, rồi mới bước lên trên lầu...
Chính loại ngôn ngữ đối thoại gián tiếp trên khi đến với chúng ta, những người thưởng thức, thường đã bị khúc xạ bởi ý đồ hoặc tình cảm chủ quan của người nói.
F. Nhiều khi Nguyễn Du đã sử dụng một thứ ngôn ngữ đối thoại gián tiếp theo kiểu tường thuật trực tiếp tức là lời nói của nhân vật này thuật lại nguyên văn lời nói của nhân vật thứ ba vắng mặt. Trường hợp này tác giả đã thể hiện thái độ khách quan của nhân vật khi phát ngôn. Như chúng tôi đã trình bày ở trên khi Vương Quan kể lại với hai chị về nàng kỹ nữ Đạm Tiên có nhắc đến người khách viễn phương là người hâm mộ nàng kỹ nữ xấu số thì trong lời kể, ta thấy Vương Quan đã nhắc lại chính lời nói của người khách viễn phương:
0073. Khóc than khôn xiết sự tình:
– “Khéo vô duyên bấy là mình với ta!
0075. “Đã không duyên trước chăng mà,
“Thì chi chút ước gọi là duyên sau.”
Ở đây ta lại thấy một kiểu đối thoại trong đối thoại với cấu trúc lồng hai cấp. Cũng như khi Thúy Kiều thuật lại cho Kim Trọng nghe lời nói của thầy tướng năm xưa, người đã đoán về vận mệnh sau này của cuộc đời nàng:
0413. Nhớ từ năm hãy thơ ngây,
Có người tướng sĩ đoán ngay một lời:
0415. –“Anh hoa phát tiết ra ngoài,
“Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa!”ø
Chính cái lối đối thoại trong đối thoại này tạo ra tính khách quan trong lời kể làm cho những nhân vật này của Nguyễn Du tuy chỉ xuất hiện trong một vài câu thông qua lời kể của một nhân vật trong truyện mà vẫn cụ thể sinh động. Những nhân vật chỉ thấp thoáng trong Truyện Kiều vẫn cho phép người đọc như được tiếp xúc gần gũi và để lại ấn tượng khó quên.
Ngôn ngữ kể chuyện trong Truyện Kiều mang đậm màu sắc chủ quan. Ngôn ngữ nhân vật tham gia kể chuyện bước đầu đã được cá tính hoá, mỗi người đều có một ngôn ngữ riêng. Lời kể của Vương Quan là lời kể của người có học vấn. Lời kể của Kiều là lời kể của một người từng trải, có ý thức sâu sắc về bản thân mình: Kiều kể cho mẹ nghe về Mã giám sinh bằng lời lẽ rất cụ thể...

VI. THÚY KIỀU QUA LỜI ĐỐI THOẠI CỦA CÁC NHÂN VẬT KHÁC
Đối với từng nhân vật, Nguyễn Du thường đưa ra cách đánh giá chủ quan của ông, qua cách dùng từ ngữ để mô tả nhân vật, thông qua lời ăn tiếng nói của họ: Các nhân vật tự bộc lộ chủ quan của chính mình. Nhưng ông còn cấp cho ta cái nhìn khách quan từ cách đánh giá của các nhân vật khác qua những lời đối thoại: mỗi nhân vật khi nói, khi nghĩ đều bị chi phối bởi những quan điểm, tình cảm của chính mình. Vậy mà trong các nhân vật Truyện Kiều có ngôn ngữ đối thoại thì có tới 12 nhân vật đều đánh giá tốt về Thúy Kiều: tất cả đều khen ngợi tài sắc, trí tuệ của nàng. Mỗi nhân vật, tùy theo cá tính, tình cảm, ngành nghề, mối quan hệ đối với Thúy Kiều mà nhìn nhận đánh giá nàng ở những góc độ khác nhau. Kim Trọng nhìn Thúy Kiều như một người yêu, một văn nhân đánh giá nàng. Ông thầy tướng ngay từ lúc Thúy Kiều còn thơ ngây đã vừa khen vừa báo trước tương lai cho nàng:
0415. Anh hoa phát tiết ra ngoài,
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa!
Với Mã giám sinh, Thúy Kiều là một món hàng nên hắn phải cân đo đong đếm thì quá rõ:
0639. Đắn đo cân sắc, cân tài,
Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ.
0641. Mặn nồng một vẻ một ưa,
Bằng lòng khách mới tuỳ cơ dặt dìu.
rồi:
0823. Mừng thầm: “ Cờ đã đến tay,
Càng nhìn vẻ ngọc, càng say khúc vàng.
0825. Đã nên quốc sắc thiên hương,
Một cười này, hẳn nghìn vàng chẳng ngoa...
Ơû đây chỉ xin nêu ra vài trường hợp.
Thúc sinh lúc đầu đến với Thúy Kiều như đến với một đối tượng để hưởng lạc:
1289. Sớm đào tối mận lân la,
Trước còn trăng gió, sau ra đá vàng.
1299. Miệt mài trong cuộc truy hoan,
Càng quen thuộc nết, càng dan díu tình.
1301. Lạ cho cái sóng khuynh thành,
Làm cho đổ quán xiêu đình như chơi....
Nhưng về sau nàng đã cảm hóa được chàng, chính Thúc sinh đã phải vượt qua bao gian khổ để đưa được Thúy Kiều ra khỏi lầu xanh, tuy Nguyễn Du không mô tả cặn kẽ mà chỉ ghi lại sự việc bằng một hai câu thơ đơn giản:
1373. Chiến, hoà sắp sẵn hai bài,
Cậy tay thầy thợ mượn người dò la.
1375. Bắn tin đến mặt Tú bà,
Thua cơ mụ cũng cầu hoà dám sao!
Khi Thúc ông bắt Thúc sinh phải từ bỏ Kiều, chàng đã có một thái độ đáng khen:
1395. Rằng: –“Con biết tội đã nhiều,
“Dẫu rằng sấm sét búa rìu cũng cam.
1397. “Trót vì tay đã nhúng chàm,
“Dại rồi, còn biết khôn làm sao đây!
1399. “Cùng nhau vả tiếng một ngày,
“Ôm cầm ai nỡ dứt dây cho đành.
1401. “Lượng trên quyết chẳng thương tình,
“Bạc đen thôi có tiếc mình làm chi!”
Rồi khi nhìn Thúy Kiều bị đòn thì Thúc sinh đã khóc lóc thảm thiết đến mức quan phủ phải cho ngừng trận đòn để hỏi thêm.Và sau đó chính ông quan cũng bị cảm hóa, thuyết phục cùng với Thúc ông. Đến nỗi chỉ xem bức tiên hoa, đọc bài thơ vịnh “cái gông” (Mộc già) của nàng, quan phủ đã phải:
1455. Khen rằng:–“Giá đáng Thịnh Đường,
“Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân.
1457. “Thực là tài tử giai nhân,
“Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn!...
Dẫn đến buổi lễ thành hôn giữa Thúc sinh với Thúy Kiều:
1465.Kíp truyền sắm sửa lễ công,
Kiệu hoa cất gió, đuốc hồng ruổi sao.
1467. Bày hàng cổ xuý xôn xao,
Song song đưa tới trướng đào sánh đôi...
Đối với Hoạn thư thì sao? Nguyễn Du không mô tả tài sắc của nàng tiểu thư con quan Lại bộ, nhưng ta cũng có thể biết rằng tài sắc nàng cũng vào loại khá. Nhất là những người như nàng vốn hay kênh kiệu, vậy mà Hoạn thư cũng không thể không khen ngợi Thúy Kiều, ngay lần đầu khi Thúy Kiều đàn cho Hoạn thư nghe:
1781. Tiểu thư xem cũng thương tài,
Khuôn uy, dường cũng bớt vài bốn phân.
Chính vì cái tài đàn này mà Hoạn thư đã đem Thúy Kiều ra hành hạ nhưng Hoạn thư cũng vẫn khen nàng trước mặt Thúc sinh:
1849. Rằng: –“Hoa nô đủ mọi tài,
“Bản đàn thử dạo một bài chàng nghe.”ø
Là tình địch của Kiều vậy mà Hoạn thư cũng phải khen nàng, không phải chỉ có một hai lần. Khi xem tờ thân cung của Thúy Kiều, Hoạn thư lại một lần nữa bị thuyết phục và đây là lời khen thực sự tự đáy lòng:
1897. Diện tiền trình với Tiểu thư,
Thoắt xem dường có ngẩn ngơ chút tình.
1899. Liền tay trao lại Thúc sinh,
Rằng: –“Tài nên trọng mà tình nên thương.
1901. “Ví chăng có số giàu sang,
“Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên!
1903. “Bể trầm chìm nổi thuyền quyên,
“Hữu tài, thương nỗi vô duyên lạ đời.”
Đặc biệt đến khi xem bản kinh Hoa nghiêm do Thúy Kiều chép thì có thể nói Hoạn thư đã hoàn toàn bị chinh phục:
1987. Khen rằng: –“ Bút pháp đã tinh,
“So vào với thiếp Lan Đình nào thua!
1989. “Tiếc thay lưu lạc giang hồ
“Nghìn vàng thật cũng nên mua lấy tài. “
Cho nên sau này khi ra trước cuộc báo oán của Thúy Kiều, Hoạn thư cũng không phải hổ thẹn khi bào chữa có câu cũng khá thành thực:
2369. Lòng riêng, riêng những kýnh yêu,
Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai...
Đối với nhân vật Hồ Tôn Hiến, hắn biết quá rõ tài sắc của nàng, chính hắn đã lợi dụng nàng cho âm mưu đánh lừa Từ Hải để sau này hắn còn trơ tráo bắt nàng hầu rượu, hầu đàn mà khen tài nàng:
2573. Hỏi rằng: –“Này khúc ở đâu?
“Nghe ra muôn oán nghìn sầu lắm thay!”
rồi:
2579. Nghe càng đắm, ngắm càng say,
Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình!
Rồi còn Đạm Tiên, sư Tam Hợp... đều yêu mến và đánh giá cao Thúy Kiều, tuy mỗi người một cách. Thúy Kiều được ngợi khen từ các nhân vật khác là một phần nhưng cái chính là nàng tự bộc lộ tài đàn, tài thơ, cách cư sử, lời ăn tiếng nói đến cách xét người, đoán việc qua ngòi bút mô tả của thi hào Nguyễn Du.
Chúng ta đã điểm qua ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều – một phương diện nghệ thuật thành công đặc sắc của kiệt tác (Về phần độc thoại nội tâm của các nhân vật , chúng tôi đã có một bài nghiên cứu riêng). Như ta đã thấy đặc điểm nổi bật của ngôn ngữ nhân vật trong Truyện Kiều là sự cá tính hóa rất cao, mỗi nhân vật Truyện Kiều đều có một lối nói riêng, một vốn từ riêng, không hề lẫn lộn. Ngôn ngữ của mỗi nhân vật đều đã được lựa chọn hết sức chính xác, tiêu biểu cho nếp nghĩ, nếp cảm và sự lựa chọn của tác giả không chỉ biểu hiện ở những từ không có khả năng thể hiện trực tiếp, cụ thể nội dung tư duy cảm xúc của các nhân vật, bởi ngôn ngữ nhân vật ở đây vừa tham gia vào việc thể hiện sự phát triển của các sự kiện vừa là nhân tố quan trọng góp phần tạo nên những tính cách nhân vật đa dạng, điển hình.
 
