[Văn 9]: Những đề bài có thể các bạn sẽ cần

H

hoabattu1072000

" Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se "
Một mùi hương thoang thoảng của ổi chín được hoà quyện trong làn gió se lạnh của tiết trời đầu thu. Tác gỉ thật sự ngỡ ngàng trước sự hoà quyện ấy. Không những thế, Hữu Thỉnh còn cảm nhận được những làn hơi sương đang nhẹ nhàng giăng mắc đâu đây.
" Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về".
Với hình ảnh tả thực : "ngõ" đã tạo nên một sự giăng mắc thật nhẹ nhàng và cả sự giao hoà từ cuối hạ sang đầu thu. SỰ biến chyển của đất trời đã được Hữu Thỉnh cảm nhận với hương vị đặc trưng của thiên nhiên, cây cỏ, cảm nận qua hơi se lạnh của gió, của sương vào thời khắc giao mùa này. Bằng các giác quan và cảm nhận tinh tế của mình, Hữu Thỉnh đã bộc lộ được tâm trạng ngỡ ngàng, ngạc nhiên của mình khi thu về : bỗng, hình như. Hình ảnh hương ổi thoảng vào trong gió se lạnh - 1 mùi hương thật khó tả và chắc hẳn ai đi xa cũng sẽ nhớ về nó. Sương chùng chình, giăng mắc qua ngõ là một hình ảnh nhẹ nhàng, rõ rệt và tả thực bằng sự khéo léo của tác giả trong việc sử dụng từ láy "chùng chình" như để diễn tả rõ hơn về sự giăng mắc của làn sương ấy. Tất cả những hình ảnh trên được Hữu Thỉnh ghi lại thật sinh động bằng ngòi bút tài hoa và sắc sảo của mình.
 
C

chip_coi244

Đây là dàn bài chi tiết bài làng các bạn tham khảo chơi:
-Kim Lân thuộc lớp các nhà văn đã thành danh từ trước Cách mạng Tháng 8 – 1945 với những truyện ngắn nổi tiếng về vẻ đẹp văn hoá xứ Kinh Bắc. Ông gắn bó với thôn quê, từ lâu đã am hiểu người nông dân. Đi kháng chiến, ông tha thiết muốn thể hiện tinh thần kháng chiến của người nông dân
- Truyện ngắn Làng được viết và in năm 1948, trên số đầu tiên của tạp chí Văn nghệ ở chiến khu Việt Bắc. Truyện nhanh chóng được khẳng định vì nó thể hiện thành công một tình cảm lớn lao của dân tộc, tình yêu nước, thông qua một con người cụ thể, người nông dân với bản chất truyền thống cùng những chuyển biến mới trong tình cảm của họ vào thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
B- Thân bài
1. Truyện ngắn Làng biểu hiện một tình cảm cao đẹp của toàn dân tộc, tình cảm quê hương đất nước. Với người nông dân thời đại cách mạng và kháng chiến thì tình yêu làng xóm quê hương đã hoà nhập trong tình yêu nước, tinh thần kháng chiến. Tình cảm đó vừa có tính truyền thống vừa có chuyển biến mới.
2. Thành công của Kim Lân là đã diễn tả tình cảm, tâm lí chung ấy trong sự thể hiện sinh động và độc đáo ở một con người, nhân vật ông Hai. ở ông Hai tình cảm chung đó mang rõ màu sắc riêng, in rõ cá tính chỉ riêng ông mới có.
a. Tình yêu làng, một bản chất có tính truyền thông trong ông Hai.
- Ông hay khoe làng, đó là niềm tự hào sâu sắc về làng quê.
- Cái làng đó với người nồn dân có một ý nghĩa cực kì quan trọng trong đời sống vật chất và tinh thần.
b. Sau cách mạng, đi theo kháng chiến, ông đã có những chuyển biến mới trong tình cảm.
- Được cách mạng giải phóng, ông tự hào về phong trào cách mạng của quê hương, vê việc xây dựng làng kháng chiến của quê ông. Phải xa làng, ông nhớ quá cái khong khí “đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá…”; rồi ông lo “cái chòi gác,… những đường hầm bí mật,…” đã xong chưa?
- Tâm lí ham thích theo dõi tin tức kháng chiến, thích bìh luận, náo nức trước tin thắng lợi ở mọi nơi “Cứ thế, chỗ này giết một tí, chỗ kia giết một tí, cả súng cũng vậy, hôm nay dăm khẩu, ngày mai dăm khẩu, tích tiểu thành đại, làm gì mà thằng Tây không bước sớm”.
c. Tình yêu làng gắn bó sâu sắc với tình yêu nước của ông Hai bộc lộ sâu sắc trong tâm lí ông khi nghe tin làng theo giặc.
- Khi mới nghe tin xấu đó, ông sững sờ, chưa tin. Nhưng khi người ta kể rành rọt, không tin không được, ông xấu hổ lảng ra về. Nghe họ chì chiết ông đau đớn cúi gầm mặt xuống mà đi.
- Về đến nhà, nhìn thấy các con, càng nghĩ càng tủi hổ vì chúng nó “cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi”. Ông giận những người ở lại làng, nhưng điểm mặt từng người thì lại không tin họ “đổ đốn” ra thế. Nhưng cái tâm lí “không có lửa làm sao có khói”, lại bắt ông phải tin là họ đã phản nước hại dân.
- Ba bốn ngày sau, ông không dám ra ngoài. Cai tin nhục nhã ấy choán hết tâm trí ông thành nỗi ám ảnh khủng khiếp. Ông luôn hoảng hốt giật mình. Khong khí nặng nề bao trùm cả nhà.
- Tình cảm yêu nước và yêu làng còn thể hiện sâu sắc trong cuộc xung đột nội tâm gay gắt: Đã có lúc ông muốn quay về làng vì ở đây tủi hổ quá, vì bị đẩy vào bế tắc khi có tin đồn không đâu chứa chấp người làng chợ Dầu. Nhưng tình yêu nước, lòng trung thành với kháng chiến đã mạnh hơn tình yêu làng nên ông lại dứt khoát: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Nói cứng như vậy nhưng thực lòng đau như cắt.
- Tình cảm đối với kháng chiến, đối với cụ Hồ được bộc lộ một cách cảm động nhất khi ông chút nỗi lòng vào lời tâm sự với đứa con út ngây thơ. Thực chất đó là lời thanh minh với cụ Hồ, với anh em đồng chí và tự nhủ mình trong những lúc thử thách căng thẳng này:
+ Đứa con ông bé tí mà cũng biết giơ tay thề: “ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm!” nữa là ông, bố của nó.
+ Ông mong “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông”.
+ Qua đó, ta thấy rõ:
Tình yêu sâu nặng đối với làng chợ Dầu truyền thống (chứ không phải cái làng đổ đốn theo giặc).
Tấm lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng với kháng chiến mà biểu tượng của kháng chiến là cụ Hồ được biẻu lộ rất mộc mạc, chân thành. Tình cảm đó sâu nặng, bền vững và vô cùng thiêng liêng : có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai.
d. Khi cái tin kia được cải chính, gánh nặng tâm lí tủi nhục được trút bỏ, ông Hai tột cùng vui sướng và càng tự hào về làng chợ Dầu.
- Cái cách ông đi khoe việc Tây đốt sạch nhà của ông là biểu hiện cụ thể ý chí “Thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất nước” của người nông dân lao động bình thường.
- Việc ông kể rành rọt về trận chống càn ở làng chợ Dầu thể hiện rõ tinh thần kháng chiến và niềm tự hào về làng kháng chiến của ông.
3. Nhân vạt ông Hai để lại một dấu ấn không phai mờ là nhờ nghệ thuật miêu tả tâm lí tính cách và ngôn ngữ nhân vật của người nông dân dưới ngòi bút của Kim Lân.
- Tác giả đặt nhân vật vào những tình huống thử thách bên trong để nhân vật bộc lộ chiều sâu tâm trạng.
- Miêu tả rất cụ thể, gợi cảm các diễn biến nội tâm qua ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ đối thoại và độc thoại.
Ngôn ngữ của Ông Hai vừa có nét chung của người nông dân lại vừa mang đậm cá tính nhân vật nên rất sinh động.
C- Kết bài:
- Qua nhân vật ông Hai, người đọc thấm thía tình yêu làng, yêu nước rất mộc mạc, chân thành mà vô cùng sâu nặng, cao quý trong những người nông dân lao động bình thường.
- Sự mở rộng và thống nhất tình yêu quê hương trong tình yếu đất nước là nét mới trong nhận thức và tình cảm của quần chúng cách mạng mà văn học thời kháng chiến chống Pháp đã chú trọng làm nổi bật. Truyện ngắn Làng của Kim Lân là một trong những thành công đáng quý.
 
