Hơn sáu mươi năm hoạt động và công tác, kể từ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, tôi đã trải qua nhiều công việc, nhiều địa bàn khác nhau; khi hoạt động bí mật, lúc chiến đấu trong vùng địch hậu; khi hoạt động trong nước, khi công tác ở nước ngoài Trong chiến tranh, có lúc tôi làm chính trị, có lúc chỉ huy chiến đấu… Đất nước hoà bình, tôi chuyển sang hoạt động trên lĩnh vực kinh tế, công nghiệp, giao thông vận tải - dịch vụ, xây dựng cơ sở hạ tầng… Cũng quãng thời gian đó, tôi từng đảm trúch nhiều cương vị công tác khác nhau: cấp xã, huyện, tỉnh, quân khu, binh đoàn, tổng cục, bộ, rồi Trung ương Đảng, Chính phủ, Quốc hội…
Ở mọi lĩnh vực, địa bàn hoạt động và công tác, tôi đều được Đảng giáo dục, dìu dắt, nhân dân đùm bọc, chở che; đồng đội, gia đình động viên, giúp đỡ. Về mình, tôi luôn nỗ lực rèn luyện, học hỏi, những mong hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ. Nhưng trong khó khăn, thử thách, tôi cũng từng nếm trải những thăng trầm. Bên cạnh những thành công cũng có việc chưa thành; với tôi, tất cả đều là "máu thịt" của mình và đều đáng trân trọng.
Với tập hồi ức "Đuởng xuyên Truởng Sơn" tôi muốn thể hiện ở đây chặng đường hơn mười năm hoạt động trong đạn bom khốc liệt nhưng rất đỗi hào hùng của tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh, cũng là quãng thời gian tôi ở cương vị phụ trách tuyến chi viện chiến lược đó.
Tập hồi ức "Đường xuyên Truởng Sơn" được thể hiện qua sự chắt lọc những mảng lớn ký ức, lthật ký công tác của bản thân và đóng góp của một số đồng đội đã từng chiến đấu. công tác ở Trường Sơn thời đánh Mỹ. các lực lượng trên tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh làm nhiệm vụ trong điều kiện đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh ngăn chặn với mọi quy mô đánh phá tàn khốc, kéo dài 16 năm, trên một không gian rộng xuyên qua địa bàn 20 tỉnh ở tây và đông Trường Sơn với địa hình cực kỳ phức tạp thời tiết vô cùng nghiệt ngã…
Chiến đấu trên tuyến chi viện chiến lược có gần 120 nghìn bộ đội và thanh niên xung phong, công nhân giao thông, các nhà khoa học, văn nghệ sĩ… được tổ chức và tác chiến theo phương thức binh chủng hợp thành để cùng một lúc thực hiện ba nhiệm vụ:
1. Phối hợp với các chiến trường miền Nam đánh địch, giải phóng dân, giải phóng đất đai và phát triển nhiều tuyến vận tải tiếp cận các chiến trường đông Trường Sơn; phối hợp với quân và dân eác nước bạn Lào, Campuchia đánh địch, giải phóng đất đai, xây dựng cơ sở cách mạng, bảo vệ và phát triển hành lang vận chuyển tây Trường Sơn.
2. Tổ chức vận tải thô sơ và cơ giới trên đường bộ, đường sông; tổ chức đường giao liên hành quân, đường thông tin, xây dựng tuyến đường ống xăng dầu… chi viện binh lực, vật lực cho các chiến trường Nam Đông Dương.
3. Xây dựng, bảo vệ, sử dụng căn cứ chiến lược đông - tây Trường Sơn phục vụ cho các chiến trường của ta và bạn.
Do đặc điểm và yêu cầu nhiệm uụ kể trên, nên mọi sự kiện lờn, nhỏ trên tuyến chi viện chiến lược diễn ra với tốc độ dồn dập, đan xen, liên quan đến nhiều đơn vị, nhiều người. Nhưng sự kiện, nhân vật mà tôi biết đến, nhớ được lại quá nhỏ nhoi so với những việc không biết, không nhớ. Cuốn hồi ức được hoàn tất quá muộn, khiến nhược điểm đó càng đậm thêm; cộng với khả năng thể hiện hạn chế, nên khó tránh khỏi thiếu sót. Mong bạn đọc, đồng chí, đồng đội lượng thứ và bổ khuyết.
Cảm ơn đồng chí, đồng đội, cả người đang sống và người đã mất, từng đồng cam, cộng khổ, sống và chiến đấu trên đường Trường Sơn đã tạo điểm tựa tinh thần, động viên, khích lệ tôi hoàn thành tập hồi ức của mình.
Xin được gửi những dòng hồi ức này - như nén hương thơm tới vong linh những cán bộ, chiến sĩ, đồng chí, bạn hữu đã anh dũng hy sinh, vĩnh viễn hoá thân vào đất đá, cỏ cây Trường Sơn những ngày đánh Mỹ.
Nhân tập hồi ức được xuất bản, xin cảm ơn các đồng chí: Nguyễn Duy Tường, Trần Kỳ Vân, Phan Hữu Đại, Trọng Khoát đã góp công thể hiện, tu chỉnh; cảm ơn Tổng công ty xây dựng Trường Sơn Ban biên soạn lịch sử Bộ đội Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh cung cấp tư liệu và nhiều đơn vị, cá nhân đã giúp đỡ để tôi hoàn chỉnh tập hồi ức. Cảm ơn Nhà xuất bản Quân đội nhân dân đã tạo điều kiện để tập hồi ức của tôi đến với bạn đọc đúng vào những ngày tháng 5 Kỷ Mão giàu ý nghĩa này.
1.Đầu năm 1965, đang là Phó tổng tham mưu trưởng, tôi được Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương đưa vàó làm Chính uỷ Quân khu 4.
Lúc này, chiến tranh không còn giới hạn ở nam phần vĩ tuyến 17. Kể từ sau ngày 5 tháng 8 năm 1964, ngày mà Mỹ dựng đứng lên cái gọi là "Sự kiện Vịnh Bắc Bộ rồi cho máy bay, tàu chiến ồ ạt tập kích hòng "trả đũa Bắc Việt", lửa chiến tranh đã cháy rực trên cả hai miền Nam - Bắc.
Hơn bất cứ nơi đâu trên miền Bắc, Khu 4 - rẻo đất tự bao đời lao đao bởi những thách đố dữ dằn của thiên nhiên, bởi binh đao giặc giã, nay lại đứng ở tuyến đầu cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.
Trưởng thành từ "những trận chiến đấu vỡ lòng" trên chính mảnh đất này, từng giữ nhiều cương vị chủ trì lực lượng vũ trang địa phương: xã, huyện, tỉnh; tiếp đó công tác ở cơ quan Bộ Quốc phòng, nay được trở về cùng quân và dân quê nhà đánh địch, mọi chuyện với tôi thật hợp lý, nhẹ nhàng? Điều trăn trở, thoáng chen chút lo lắng là chiến trường quen thuộc, nhưng kẻ thù mới là đế quốc Mỹ - tên sen đầm thế kỷ với bao cuồng vọng…, liệu tôi sẽ cùng đồng chí, đồng đội chèo chống sao đây trên cương vị công tác mới!