L

lykem_1997

Phân tích nhân vật Từ Hải trong "Truyện Kiều" - Nguyễn Du

Kiều bị lừa vào lầu xanh lần thứ hai, tâm trạng nàng vô cùng đau khổ và tuyệt vọng. May sao Từ Hải đột ngột xuất hiện, đã coi Kiều như một tri kỉ và cứu nàng ra khỏi lầu xanh. Hai người đều thuộc hạng người bị xã hội đương thời coi thường (một gái giang hồ và một là giặc) đã đến với nhau tâm đầu ý hợp trong một tình cảm gắn bó của đôi tri kỉ. Từ Hải đánh giá cao sự thông minh, khéo léo và nhạy cảm của Kiều. Kiều nhận ra Từ là đấng anh hùng hiếm có trong thiên hạ, là người duy nhất có thể giải thoát cho nàng. Nhưng dù yêu quý, trân trọng Từ Hải, Kiều cũng không thể giữ chân bậc anh hùng cái thế. Đã đến lúc Kiều để Từ Hải ra đi lập sự nghiệp anh hùng.

- KIẾN THỨC CƠ BẢNII

Từ Hải xuất hiện trong tác phẩm, trước hết là một anh hùng cái thế, đầu đội trời chân đạp đất. Khi cứu Kiều ra khỏi lầu xanh, là vì việc nghĩa, là vì trọng Kiều như một tri kỉ. Nhưng khi kết duyên cùng Kiều, Từ thực sự là một người đa tình. Song dẫu đa tình, Từ không quên mình là một tráng sĩ. Trong xã hội phong kiến, đã làm thân nam nhi phải có chí vẫy vùng giữa đất trời cao rộng. Từ Hải là một bậc anh hùng có chí lớn và có nghị lực để đạt được mục đích cao đẹp của bản thân. Chính vì thế, tuy khi đang sống với Kiều những ngày tháng thực sự êm đềm, hạnh phúc nhưng Từ không quên chí hướng của bản thân. Đương nồng nàn hạnh phúc, chợt "động lòng bốn phương", thế là toàn bộ tâm trí hướng về "trời bể mênh mang", với "thanh gươm yên ngựa" lên đường đi thẳng.

Không gian trong hai câu thứ ba và thứ tư (trời bể mênh mang, con đường thẳng) đã thể hiện rõ chí khí anh hùng của Từ Hải.

Tác giả dựng lên hình ảnh "Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng dong" rồi mới để cho Từ Hải và Thuý Kiều nói lời tiễn biệt. Liệu có gì phi lôgíc không ? Không, vì hai chữ "thẳng giong" có người giải thích là "vội lời", chứ không phải lên đường đi thẳng rồi mới nói thì vô lí. Vậy có thể hình dung, Từ Hải lên yên ngựa rồi mới nói những lời chia biệt với Thuý Kiều. Và, có thể khẳng định cuộc chia biệt này khác hẳn hai lần trước khi Kiều từ biệt Kim Trọng và Thúc Sinh. Kiều tiễn biệt Kim Trọng là tiễn biệt người yêu về quê hộ tang chú, có sự nhớ nhung của một người đang yêu mối tình đầu say đắm mà phải xa cách. Khi chia tay Thúc Sinh để chàng về quê xin phép Hoạn Thư cho Kiều được làm vợ lẽ, hi vọng gặp lại rất mong manh vì cả hai đều biết tính Hoạn Thư, do đó gặp lại được là rất khó khăn. Chia tay Từ Hải là chia tay người anh hùng để chàng thoả chí vẫy vùng bốn biển. Do vậy, tính chất ba cuộc chia biệt là khác hẳn nhau.

Lời Từ Hải nói với Kiều lúc chia tay thể hiện rõ nét tính cách nhân vật. Thứ nhất, Từ Hải là người có chí khí phi thường. Khi chia tay, thấy Kiều nói :

Nàng rằng : "Phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi".
Từ Hải đã đáp lại rằng :
Từ rằng : "Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình".

Trong lời đáp ấy bao hàm lời dặn dò và niềm tin mà Từ Hải gửi gắm nơi Thuý Kiều. Chàng vừa mong Kiều hiểu mình, đã là tri kỉ thì chia sẻ mọi điều trong cuộc sống, vừa động viên, tin tưởng Kiều sẽ vượt qua sự bịn rịn của một nữ nhi thường tình để làm vợ một người anh hùng. Chàng muốn lập công, có được sự nghiệp vẻ vang rồi đón Kiều về nhà chồng trong danh dự :

Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia".

Quả là lời chia biệt của một người anh hùng có chí lớn, không bịn rịn một cách yếu đuối như Thúc Sinh khi chia tay Kiều. Sự nghiệp anh hùng đối với Từ Hải là ý nghĩa của sự sống. Thêm nữa, chàng nghĩ có làm được như vậy mới xứng đáng với sự gửi gắm niềm tin, với sự trông cậy của người đẹp.

Thứ hai, Từ Hải là người rất tự tin trong cuộc sống :

Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì !

Từ ý nghĩ, đến dáng vẻ, hành động và lời nói của Từ Hải trong lúc chia biệt đều thể hiện Từ là người rất tự tin trong cuộc sống. Chàng tin rằng chỉ trong khoảng một năm chàng sẽ lập công trở về với cả một cơ đồ lớn.

Trong đoạn trích, tác giả đã sử dụng kết hợp nhuần nhuyễn từ Hán Việt và ngôn ngữ bình dân, dùng nhiều hình ảnh ước lệ và sử dụng điển cố, điển tích. Đặc biệt, nhân vật Từ Hải được Nguyễn Du tái tạo theo khuynh hướng lí tưởng hoá. Mọi ngôn từ, hình ảnh và cách miêu tả, Nguyễn Du đều sử dụng rất phù hợp với khuynh hướng này.

Về từ ngữ, tác giả dùng từ trượng phu, đây là lần duy nhất tác giả dùng từ này và chỉ dùng cho nhân vật Từ Hải. Trượng phu nghĩa là người đàn ông có chí khí lớn. Thứ hai là từ thoắt trong cặp câu :

Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.