C

cobeiuvan

Cho em đóng góp bài "SAng thu" đc không vậy;;), bài nì tự làm nghenz

"Sang Thu" mang cảm xúc bâng khuâng, vấn vương trước đất trời trong trẻo đang biến chuyển nhẹ nhàng. "Sang thu" bắt đầu bằng n~ cảm nhận của nhà thơ trước tín hiệu giao mùa.

Nếu như thu trong thơ Xuân Diệu bắt đầu với "sắc mơ phai" dệt giữa muôn ngàn cây.
Đây mùa thu tới, mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng
(Đây mùa thu tới)
Thì với Hữu Thỉnh, đó là:
Bông~ nhận ra hương ôi?
Phả vào trong gió se
Bất ngờ, ngỡ ngàng biết bao khi nhà thơ phát hiện ra hương vị thơm đượm, nông` nàn giữa cais nhẹ nhàng, se se lạnh của cơn gió heo may đương thưở non tơ. Cái hương vị ấy của vườn mẹ cứ ngào ngạt phả vào không gian, cuốn vào khứu giác thi nhân, thấm đến tâm hôn` người đọc mà gieo vào lòng đọc giả và nhà thơ n~ cảm xúc riêng, mới lạ và độc đáo. Nếu như "Thu điếu" của Nguyễn Khuyến đương thú vị ở các "điệu xanh" thì bông~ buông môt điệu vàng của chiếc lá thu rơi; "Tiếng thu" của Lưu Trọng Lư long lanh với sắc thu vàng trầm buồn trong thơ mới; và cả tác phẩm häi họa "Mùa thu vàng" nôi? tiếng của Lêvitan cũng lấp lánh 1 sắc vàng rực rỡ; thì "Sang thu" mới hơn, lạ hơn. Bởi Hữu Thỉnh ko chấm lên đó 1 mảng màu vàng nhưng trong cái vị nông` nàn thơm đượm của hương ôi?, ta vẫn cảm nhận được cái vàng ươm thi vị ấy. Sương chậm rãi, dềnh dàng, giăng mắc nơi đầu thôn, ngõ xóm như chào đón thu về. Những cảm nhận tinh tế của nhà thơ cứ thế cuôn` cuộn chảy trên trang giấy.
Sương chùng chình qua ngõ
Sưong "chùng chình" qua ngõ, đủng đỉnh, rề rà như đợi chờ hè qua. Là làn sương mỏng manh như tơ liễu buông mành, mát mẻ và đậm chất thu. Sự vật sang thu đậm tình cảm cảm xúc, để thi nhân bất chợt cất lên tiếng reo khe khẽ:
Hình như thu đã về
1 cảm giác mơ hô`, hoài nghi thấp thoáng trong cảm nhận của nhà thơ nhưng lại gợi được sự mong đợi, chào đón thu;1 cảm nhận sâu lắng nhẹ nhàng đọng trong lòng thi nhân. Nhẹ thế mà thu-đang-về.
Trong "th­ương nhớ 12" Vũ Băng viết: "Đẹp quá đi, mùa xuân ơi-mùa xuân của Hà Nôi thân yêu, của Bắc Việt thương mến..." Phải là 1 con người yêu cuôc sông', gắn bó tha thiết với quê hương và yêu quê hương nông` nàn thì Vũ Bằng và Hữu Thỉnh mới có n~ vần thơ rung động lòng người đến vậy!
Khô? thơ t2 tiếp tục trong cái mạch cảm xúc mênh mang ấy của nhà thơ
Sông đc lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vôi. vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.
Dòng nc thu êm ả trôi, chầm chậm, nhè nhẹ, dịu dàng như chính chất thu mới đang lan tỏa trong ko gian. Ko còn là dòng nc xoáy hay dòng sông mùa hạ vùn vụt lao đầu về phía trước, mà đó là dềnh dàng, là từ tôn'. Nhưng khác hẳn với sự từ tôn' đáng yêu ấy là n~ cánh chim thu bắt đầu vôi. vã bay về phương nam tránh rét. Sự đôi' lập giữa 2 hình ảnh tạo nên 1 nét thu chân thực, sinh đông. Những cảm nhận của nhà thơ về thu bắt đầu rõ nét hơn, tinh tế hơn, tràn ra, hòa vào ko gian thu.
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Nhà thơ thấy đám mây ấy, sự vật ấy với những nét cựa quậy chuyển mình sang thu. Tưởng chừng ko gian chính là 1 bức mành mỏng manh, trong suôt', 1 sự ngăn cách vô hình, chia đám mây làm đôi, 1 nửa rực nắng mùa hạ, nửa kia dịu mát sắc thu. Những rung cảm tinh tế đến từng chi tiết nhỏ nhất. Cảm nhận sắc nét ấy còn là những hình ảnh thực, những cảm nhận dần đi vào lí trí.
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuôi?
Vẫn còn mưa đấy, nắng đấy, sấm vẫn còn ầm ì trên các ngọn cây, vẫn còn dấu ấn của hạ nắng. Nhưng tất cả đã giảm về sô' lượng. Nắng ấy, mưa ấy, sấm ấy có lẽ chính là những mưa, những nắng, những sấm, những giông bão, vất vả lo toan của của cuộc đời mà nhà thơ đã cảm nhận đc.
2 dòng kết chính là thể hiện bàn tay tài hoa của tác giả.
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuôi
Phải chăng với những con người từng trải với mưa nắng cuộc đời thì họ đón nhận những thử thách ấy 1 cách vững vàng, bình tĩnh. Hai dòng thơ vẫn tả cái bước đi êm nhẹ của thiên nhiên, nhưng lại gợi suy nghĩ về con người.
Đó là 1 khúc sang thu vừa thơ mông, vừa bâng khuâng gợi vẻ triết lí.

Với 1 tâm hôn` lắng đọng và rung cảm tinh tế tr'c n~ tín hiệu giao mùa cùng 1 bút lực tài hoa Hữu Thỉnh đã góp 1 sắc thu mới_bâng khuâng và vấn vương mà ko trầm buôn`_vào làng thi ca hiện đại VN.
 
T

thedarkruller

Dạ em xin lỗi tại hôm ý em hơi nóng tý hôm ý đi học nhiều quá mà lại hơi mệt em xin lỗi các bác
 
Last edited by a moderator:
X

xt390

má ơi sao toàn mấy bác pro Văn vậy ta thế nhà bác ở đâu mai em mang sách vở đến học tập với em học văn ngu lắm phải nói là ngu như chó luôn.