Ngày 6 tháng 1, chúng tôi lên đường khi chưa tỏ mặt người. Gió bấc cuối đông quất từng hồi ràn rạt, thổi tung đám lá vàng vừa lìa cành trong đêm. Khỏi Cửa Nam, xe cùng gió hút theo đường Nam Bộ. Một hồi còi tàu rú lên từ phía ga Hàng Cỏ như thúc giục. Tạm biệt Hà Nội thân yêu, phố phường như còn ngái ngủ, mà nhịp sống đã trào lên những tín hiệu vội vàng của một ngày mới.
Dọc đường, càng vào phía trong, không khí chiến tranh như bức hoạ hiện dần đủ bố cục, sắc màu. Những nòng pháo quấn lá nguỵ trang vươn ngạo nghễ canh cầu Hàm Rồng, cầu Bùng, cầu Cấm… Những hầm, hố cá nhân cũ - mới… rải dọc ven đường; những bức tường nhà trắng màu vôi được phủ vội vàng nhựa đường, bùn đất… Vinh - "thủ phủ" của Khu 4 - thành phố giao thương trên bến dưới thuyền, ngày xưa vua Quang Trung - Nguyễn Huệ định chọn làm kinh đô, cho xây thành trên núi Quyết, gọi là "Phượng Hoàng Trung đô", nay bình tĩnh, vững vàng trong dáng vóc một thành phố đã dạn dày bom đạn. Người già, trẻ nhỏ sơ tán ra vùng ven. Chợ họp sớm, tan nhanh. Những trận địa súng máy phòng không được cấu trúc trên sân thượng nhà cao tầng, thấp thoáng bóng dáng nam nữ tự vệ…
Bộ Tư lệnh Quân khu 4 đã chuyển vào đóng ở địa đạo trong núi Quyết, sau đó chuyển lên đóng ở Nam Thanh, Nam Đàn - quê hương Bác, cách thành phố Vinh hơn hai chục cây số về phía tây bắc. Sinh hoạt của cơ quan quân khu lúc này đã thời chiến lắm, cẩn mật lắm. Cẩn mật tới mức, ngày ngày có một đồng chí trợ lý bảo vệ ngó ngó, nghiêng nghiêng, hễ thấy chiếc khăn mặt nào, ai đó phơi dễ "bị lộ" là cất ngay…
Tư lệnh Quân khu là anh Nam Long. Đúng là trái đất tròn! Sau 15 năm kể từ ngày kết thúc lớp bổ túc cán bộ trung cấp quân sự đầu tiên của Bộ mở ở Đại Từ - Thái Nguyên vào cuối năm 1950, tôi lại được làm việc cùng anh. Nhớ ngày đó, vừa là học viên, anh kiêm chức đại đội trưởng, tôi kiêm chức chính trị viên. Trong điều kiện học hành vô cùng khó khăn, thiếu thốn giữa núi rừng Việt Bắc, kíp làm việc của anh em chúng tôi đã giúp trường tổ chức, động viên lớp học được xem là "con cưng" của Bộ Tổng hoàn thành chương trình nhanh, gọn; bổ sung kịp thời cho các hướng chiến trường đang chuyển sang giai đoạn phản công.
Sau vài ngày "nhập cuộc", tôi dành thời gian tìm hiểu tình hình, chủ trương xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên địa bàn Quân khu 4.
Luận bàn với các anh trong Bộ Tư lệnh quân khu về mưu đồ nhất quán, lâu dài cũng như những thủ đoạn trước mắt của đế quốc Mỹ đối với cách mạng Việt Nam và ba nước Đông Dương. Tôi cho rằng chiến lược "Chiến tranh đặt biệt" mà Mỹ tiến hành ở miền Nam gần như thất bại hoàn toàn. Nay chúng tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc, đánh trước tiên vào Khu 4 - hậu phương trực tiếp của chiến trường miền Nam, hòng làm suy yếu hậu phương chiến lược, làm lung lay ý chí, quyết tâm giải phóng miền Nam của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta và ngăn chặn mọi hoạt động chi viện chiến trường. Đồng thời đây cũng chính là hành động thăm dò của Nhà Trắng để tiếp tục leo nấc thang mới trên chiến trường miền Nam.
Suy nghĩ của anh Nam Long đẩy vấn đề đi xa hơn: Chiến tranh xâm lược của Mỹ đã lên một nấc thang mới. Liệu rồi, sau một chuỗi những yếu tố tổng hợp diễn biến tình hình như vậy, Mỹ có dám cho quân đổ bộ vào nam Khu 4, thực hiện cuồng vọng "lấp sông Bến Hải" một thời của Ngô Đình Diệm hay không? Thực tình đây là một vấn đề nóng bỏng mà ở cương vị một Tư lệnh quân khu trực tiếp tiếp xúc với kẻ thù, ai cũng phải tính đến.
Hiểu được suy tính của anh, tôi thẳng thắa trao đổi:
- Không loại trừ việc Mỹ đưa quân ra miền Bắc, nhưng ở vị thế một quân khu, chúng ta chưa có đủ cứ liệu để khắng định. Việc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc là hoàn toàn bị động, nhất định chúng sẽ chuốc lấy những thất bại và hậu quả khôn lường.
Vấn đề trọng tâm mà chúng tôi dồn hết tâm lực nghiên cứu, trao đổi trong nhiều buổi làm việc, thậm chí cả trong bữa ăn, giờ nghỉ, là chỉ đạo, tổ chức thế trận chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên địa bàn "vừa là tiền tuyến, vừa là hậu phương" này.
Ngày 7 tháng 2 năm 1965, đế quốc Mỹ mở chiến dịch đánh phá của không quân mang tên "Mũi lao lửa", cho máy bay đánh vào thị trấn Hồ Xá - Vĩnh Linh, thị xã Đồng Hới - Quảng Bình. Hôm sau chúng tiếp tục đánh phá một số nơi ở Quảng Bình, Vĩnh Linh, và ngày 11 tháng 2, máy bay Mỹ xâm phạm vùng trời Nghệ An. Qua ba ngày chiến đấu, quân và dân Quảng Bình, Vĩnh Linh và Nghệ An bắn rơi 12 máy bay Mỹ.
Cuộc chiến tranh phá hoại của địch tuy mới diễn ra một thời gian ngắn, nhưng mức độ ngày một ác liệt. Không chỉ tập kích bằng đường không, địch còn khiêu khích ta ở bờ bắc sông Bến Hải, dọc theo giới tuyến quân sự tạm thời, kết hợp bắn pháo từ các hạm tàu ngoài biển vào đất liền.