Nếu là người không có chí khí, không có bản lĩnh thì trong lúc hạnh phúc vợ chồng đang nồng ấm, người ta dễ quên những việc khác. Nhưng Từ Hải thì khác, ngay khi đang hạnh phúc, chàng "thoắt" nhớ đến mục đích, chí hướng của đời mình. Tất nhiên chí khí đó phù hợp bản chất của Từ, thêm nữa, Từ nghĩ thực hiện được chí lớn thì xứng đáng với niềm tin yêu và trân trọng mà Thuý Kiều dành cho mình. Cụm từ động lòng bốn phương theo Tản Đà là "động bụng nghĩ đến bốn phương" cho thấy Từ Hải "không phải là người một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương" (Hoài Thanh). Hai chữ dứt áo trong Quyết lời dứt áo ra đi thể hiện được phong cách mạnh mẽ, phi thường của đấng trượng phu trong lúc chia biệt.
Về hình ảnh, "Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi" là một hình ảnh so sánh thật đẹp đẽ và đầy ý nghĩa. Tác giả muốn ví Từ Hải như chim bằng cưỡi gió bay cao, bay xa ngoài biển lớn. Không chỉ thế, trong câu thơ còn diễn tả được tâm trạng của con người khi được thoả chí tung hoành "diễn tả một cách khoái trá giây lát con người phi thường rời khỏi nơi tiễn biệt". Nói thế không có nghĩa là Từ Hải không buồn khi xa Thuý Kiều mà chỉ khẳng định rõ hơn chí khí của nhân vật. Hình ảnh : "Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng dong" cho thấy chàng lên ngựa rồi mới nói lời tiễn biệt, điều đó diễn tả được cái cốt cách phi thường của chàng, của một đấng trượng phu trong xã hội phong kiến.

Về lời miêu tả và ngôn ngữ đối thoại cũng có những nét đặc biệt. Kiều biết Từ Hải ra đi trong tình cảnh "bốn bể không nhà" nhưng vẫn nguyện đi theo. Chữ "tòng" không chỉ giản đơn như trong sách vở của Nho giáo rằng phận nữ nhi phải "xuất giá tòng phu" mà còn bao hàm ý thức sẻ chia nhiệm vụ, đồng lòng tiếp sức cho Từ khi Từ gặp khó khăn trong cuộc sống. Từ Hải nói rằng sao Kiều chưa thoát khỏi thói nữ nhi thường tình không có ý chê Kiều nặng nề mà chỉ là mong mỏi Kiều cứng rắn hơn để làm vợ một người anh hùng. Từ nói ngày về sẽ có 10 vạn tinh binh, Kiều tin tưởng Từ Hải. Điều đó càng chứng tỏ hai người quả là tâm đầu ý hợp, tri kỉ, tri âm.

Đoạn trích ngợi ca chí khí anh hùng của nhân vật Từ Hải và khẳng định lại một lần nữa tình cảm của Thuý Kiều và Từ Hải là tình tri kỉ, tri âm chứ không chỉ đơn thuần là tình nghĩa vợ chồng.
 
L

lykem_1997

Cảm nhận bài chiếc lược ngà!
Chúng ta đang sống trong một đất nước hoà bình, được sự dìu dắt, yêu thương của cha mẹ, được đùa vui dưới mái trường đầy ắp tiếng ca. Chúng ta có thể quên được chăng những trang sử hào hùng ấy, ngày các lớp cha anh đi trước đã hi sinh cả tính mạng. Máu của các anh đã nhuộm màu phì nhiêu cho đất nước, sự hi sinh tươi đẹp cho thế hệ chúng ta ngày hôm nay. Các anh đã hi sinh cả thể xác lẫn tinh thần, hi sinh cả những hạnh phúc mà lẽ ra các anh phải được hưởng. Chiến tranh, vùng trời của tan thương và chết chóc. Trong mưa bom lửa đạn, trong chất cay xè của mùi thuốc súng, tình cảm cao đẹp nhất của tình đồng chí đồng đội trào dâng. Những bùi ngùi dấu tận đáy lòng của những người cha lên đường chiến đấu gởi lại quê hương đứa con thân yêu nhất của mình để rồi trong giờ phút hiếm hoi giữa cuộc hành quân nỗi nhớ con không còn dấu được. Tình cảm thiêng liêng ấy càng mãnh liệt hơn trong tác phẩm “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng.
Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932, quê ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Trong kháng chiến chống Pháp, ông tham gia bộ đội, hoạt động ở chiến trường Nam Bộ. Từ sau năm 1945, tập kết ra Bắc Nguyễn Quang Sáng bắt đầu viết văn. Những năm chống Mĩ, ông trở về Nam Bộ tham gia kháng chiến và tiếp tục sáng tác văn học. Tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng thuộc nhiều thể loại : Truyện ngắn có “Con chim vàng”, “Người quê hương”, “Chiếc lược ngà”, “Người đàn bà đức hạnh”, “Vẽ lại bức tranh xưa”…
Các tiểu thuyết “Đất lửa”, “Mùa gió chướng”, “Dòng sông thơ ấu” được nhiều độc giả biết đến và đặc biệt là kịch bản phim nổi tiếng “Một thời để nhớ một thời để yêu”. Có lẽ vì sinh ra, lớn lên và hoạt động chủ yếu ở chiến trường miền Nam nên các tác phẩm của ông hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến cũng như sau hoà bình.
“Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một truyện ngắn viết về tình phụ tử sâu nặng của cha con ông Sáu sau chiến tranh. Đây là một truỵên ngắn giản dị nhưng chứa đầy sức bất ngờ như ta thường thấy ở văn của Nguyễn Quang Sáng. Đoạn trích SGK đã cho thấy một khoảnh khắc nhỏ mà trong đó có sự cao cả thiêng liêng về tình phụ tử .
“Chiếc lược ngà ” được viết vào năm 1966 khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ và được đưa vào tập truyện cùng tên. Nội dung văn bản trong SGK là cuộc gặp gỡ của anh Sáu - một người xa nhà đi kháng chiến. Mãi khi con gái lên tám tuổi, anh mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Bé Thu - con gái anh không nhận cha , trái lại đã đối xử lạnh nhạt, có lúc vô lễ với cha. Điều đó làm anh Sáu đau lòng, nhưng anh vẫn yêu thương con bằng tình cha con ruột thịt. Sau vài ngày ngắn ngủi sum họp gia đình, anh Sáu phải ra đi. Đến lúc ấy Bé Thu bỗng thay đổi thái độ. Em ôm chặt lấy cha không muốn cha con phải xa nhau .Mọi người ngỡ ngàng sửng sốt. Thì ra mấy ngày trước do nhìn thấy trên mặt anh Sáu có vết sẹo lớn, bé Thu thấy anh không giống cha chụp chung ảnh với mẹ. Nhờ bà ngoại giảng giải, Thu đã hiểu ra mọi chuyện, em cất tiếng gọi “Ba…ba!..” và hẹn “Ba mua cho con một cây lược nghe!”. Ở khu căn cứ, anh Sáu dồn hết tình cảm yêu quí nhớ con vào việc làm một chiếc lược bằng ngà voi để mang về tặng cô con gái bé bỏng. Nhưng trong một cuộc chiến đấu anh đã ngã xuống. Trước lúc nhắm mắt anh còn kịp trao cây lược cho người bạn, gửi về tận tay cho con. Truyện được viết theo lời kể qua cái nhìn của ông Ba - nhân vật xưng tôi. Tuy đây là một đề tài khá phổ biến trong văn chương nhưng chính vì thế mà giá trị nhân văn của truyện càng trở nên sâu sắc.
Truyện xoay quanh một kỉ vật đơn sơ mà vô giá ấy là chiếc lược ngà. Nhưng suốt cả câu chuyện, suốt những quãng đời, suốt cả cuộc đời ấy chỉ có một tiếng kêu, một tiếng kêu bình dị và thiêng liêng bậc nhất cõi đời này: tiếng cha!. Câu chuyện “Chiếc lược ngà” đã kể lại thật cảm động về cuộc gặp gỡ và những tình cảm của cha con anh Sáu. Hình ảnh anh Sáu đã để lại trong lòng người đọc nỗi cảm thông, yêu mến và những ấn tượng sâu sắc.
Cũng như bao người khác anh Sáu đi theo tiếng gọi của quê hương đã lên đường chiến đấu, để lại người vợ và đứa con thân yêu. Sự xa cách càng làm dâng lên trong anh nỗi nhớ nhung tha thiết đứa con gái mà khi anh đi nó chưa đầy một tuổi. Nỗi nhớ ấy đã trở thành niềm khao khát, mơ ước cháy bỏng trong lòng anh. Chính vì vậy mỗi lần vợ lên thăm là một lần anh hỏi “Sao không cho con bé lên cùng ?’’. Không gặp được con anh đành ngắm con qua ảnh vậy … Mặc dầu tấm ảnh đó đã rách nát, cũ kĩ lắm rồi, nhưng anh luôn giữ gìn nó vô cùng cẩn thận, coi nó như một báu vật. Còn đối với con gái Thu của anh thì sao? Từ nhỏ đến hồi tám tuổi nó chỉ được biết ba nó qua ảnh và qua lời kể của bà ngoại và má. Dù được sống trong tình yêu thương của mọi người nhưng có lẽ Thu cũng cảm thấy thiếu hụt một tình thương, sự che chở của người cha. Chắc bé Thu từng giờ từng phút trông chờ ba nó lắm nhỉ? Và tám năm trời là những năm tháng dài đằng đẳng ấy cũng làm tăng lên trong lòng hai cha con anh sáu nỗi nhớ nhung, mong chờ, anh Sáu ao ước gặp con, còn bé Thu ao ước găp bố.
 