Xin bạn đừng spam trong khu vực này và đừng có những từ ngừ xúc phạm như vậy. Người học văn khá là nhạy cảm đó!
Chị lolem ơi xoá dùm bài kia cho em với, xong xoá luôn bài em nữa, đây đâu phải là nơi nói chuyện phiếm???
 
H

hoabattu1072000

Đề 2 nha mấy bạn:
Bài làm:
Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ tiêu biểu cho thế hệ thơ trẻ trong những năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ của ông luôn mang đậm chất suy tư, cảm xúc dồn nén, thể hiện được những khát vọng của thanh niên. Và bài thơ : " Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ" ông sáng tác năm 1971 là một trong những bài thơ hay của ông. Bài thơ là một lời hát ru ngọt ngào chứa đựng tình yêu thương dạt dào của người mẹ Tà- ôi dành cho người con của mình.

Mỗi đoạn thơ trong bài là một khúc hát ru. Và cả bài thơ là một bài hát ru đăm thắm, ngọt ngào của mẹ.
Mở đầu bài thơ, hình ảnh người mẹ Tà-ôi địu con trên lưng, giã gạo nuôi bộ đội và cất lên những lời hát ru ấm êm để đưa em đến với giấc ngủ yên lành. Giấc ngủ của em nghiêng theo nhịp chày và thấm đẫm cả những giọt mồ hôi của mẹ. Người mẹ Tà-ôi thương con biết bao, đã lấy lưng mình làm nôi, đôi vai gầy làm gối để con được chìm trong giấc ngủ say.
Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng
Mồ hôi mẹ rơi, mà em nóng hổi
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời.
Những giọt mồ hôi của mẹ rơi ướt đẫm áo, ướt đôi má của em nhưng em vẫn ngủ ngon nhờ lời ru của mẹ, nhờ tình yêu thương bao la của mẹ và nhờ cả những giọt mồ hôi vất vả ấy.
Người mẹ Tà-ôi luôn nghĩ đến con mình ngay cả khi lao động. Đôi tay mẹ vẫn hăng hái làm việc còn trái tim mẹ vẫn hát lên những lời hát yêu thương ngọt ngào. Lời ru của mẹ hoà vào cùng nhịp chày giã gạo trước sân nhà và phải chăng đó cũng chính là lời tâm sự của mẹ với con mình.
Mẹ cất lên những lời hát ru trong những công việc hàng ngày của mình: giã gạo nuôi bộ đội, tỉa bắp và đạp rừng chuyển lán. Hình ảnh người mẹ chịu thương, chịu khó, thương yêu con và hết mực với kháng chiến. Những tình cảm mẹ dành cho con và cho kháng chiến được diễn tả thật rõ nét qua những lời hát ru ấy.
Bài thơ này không chỉ là những lời hát ru ngọt ngào của mẹ dành cho con mà còn là ước mơ, nguyện vọng của mẹ gửi gắm vào giấc mơ của con mình. Tình thương mẹ dành cho con cũng là tình thương dành cho bộ đội. Và ước mơ cho bộ đội cũng sẽ là niềm mơ ước cho con.
Trong mỗi hoàn cảnh, mỗi công việc khác nhau vì thế lời ru của mẹ mang đến cho con những ước mơ cũng khác nhau. Song tất cả đều mong về một tương lai tươi sáng hơn cho con. Khi mẹ giã gạo, mẹ mong con cho mẹ "hạt gạo tr8áng ngần", sau này con khôn lớn khoẻ mạnh và có thể "vung chày lún sân". Mẹ tỉa bắp trên úi dưới ánh nắng chói chang của mặt trời, mẹ mong con cho "hạt bắp lên đều" và có được sức mạnh để "phát mười Ka-lưi". Và khổ thơ cuối là niềm mong mỏi của mẹ về ý chí, niềm tin vào tương lai, là niềm mong mỏi chắp cánh ước mơ được thấy Bác Hồ của mẹ và sư5 khát khao về đất nước tự do.
Tinh thần đánh Mĩ đã đi sâu vào lòng mẹ và trong cả những câu hát ru. Đã biết bao em bé lơn lên trên lưng mẹ, được nghe trái tim mẹ cất lên những lời ru ngọt ngào.


Người mẹ Tà-ôi thật bình dị, đời thường nhưng đã trở thành biểu tượng đẹp đẽ về người phụ nữ Việt Nam, về người anh hùng dân tộc. Đất nước ta sẽ mãi nhớ đến hình ảnh người mẹ Tà-ôi địu con trên lưng, giã gạo nuôi bộ đội và cất lên những lời ru ngọt ngào, nồng hậu đến say người.
 
V

vuongtoandanphung

chúng ta còn phải có những tác phẩm như luc vân tiên và truyện kiều
 
S

strawberry_11316

de 1 ne`, các bạn xem và nhận xét dùm nhg theo mình thì đây là bài khá hoàn chỉnh

Từ cuối hạ sang đầu thu đất trời có nhg biến chuyển nhẹ nhàng mà rõ rệt. Sự biến chuyển này đã đc nt Ht gợi lên qua nhg cảm nhận đầy tinh tế trong khổ thơ đầu bài thơ sang thu.<1 câu nêu kq nd đoạn thơ> Tín hiệu đầu tiên mà nt cảm nhận dc ko phải là hoa cúc vàng hay bầu trời thu quen thuộc mà chính là hương ổi chín thơm phả vào trong cơn gió se đầu mùa chớm lạnh:<Luận><Trích 2 câu đâu>
<Bình>Từ "phả" là một từ ngữ hay và đắt diễn tả một hđ nhanh, mạnh nt đã ko tả mà chỉ gợi khiến cho hương đậm như sánh lại. Ko gian lúc này đẫm hương và lãng đãng sương:<luận> <Trích 2 câu tiếp>
<bình>"chùng chình" gợi màn sương giăng mắc, như có hồn, cố ý chậm lại, vừa mơ hồ, vừa động- chuyển động nhẹ nhàng. "Ngõ" vừa là ngõ thực vừa là ngõ cửa thời g thông giữa 2 mùa . Sương còn bâng khuâng lưu luyến như chưa bc hẳn sang thu chính vì thế mà nt chưa thể tin nổi câu thơ cuối như thầm hỏi ngỡ ngàng : " Dường như thu đã vể". Bằng biện pháp nt nhân hoá và cách sử dug từ ngữ rất hay và đắt Ht đã khiến mùa thu tựa như một cô gái nhẹ nhàng, đằm thắm đầy gợi cảm . Có thể nói bốn câu thơ đã thể hiện sâu sắc nhg xúc cảm tinh tế của tâm hồn thi nhân trc bc chuyển giao mùa.<1 câu kết nêu kq nd >=> Doan van 8-10 cau
 
Last edited by a moderator:
A

anhlavippzo

wa các bài văn của các bạn post lên thật là hay.sau đây mình có 1 bai văn kể về cuộc báo ân báo oán.đọc xong nhớ cho ý kiến nha:
Cuộc xử oán trong Kim Vân Kiều Truyện:

... Bấy giờ trong dinh bắt đầu nổi lên một tiếng trống hiệu, bọn lính tay cầm cờ mầu lam hô to lên rằng: Đem bọn phạm nhân lớp một vào hầu. Hạ Báo (một viên tướng của Từ Hải - ghi chú của Ngày Nay) liền dẫn Hoạn thị, Kế thị (tức mẹ của Hoạn Thư), Bạc Bà, Bạc Hãnh vào quỳ dưới sân.