Trong một buổi làm việc bàn cách đánh trả không quân Mỹ, tôi trao đổi với anh Nam Long về chiến lược tập kích đường không, về tổ chức phòng không ở Mát-xcơ-va trong đại chiến thế giới lần thứ hai. Đây là một trong những nội dung tôi được học tập, nghiên cứu trong ba năm đào tạo tại Học viện Quân sự cao cấp Bắc Kinh, Trung Quốc. Đặc biệt, cách tổ chức phòng không bảo vệ Mát-xcơ-va lúc bấy giờ có nhiều kinh nghiệm mà chúng ta cần nghiên cứu, tham khảo. Tuy nhiên, lúc này Quân khu không được trang bị nhiều vũ khí, khí tài phòng không như Hồng quân Liên Xô. Điều chúng ta cần nghiên cứu, vận dụng là ý chí, lòng tự tin của binh sĩ; tài nghệ của tướng lĩnh, sĩ quan chỉ huy trong việc sử dụng nhiều loại vũ khí, nhiều tầng, nhiều vòng hoả lực bổ sung cho nhau, kết hợp đánh cản và thả khí cầu, dùng không quân đánh chặn vòng ngoài, dùng đèn chiếu phát hiện mục tiêu cho cao xạ đánh ban đêm… Với chính những điều đó, Hồng quân Liên Xô đã tạo được sức mạnh tổng hợp đánh địch, bảo đảm cho Mát-xcơ-va đứng vững trong mưa bom, bão đạn của không quân nước Đức phát xít.
Chiến tranh phá hoại mà đế quốc Mỹ đang tiến hành trên địa bàn Quân khu 4 cũng mang tính chất tập kích đường không, kết hợp pháo kích từ các hạm tàu từ biển vào, dĩ nhiên phương tiện chiến tranh của Mỹ đã hiện đại, tối tân hơn nhiều sau hơn hai thập kỷ chạy đua vũ trang kể từ sau đại chiến 2; đồng thời phạm vi đối tượng, mục đích đánh phá của chúng cũng khác nhiều. Với địa thế eo thắt - được xem là vùng "cán xoong" Khu 4, chủ tâm đánh phá của địch không ngoài huỷ diệt và ngăn chặn tuyến chi viện. chiến lược…
Sau khi nghe tôi trình bày những suy nghĩ của mình, anh Nam Long nói:
- Hiện nay Quân khu được Bộ tăng cường các đơn vị phòng không cấp trung đoàn, tiểu đoàn cao xạ, gồm các loại pháo phòng không 100 ly, 57 ly, 37 ly và pháo mặt đất phòng thủ bờ biển 122 ly, 82 ly; các loại súng máy phòng không cho bộ binh và dân quân tự vệ. So với yêu cầu thì lực lượng pháo phòng không và pháo mặt đất còn quá mỏng. Tuy vậy, trong hơn hai mươi ngày đầu, khi không quân Mỹ đánh rộng ra trên nhiều địa bàn, bộ đội chủ lực và dân quân tự vệ quân khu đã huy động tối đa vũ khí trang bị hiện có đánh.trả có hiệu quả, bắn rơi máy bay, bảo vệ được mục tiêu.
Thiệt hại của bộ đội và nhân dân chưa có gì đáng kể. Bộ đội cũng như nhân dân hết sức tự tin, phấn khởi.
Từ thực tế đó, Quân khu uỷ và Bộ Tư lệnh quân khu thống nhất phát huy hiệu quả đạt được và khí thế sôi sục của lực lượng vũ trang, nhân dân quân khu, cần phải phổ biến nhanh những kinh nghiệm tốt, những hạn chế và khuyết điểm tới từng đơn vị; tổ chức ngay một số cụm phòng không, pháo ven biển tập trung hơn; đồng thời củng cố, xây dựng các loại trận địa phòng không, gồm trận địa kiên cố, trận địa dự bị, trận địa nghi binh. Đối với những trận địa phòng không dự bị tại trọng điểm, phải nguỵ trang chu đáo, sẵn sàng cơ động cao xạ từ nơi khác đến đánh địch khi cần thiết.
Các đơn vị địa phương thực hiện nghiêm chỉ lệnh của Bộ Tư lệnh quân khu.
Do xây dựng tốt cụm trận địa phông không ở Rú Nài (thị xã Hà Tĩnh), nên ngày 26 tháng 3 năm 1965, một đơn vị pháo phòng không đóng ở tỉnh Hà Tĩnh đã khéo kết hợp trận địa nghi binh và trận địa thật, hút máy bay địch đánh vào trận địa giả, tạo điều kiện cho trận địa thật tập trung hoả lực bắn rơi 2 máy bay ngay từ đợt đầu.
Kinh nghiệm đánh máy bay địch của đơn vị pháo phòng không Rú Nài được phổ biến kịp thời cho các cụm trận địa phòng không bảo vệ thành phố Vinh và một số đơn vị khác bảo vệ trọng điểm giao thông ở Nghệ An, Hà Tĩnh.
Tiếp đó, tôi bàn với anh Nam Long và được anh nhất trí cho thí điểm sử dụng một đại đội pháo cao xạ 37 ly bất ngờ cơ động ban ngày từ Vinh ra chi viện cho trận địa pháo bảo vệ cầu Cấm. Lực lượng cao xạ tăng cường đã đánh liên tục bốn đợt máy bay địch ném bom phá cầu, hạ một chiếc và bắn bị thương một chiếc khác. Cầu Cấm vẫn an toàn, nối liền tuyến giao thông huyết mạch.
Khi máy bay địch hoạt động về đêm; không bị động, chúng tôi cho bố trí sáu đèn chiếu sáng của Liên Xô có công suất lớn ở ngay các cụm trận địa pháo để giúp pháo thủ bắt mục tiêu. Những đêm đầu khi máy bay địch đến đánh, đèn chiếu sáng được bật lên. Những pha đèn có công suất lớn quét giao nhau; theo đó, pháo thủ rất dễ phát hiện mục tiêu nhờ phản quang kim loại vỏ máy bay. Nhiều khẩu pháo hướng vào mục tiêu nhả đạn. Máy bay địch bị bất ngờ, hoảng hốt tháo chạy. Nhân dân xung quanh thành phố Vinh thấy đèn pha, đạn pháo của ta đuổi máy bay địch, sau chút ngỡ ngàng, lạ lẫm ban đầu không những không sợ mà còn reo hò phấn khởi. Thật là những đêm đầy không khí trận mạc trên tuyến lửa Khu 4.