L

lykem_1997

Thế rồi niềm ao ước ấy đã trở thành hiện thực. Anh Sáu được nghỉ phép. Ngày về thăm con, trên xuồng mà anh Sáu cứ nôn nao cả người. Anh đang nghĩ tới đứa con, nghĩ tới giây phút hai cha con gặp nhau như thế nào. Những điều ấy choáng hết tâm trí khiến anh không còn biết mình đang ngồi trên xuồng với người bạn. Khi xuồng vừa cập bến, anh Sáu đã nhón chân nhảy thót lên bờ. Người bạn đi cùng cũng rất hiểu anh nên không hề trách. Tôi không thể quên được giây phút vô cùng thiêng liêng và trọng đại của anh Sáu, là giây phút người cha mong chờ đứa con sẽ chạy tới ôm xiết lấy mình, là bước trở về sau bao xa cách…
Hẳn vì quá xúc động nên lúc ấy anh Sáu đã có những cử chỉ mà ngay cả người bạn của anh cũng không ngờ tới “giọng anh tập bập run run”, anh dang hai tay chờ đó con và sải những bước dài đến gần con. Tưởng rằng con bé sẽ chạy tới nhào vào lòng anh nhưng không ngờ bỗng nó hét lên “má…má” và bỏ chạy. Tại sao Thu lại có những hành động như vậy ? Nó yêu ba nó lắm cơ mà ? Nó mong ba về từng ngày từng giờ. Vậy mà tất cả đều lật ngược với nó. Ba nó thật đây, sao nó không nhận ? Hành động của con bé khiến anh sững sờ. Bao yêu thương, mong chờ mà anh dồn nén bấy lâu dường như tan biến hết chỉ còn lại trong anh là nỗi đau khổ vô bờ.
Nỗi đau ấy còn dày vò anh trong suốt ba ngày ở nhà. Ba ngày ở nhà anh Sáu không đi đâu xa mà chỉ quanh quẩn ở nhà chơi với con. Anh muốn dùng lời nói, hành động của mình để bù đắp những mất mát về tình cảm cho con bé. Dường như anh muốn bằng những cử chỉ và lời nói yêu thương tràn đầy âu yếm, anh sẽ xoa dịu đi những nghi ngờ, xoá tan những lạnh lùng của con bé đối với anh. Anh muốn ôm con mà nói rằng: “Ba yêu con nhiều lắm Thu à!” và có lẽ chắc anh cũng mong đứa con gái của mình có thể chạy sà vào lòng mà rằng “Con cũng yêu bố nhiều lắm ạ!” thế nhưng không… những gì anh từng mơ ước, từng suy nghĩ, giờ chỉ như giấc mơ không thật bởi chính thái độ của Thu đối với ba nó. Khi mẹ bảo nó gọi bố vào ăn cơm thì con bé đã nói trổng: “Vô ăn cơm!”. Câu nói của con bé như đánh vào tâm can anh, nhưng anh vẫn ngồi im giả vờ không nghe, chờ nó gọi “Ba vô ăn cơm.” Thế nhưng Thu vẫn bướng bỉnh không chịu gọi ba, đã vậy còn bực dọc nói mấy câu “Cơm chín rồi!” và “Con kêu rồi mà người ta không nghe”. Đến lúc này anh chỉ biết “nhìn con bé vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười. Có lẽ vì khổ tâm đến nỗi không khóc được, nên anh phải cười vậy thôi.” Tôi thoáng nghĩ đến cảm xúc lúc này và những câu hỏi xoay quanh anh. Tại sao thế nhỉ? Thu làm vậy là sao? Ba nó sao nó không chịu nhận? Nhìn nó tôi như có cảm giác nó cự nự, quyết không chịu gọi ba. Thái độ này thật không đúng với tình cha con xa cách bấy lâu, hay con bé đang giận ba vẩn vơ gì đó chăng?
Cao trào của câu chuyện càng nâng cao khi nồi cơm sôi, một mình nó bé, không thể tự nhấc nồi để chắt nước, nó đã phải cầu cứu đến người lớn. Tình thế khiến người đọc ngỡ rằng nó sẽ phải thua không thể “chiến tranh lạnh” được nữa – nó buộc phải gọi ba để giúp đỡ. Nhưng nó vẫn không chịu cất lên cái tiếng mà ba nó mong! Chỉ cần nói lên cái tiếng ba ấy thế thôi, là nó sẽ thoát khỏi thế bí. Nhưng quyết không! Nó vẫn hành động theo sự bướng bỉnh tự mình làm lấy một công việc nguy hiểm và quá sức! Nghĩa là nó không chịu nhượng bộ, không chịu thua cuộc. Điều ấy làm cho người cha, người bạn của cha và cả người đọc phải đau lòng. Còn gì đau khổ bằng người cha giàu lòng thương yêu con mà lại bị chính đứa con ấy chối bỏ!
Dưòng như sự lạnh lùng và bướng bỉnh của bé Thu đã làm tổn thương những tình cảm đang trào dâng tha thiết nhất trong lòng ông. Vì quá yêu thương con nên anh Sáu không cầm nổi cảm xúc của mình. Trong bữa cơm, cưng con, anh gắp cho nó cái trứng cá nhưng bất ngờ nó hất tung cái trứng ra khỏi chén cơm. Giận quá, anh đã vung tay đánh và quát nó. Có lẽ việc đánh con bé là nằm ngoài những mong muốn của ông. Tất cả cũng chỉ là do anh quá yêu thương con. Có thể coi việc bé Thu hết cái trứng ra khỏi chén như một ngoài nổ làm bùng lên những tình cảm mà lâu nay anh dồn nén và chất chứa trong lòng.
Nhưng khi ta hiểu ra thì lại thấy rằng : Chính cái hành động đáng ghét ấy lại vô cùng đáng quý. Chính thái độ ngang ngạnh đó lại là biểu hiện tuyệt vời của tình cảm người con dành cho cha. Đơn giản vì lúc bấy giờ trong trí nhớ thơ ngây của Thu thì cha em đẹp lắm. Vì bom đạn quân thù, cha mang sẹo trên mặt. Đấy là điều đau khổ vậy mà nó không hiểu, lại xa lánh khiến cha đau khổ thêm. Cô bé không tin, thậm chí còn ngờ vực, điều đó chứng tỏ cô bé không dễ tin người. Cả bạn của cha, cả mẹ xác nhận là cha nhưng không ai tháo gỡ được thắc mắc thầm kín trong lòng mình thì cô bé vẫn chưa gọi. Nó không đơn thuần là sự bướng bỉnh của một cô bé đỏng đảnh, nhiễu sách mà đó là sự kiên định, quyết liệt của một người có lập trường. Đây chính là cái mầm sâu kín sau này làm nên tính cách cứng cỏi, ngoan cường của cô giao liên giải phóng. Đến khi được bà ngoại giảng giải về cái thẹo trên má ba, thì Thu mới vỡ lẽ đó thực là ba mình. Hình ảnh người cha thân yêu trên ảnh, người cha kính mến mà cô ghi sâu trong lòng, đến lúc ấy mới nhập vào người đang xưng ba có vết thẹo dài đây. Đã vỡ lẽ thì tình yêu ba nhân lên gấp bội nhưng … đã muộn rồi. Song đến giây phút cuối cùng, trước khi anh Sáu đi xa thì tình cảm thiêng liêng ấy bỗng cháy bùng lên. Lúc ra đi, chân anh ngập ngừng không muốn bứơc. Hẳn rằng anh Sáu muốn ôm con, hôn con nhưng sợ nó lại giẫy đạp và bỏ chạy nên anh chỉ đứng đấy nhìn nó với cặp mắt trìu mến xen lẫn buồn rầu. Trong ánh mắt của anh, chất chứa bao yêu thưong mà anh muốn trao gởi tới con . “Thôi ba đi nghe con”. Phải chi bé Thu hiểu được ánh mắt của ba nó, hiểu được tâm trạng của ba nó lúc này nhỉ? Rồi bỗng nó chạy đến kêu thất thanh “Ba…a….a…ba!”. Tiếng kêu như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Tiếng kêu bật lên sau bao năm kìm nén, chờ đợi khắc khoải. Đó cũng là cái tiếng ba mà anh Sáu đã chờ đợi suốt tám năm trời xa con, đã chờ đợi suốt mấy ngày về bên con, ông đã tưởng chẳng thể còn được nghe thì bất ngờ nó thét lên. Nó vỡ ra còn lòng người đọc thì nghẹn lại. Người cha không cầm nổi nước mắt vì bất ngờ, vì sung sướng, vì thương yêu và vì cả sự éo le của tình cảm nữa. Cùng với cử chỉ “vừa kêu vừa chạy xô tới nhanh như một con sóc, nó nhảy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó, làn tóc tơ sau ót nó dựng đứng lên”. “Vừa ôm chặt lấy cổ ba, nó vừa nói trong tiếng khóc “Ba…ba…không cho ba đi nữa, ba ở nhà với con”. Nó ôm hôn anh Sáu và “hôn cả vết thẹo dài trên má của ba”, biểu hiện một tình yêu ruột thịt nồng nàn của đứa con đối với ba. Và khi nghe anh Sáu nói “Ba đi rồi ba về với con”, cô bé hét lên “không”, rồi hai tay xiết chặt cổ, dang cả hai chân quặp chặt lấy ba, đôi vai nhỏ run run! Chắc cô bé khóc. Phải chăng lúc ấy Thu thật sự thấy xót xa, ân hận về lỗi lầm của mình, thật sự thấy xót thương người cha đau khổ? Nó mếu máo “Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba…”. Tất cả lời nói thể hiện rõ tính cách của một cô bé bồng bột thơ ngây và chứng tỏ lòng yêu thương vô bờ của em đối với ba. Thật sâu sắc và cao đẹp biết bao. Có lẽ lúc này bé Thu đã trở thành một nguời lớn thực sự. Tất cả sự dỗi hờn của bé Thu lúc này đều chuyển thành lòng yêu thương sâu sắc ba nó. Trong cái ương ngạch, bướng bỉnh, trong cái giận dỗi và cả sự hối hận của Thu, ta vẫn thấy bé thật thơ ngây, thật đáng yêu. Về phần anh Sáu hạnh phúc đến với anh quá đột ngột khiến cổ anh nghẹn lại. Không kìm được xúc động, anh Sáu đã khóc. Giọt nước mắt của anh là giọt nước mắt của vui sướng, hạnh phúc. Và không muốn cho con thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con một tay rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc con…Thế là con bé đã gọi anh bằng ba. Ai có thể ngờ được một người lính đã dày đạn nơi chiến trường và quen với cái chết cận kề lại là người vô cùng mềm yểu trong tình cảm cha con. Sau bao năm tháng mong chờ, đau khổ, anh Sáu đã được đón nhận một niềm vui vô bờ. Bây giờ anh có thể ra đi với một yên tâm lớn rằng ở quê nhà có một đứa con gái thân yêu liôn chờ đợi anh, từng giây từng phút mong anh quay về.
Tình cảm của anh Sáu dành cho bé thu trở nên mãnh liệt hơn, cao cả, thiêng liêng và cảm động hơn bao giờ hết là việc anh tự tay làm chiếc lược nhà cho con gái. “Ba về! Ba mua cho con một cái lược nghe ba!”, đó là mong ước đơn sơ của đứa con gái bé bỏng trong giây phút cha con từ biệt. Nhưng đối với người cha ấy, đó là mong ước đầu tiên và cũng là duy nhất cho nên nó cứ thôi thúc trong lòng. Kiếm cho con cây lược trở thành bổn phận của người cha, thành tiếng gọi cầu khẩn của tình phụ tử trong lòng. Anh bật dậy như bỗng loé lên một sáng kiến lớn: làm lược cho con bằng ngà voi. Có lẽ không đơn thuần vì ở rừng rú chiến khu, anh không thể mua được cây lược nên làm lược từ ngà voi là một cách khắc phục khó khăn. Mà cao hơn thế, sâu hơn thế, ngà voi là thứ quí hiếm - chiếc lược cho con của anh phải được làm bằng thứ quý gí ấy. Và anh không muốn mua, mà muốn tự tay mình làm ra. Anh sẽ đặt và trong đấy tất cả tình cha con của mình. Kiếm được ngà voi, mặt anh “hớn hở như một đứa trẻ được quà”. Vậy đấy, khi người ta hoá thành con trẻ lại chính là lúc người ta đang hiện lên cái tư cách người cha cao quý của mình. Rồi anh “ngồi cưa từng chiếc răng lược, thận trọng tỉ mỉ và khổ công như người thợ bạc ”, “gò lưng tẩn mẩn khắc từng chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Anh thường xuyên “lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng thêm mượt”. Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ trở thành một nghệ nhân - nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trong đời cho nên chiếc lược ngà đã kết tinh trong nó tình phụ tử mộc mạc mà đằm thắm sâu xa, đơn sơ mà kỳ diệu làm sao!
Nhưng ngày ấy đã vĩnh viễn không bao giờ đến nữa. Anh không kịp đưa chiếc lược ngà đến tận tay cho con thì người cha ấy đã hi sinh trong một trận đánh lớn của giặc. Nhưng “hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được”. Không còn đủ sức trăn trối điều gì, tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho anh làm được một việc “đưa tay vào túi, móc cây lược” đưa cho người bạn chiến đấu thân thiết và cứ nhìn bạn hồi lâu. Nhưng đó là điều trăn trối không lời, nó rõ ràng là thiêng liêng hơn cả một lời di chúc, bởi đó là sự uỷ thác, là ước nguyện cuối cùng của người bạn thân, ước nguyện của tình phụ tử! Bắt đầu từ giây phút ấy, chiếc lược ngà của tình phụ tử đã biến người đồng đội thành một người cha - người cha thứ hai của cô bé Thu.
 