Phu nhân bắt đầu tuyên bố tội trạng: Mụ Bạc Bà kia đẩy người vào trong cạm bẫy, còn tên Bạc Hãnh, bán người lương thiện vào nhà xướng ca. Vậy theo đúng lời thề trước của mi, lấy dao vằm nát thân thể, rồi cho ngựa ăn. Còn mụ Bạc thì đem chặt đầu bêu lên ngọn cây phía trước.

Bọn đao phủ được lệnh dạ lên một tiếng, tức thì lôi mụ Bạc Bà đem ra chặt đầu. Còn Bạc Hãnh thì dùng chiếu bó như bó củi, ngoài quấn dây thừng thật chặt, rồi hai người giữ, một người cầm cưa, cắt từ dưới chân lên đầu thành hơn 100 đoạn. Ghê thay một cái thân hình như vậy mà trong giây phút thịt nát như bùn, người coi ai cũng hoảng hồn chết ngất. Bọn đao phủ vào bẩm đã thi hành xong, phu nhân truyền đem đống thịt trộn lẫn với cỏ để cho ngựa ăn.

Kế đó, gọi đến phạm nhân họ Hoạn. Họan Thư chẳng còn hồn vía, kêu xin phu nhân tha thứ tính mạng kẻ hèn này.

Vương phu nhân rằng: Hoạn tiểu thư, nhà ngươi có nhiều mưu chước hay và cũng có gan nhẫn nại đó. Nhưng mà bất cứ việc gì cũng nên để lại chút tình, thì sau gặp gỡ khỏi ngượng. Vậy nay ngươi gặp lại ta, nhất định không thể sống được.

Hoạn Thư khấu đầu lia lịa thưa rằng: Tội của tiện thiếp thực đáng muôn chết, nhưng xin phu nhân nhớ lại trước kia phu nhân viết tờ cung trạng, làm thiếp tôi động mối tình thương, nên đã để phu nhân viết kinh trên Quan Âm Các. Rồi khi phu nhân bước ra khỏi cửa, thiếp chẳng hề đuổi theo. Cái đó đủ biết lòng riêng riêng vẫn kính yêu, chỉ vì thế bất lưỡng cập (tình thế không cho phép đứng đôi), nghĩa là không thể cắt sợi tơ tình chia lòng sủng ái, mà nó xui nên tội lỗi oan gia, dám xin phu nhân xét lại.

Vương phu nhân tỏ vẻ nghĩ ngợi một lát rồi nói tiếp: Ta đây chỉ muốn ăn thịt và lột da ngươi, để tiêu mối hận ngày trước. Nhưng giờ đây, sở dĩ ngươi được thoát chết là lúc ta đi ngươi chẳng đuổi theo, tỏ ý hé mở cửa lồng cho chim bay bổng. Nhưng còn tội sống thì ngươi không thể chối cãi được đâu. Vậy ta hỏi: Bọn sang Lâm Truy bắt ta là những tên nào? Cứ việc khai đúng sự thực, để chúng gánh bớt một phần tội lỗi cho ngươi.

Hoạn Thư cúi đầu thưa rằng: Những kẻ thi hành mưu kế dẫu là Hoạn Khuyển, Hoạn Ưng, nhưng người bầy ra mưu đó chính là tiện thiếp. Bọn chúng chẳng qua chỉ biết theo lệnh mà thôi. Nếu đem chúng ra gánh tội thay thì thiếp không nỡ.

Phu nhân rằng: Thế ra ngươi chính là phụ nữ dám nhận cả phần oan cừu vào mình đó chăng? Rồi nàng gọi quân đao phủ đem bọn Ưng Khuyển ra chém đầu để cảnh cáo những kẻ hào nô (nô bộc của phú hào) khác. Đao phủ dạ ran, lôi tuột hai tên ra chém đầu.

Phu nhân lại truyền tả hữu đem Kế thị ra nọc đánh 30 roi. Quân lính đương sắp ra tay thì Hoạn Thư ôm chầm lấy mẹ xin chịu đòn thay, và mụ quản gia (quản gia nhà mẹ Hoạn Thư, đã giúp đỡ Kiều khi nàng bị bắt về Vô Tích, và được Kiều tặng 100 lạng vàng, 2000 lạng bạc trong buổi báo ân xử oán - ghi chú của Ngày Nay) cũng vội quỳ xuống thưa rằng: Tội trạng của bà chủ tôi quả thực không thể tha thứ, vậy kẻ tớ già này xin tình nguyện thay chết cho chủ mẫu.

Phu nhân rằng: Thôi thì ta cũng nể lời mụ quản gia tha chết cho thị để mụ nhận lãnh đem đi.

Mụ quản gia tạ ơn rồi đỡ Kế thị ra ngoài dinh trại. Nhưng Kế thị năm ấy tuổi ngoài sáu mươi, lại là một vị nhất phẩm phu nhân, chưa từng gặp cảnh khổ nhục bao giờ mà nay bị bắt từ huyện Vô Tích giải đến, khổ sở biết bao, lại thấy ba quân giết người như rạ, trong khi tuổi nhiều sức yếu, mụ đã khiếp đảm chết ngay tức thì. Mụ quản gia đành ngồi một bên để trông nom thi thể.

Vương phu nhân thấy mụ quản gia đem Kế thị đi rồi, bèn truyền lệnh cho cung nữ đem Hoạn Thư ra, lột trần áo xiêm rồi treo lên đánh 100 trượng.

Cung nữ dạ ran, túm tóc Hoạn Thư lôi ra, lột hết áo quần, chỉ để chừa một cái khố, tóc bị buộc lên xà nhà. Hai tên cung nữ mỗi tên túm một tay để lôi giăng ra, hai tên khác thì cầm vọt ngựa đứng trước và sau, một tên đánh từ trên đánh xuống, một tên đánh từ dưới đánh lên, đánh như con đỉa bỏ trong thùng vôi, con lươn trong vạc nước nóng, luôn luôn dẫy dụa kêu trời. Toàn thân chẳng còn miếng da nào lành lặn. Sau khi cung nữ báo cáo đủ 100 roi, phu nhân truyền lệnh lôi ra cho Thúc Sinh nhận lãnh.

Cung nữ vâng lệnh, cởi tóc đem Hoạn Thư xuống, lôi ra phía ngoài gọi Thúc Sinh vào nhận. Thúc Sinh tạ ơn xong nhìn đến Hoạn Thư, thấy nàng chỉ còn thoi thóp thì chàng than rằng: Em ơi, chỉ vì cái khiếu thông minh của em đó mà phải rước lấy tai vạ, cầm dao cắt thịt của mình. Rồi một mặt thu nhận thi thể Kế thị, một mặt đỡ Hoạn Thư về chạy chữa đến nửa năm trời mới khỏi.

Kế đó Sử Chiêu (một tướng khác của Từ Hải) giải bọn Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh vào dinh.

Phu nhân hỏi: Tú Bà, mi có nhận được ta là ai không?

Tú Bà đáp: Kẻ hèn mọn này không nhận được ạ!

Phu nhân thét bảo: Mi hãy ngóc đầu lên nhìn xem ta là ai?

Quân sĩ dạ ran, túm tóc mụ kéo lật về phía sau. Bấy giờ mụ mới nhận rõ là Vương Thúy Kiều, thì luôn miệng kêu rằng: Tội của kẻ hèn mọn này thật đáng muôn lần bị chết chém. Chỉ xin phu nhân thương cho phần nào.