Sau hơn một tháng thử sức với không quân Mỹ, đánh ngày có, đánh đêm có, tôi cùng anh Nam Long thấy cần sơ kết rút kinh nghiệm, đề ra phương hướng, nhiệm vụ mới chuẩn bị cho Quân khu uỷ họp ra nghị quyết và báo cáo lên Bộ. Ý định của chúng tôi là nêu phương hướng để cơ quan chuẩn bị. Trước hết căn cứ vào sự chỉ đạo ctỉa Quân uỷ, Bộ Quốc phòng, phân tích quy luật đánh phá bước đầu của địch, nhiệm vụ chủ yếu được giao, để rút kinh nghiệm trên ba mặt: đánh máy bay, đánh tàu chiến địch ở ven biển và chống địch khiêu khích ở dọc bờ bắc sông Bến Hải; chuẩn bị đối phó tình huống địch đổ bộ bất ngờ vào nam Quân khu; nhưng trọng tâm là đánh máy bay địch. Về đánh máy bay, phải phát động được mọi lực lượng, sử dụng được mọi loại vũ khí hiện có, đánh được mọi nơi, mọi lúc, hình thành thế trận phòng không nhân dân, lưới lửa phòng không nhiều tầng, nhiều lôp. Cụ thể là:
Ở các trọng điểm, cần xây dựng trận địa chốt, có công sự kiên cố, công sự dự bị, trận địa nghi binh. Đồng thời kết hợp được các vòng, các tầng hoả lực phòng không ba thứ quân; bộ đội phòng không, bộ binh và dân quân tự vệ để bảo vệ được mục tiêu trọng điểm, cầu đường…
Về diện, vừa bố trí trận địa sẵn ở các trọng điểm, chủ động cơ động được pháo cao xạ, vừa tổ chức dân quân, bộ binh tại chỗ đánh máy bay địch.
Đối với lực lượng pháo phòng thủ bờ biển, cần nghiên cứu xây dựng thêm các trận địa tại các mỏm đồi, hoặc núi nhô ra biển, các đảo ven bỉển; trang bị pháo 82 ly cho các trận địa của dân quân.
Củng cố các xã ven biển và khu vực bờ bắc sông Bến Hải theo hướng làng xã chiến đấu, lấy dân quân tự vệ làm nòng cốt, sẵn sàng đối phó với các hoạt động biệt kích, tập kích bất ngờ của Mỹ-nguỵ.
Để thực hiện được đồng bộ những mặt công tác trên, một trong những nhân tố quyết định là tăng cường công tác tư tưởng nhằm đạt được mỗi thôn làng là một pháo đài, mỗi người dân là một chiến sĩ trong thế trận chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại.
Tranh thủ thời gian cơ quan chuẩn bị, tôi xuống kiểm tra một số cụm trận địa phòng không, pháo bờ biển và địa bàn bắc vĩ tuyến 17, kết hợp làm việc với các tỉnh, trao đổi trực tiếp với các đồng chí trong Tỉnh uỷ Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và Đặc khu uỷ Vĩnh Linh về chỉ đạo chống chiến tranh phá hoại của Mỹ trên địa bàn Quân khu; tôi còn muốn qua chuyến đi này có thêm nhiều điều thiết yếu chuẩn bị cho hội nghị Quân khu uỷ và hội nghị Hội đồng Quốc phòng quân khu sắp tới.
Ở Nghệ An, sau khi làm việc với anh Võ Thúc Đồng - Bí thư và các anh trong Thường vụ tỉnh uỷ, tôi xuống kiểm tra trực tiếp cụm phòng không bảo vệ thành phố Vinh. Các cụm phòng không bố trí trên địa bàn thành phố trong những ngày qua, cả bộ đội cao xạ, bộ binh và dân quân đã huy động tối đa hoả lực đánh tốt, bắn rơi 5 máy bay, bảo vệ được Nhà máy Điện Vinh, phà Bến Thuỷ và cơ động chi viện đắc lực cho cụm phòng không bảo vệ cầu Cấm…
Xuống thực địa, nhìn những hố bom sâu, nước xanh leo lẻo, những mảng tường đổ nát; xà, cột bê tông gãy gục, chỏng chơ bởi bom Mỹ, dấu tích kho cặn dầu ở bờ bắc Bến Thuỷ trúng bom cháy từ ngày Năm tháng Tám…, đủ cho tôi hình dung tới sự tàn khốc mà kẻ thù sẽ gieo xuống "Thành phố Đỏ" trong những ngày sắp tới.
Vào Hà Tĩnh, tôi làm việc vđi các anh trong Thường vụ tỉnh uỷ. Bí thư tỉnh lúc này là anh Nguyễn Xuân Linh. Rời Văn phòng tỉnh uỷ, tôi đến kiểm tra cụm phòng không Rú Nài do đại đội 8 thuộc trung đoàn pháo phòng không chốt giữ. Mới đây, trong những trận chiến đấu cuối tháng 3, đơn vị đã có sáng kiến xây dựng trận địa giả nghi binh, tạo điều kiện cho trận địa thật đánh cớ hiệu quả, hạ được máy bay. Đây có thể được xem là trận mở đầu cách đánh phục kích của bộ đội phòng không Việt Nam anh hùng.
Sau một đợt báo động, xe tôi đi thẳng vào trận địa. Đồng chí trung đoàn trưởng đón và hướng dẫn chúng tôi thăm hai trận địa nghi binh. Một nhóm gồm các bác thợ mộc xã Thạch Quý, Thạch Hà cùng một số cán bộ, chiến sĩ đang xây dựng trận địa nghi binh, gồm một đại đội pháo 37 ly giả làm bằng thân cây phi lao sơn đen.
Trận địa có nguỵ trang nhưng rất khéo, để máy bay địch dễ phát hiện. Biết là đoàn cán bộ quân khu đến thăm, kiểm tra, một bác thợ nhanh nhảu hỏi tôi:
- Thủ trưởng coi, mần như rứa có giống không?
Tôi vui vẻ trả lời:
- Trông xa, tôi thấy giống lắm. Cứ đà này các bác lập xưởng sản xuất pháo 37 ly được rồi đấy…
Gió, nắng và tiếng cười ngập tràn trận địa. Một bác thợ khác nói thêm:
- Báo cáo thủ trưởng, hôm trước máy bay Mỹ ném bom hỏng ba khẩu pháo của hai trận địa giả. Nhưng khi chúng say mồi, tập trung đánh vào trận địa giả, thì trận địa thật của ta đã rảnh tay xơi tái hai chiếc của chúng. Máy bay rơi ngay tại chỗ…
Từ ánh mắt, nụ cười, giọng nói… của những người thợ - những lão nông, những ngườilính nơi đây đều toát lên ý chí mãnh liệt, lòng tự tin, niềm lạc quan thanh thản lạ thường.
Sau khi kiểm tra khắp lượt trận địa giả, trận địa thật cụm phòng không Rú Nài, thay mặt Quân khu uỷ, Bộ Tư lệnh quân khu, tôi biểu dương thành tích chiến đẩu của trung đoàn, cảm ơn nhân dân thị xã Hà Tĩnh đã cùng bộ đội lập chiến công bắn rơi máy bay Mỹ, bảo vệ cầu Phủ, giữ vững giao thông trên tuyến đường số 1 và mở đầu một cách đánh mới của lực lượng phòng không.