L

lykem_1997

Các bạn ạ! Trong những ngày đen tối ấy, người sống phải sống bí mật cũng đã đành một lẽ còn người chết cũng phải chết bí mật nữa. Mộ của anh không thể đắp cao lên được, vì tìm thấy mồ mã bọn chúng sẽ đào lên và tìm ra dấu vết, cho nên ngôi mộ của anh là ngôi mộ bằng, bằng phẳng như mặt rừng vậy. Bác Ba bạn của anh đã lấy dao khắc vào một gốc cây rừng cạnh chỗ anh nằm làm dấu cho dễ nhớ. Sống như thế và chết như thế hỏi vậy làm sao mà chịu được. Chúng ta buộc phải cầm súng. Và bé Thu không còn là cô bé ngày xưa nữa mà là một cô giao liên thông minh, quả cảm. Thu đi theo con đường mà ba cô đã chọn. Thu đi để trả thù cho quê hương, cho cha mình đã bị bọn giặc giết hại.
Tuy anh Sáu đã hi sinh nhưng câu chuyện vè hai cha con anh sẽ còn sống mãi. Hình ảnh chiếc lược ngà với dòng chữ sẽ mãi là kỉ vật, là nhân chứng về nỗi đau, bi kịch của chiến tranh. Cảm ơn nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã khắc hoạ rõ nét tâm hồn, tình cảm của anh Sáu và bé Thu. Truyện dẫn người đọc dõi theo số phận và lòng quả cảm, dõi theo tâm tình của cha con một người chiến sĩ diễn ra hàng chục năm trời đi qua hai cuộc chiến tranh. Người còn, người mất nhưng kỉ vật, gạch nối giữa cái mất mát và sự tồn tại của chiếc lược ngà vẫn còn đây. Đây là minh chứng đối với chúng ta “cái mất mát lớn nhất mà thiên truyện ngắn đề cập đến là người đã khuất, là tổ ấm gia đình không còn tồn tại trọn vẹn trong thực tại. Đó là tội ác, là những đau thương, mất mát của chiến tranh xâm lược mà các thế hệ bạo tàn gây ra cho chúng ta. Song cái được mà chúng ta nhìn thấy là không có sự bi luỵ xaỷ ra, sức mạnh của lòng căm thù đã biến cô bé Thu trở thành một người chiến sĩ thông minh, dũng cảm, đã gắn bó cuộc đời con người có ít nhiều mất mát xich lại gần nhau để cùng đứng lên viết tiếp bản ca chiến thắng.
Gấp sách lại, chia tay với ông Ba, câu chuyện về “Chiếc lược ngà” với lời nói cuối cùng của ông - giọng trầm ấm khoan thai - cứ âm vang mãi trong bạn đọc chúng ta, như sự âm vang của một truyện cổ tích. Truyện cổ tích hiện đại đó đã thành công trong việc tạo tình huống truyện, miêu tả tâm lý, tình cảm nhân vật và giọng kể nhẹ nhàng, thấm thía truyền cảm. Ông Ba - người kể chuyện – hay chính là nhà văn Nguyễn Quang Sáng? Phải là người từng trải sống hết mình vì công cuộc kháng chiến của quê hương, gắn bó máu thịt với những con người quê hương giàu tình nghĩa, rất nhân hậu mà kiên cường, bất khuất, bất diệt, nhà văn mới nhập được vào các nhân vật, sáng tạo được nhiều hình tượng, chi tiết sinh động, bất ngờ, có được giọng văn dung dị và cảm động như vậy. Đồng thời truyện đã làm sống lại quãng thời gian giữ nước để thông qua đó tác giả muốn người đọc phải suy nghĩ và thấm thía nỗi đau, sự mất mát mà chiến tranh mang đến. Tình cảm cha con sâu sắc của cha con ông Sáu đã vượt qua bom đạn của chiến tranh để ngày càng thiêng liêng, ngời sáng và gắn bó chặt chẽ với tình yêu quê hương, đất nước. Qua cuộc đời nhân vật, từ cô bé Thu đến ông Sáu, ông Ba, Nguyễn Quang Sáng như muốn nói rẳng trong cuộc kháng chiến gian khổ chống ngoại xâm vừa qua của dân tộc ta, tình nghĩa con người Việt Nam, nhất là tình cha con, đồng đội, sự gắn bó thế hệ già với thế hệ trẻ, người chết và người sống… mãi mãi bất diệt. Như chiếc lược ngà ba tặng lại không bao giờ có thể mất, tình cha con của bé Thu cũng sẽ mãi mãi bất diệt!
 