Phu nhân cười bảo: Lúc này mà mi còn mơ tưởng đến sự sống sao? Lời thề trước ngọn đèn trời ngày xưa hỏi đã tiêu tan thế nào được hử? Quân sĩ đâu, lôi con Tú Bà này ra, lấy dầu vông đun sôi để tẩm vào người, rồi dựng ngược cho đầu xuống đất, chân chổng lên trời, châm lửa đốt như ngọn đèn trời để làm tròn lời thề ngày trước. Mau lên!

Còn tên Mã Bất Tiến (tên thật của Mã Giám Sinh) thì kẹp chân tay vào mảnh gỗ cho căng thẳng ra, rồi rạch da và moi gân khiến cho tứ chi rời rạc, để ứng lời thề của nó. Ngoài ra, lại nấu một nồi dầu thông trộn lẫn với vỏ cây gai, đun thật sôi và lấy thùng nước lã lớn để bên, rồi đem Sở Khanh ra, lột hết áo xiêm, một người thì múc dầu thông đun sôi rưới vào mình hắn, một người thì lấy nước lạnh dội theo.

Quân sĩ được lệnh lôi ba phạm nhân ra ngoài. Tú Bà thì cuốn thành một cây sáp lớn. Phía dưới chỉ lộ cái đầu. Mã Giám Sinh thì bị căng xác. Sở Khanh bị quấn thành một thỏi sắt nguội.

Đoạn rồi phu nhân hô to: “Đốt sáp”, quân sĩ bèn châm lửa vào chân Tú Bà. Mụ mới bị châm một mồi lửa đã kêu đau ầm ĩ. Phu nhân mắng rằng: Mi cũng biết đau ư? Cớ sao ngày trước mi nỡ lòng hủy hoại da thịt người khác? Tú Bà chết ngất, không trả lời được nữa.

Kế đến Mã Giám Sinh, quân sĩ tìm chỗ chùm gân, lấy mũi dao nhọn khoét da, rồi dùng lưỡi câu móc vào đầu gân, dùng sức lôi mạnh một cái. Giám Sinh lập t******t tươi. Quân sĩ rút thêm ba bốn cái gân nữa làm cho thi thể Giám Sinh rời ra từng mảnh. Phu nhân bèn sai quẳng ra ngoài bể cho cá nóc ăn để báo lại tội bạc tình.

Còn Sở Khanh bị tẩm dầu thông và keo vỏ gai, bên trong tuy vẫn còn sống nhưng bên ngoài không cựa quậy được. Quân sĩ chạy đến bóc lột miếng vỏ gai nơi đầu ra, thì ngoài da đã bị dầu thông ăn loẽn, chẳng cần dùng sức, chỉ tuốt một cái thì lột hết da. Độ nửa giờ sau, thân thể Sở Khanh chỉ còn trơ lại một cục máu đỏ lòm nhưng vẫn còn thoi thóp. Phu nhân lại sai đem nước vôi rưới vào, tức thì toàn thân Sở Khanh nổi lên những cái mụn như là bọt nước. Rồi sau ít phút trở thành mủ, rã thịt lòi xương mà chết thê thảm...

· Cuộc xử oán trong Đoan Trường Tân Thanh:

Cuộc xử oán dông dài và man rợ trong Kim Vân Kiều Truyện được cụ Nguyễn Du tóm tắt qua 42 câu thơ:

Dưới cờ gươm tuốt nắp ra,

Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư.

Thoạt trông nàng đã chào thưa:

“Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây?

“Đàn bà dễ có mấy tay,

“Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan?

“Dễ dàng là thói hồng nhan,

“Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều”.

Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,

Khấu đầu dưới trướng, liệu điều kêu ca,

Rằng: “Tôi chút phận đàn bà,

“Ghen tuông thì cũng người ta thường tình,

“Nghĩ cho khi gác viết kinh,

“Với khi khỏi cửa, dứt tình chẳng theo,

“Lòng riêng, riêng những kính yêu,

“Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai.

“Trót lòng gây việc chông gai,

“Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng?”

- “Khen cho thật đã nên rằng

“Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời,

“Tha ra thì cũng may đời,

“Làm ra mang tiếng con người nhỏ nhen.

“Đã lòng tri quá thì nên...”

Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay.

Tạ lòng, lạy trước sân mây,

Cửa viên lại dắt một giây dẫn vào.

Nàng rằng: “Lồng lộng trời cao,

“Hại nhân, nhân hại, sự nào tại ta!”

Trước là Bạc Hãnh, Bạc Bà

Bên là Ưng, Khuyển, bên là Sở Khanh.

Tú Bà cùng Mã Giám Sinh,

Các tên tội ấy đáng tình, còn sao?

Lệnh quân truyền xuống nội đao,

Thề sao thì lại cứ sao gia hình.

Máu rơi thịt nát tan tành,

Ai ai trông thấy, hồn kinh phách rời.

Cho hay muôn sự tại trời,

Phụ người, chẳng bỏ khi người phụ ta!

Mấy người bạc ác tinh ma,

Mình làm mình chịu kêu mà ai thương.

Ba quân đông mặt pháp trường,

Thanh thiên, bạch nhật rõ ràng cho coi.

So sánh các đoạn trên trong Kim Vân Kiều Truyện và Đoạn Trường Tân Thanh, ta nhận thấy những điểm nổi bật sau:

- Trong Đoạn Trường Tân Thanh, Thúy Kiều tha tội hoàn toàn cho Hoạn Thư. Trong Kim Vân Kiều Truyện, Kiều tha tội chết nhưng ra lệnh đánh Hoạn Thư một cách dã man.

- Trong Đoạn Trường Tân Thanh, Thúy Kiều không sai quân sĩ bắt mẹ Hoạn Thư đem về trị tội như trong Kim Vân Kiều Truyện.

- Cụ Nguyễn Du chỉ tả cảnh xử tội Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Bạc Hãnh, Bạc Bà, và Ưng, Khuyển một cách vắn tắt chứ không chi tiết và tàn nhẫn như trong Kim Vân Kiều Truyện. Qua ngòi bút của cụ Nguyễn Du, chúng ta cảm thấy đồng tình với Kiều khi nàng tha bổng Hoạn Thư nên không phê phán nàng nặng nề khi nàng trả thù những nhân vật khác. Trái lại, khi đọc Kim Vân Kiều Truyện, có lẽ người đọc phải chau mày và có ý niệm chán ghét Kiều trước cách trừng trị dã man, tàn bạo, thiếu nhân tính nàng áp dụng đối với kẻ thù.

Ngoài phần xử oán vừa kể, trong toàn bộ câu chuyện, rất nhiều lần cụ Nguyễn Du đã loại bỏ những sự kiện có hại đến nhân phẩm của Thúy Kiều, và cả của các nhân vật quan yếu trong Kim Vân Kiều Truyện như Từ Hải và Kim Trọng. Điều này là một trong những yếu tố khiến chúng ta yêu thương những nhân vật này hơn.

***

Khi viết Đoạn Trường Tân Thanh, ngoài việc lược bỏ những đoạn hoặc rườm rà hoặc không cần thiết trong Kim Vân Kiều Truyện, cụ Nguyễn Du đã chứng tỏ biệt tài trong việc sử dụng ngôn ngữ qua những đoạn tả cảnh, tả tình, tả tình trong cảnh, tả cảnh trong tình; cũng như đã thành công trong việc miêu tả nhân vật và tô đậm cá tính nhân vật với chỉ vài câu thơ. Thêm nữa. cụ cũng đã trang bị cho các nhân vật một đời sống nội tâm phong phú với những suy tư, những khao khát, những rung động phù hợp với con người của họ theo từng hoàn cảnh của câu chuyện. Đây là những điều Thanh Tâm Tài Nhân đã thiếu xót khi sáng tác Kim Vân Kiều Truyện.