Về nhiệm vụ sắp tới, tôi nhắc nhở trung đoàn cần di chuyển thường xuyên trận địa thật và trận địa giả, đừng để địch "điểm huyệt" trận địa thật, vô hiệu hoá trận địa giả. Binh thư người xưa có dạy: Biết lừa địch để thắng địch thì thắng lợi lớn hơn, giá rẻ hơn.
Rời cụm phòng không Rú Nài, niềm tin trong tôi như được tăng thêm bội phần. Sau gần hai giờ vượt qua những xóm nghèo hai huyện Cẩm Xuyên, Kỳ Anh, xe chúng tôi đến đỉnh Đèo Ngang. Nơi đây có một trận địa pháo 122 ly phòng thủ bờ biển. Thêm một lần qua Đèo Ngang, càng thấy được vị thế "thiên hiểm" của đỉnh đèo này. Thăm trận địa pháo, chúng tôi được đồng chí cụm trưởng báo eáo thời gian qua đã hai lần đơn vị "đánh cảnh cáo" tàu chiến của địch. Sẵn bản đồ tác chiến mang theo, tôi chỉ cho cán bộ đơn vị thấy năm cụm đảo ven biển, năm mỏm núi nhô ra biển từ bắc Nghệ An vào Vĩnh Lỉnh và nói rõ ý định sắp tới quân khu sẽ căn cứ khả năng hoả lực hiện có để điều chỉnh, bố trí thêm lực lượng những nơi có điều kiện, tạo tầm bắn của các trận địa giao nhau được thì sức mạnh hoả lực sẽ được nhân lên. Riêng với trận địa trên đỉnh Đèo Ngang, tôi gợi ý cần bố tn thêm lực lượng phòng không gồm pháo 87 ly, súng máy 12,7 ly kết hợp với dân quân bắn máy bay. Vì Đèo Ngang là một trọng điểm trên tuyến quốc lộ 1.
Rời Đèo Ngang, tôi ngẫm về mấy câu thơ xưa của bà huyện Thanh Quan. Cũng là Đất nước, cũng là Tổ quốc, song không phải tâm trạng u hoài "nhớ nước", "thương nhà" mà bà Huyện từng gieo vào lòng lữ khách; choán ngự trong tôi lúc này là sục sôi, cháy bỏng những toan tính, giải pháp để đối phó và đánh bại kẻ thù đang từng ngày, từng giờ mang bom đạn đến gây tội ác ở mảnh đất này.
Vào Quảng Bình, chúng tôi làm việc với anh Nguyễn Tư Thoan và một số anh trong Tỉnh uỷ, sau đó xuống thăm đội nữ pháo binh xã Ngư Thuỷ, huyện Lệ Thuỷ - một phân đội pháo bờ biển được thành lập sớm, khi tàu chiến Mỹ lảng vảng t rên -Biển Đông. Về sau, phân đội này phát triển thành đại đội. Lúc chúng tôi đến có hai sĩ quan pháo binh đang hướng dẫn các nữ pháo thủ huấn luyệ n và củng cố công sự. Những nữ pháo thủ tuổi mười tám, đôi mươi đậm sức vóc con gái miền biển, xây ghép công sự, lao đạn pháo 82 ly nhẹ như chơi, hồn nhiên, tươi rói. Đúng là "Con gái mười bảy bẻ gãy sừng trâu!"
Tôi biểu dương và động viên các nữ pháo thủ cố gắng luyện hay, đánh giỏi, trừng trị kịp thời lũ cướp biển bảo vệ biển bờ quê hương, bảo vệ những con thuyền ngày đêm cần mẫn, nhọc nhằn bám biển. Tôi cũng lưu ý đơn vị phải coi trọng xây dựng các trận địa dự bị để khi cần phải di chuyển trận địa chính kịp thời, tránh tổn thất.
Kẻ địch không ngờ được ở bãi biển Ngư Thuỷ với những triền cát dài ngút mắt, rừng phi lao đón gió biển mặn mòi lại ẩn giấu một trận địa pháo mà chủ nhân là những cô gái vùng biển chân chất hiền từ như hạt thóc, củ khoai, đang sẵn sàng giội bão lửa lên đầu chúng.
Tạm biệt Ngư Thuỷ, mang theo dư vị của biển, chúng tôi vào Vĩnh Linh. Sau một ngày làm việc với anh Hồ Sĩ Thản và các anh trong Đặc khu uỷ, tôi vào trực tiếp nắm tình hình một số xã bờ bắc sông Bến Hải, kiểm tra các cụm pháo ven biển ở xã Vĩnh Mốc.
Là tiền đồn của hậu phương lớn, nên các hoạt động biệt kích, phi pháo, ném bom bằng máy bay của hải lực - không lực Mỹ đã đẩy chiến tranh đến từng căn nhà, góc vườn của người dân Vĩnh Linh sớm hơn bất cứ vùng quê nào trên miền Bắc. Đồng thời, chiến tranh cũng tôi luyện cho mỗi người dân, người lính nơi đây tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu rất cao. Bằng ý chí, mồ hôi và bằng máu của mình, nhân dân và lực lượng vũ trang Vĩnh Linh từng bước xây dựng được hệ thống hầm hào, địa đạo rất quy mô và kiên cố. Hệ thống địa đạo gồm: trạm cấp cứu, lớp học, hội trường, kho vũ khí, kho từng gia đình. Tất cả được làm rất công phu. Các gia đình đều có công sự, hầm chữ A chắc chắn. Địa đạo, công sự nối với nhau bằng những giao thông hào từ xã này qua xã khác. Đặc biệt ở Vĩnh Linh các vườn cây của gia đình nối tiếp nhau tạo thành những "vườn rừng" um tùm như một màn nguỵ trang khá lý tưởng mà thiên nhiên ban tặng. Ban ngày xe con chạy trong đường làng, dưới những tán cây "vườn rừng", máy bay địch khó phát hiện.
Ba ngày làm việc ở Vĩnh Linh, tôi như được tắm mình trong không khí sôi động, toàn dân khẩn trương sẵn sàng đánh địch bất cứ mọi nơi, mọi lúc.
Qua làm việc với địa phương, các tỉnh đều thống nhất cần phát động mạnh hơn phong trào dân quân tự vệ dùng súng bộ binh bắn máy bay bay thấp; tăng thêm súng máy cao xạ 14,5 và 12,7 ly cho các xã trọng điểm; diễn tập, kiểm tra thường xuyên các cơ sở về hoạt động chống địch tập kích, đổ bộ ven biển; tổ chức phòng tránh tết, hạn chế thiệt hại, thương vong trong nhân dân. Riêng Quảng Bình đề nghị Quân khu trang bị thêm pháo 82 ly cho dân quân một số xã ven biển. Vĩnh Linh đề nghị tăng vũ khí hoả lực mới cho các xã dọc theo bờ bắc sông Bến Hải và đề nghị các địa phương trong Quân khu - chủ yếu là Nghệ An tiếp nhận số người già và các cháu nhỏ ra sơ tán…
Kết thúc một chuyến công tác ngắn ngày nhưng hiệu quả cao.