L

lykem_1997

phân tích nhân vật Quang Trung – Nguyễn Huệ trong đoạn trích Hoàng Lê nhất thất thống chí.

Hoàng Lê nhất thống chí là văn bản viết về những sự kiện lịch sử, mà nhân vật chính tiêu biểu – anh hùng Quang Trung ( Nguyễn Huệ). Ông có một nét đẹp của vị anh hùng dân tộc trong chiến công đại phá quân thanh, với sự dũng mãnh, tài trí , tầm nhìn xa trông rộng thì Quang Trung quả là một hình ảnh đẹp trong lòng dân tộc Việt Nam.

Một con người có hành động mạnh mẽ và quyết đoán: từ đàu đến cuối đoạn trích , Nguyễn Huệ luôn luôn là người hành động một cách xông xáo mạnh mẽ, nhanh gọn, có chủ đích và rất quả quyết. nghe tin giặc đã chiếm thành Thăng Long, mất cả một vùng đất đai roongjmaf ông không hề nao núng, “ định thân chinh cầm quân đi ngay”. Rồi trong vòng chỉ một tháng, Nguyễn Huệ đã làm bao nhiêu việc lớn: “ tế cáo trời đất”, “lên ngôi hoàng đế”, “ đốc suất đại binh’’ ra Bắc gặp gỡ “người cống sĩ ở huyện La Sơn”, tuyển mộ quân lính và mở các cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ, định kế hoạch hành quân, đánh giặc và kế hoạch đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng.

Hơn thế nữa ông còn có một trí tuệ sáng suốt, nhạy bén:

Sáng suốt trong việc phân tích tình hình thời cuộc và thế tương quan chiến lược giữa ta và địch. Đưa ra lời phủ dụ có thể coi như bài hịch ngắn mà ý tứ thật phong phú, sâu xa, có tác động kích thích lòng người yêu nước và truyền thống quật cường của đân tộc.

Sáng suốt nhạy bén trong việc xét đoán và dùng người, thể hiện qua cách xử tri với các tướng sĩ tại Tam Điệp, khi Sở và Lân mang gươm trên lưng chịu tội. ông rất hiểu sở trường sở đoản của các tướng sĩ, khen chê đều đúng người đúng việc,…

Cùng với ý trí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng Quang Trung đã làm lên trang lịch sử hào hùng cho dân tộc. chỉ mới khởi binh đánh giặc chưa dành lại được tấc đất nào, vậy mà mà Quang Trung đã nói chắc như đinh đóng cột “ phương lược tiến đánh đã có tính sẵn”, lại còn tính sẵn cả kế hoạch ngoại giao sau khi chiến thắng nước lớn gấp 10 lần nước mình, để có thể dẹp chuyện binh đao, cho nước nhà yên ổn mà nuôi dưỡng lương thực.

Tài dùng binh như thần: cuộc hành binh thần tốc do vua Quang Trung chỉ huy đến nay vẫn còn làm chúng ta kinh ngạc. ngày 25 tháng chạp bắt đầu xuất binh ở phú xuân( Huế), một tuần lễ sau đã ra tận Tam Điệp cách Huế 500km. vậy mà đến đêm 30 tháng chạp hành quân ra Bắc vừa đi vừa đánh giặc vậy mà ông hoạch định là mồng 7 tháng giêng sẽ vào ăn tết ở Thăng Long, trong thực tế đã vượt mức hai ngày. Hành quân xa và đầy gian khổ như vậy nhưng cờ nào đội ấy vẫn chỉnh tề, răm rắp nghe theo chỉ huy.

Hình ảnh Quang Trung lẫm liệt trong chiến trận: Hoàng đế Quang Trung thân chinh cầm quân đánh giặc không phải chỉ trên danh nghĩa. Ông là một tổng chỉ huy chiến dịch thật sự hoạch định phương lược tiến đánh, tổ chức quân sĩ, tự mình thống lĩnh mũi tên tiến công, cưỡi voi đi đốc thúc, xông pha trước hòn tên mũi đạn, bày mưu tính kế…Đội quân của vua Quang Trung không phải là đội quân thiện chiến, lại vừa trải qua những ngày hành quân cấp tốc, không có thì giờ nghỉ ngơi, vậy mà dưới sự lãnh đạo tài tinhfcuar vị chỉ huy này đã đánh những trận thật đẹp, thắng áp đảo kẻ thù ( bắt sống hết quân do thám của địch ở phú Xuyên, giữ được bí mật để tạo thế bất ngờ, vây kín làng Hạ Hồi…) trận đánh Ngọc Hồi cho ta thấy rõ tài trí về chiến lược phong thái lẫm liệt của vua Quang Trung ( khói tỏa mù trời cách gang tấc không thấy gì mà chỉ nổi bật hinh ảnh của vua Quang Trung..có sách ghi chép lại áo bào đỏ của ông sạm đen khói súng..)

Từ những đoạn trích trên ta thấy hiện về trong lịch sử một nhân vật xuất chúng: lẫm liệt oai phong, văn võ song toàn đã ghi vào trang lịch sử vẻ vang của dân tộc, làm sáng ngời truyền thống dân tộc, ngàn đời sau vẫn nhắc tên người anh hùng áo vải Quang Trung.
 
T

tungprince1102

Ui trời ơi ! Quá tuyệt luôn. Đi tìm các bài văn để học, nay đã tìm được topic này không còn gì để nói. Hp quá ! Phải cảm ơn bác chủ Topic với mọi ng nhiều lắm đó ! Mai thi rồi mà có những bài ngắn gọn đầy đủ thế này mà học thì còn gì bằng. Topic rất ý nghĩa ! Cảm ơn nha ! :)
 
Z

zorrono1

2,Truyện ngắn hiện đại


Ông Hai là người làng chợ Dầu, nghe theo tiếng gọi của kháng chiến ông đi tản cư.Tại nơi tản cư ông luôn yeu làng và nhớ về làng ,ông hay sang gian bác Thư kể về những ngày họ cùng chiến đấu ở làng,hồi đó thạt vui biết bao.Lúc nào ông cũng nghe nghóng tin tức về làng ,vào buổi trưa hôm ấy nưhu thường thệ ông lên phong thông tin để nghe thông tin.Có biết bao nhiêu tấm guưong chiến đấu anh dũng ba miền ông vô cùng vui.Trên đưòng về nhà,ông ghé vào quán nước ven đường và gặp những ngưưoì tản cư mưói lên.Ông tình cờ nghe đựoc tin dữ:Làng chợ Dầu theo giặc" khiến ông vô cùng bàng hoàng da mặt tê rân rân,cổ họng nghẹ ắng lại ,ong cố gặng hỏi lại nhưng ngưưoì ta khẳng định lại thêm điều đó mà thôi,.Ông trả tiền nước rồi ra về ,về đến nhà ông nằm vật lên giường rồi suốt đêm ông ko ngủ trằn trọc nghĩ ngợi.Suốt mấy ngày sau ông ko dám đi đâu ,chỉ ru rú ở nhà sợ ngưưoì ta động đến 3 chữ làng chợ dầu.Ông vô cùng đau khổ và dằn vặt mõi khi vậy ông thường ôm thằng con út vào lòng và tâm sự .Ông băn khoăn không biết có nên vè làng hay ko nhưng sau đó ông gạt phắt đi vì làng thì yêu thật nhưng làng theo tây thì phải thù.Tin dữ đựoc cải chính ,ông như người sống lại,ông đi khoe tin ấy với tất cả mọi ngưòi, ai cũng mưùng cho ông.Ông thuật lại cả việc nhà ông bị đốt rồi ông hào hưúng kể về trận đấu như ông được tham gia.

hic


Ủa! Ông Hai đi là vì mưu sinh cuộc sống mà. Theo mình biết là vậy, có gì sai sót bỏ qua :d
 