Chính tài nghệ của cụ Nguyễn Du đã cắt nghĩa được tại sao hai tác phẩm kể cùng một câu chuyện lại có hai số phận khác nhau. Một bên nhanh chóng chìm vào quên lãng ngay chính trên quê hương của nhân vật trong truyện, một đằng vừa xuât hiện đã được quần chúng mở rộng vòng tay đón nhận và trở thành tác phẩm bất hủ của dân tộc.


Mỏi tay wa' trời
 
T

thedarkruller

Cho em xin tất cả các nhan đề của tất cả các bài thơ và tác phẩm truyên với ạ
 
T

thedarkruller

Thế Không Ai post Cho em cái Nhan Đề Với a. Các bác pro văn đâu hết rồi em xin tất các ý nghĩa nhan đề bài thơ với ạ
 
A

anhlavippzo

Mình có 1 câu hỏi này hay hay nè mà có vẻ là đề thi tuyển sinh dễ vào lắm(cco dạy văn bảo thế^^):


So sánh hình ảnh người lính cách mạng qua hai bài thơ “Đồng chí” và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”.
Thí sinh cần nêu được 3 ý sau:
Ý 1: Giới thiệu chung
- Về đề tài: Dân tộc ta đứng lên tiến hành hai cuộc chiến tranh cách mạng oanh liệt chống Pháp và chống Mỹ. Lẽ tất nhiên, ở đất nước hơn ba mươi năm chưa rời tay súng. Hình ảnh anh “Bộ đội cụ Hồ” là hình ảnh “con người đẹp nhất” đáng yêu nhất trong văn thơ và là niềm tự hào lớn của dân tộc.
- Về hai tác phẩm: Cùng với nhiều bài thơ khác, bài thơ “Đồng chí” sáng tác vào đầu năm 1948 khi tác giả Chính Hữu chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc, bài thơ “Tiểu đội xe không kính” sáng tác năm 1969 khi tác giả Phạm Tiến Duật tham gia họat động ở tuyến đường Trường Sơn đã khắc họa thành công về đề tài người lính.
- Về luận đề: hình tượng anh bộ đội được ghi lại trong hai bài thơ đã lưu giữ trong văn chương Việt Nam hai gương mặt đẹp, đáng yêu của người lính trong hai thời kỳ lịch sử.
Ý 2: Phân tích lịch sử
1. Những điểm chung: Đây là người lính của nhân dân nên họ cùng mang những vẻ đẹp chung:
- Yêu nước, yêu quê hương yêu đồng chí:
+ Có thể phân tích các câu thơ “Giếng nước gốc đa nhớ người ra trận” (Đồng chí) và “Xe vẫn chạy vì miền nam phía trước” (Tiểu đội xe không kính).
+ Có thể phân tích cử chỉ nắm tay chất chứa bao tình cảm không lời trong cả hai bài thơ thể hiện sự gắn bó đồng chí
- Vượt qua mọi khó khăn gian khổ để quyết tâm tiêu diệt giặc hoàn thành nhiệm vụ:
+ Tất cả những khó khăn gian khổ, thử thách được tái hiện bằng những chi tiết hết sức thật, không né tránh tô vẽ trong cả hai bài thơ.
+ Thế mà, các chiến sĩ đều có một tư thế ngoan cường “chờ giặc tới”, “ung dung nhìn thẳng”.
- Lạc quan tin tưởng: Cả hai bài thơ đều thể hiện tinh thần lạc quan của người lính. Từ “miệng cười buốt giá” của anh bộ đội kháng chiến chống Pháp đến “nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” của anh lính lái xe thời chống Mỹ đều thể hiện tinh thần lạc quan, khí phách anh hùng.
2. Những điểm riêng khác nhau
- Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu thể hiện người lính nông dân thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp với vẻ đẹp giản dị, mộc mạc mà sâu sắc. Tình đồng chí thiềng liêng hòa quyện với tình giao tiếp khi lý tưởng chiến đấu đãa rực sáng trong tâm hồn.
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ
Đồng chí!”
- Bài thơ “Tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật thể hiện người lính lái xe trong cuộc kháng chiến chống Mỹ với vẻ đẹp trẻ trung, ngang tàng. Đây là thế hệ những người lính có học vấn, có bản lĩnh chiến đấu, có tâm hồm nhạy cảm, có tính cách riêng mang chất “lính”đáng yêu. Họ tất cả vì miền Nam ruột thịt với trái tim yêu nước cháy bỏng.
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Ý 3: Đánh giá chung
- Hình tượng người lính dù ở thời kỳ kháng chiến chống Pháp hay kháng chiến chống Mỹ đều mang phaẩm chất cao đẹp của “anh bộ đội cụ Hồ” thời đại đã cung cấp cho các nhà thơ nhưng nguyên mẫu đẹp đẽ, họ tại nên những hình tượng làm xúc động lòng người.
- Viết về những người lính, các nhà thơ nói về chính mình và những người đồng đội của mình. Vì thế, hình tượng người chân thật và sinh động
:)
 
H

hocmai_nguyenlan

các bạn giỏi văn ui! giúp mìh làm bài văn về nghi luận về 1 vấn đề tư tươg đạo lí yh. vd như câu tục ngữ "ăn wa? nhớ kẻ trồng cây". thaks các bạn trước nha, hjhj:):)>-
 
A

anhlavippzo

có ai giúp em đề văn này cái nhỉ:
B1:
em hãy giải thích nghĩa của các từ có trong bài thơ sang thu:phả, chùng chình, dềnh dàng, vội vã.(có vẻ câu này hơi dễ:) )
B2:
Qua bài thơ này em hiểu j về tâm trạng của nhân vật trữ tình?
B3:
hãy kể tên các bài thơ về mùa xuân
B4:
băng trí tưởng tượng của mình em hãy diễn đạt các câu thơ sau:
mặt trời xuống biển như hòn lửa
sóng đã cài then đêm xập cửa
Thank nhìu
 
T

thuyan9i

trời đất
đây là topic để các bạn vít bài chư ko phải hỏi
các bạn post xuống dưới kia kìa
có một tuần chả vào topic nè loạn quá
các bạn xuống dưói post nhé
 
B

baby_lucky69

có ai giúp em đề văn này cái nhỉ:
B1:
em hãy giải thích nghĩa của các từ có trong bài thơ sang thu:phả, chùng chình, dềnh dàng, vội vã.(có vẻ câu này hơi dễ:) )
B2:
Qua bài thơ này em hiểu j về tâm trạng của nhân vật trữ tình?
B3:
hãy kể tên các bài thơ về mùa xuân
B4:
băng trí tưởng tượng của mình em hãy diễn đạt các câu thơ sau:
mặt trời xuống biển như hòn lửa
sóng đã cài then đêm xập cửa
Thank nhìu