Ngoài những cứ liệu cần thiết làm cơ sở để Quân khu uỷ ra nghị quyết trong kỳ họp tới, thì hình ảnh làm trào dâng trong tôi niềm cảm phục, tự hào là những người dân quê tôi lam lũ, chân chất, luôn gồng mình lên trước những thách đố nghiệt ngã của thiên nhiên, đổi bát mồ hôi lấy từng hạt thóc, củ khoai, đang bình tĩnh, tự tin chấp nhận cuộc đối đầu với một siêu cường đế quốc chủ nghĩa, có một nền công nghệ quân sự với bao phương tiện huỷ diệt hiện đại…
Niềm tin trong tôi về sức mạnh vô địch của chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, cũng được nhân lên bội phần.
Về lại cơ quan quân khu, có thể do lúc này đang cuối xuân - đầu hạ, nóng lạnh thất thường; có thể do thay đổi địa thế công tác, bệnh viêm a-mi-đan mạn tính của tôi lại có cơ hoành hành. Theo lời khuyên của bác sĩ quân y, tôi quyết định trở ra Hà Nội, dành bốn ngày vào Quân y viện 108 cắt a-mi-đan.
Thời gian và công việc hối thúc. Sau khi ra viện, tranh thủ thăm gia đình một ngày là tôi vào luôn quân khu. Bởi cuộc họp Quân khu uỷ tới, tôi không thể vắng mặt.
Hội nghị Quân khu uỷ mở rộng tiến hành trong hai ngày 7 và 8 tháng 5 năm 1965. Dự họp ngoài các đồng chí trong Quân khu uỷ còn có các đồng chí Bí thư tỉnh uỷ Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và Bí thư Đặc khu uỷ Vĩnh Linh. Bầu không khí sôi nổi nhiệt tình của hội nghị như được nung thêm bởi nắng hè, gió tây ở "thung lũng" Nam Thanh này.
Hội nghị nhất trí đánh giá của Bộ Tư lệnh quân khu: Qua gần ba tháng chiến đấu liên tục, quyết liệt, lực lượng phòng không và pháo mặt đất ven biển, bộ binh, dân quân tự vệ và nhân dân trong toàn quân khu đã đánh giỏi, bắn rơi nhiều máy bay, bắn trọng thương một số tàu chiến của địch. Các địa phương tổ chức cho nhân dân phòng tránh, phục vụ chiến đấu tốt; đặc biệt là công tác bảo vệ và phục vụ giao thông vận tải đạt hiệu quả cao. Quân khu uỷ nhất trí biểu dương cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang và nhân dân quân khu về những thành tích đã đạt được.
Về phương hướng tới, trên cơ sở những vấn đề được đề cập trong báo cáo của Bộ Tư lệnh quân khu, Nghị quyết hội nghị khẳng định: Quyết tâm lấy chiến tranh nhân dân đánh bại chiến tranh phá hoại, bất luận cuộc chiến tranh đó ác liệt đến mức nào… Sẵn sàng nhận và làm tốt nhiệm vụ chi viện và đi chiến đấu ở miền Nam. Tích cực, liên tục làm nhiệm vụ ở Lào. Làm tốt nhiệm vụ bảo vệ sản xuất, bảo vệ an ninh; đập tan mọi hoạt động tập kích, biệt kích, thổ phỉ; làm tết công tác phòng không nhân dân. Chuyển hướng mọi hoạt động sản xuất, sinh hoạt của cơ quan Nhà nước, của nhân dân thích hợp với thời chiến, vừa phục vụ quốc phòng, vừa phục vụ dân sinh, làm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội vẫn tiếp tục phát triển ngay trong chiến đấu; càng chiến đấu, các mặt kinh tế, chính trị, quân sự càng phát triển, càng lớn mạnh… Hội nghị nhấn mạnh: Do dặc điểm vùng đất Khu 4 vừa hẹp vừa hiểm trở, dễ bị chia cắt, vì vậy nhiệm vụ vừa có tính cấp bách vừa có tính lâu dài của Quân khu là bảo vệ và bảo đảm bằng được giaa thông vận tải trong mọi tình huống, phải tạo mọi điều kiện hỗ trợ tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh thực hiện tốt nhiệm vụ chi viện cho chiến trường…
Để những chủ trương, giải pháp, trên đi vào thực tế, phát huy hiệu quả trong chỉ đạo thực tiễn cần có sự cố gắng nỗ lực của mọi người, mọi cấp và cần có thời gian. Tuy vậy, tôi cho rằng hội nghị
Quân khu uỷ mở rộng lần này là một sự kiện rất quan trọng.
Những vấn đề được nêu ra và giải quyết ở hội nghị đã đặt nền tảng cho cơ chế và nền nếp hoạt động lãnh đạo chiến tranh và xây dựng hậu phương Quân khu 4 trong suốt thời kỳ chống Mỹ, cứu nước.
Hội nghị kết thúc, đại biểu các tỉnh khẩn trương trở về địa phương phổ biến, quán triệt và tổ chức nhân dân, lực lượng vũ trang thực hiện nghị quyết. Anh em chúng tôi chia nhau xuống làm việc với một số đơn vị trực thuộc.
Từ đó phong trào xây dựng lực lượng phòng không ba thứ quân, xây dựng lực lượng phòng thủ bờ biển, đánh tàu chiến địch, huấn luyện điễn tập đánh địch tập kích bất ngờ các xã ven biển phát triển mạnh. Chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại trên địa bàn Quân khu 4 phát triển lên một cao trào mới.