M

mrnok12

trả lời lại

bạn làm thế này thì tui cảm ơn nhưng post thêm lên mấy bài văn nữa đc ko
tui ngu viết văn cần lắm POST lên hô tui cảm ơn nhìu nhìu
:D
:D
:D:p
@-)
:khi (15)::khi (45)::khi (45)::khi (45)::khi (45)::khi (45)::khi (15)::khi (15)::khi (15)::khi (15)::khi (15):
 
S

satthiendk1

Phần I:
1,Truyện Trung đại:
a,Hoàng lê nhất thống chí hồi 14
Lo sợ trước sự lớn mạnh ko ngừng của nghĩa quân Tây Sơn,Lê Chiêu Thống hèn hạ cầu cứu nhà Thanh.Tôn Sĩ Nghị dẫn 20 vạn quân Thanh vào Thăng Long mà ko mất một mũi ten hòn đạn nên rất kiêu căng tự đắc. Tôn Sĩ Nghị hứa với Lê Chiêu Thống mùng 6 sẽ làm cỏ quân Tây Sơn.Tướng Lân và Sở theo kế của Ngô Thì Nhậm rút về Tam Điệp ,mặt khác sai Văn Tuyết đi báo tin cho Bắc Bình vương ở kinh đô Huế.Nghe tin đó,Nguyễn Huệ vô cùng tức giận và lập tức lên ngôi vua lấy hiệu là Quang Trung .Xuất quân ngày 25 thì 29 đến Nghệ An.Tại đây QUang Trung chiêu lính cứ 3 suất đinh thì lấy 1 suất lính chẳng mấy chốc đã đựoc một đội quân tinh nhuệ.Nhà Vua chia quân thành 5 đạo và đọc hịch dụ binh.30 tháng chạp nghĩa quân hội tại Tam Điệp,trách phạt tướng bại trận nhưng nhà vua không quên động viên,khích lệ lòng quân .Tại Tam Điệp, Quang Trung đã nhìn thấu vận nứoc 10 năm sau và nhìn ra nhân tài Ngô THì Nhậm giao trọng trách hòa hiếu giữa hai nước cho ông .Vua cho quân ăn tết trước ,hẹn mùng 7 ca khúc hải hàon .Rạng sáng mùnh 3 tết ,đọa quân tiến sat và diệt gọn đồn Hà Hồi, tiếp tục mùng 5 tết tíêm đến dồn Ngọc Hồi tiến vào Thăng Long mà quân Thanh vẫn không hè biết ,nghĩa quân đại thắng.Lại nói về Tôn SĨ Nghị và vua tôi nàh Lê ,chúng đón tết mà không hề hay biết sự vũ bão của quân Tây Sơn .Tôn Sĩ NGhị sợ mất mật ngựa không kịp đóng yên ngưưoì ko kịp mặc áo giáp chạy về Phương Bắc .Đám tàn quân chạy theo làm gẫy cầu phao nòi rơi xuống tắc nghẽn sông Nhị Hà .Vua Lê sợ hãi đưa thái hậu cũng tùy tùng bỏ chốn cướp cả thuyền của dân ., đuổi kịp Tôn Sĩ Nghị nứoc mắt lã chã rơi vô cùng thê thảm.

b, Chuyện ngươic con gái Nam xương
Vũ Nương tên thật là Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương là ngưưoì con gái thùy mị nết na tư dung tốt đẹp nên Trương SInh đem lòng yêu mến bảo mẹ đem trăm lạng vàng cưới nàng làm vợ.Biết chồng có tính đa nghi Vũ Nương luôn giữ gìn khuôn phép ăn ở đúng mực.Đất nươc có chiến tranh, Trương SInh đi lính ,Vũ Nương ở nhà sinh con và nuôi con chăn sóc mẹ già.Mẹ Trương Sinh nhớ thương con mà ốm Vũ Nương hết lòng chăm sóc tận tình và khuyên lơn.Khi mẹ chồng chết ,Vũ Nương lo ma chay chu đáo như cha mẹ đẻ.Những tưởng hạnh phúc sẽ đén với nàng nhưng ngày nàng mong đợi là ngày nàng phải chịu một nỗi oan khó rửa sạch.Khi bế con ra mộ mẹ, Trương Sinh tình cơ biết con còn có một người khác mà đêm đêm vẫn đến, về đến nhà chàng mắng chửi thậm tệ và ruồng bỏ đuổi Vũ Nương ra khỏi nhà mặc cho hàng xóm và nàng đã hết sức thanh minh.Vũ Nư2,Truyện ngắn hiện đại

a,Bến quê:
Vào một buổi sáng đầu thu,Nhĩ được vợ con chăm sóc trên giường bệnh, anh ngước mắt nhìn ra ngoài cửa sổ khung cảnh vẫn vạy bình yên và tươi đẹp nhưng anh sắp phải từ giã nó đi về một nơi xa lắm.Nhĩ đã từng đặt chân lên khắp xó xỉnh của trái đất nhưng anh lại bị thu hút kì lạ bởi bãi bồi bên kia sông.Cũng ở đáy anh rước Liên về ,người vợ suốt đời chịu đựng hi sinh vì gia đình vì anh và con.Nhận sự chăm sóc chu đáo của vợ anh cảm thấy ân hận, day dứt vì những năm thàng qua ko chú ý đến gai đình nhiều hơn nay anh ốm yếu thì không thể làm gì nữa.Và trong anh bỗng dâng lên khao khát mãnh liệt muốn được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông.Biết mình không thể nào thực hiện được ước mong ấy, Nhĩ đã nhờ Tuấn-con trai anh, thực hiện giùm mình.Tuấn vâng lời ngoan ngoãn nhưng khi đi đến gần bến đò Tuấn lại sa vào đám cờ thế.ANh ko trách con trai cũng bởi vì hồi trẻ anh đã từng thế,Nhĩ đã chiêm nghiệm được một điều:"Con người ta trên đường đời không tránh khỏi những điều vòng vèo, chùng chình của cuộc sống".Nhĩ nghĩ rất có thể Tuấn làm nơã chuyến đò,nên anh dành hết tàn lực cuối cùng để đu ra ngàoi cửa sổ giơ hai tay khoát khoát y như ra hiệu cho một người nào đó đi nhanh hơn.

b,Làng

Ông Hai là người làng chợ Dầu, nghe theo tiếng gọi của kháng chiến ông đi tản cư.Tại nơi tản cư ông luôn yeu làng và nhớ về làng ,ông hay sang gian bác Thư kể về những ngày họ cùng chiến đấu ở làng,hồi đó thạt vui biết bao.Lúc nào ông cũng nghe nghóng tin tức về làng ,vào buổi trưa hôm ấy nưhu thường thệ ông lên phong thông tin để nghe thông tin.Có biết bao nhiêu tấm guưong chiến đấu anh dũng ba miền ông vô cùng vui.Trên đưòng về nhà,ông ghé vào quán nước ven đường và gặp những ngưưoì tản cư mưói lên.Ông tình cờ nghe đựoc tin dữ:Làng chợ Dầu theo giặc" khiến ông vô cùng bàng hoàng da mặt tê rân rân,cổ họng nghẹ ắng lại ,ong cố gặng hỏi lại nhưng ngưưoì ta khẳng định lại thêm điều đó mà thôi,.Ông trả tiền nước rồi ra về ,về đến nhà ông nằm vật lên giường rồi suốt đêm ông ko ngủ trằn trọc nghĩ ngợi.Suốt mấy ngày sau ông ko dám đi đâu ,chỉ ru rú ở nhà sợ ngưưoì ta động đến 3 chữ làng chợ dầu.Ông vô cùng đau khổ và dằn vặt mõi khi vậy ông thường ôm thằng con út vào lòng và tâm sự .Ông băn khoăn không biết có nên vè làng hay ko nhưng sau đó ông gạt phắt đi vì làng thì yêu thật nhưng làng theo tây thì phải thù.Tin dữ đựoc cải chính ,ông như người sống lại,ông đi khoe tin ấy với tất cả mọi ngưòi, ai cũng mưùng cho ông.Ông thuật lại cả việc nhà ông bị đốt rồi ông hào hưúng kể về trận đấu như ông được tham gia.

hic

em đến tăng độ cận
nhức mắt qua đi
mọi ngưưoì tham gia đi chứ
mỏi quá
tối nay mình ko online nên nhừo moịi ngưưoìhàon thiện
__________________ơng uất ức tự tử ở bên Hoàng Giang được tiên rẽ nối trở thành tiên.Ở nhà,đêm tối bóng chàng in trên vách thấy con gọi cha Trưong SInh mới vỡ lẽ ra nỗi oan của vợ thì quá muộn.Ở dưới thủy cung ,Vũ Nương luôn hướng về gia đinh nhừo sự giúp đỡ cua Linh Phi và pHan Lang (ngưưoì cùng làng) Vũ Nương đươc Trương Sinh lập đàn giải oan ở bến Hoàng Giang.Sự trở về của nàng vô cùng lộng lâỹ lúc ẩn lúc hiện rồi biến mất.
__________________
 