các câu 1,2,3 khá dễ. Tự làm nha!
Mình giúp câu 4 thou ^^
*Bài thơ mở đầu = khung cảnh người dân chài bắt đầu lao động khi trời tắt nắng và màn đêm buông xuống:
"mặt trời xuống biển như hòn lửa
sóng đã cài then đêm xập cửa"
Hoàng hôn buông xuống trên biển được tác giả phác họa như 1 bức tranh tuyệt đẹp! Phép so sánh trong câu thơ đầu, vẽ lên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ. " Mặt trời xuống biển" : nhìn từ mặt biển giống như hòn lửa chìm vào lòg đại dương. Câu thơ nói bước đi của thời gian và mở ra 1 không gian bao la, các phép nhân hóa :"sóg cài then"," đêm sập cửa" góp phần miêu tả cụ thể cái biên giới ngày đã qua, đêm sắp đến . Chính trên cái biên giới thời gian đó , khi cả vũ trụ đi vào trạng thái nghỉ ngơi thì đoàn thuyền đánh cá lại bắt đầu công việc của mình .
HOẶC:
Cảnh mặt trời lặn được miêu tả thật độc đáo , đầy ấn tượg :
"mặt trời xuống biển như hòn lửa
sóng đã cài then đêm xập cửa"
Ở nước ta, thường chỉ thấy cảnh mặt trời mọc trên biển. Như vậy, " mặt trời xuốg biển " là 1 cảnh tượng lạ, chỉ có thể nhìn thấy từ 1 hòn đảo ngoài khơi, họăc từ 1 con thuyền đang ra biển. Ngoài khơi xa, 4 bề là nước, nhìn phía tây chỉ có cảm giác mặt trời như 1 hòn than cháy hồng đang lặn xuống biển. Sau lúc hoàng hôn là màn đêm buông xuống. Trong câu thơ " Sóng đã cài then đêm xập cửa", Huy Cận đã có 1 liên tưởng thật bất ngờ : vũ trụ là 1 ngôi nhà lớn, màn đêm là tấm cửa khổng lồ và những lượn sóg là then cửa. Và đoàn thuyền ra khơi trog thời điểm ấy .


* MÌNH VỪA HOÀN THÀNH XONG MỘT SỐ BÀI QUAN TRỌG THƯỜNG GẶP TROG CÁC KỲ THI , (KỂ CẢ BÀI NÊU NHẬN ĐỊNH VÀ CHỨNG MINH NHẬN ĐỊNH ĐÓ ) .Đây là danh sách các bài mình vừa hoàn thành, bạn nào gặp khó khăn về bài nào thỳ pm để mình post nha ^^!tự làm 100 % ( cũng có 1 số ý nhờ cô sửa:D), chất lượng & đủ ý :D :cool:
1. Phân tích bài thơ " Viếng lăng Bác" của Viễn Phương.
2.Phân tích " Đoàn thuyền đánh cá" của Huy Cận.
3.Phân tích " Bài thơ về tiều đội xe hok kính " của Phạm Tiến Duật.
4.Phân tích bài thơ " Ánh trăng " của Nguyễn Duy.
5.Phân tích đoạn trích " Kiều ở lầu ngưng bích " .
6.Nhà văn Tô Hoài có nhận xét như sau về truyện ngắn của Nguyễn Thành Long:
" Mỗi truyện ngắn của Nguyễn Thành Log tươngtự nhue 1 mảng đời, 1 trag đời, 1 nét của cuộc sống chắt ra. Ta thường gặp ở Ng~ Thành Log những nhận xét nho nhỏ như nhắc khẽ người đọc."
Theo em, nhận xét trên có đúng với truyện ngắn " Lặng lẽ Sa Pa " không? Hãy phân tích trưện ngắn này để làm rõ ý kiến của em.
7.Cảm nhận cha con về tình cha con qua " CLN" của Nguyễn Quag Ság.
8.Phân tích đoạn trích " Chị em Tk" để thấy dc thành công trog nghệ thuật của ND.
9.Phân tích bài thơ " Đồng chí " của Chính Hữu .
10.Phân tích sự đối lập giữa cái ác và cái thiện qua nhân vật Trịnh Hâm và ông Ngư trog đoạn trích " LVT gặp nạn " của NĐC.
11... Mỏi tay quá, nói chung , tổng cộng là 18 bài .[/COLOR]
Lời khuyên chân thành từ baby :D: mình có mua 1 cuốn sách có nhan đề là " ĐỀ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 MÔN VĂN & NHỮNG CHỦ ĐỀ THƯỜNG GẶP " rất hay, bổ ích và đầy đủ đấy. :)&gt;- ( theo kinh nghiệm đọc sách của mình ^^):D
chứ các bạn cứ ngồi post rồi đọc thỳ .... mình cảm thấy khó nhớ ý và ... mất thời gian . ( có gì hok đúng thỳ bỏ qua cho mik` nhé :D)[/COLOR]

Không dùng chữ đỏ
 
Last edited by a moderator:
A

anhlavippzo

còn có ai có đề văn thi tuyển sinh lớp 10 nữa ko nhỉ?cho và gợi ý câu khó nghe!^^
 
H

hunkne_chut

mình cần đề thứ 6!baby_lucky69 pót cho mình xem với nà!Cám ơn trước!!!!!!!!!!!!!!!!
 
B

baby_lucky69

Đề 6 : Nhà văn Tô Hoài có nhận xét như sau về truyện ngắn của Nguyễn Thành Long:
" Mỗi truyện ngắn của Nguyễn Thành Log tương tự như 1 mảng đời, 1 trag đời, 1 nét của cuộc sống chắt ra. Ta thường gặp ở Ng~ Thành Log những nhận xét nho nhỏ như nhắc khẽ người đọc."
Theo em, nhận xét trên có đúng với truyện ngắn " Lặng lẽ Sa Pa " không? Hãy phân tích truyện ngắn này để làm rõ ý kiến của em.