2. Không khí chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang và nhân dân Quân khu 4 đang dâng cao, vào trung tuần tháng 5 năm 1965, tôi được Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng điều sang làm Chính uỷ Mặt trận 565 bộ đội tình nguyện Trung - Hạ Lào. Tư lệnh mặt trận là anh Nguyễn Hữu An, Phó tư lệnh có các anh Hà Tuấn Khanh, Thái Cán. Mặt trận được thành lập vào đầu tháng 5 năm 1965 nhằm thực hiện chủ trương của Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng là tổ chức quân tình nguyện phối hợp với bộ đội Pa-thét Lào đánh bại các cuộc hành quân càn quét, tiến công của địch hòng lấn chiếm vùng giải phóng, phá hoại tuyến Đường Hồ Chí Minh; xây dựng, củng cố tăng cường lực lượng vũ trang, khôi phục và đẩy mạnh phong trào vùng sau lưng địch. Phạm vi hoạt động của Mặt trận 565 từ Trung Lào xuống Hạ Lào. Lực lượng gồm Trung đoàn 27, Trung đoàn 9, tiểu đoàn 1, tiểu đoàn 2 quân tình nguyện và một số đại đội, trung dội xây dựng cơ sở. Phía bạn có năm tiểu đoàn chủ lực bộ binh, một tiểu đoàn pháo mặt đất, một tiểu đoàn pháo cao xạ; mỗi tỉnh có từ một đến hai đại đội độc lập bộ đội địa phương…
Chiến trường Trung - Hạ Lào không xa lạ đối với tôi. Vào cuối năm 1943 đầu 1944, phong trào cách mạng Quảng Bình gặp khó khăn. Tổ chức Việt Minh bị vỡ; cán bộ bị địch truy lùng. Xứ uỷ Trung Bộ quyết định đưa tôi và một số đồng chí sang Thái Lan hoạt động, sau đó trở lại làm công tác vận động Việt kiều ở tỉnh Thà Khẹc của Lào. Tại đây, tôi vừa dạy học cho trẻ em Việt kiều, vừa làm thợ sơn để kiếm sống và tạo "vỏ bọc" để hoạt động.
Lần thứ hai tôi trở lại chiến trường này vào đầu năm 1953. Khi đó tôi đang là Cục phó Cục Tổ chức cán bộ, được Tổng Quân uỷ cử làm phái viên Bộ Tổng tư lệnh tham gia Bộ Tư lệnh mặt trận Trung - Hạ Lào do anh Hoàng Sâm làm Tư lệnh. Đã gần nửa thế kỷ trôi qua, song tôi vẫn nhớ trước lúc lên đường, anh Nguyễn Chí Thanh - uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị ân cần dặn dò: "… Cả nước đang phối hợp với chiến trường Điện Biên Phủ. Nhưng phải có một số hướng quan trọng để căng kéo địch ra. Anh vào đó vừa tham gia Đảng uỷ Bộ Tư lệnh mặt trận, vừa giúp Bộ Tổng nắm tình hình, vừa giúp Tổng cục đôn đốc công tác chính trị tư tưởng…".
Mặt trận Trung - Hạ Lào đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, nhanh chóng tiêu diệt trung đoàn Lê Dương Ta-bo của Pháp trên đường 12, giải phóng hoàn toàn tỉnh Khăm Muộn. Trên đà thắng lợi Đại đoàn 325 - Đại đoàn Bình-Trị-Thiên do anh Trần Quý Hai làm Đại đoàn trưởng nhanh chóng tiến xuống Hạ Lào, đến thẳng Stung Treng, Campuchia như thế chẻ tre…
Được ra trận, lại được trở lại chiến trường quen thuộc khắc ghi những kỷ niệm một thời trai trẻ, tôi vô cùng phấn khởi và tự tin.
Cuối tháng 5 năm 1965, tôi vào sở chỉ huy tạm thời của mặt trận ở Hương Đô, Hương Khê, Hà Tĩnh và sau đó theo đường 12 sang đất bạn.
Tới mặt trận, tôi nhận được điện báo của Bộ là anh Nguyễn Hữu An vì nhiệm vụ khác không sang được, Bộ quyết định tôi vừa là Tư lệnh kiêm Chính uỷ. Trọng trách thật quá nặng nề.
Hướng hoạt động đầu tiên của Mặt trận 565 là khu vực Ma Hả Xay trên đường 12, nhằm phá vỡ hệ thống phòng ngự của địch ở đây, thu hút chủ lực địch ở các nơi đến, đặc biệt là chủ lực ở đường số 9, phá kế hoạch của địch lấn chiếm đường số 9, góp phần bảo vệ an toàn tuyến hành lang vận chuyển của Đoàn 559.
Sau khi nghe trinh sát báo cáo tình hình cứ điểm của địch, anh Thái Cán - Phó tư lệnh, Tham mưu trưởng trình bày kế hoạch tác chiến mà anh cùng cơ quan chuẩn bị trước và đã thống nhất sơ bộ với Tỉnh uỷ, Tỉnh đội Khăm Muộn. Tôi nhất trí với kế hoạch đó và trao đổi thêm với anh Cán lệnh cho lực lượng của Mặt trận ở đường số 9 phối hợp với bạn nghi binh ở Mường Pha Lan. Hai trung đoàn 27 và 9 của ta ở hướng đường số 12 phối hợp với bộ đội Pa-thét Lào thực hành chiến thuật vây điểm diệt viện, sử dụng một lực lượng bí mật luồn rừng bao vây cứ điểm Nhom Ma Lạt, Ma Hả Xay; điều một trung đoàn tăng cường luồn rừng bí mật phục kích trên đường số 12 đoạn giữa tỉnh lỵ Thà Khẹc và Ma Hả Xay.
Cuối tháng 10 - đầu tháng 11 năm 1965, ta bắt đầu đánh địch ở đường số 12. Đúng như Bộ Tư lệnh mặt trận dự kiến. Khi ta bao vây tiến công cứ điểm Nhom Ma Lạt do một tiểu đoàn quân Hoàng gia Lào chốt giữ, thì hai tiểu đoàn khác quân Hoàng gia Lào có quân Thái Lan phối hợp tức tốc từ Thà Khẹc cơ động đến giải vây.
Ta và bạn phục kích, diệt gọn tiểu đoàn đi sau. Tiểu đoàn đi đầu của địch hoảng loạn chạy vào rừng. Bộ Tư lệnh kịp thời lệnh cho một bộ phận lực lượng truy kích quân địch tháo chạy, đồng thời cho lực lượng chủ yếu còn lại tiến công Nhom Ma Lạt, Ma Hả Xay, phát triển đến cây số 15 giáp thị xã Thà Khẹc. Trận đầu ra quân chiến thắng giòn giã, thể hiện bước tiến đáng kể về kỹ thuật, chiến thuật của bộ đội tình nguyện trong tiến công đột phá vị trí hiểm yếu, làm vỡ tuyến phòng ngự của địch.
Sau thắng lợi ở đường 12, theo lệnh của Bộ, Tư lệnh Quân khu 4 thông báo cho Mặt trận 565 nhanh chóng đưa lực lượng xuống đường số 9 cùng với một trung đoàn của ta ở đó chuẩn bị cho đợt hoạt động mới.
Nhận điện của Bộ Tư lệnh quân khu, tôi lệnh cho các đơn vị khẩn trương chuẩn bị để cơ động xuống đường số 9. Trong thời gian nghỉ ngơi chuẩn bị, một tiểu đoàn quân tình nguyện chọn hang Bản Thảm, cách đường 13 hơn 20 cây số làm nơi tập kết trú quân.