Z

zanzj

Giải thích ý nghĩa 1 số nhan đề :
1:Đồng chí
Bài thơ được đặt tên là''ĐC'' nhằm nhấn mạnh sức mạnh và vẻ đẹp tinh thần của người lính Cách mạng-những con người cùng chung cảnh ngộ,cùng chung chí hướng,lí tưởng,gắn bó keo sơn trong chiến đấu gian khổ thời chống Pháp.Tình đồng chí vừa là tình chiến đấu,vừa là tình thân.Đó là tiếng gọi sâu thẳm,thiêng liêng;là vật báu kết tinh những tình cảm đẹp,phải giữ gìn,trân trọng.
2:Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Bài thơ có 1 nhan đề khá dài,tưởng như có chỗ thừa nhưng chính nhan đề ấy lại thu hút ng đọc ở cái vẻ lạ,độc đáo của nó.Nhan đề bài thơ đã làm nổi bật rõ hình ảnh của toàn bài:những chiếc xe không kính.Hình ảnh này là 1 phát hiện thú vị của tác giả,thể hiện sự gắn bó và am hiểu hiện thực đời sống chiến tranh trên tuyến đường Trường Sơn
Bài thơ tưởng như thừa 2 chữ''bài thơ'' nhưng 2 chữ đó lại cho thấy rõ hơn cách nhìn,cách khai thác hiện thực của tác giả.Không phải chỉ viết về những chiếc xe không kính hay cái hiện thực khốc liệt của chiến tranh,mà điều chủ yếu tác giả muốn nhấn rõ,tô đậm là chất thơ của hiện thực ấy;chất thơ của tuổi trẻ hiên ngang,dũng cảm,trẻ trung,vượt lên thiếu thốn,gian khổ,hiểm nguy của chiến tranh.
3:Làng
Tên truyện là Làng mà không phải là ''Làng chợ Dầu''vì vấn đề tác giả đề cập tới không chỉ năm trong phạm vi nhỏ hẹp của 1 làng cụ thể
Đặt tên Làng vì truyện đã khai thác 1 tình cảm bao trùm,phổ biến trong con người thời kì kháng chiến chống Pháp:tình cảm với quê hương,đất nước.Tình cảm yêu làng,yêu nước không chỉ là tình cảm của riêng ông Hai mà còn là tình cảm chung của những ng dân Việt Nam thời kì ấy.
P/S:Nếu các p cần tkem mã tác phẩm nữa tkj pm vs mk,mk sẽ pose lên hen^^
 
A

amy099

[Văn 9] Phân tích bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu.

Nhà thơ Chính Hữu nổi tiếng trong thơ ca yêu nước thời chống Pháp với phong cách thơ bình dị, cảm xúc dồn nén, vừa thiết tha trầm hùng, vừa sâu lắng, hàm xúc. Nội dung sáng tác của ông chủ yếu tập trung vào hình ảnh người lính, đặc biệt là tình cảm đồng chí đồng đội và bài thơ tiêu biểu nhất là “Đồng chí” – 1 bài thơ nói về tình đồng chí đồng đội thắm thiết, sâu nặng của những người lính cách mạng, đồng thời còn hiện lên hình ảnh chân thực, giản dị mà cao đẹp của anh bộ đội cụ Hồ thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Bài thơ được đánh giá là tiêu biểu của thơ ca kháng chiến, giai đoạn 1946-1954, nó đã làm sang trọng hồn thơ chiến sĩ của Chính Hữu

Trước hết, ở đoạn đầu, với 7 câu thơ tự do dài ngắn khác nhau, có thể xem là sự lí giải về cơ sở hình thành tình đồng chí. Ở 2 câu đầu, tác giả đã nói lên sự giống nhau về hoàn cảnh xuất thân nghèo khó của 2 người lính:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Những người lính từ những phương trời khác nhau, không hề quen biết nhau, nhưng họ lại đồng điệu trong nhịp đập trái tim, trở thành thân thiết tự lúc nào:
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.”
Cùng tham gia kháng chiến chống Pháp với mục đích giành lại độc lập, tự do cho dân tộc, giữa những người lính đã nảy nở 1 thứ hình ảnh cao đẹp: tình đồng chí – tình cảm ấy không phải chỉ là cùng cảnh ngộ, mà còn là sự gắn kết trọn vẹn về cả lí trí lẫn lí tưởng và mục đích cao cả: cứu vớt non sông, giành lại độc lập. Hai câu thơ tiếp theo đã thể hiện rõ điều đó – sự giống nhau về mục đích, lí tưởng chiến đấu của 2 anh vệ quốc thời chống Pháp:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
Hai tiếng “đồng chí” kết thúc khổ thơ thật đặc biệt, sâu lắng, như một nốt nhạc làm bừng sáng cả bài thơ. “Đồng chí” là 1 tình cảm cách mạng mới mẻ chỉ có ở thời đại mới
Cả 7 câu thơ chỉ có duy nhất một từ “chung” nhưng bao hàm nhiều ý: chung giai cấp, xuất thân nghèo khó, chung cảnh ngộ khó khăn, thiếu thốn, chung trí hướng, khát vọng.
10 câu thơ tiếp theo diễn tả những hành động cụ thể về vẻ đẹp và sức mạnh của tình đồng chí đồng đội. Đó là sự cảm thông sâu xa những tâm tư, nỗi lòng thầm kín của nhau:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.”
Người lính đi chiến đấu để lại sau lưng những gì yêu quý nhất của quê hương : ruộng nương, gian nhà, giếng nước gốc đa,... Từ "mặc kệ"cho thấy tư thế ra đi dứt khoát của người lính. Nhưng sâu xa trong lòng, họ vẫn da diết nhớ quê hương. Ở ngoài mặt trận, họ vẫn hình dung thấy gian nhà không đang lung lay trong cơn gió nơi quê nhà xa xôi. Tình đồng chí không chỉ chia sẻ cùng nhau những niềm vui nỗi buồn hay các câu chuyện tâm tình nơi quê nhà mà còn giúp họ vượt qua nỗi nhớ quê hương, nhớ người thân. Tình đồng chí còn giúp họ vượt qua được mọi thiếu thốn về vật chất, tiếp thêm sức mạnh cho họ để cùng vượt qua những trận sốt rét rừng:
“Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.”
Những hình ảnh thơ được đưa ra rất chân thực, cô đọng và gợi cảm, diễn tả sâu sắc sự đồng cam cộng khổ của những người lính giúp các anh có thể vượt lên trên mọi thiếu thốn gian truân cực nhọc của đời lính cách mạng hào hùng:
“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày”
Họ đã tìm đến với nhau, nắm tay nhau, truyền hơi ấm cho nhau để cùng nhau vượt qua mọi gian khổ. Cử chỉ “thương nhau tay nắm lấy bàn tay” thật cảm động, chứa chan tình cảm chân thành
Bài thơ “Đồng chí” không rực rỡ chiến công mà rực rỡ tình ấm nóng
3 câu cuối của bài thơ là biểu tượng đẹp nhất, giàu chất thơ nhất về tình đồng chí, đồng đội cao đẹp:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.”
Tư thế chủ động chờ giặc, bất chấp cả hoàn cảnh thời tiết khắc nghiệt của người lính đã được Chính Hữu khắc họa rất thành công, đặc biệt là câu thơ cuối. Ý thơ ca ngợi sức mạnh của tình đồng đội giúp người lính vượt lên tất cả sự khắc nghiệt của thời tiết, tình đồng chí đã sưởi ấm lòng các anh giữa khung cảnh lạnh lẽo buốt giá. Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” là có thật trong cảm giác, được nhận ra từ những đêm hành quân phục kích chờ giặc của nhà thơ. Nhưng đây là hình ảnh đẹp và gợi nhiều liên tưởng phong phú: súng và trăng là xa và gần, là chiến sĩ và thi sĩ, là thực tại và mơ mộng,… Tất cả đã hòa quyện bổ sung cho nhau trong cuộc đời người lính cách mạng. Câu thơ ngư nhãn tự của cả bài thơ, vừa mang tính hiện thực, vừa mang sắc thái lãng mạn, là 1 biểu tượng cao đẹp của tình đồng chí thân thiết

Ngôn ngữ thơ cô đọng, hình ảnh chân thực, gợi tả, có sức khái quát cao, nhằm diễn tả cụ thể, sinh động 1 tình cảm cách mạng thiêng liêng: tình đồng chí – một tình cảm chân thực, ấm nóng, không phô trương mà lại vô cùng lãng mạn và thú vị. Bài thơ giống như 1 lời tâm tình tha thiết, đánh dấu 1 bước ngoặt mới cho khuynh hướng sáng tác của thơ ca kháng chiến, đặc biệt là cách xây dựng hình tượng người lính cụ Hồ trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
 
Top Bottom