-- > Cách làm đề này hok khó, đòi hỏi các bạn phải đọc kĩ đề bài có mấy ý, dựa vào dấu ". " để tách ý và ta chứng minh mỗi ý là ok .
Bài làm :
....Văn học bắt nguồn từ cuộc sống, văn học là tấm gương phản ánh cuộc sống muôn màu, muôn vẻ. Năm 1970 là giai đoạn mà miền Bắc đang thực hiện 2 nhiệm vụ : lao động xây dựng đất nước và chiến đấu để bảo vệ Tổ Quốc. Truyện ngắn " Lặng lẽ Sa Pa" ra đời trog giai đoạn này đã tái hiện cuộc sống lao động và chiến đấu của nhân dân ta. Truyện có giá trị hiện thực và giá trị giáo dục cao. Chính vì thế, khi nhận xét tác phẩm của NTL, nhà văn Tô Hoài ( TH ) có nói : " Mỗi truyện ngắn của Nguyễn Thành Log tương tự như 1 mảng đời, 1 trag đời, 1 nét của cuộc sống chắt ra.Ta thường gặp ở Ng~ Thành Log những nhận xét nho nhỏ như nhắc khẽ người đọc." Với tác phẩm của Nguyễn Thành Log , truện ngắn " Lnặg lẽ Sa pa " thật đúg với nhận định trên.
....Trước hết, nhà văn TH nhận định " Mỗi truyện ngắn của Nguyễn Thành Log tương tự như 1 mảng đời, 1 trag đời, 1 nét của cuộc sống chắt ra.". Thật vậy, khi đọc " LLSP" ta bắt gặp những mảg đời, những trag đời, nhữg nét của cuộc sống bình thường, họ là những con ng` b` thườg, ở các nhân vật ấy hok có gì là cườg điệu. Nhân vật chính của câu chuyện là anh cán bộ khí tượg kiêm vật lí địa cầu đag công tác ở Sapa: anh ấy có tính cách rất đáng yêu, những nhân vật phụ là bác lái xe vui vẻ, ân cần, niềm nở với khách, ông họa sĩ già đang trên đườg công tác thực tế trước khi về hưu , tìm đề tài để vẽ, cô kĩ sư trẻ mới ra trườg đag trên đườg nhận côg tác ở Sapa. Ngoài ra còn có các nhân vật ở tuyến sau. Ôg kĩ sư vườn rau dưới Sapa và anh cán bộ khoa học trên đỉnh Phan - xi - păng cao 3142m . Tất cả các nhân vật là nhữg người mà ta thườg thấy trog cuộc sốg hàg ngày , hay nói cách khác đi , các nhân vật trog truyện là nhữg con ng` b` thườg trog cuộc sốg đã bước vào truyện ngắn của Ng~ Thành Log 1 cách tự nhiên, hok gò bó, gượg ép.
....Tuy nhiên, hok phải câu chuyện nào trog cuộc sống tác giả cũng " bê " nguyên vào trog cuộc sốg tác giả cũg " bê" nguyên vào trog tác phẩm của mình , mà tất cả phải chắt lọc ra từ cuộc sốg tinh tế, đẹp đẽ. Những nhân vật trog tác phẩm là nhữg con ng` b` thươg` , nhưg họ có 1 cuộc sốg đẹp, cái đẹp đó trước hết là cái đẹp của tâm hồn. Anh thanh niên - cán bộ kiêm vật lí địa cầu cũg nhưu bao ng` khác, anh mog muốn có 1 cuộc sốg b` thườg nhưng nới làm việc của anh thì hok b` thườg chút nào, đó là đỉnh Yên SƠN cao 2600m, xug quanh là cây cỏ , may mù lạnh lẽo , hoag vắg , anh đã làm việc trog điều kiện như vậy. Nếu hok xác định lí tưởg sốg đẹp như vậy thì anh chẳg bao giờ chịu nhận công tác ở 1 nơi như thế !
....Hàg ngày , anh phải làm việc với 1 thời gian biểu hết sức nghiêm ngặt : 4h , 11h , 7h tối lại 1h ság, côg việc bộn bề, vất vả như thế, nhưg trog 4 năm trời , anh chưa bao giờ " ốp" sai giờ, nhờ anh phát hiện 1 đám mây khô mà " hok quân ta hạ được bao nhiu phẩn lực Mĩ trên cầu Hàm Rồg"
Hok chỉ làm tốt côg việc , anh còn tìm cách cài thiệc cuộc sốg của mình làm cho nó sinh độg hơn , phog phú hơn = cách đọc sách, trôg hoa, nuôi gà, ngôi nhà 3 gian luôn sạch sẽ , gọn gàng .
....Một nét đẹp # ở anh lag anh đã vượt qua cái cô đơn , buồn tẻ = cách tìm thấy niềm vui , ý nghĩa trog cuộc sốg , côg việc , anh chưa bao h nghĩ mik` cô đơn :" khi làm việc, ta với côg việc là đôi , sao gọi là 1 mik` được" , thật thán phục bởi câu nói tâm sự của anh với ôg họa sĩ : " côg việc của cháu là gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, chấu buồn đến chết mất "
....Ở anh còn có sự cởi mở, chân thành , chu đáo với mọi ng`, anh mừg bik bao khi có ng` đến thăm nơi anh ở. Anh đào củ tam thất tặg vợ bác lái xe, tặg hoa cho cô gái, ấm trà ngon cho khách, làn trứg gà cho mọi ng` ăn trưa . Qua đó cũg đủ thể hiện anh là ng` hiếu khách , nhân hậu, quý trọg tinh` cảm . Trog anh còn có sự khiêm tốn thật đág trân trọg, khi ôg họa sĩ vẽ châm dung anh, anh đã khéo léo từ chối vì cho rằg có nhiều ng` xứg đág hơn anh và anh đã nhiệt thành giờ thiệu về ôg kĩ sư vườnổau ở Sapa & anh cán bộ khoa học. Qua nhân vật anh thanh niên, tác giả muốn khẳg định vẻ đẹp của con ng` lao độg, vẻ đẹp ấy thể hiện côg việc thầm lặg , vẻ đạp ấy mag lại lợi ích cho đất nước , cộg đồg.
....Cô gái trẻ, ôg họa sĩ, bác lái xe đều là ngữg con ng` có cuộc sống đẹp, tâm hồn đẹp. Bác lái xe - 1 ng` vui vẻ , cởi mở, chu đóa với hành khách , cô gái trẻ từ bỏ mối tình hok xứg đág ở hà nội, tình nguyện lên vùg Sapa nhận côg tác, ông họa sĩ - trước khi nghỉ hưu , ôg vẫn đi 1 chuyến thực tế cuối cùg để tìm đề tài ság tác, ôg đã vẽ anh thanh niên , đề tài đó đã làm cho ôg rất nhọc bởi anh là thử thách trog hội họa nhưng ôg vẫn hoàn thành bức chân dug của anh. Họ đều là nhữg con ng` b` thườg nhưg có lí tưởg sốg đẹp , suy nghĩ và việc làm của họ thật như ng` ta mog mỏi ở thanh niên. Thêm vào đó là ôg kĩ sư ở vươn rau : cứ 9,10h ság, ôg thụ phấn cho hàg vạn củ su hào " để nhân dân toàn miền bắc nc' ta ăn được to hơn, ngọt hơn ". Hay là, đồg chí nghiên cứu khoa học , suốt 11 năm hok rời cơ wan , lúc nào cũg trog tư thế chờ sét " trán đồg chí cứ hói dần đi, nhưng cái bẩn đồ sét sắp xog rồi". Nét đẹp trog cuộc sốg hok chỉ thể hiện ở côg việc mà còn thể hiện ở tinh` thươg giữa con ng` với con ng` . 4 nhân vật trog câu chuyện gặp nhau 1 cách tình cờ , với thời gian ngắn ngủi 30' nhưg họ đã thân thiết với nhau như 1 gia đình. Có thể nói, nơi Sa pâ đầy sươg, mây mù lạnh lẽo nhất cũg là nơi nồg ấm tinh` người nhất.
....Nhà văn TH còn nhận xét : " Ta thường gặp ở Ng~ Thành Log những nhận xét nho nhỏ như nhắc khẽ người đọc.". Đọc xog, gấp sách lại, ta thườg có nhữg suy nghĩ : Ta ssóg vì ai ? Ta sốg như thế nào ? khi bắt gặp những cuộc đời trog[TEX] tp^2[/TEX] . Truyện ngắn " LLSP" hok đưa ra những côg thức , hok có những giáo điều khô khan mà thôg qua cuộc đời nhữg con ng` b` thườg, sốg đẹp. " Sp - nơi chỉ nghe tên, ng` ta đã nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi , lại có nhữg con ng` làm việc và lo nghĩ như vậy cho đất nc' .
...."LLSP " là 1 tác phẩm hay giàu chất thơ của NTL. Truyện vừa kết hợp hài hòa giữa phog cách tự sự với trữ tình. Ta hoàn toàn đồg ý với nhận định của TH : " Mỗi truyện ngắn của Nguyễn Thành Log tương tự như 1 mảng đời, 1 trag đời, 1 nét của cuộc sống chắt ra. Ta thường gặp ở Ng~ Thành Log những nhận xét nho nhỏ như nhắc khẽ người đọc.". Tác dụg của câu chuyện có tình giáo dục nhẹ nhàg nhưg sâu sắc và thấm thía, câu chuyện giúp ta hướg về cuộc sốg tốt đẹp hơn . ;)

RẤT VUI NHẬN ĐƯỢC CÁC LỜI NHẬN XÉT CỦA CÁC BẠN ĐỂ BÀI VĂN ĐƯỢC HOÀN CHỈNH HƠN ^^!
 
Last edited by a moderator:
Top Bottom