Dồn quân vào hang là một trong những điều cấm kỵ về trú quân. Mặt khác, do say sưa với thắng lợi, mất cảnh giác, để lộ bí mật, tiểu đoàn này bị quân Hoàng gia Lào phối hợp với quân Thái Lan bịt cửa hang, vây hãm trong ba ngày, bao vây, chốt chặn và dùng loa gọi quân ta ra hàng. Bộ đội ta lợi dụng địa hình hang hốc, lèn đá, chiến đấu, quyết phá vây. Được tin báo về, tôi trực tiếp chỉ huy Trung đoàn 27 cơ động luồn rừng bao vây quân địch. Phát hiện lực lượng ta đến giải vây, đích vội vàng tháo lui. Tiểu đoàn bị vây hãm trong hang nhanh chóng về vị trí tập kết mới, tiếp tục làm công tác chuẩn bị.
Trong cuộc đời binh nghiệp, mỗi một người lính có thể rút cho mình nhiều bài học kể cả thành công và không thành công, nhưng tôi tin rằng đối với những chiến sĩ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ của tiểu đoàn quân tình nguyện ấy, đây là bài học khá thấm thía về tinh thần cảnh giác; về chọn vị trí tập kết, trú quân phải đảm bảo nhiều yếu tố thuận lợi cho mình; đừng bao giờ đưa mình vào thế "tiến thoái lường nan"…
Gần đến thời hạn đưa quân xuống hướng đường số 9, ngày 29 tháng 1 năm 1966, tôi trực tiếp xuống Trung đoàn bộ binh 27 kiểm tra công tác chuẩn bị. Xe đi giữa đường rừng dã chiến. Tôi như quên đi những cú xe xóc nẩy người, bởi bao suy tính về công việc.
Bỗng tiếng máy bay rít lên và một ánh chớp xanh lè kèm theo một tiếng nổ chói tai. Đất trời như sập xuống, tối đen… Sau đó, khi tỉnh lại, tôi được nghe kể xe chúng tôi trúng bom máy bay Mỹ. Đồng chí Nguyễn Chơn lái xe hy sinh ngay trên tay lái. Tôi và mấy anh em y sĩ, bảo vệ đều bị thương nặng. Riêng tôi do vết thương ra nhiều máu nên ngất lịm đi.
Biết xe chúng tôi trúng bom, dân bản Lào kịp thời báo cho Trung đoàn 27. Anh Hoàng Đình Phượng - Chính uỷ trung đoàn đã trực tiếp cùng một tiểu đội nhanh chóng cáng chúng tôi vào đội điều trị của trung đoàn tại hang lèn Ca Vát gần đó. Trung đoàn cũng nhanh chóng đưa thi hài đồng chí Nguyễn Chơn về mai táng ở khu vực Bãi Dinh, trên đường số 12.
Bác sĩ đội điều trị của mặt trận kịp thời phẫu thuật, cầm máu cho tôi. Tỉnh lại, biết mình không thể bình phục ngày một, ngày hai, trong khi tình hình chiến trường đang phát triển từng giờ, tôi quyết định giao cho các đồng chí Hà Tuấn Khanh, Thái Cán đảm nhiệm mọi công việc trực tiếp chỉ huy Mặt trận 565, tiếp tục kế hoạch hoạt động ở hướng đường số 9, đồng thời điện báo về Bộ Tư lệnh Quân khu 4.
Quân khu cho đón tôi về Quân y viện 4 lúc này đã chuyển lên sơ tán ở núi Đại Huệ, Nam Đàn, không xa nơi Bộ Tư lệnh quân khu đóng là mấy. Lưu lại Quân y viện 4 chỉ một thời gian ngắn, tôi được chuyển tiếp ra Quân y viện 108. Những ngày điều trị tại quân y viện, tôi luôn sống trong tâm trạng của một người chưa hoàn thành nhiệm vụ, còn mang nợ với chiến trường.
3. Sau hơn một tháng vừa chữa chạy vết thương, vừa điều dưỡng tại Quân y viện 108, sức khỏe của tôi dần bình phục.
Gần một trăm ngày kể từ lúc tôi bị thương giừa rừng Lào, tình hình cuộc chiến trên hai miền Nam - Bắc đã phát triển hết sức mau lẹ. Ở miền Nam, bị thất bại trong cuộc phản công mùa khô 1965-1966, đế quốc Mỹ tiếp tục tăng quân, ráo riết chuẩn bị mở cuộc phản công lớn lần thứ hai. Cùng với việc tung quân chiến đấu vào chiến trường miền Nam lên tới 30 vạn, đế quốc Mỹ không ngừng gia tăng cường độ, lực lượng không quân, hải quân đánh phá miền Bắc. Chính trong những ngày hè nóng bỏng năm 1966, đế quốc Mỹ đã cho máy bay ném bom kho xăng Đức Giang (phía bắc Hà Nội), kho xăng Thượng Lý (Hải Phòng)… Lửa chiến tranh bốc cao ngùn ngụt. Kẻ thù đã leo nấc thang mới cực kỳ nghiêm trọng.
Trước những hành động xâm lược mới của đế quốc Mỹ, ngày 17 tháng 7 năm 1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi quân và dân cả nước: "… Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do…".
Lời của Bác thiêng liêng như lời đất nước, có sức động viên mạnh mẽ quân và dân cả nước đoàn kết một lòng, vượt mọi hy sinh gian khổ, kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn.
Chiến trường hối thúc, và tôi lại có dịp trả "nợ chiến trường".
Sau khi vết thương khỏi và sức khỏe bình phục, tháng 5 năm 1966, tôi nhận quyết định của Quân uỷ Trung ương điều vào làm Chính uỷ Bộ Tư lệnh Trường Sơn - Đoàn 559.
Lại thêm một lần chia tay vợ, con và người thân, chia tay Hà Nội, tôi hối hả lên đường. Bộ Tư lệnh Trường Sơn đóng tại thôn Lý Nhân, xã Đại Trạch, huyện Bố Trạch, Quảng Bình. Tư lệnh Đoàn 559 lúc này là anh Hoàng Văn Thái. Không rõ do yêu cầu nhiệm vụ, do chiến sự ác liệt, cơ quan Bộ Tư lệnh 559 đã chuyển dời bao lần mà khi tôi đến hết thảy đều ở nhờ nhà dân. Tôi ở và làm việc tại nhà cháu Lê Xuân Kiệm, thôn Lý Nhân, kề ngay cầu Chánh Hoà - một trong những trọng điểm đánh phá ác liệt của không quân Mỹ. Do vậy, chỉ mới mấy ngày đặt chân tới đây tôi đã chứng kiến nhiều đợt oanh kích dữ dội của máy bay Mỹ, có cả máy bay B.52.
Với bản tính dũng cảm, bình tĩnh, mưu trí…, sau một thời gian đương đầu với không quân Mỹ, quân và dân nơi đây không những trụ vững, chiến đấu bắn rơi máy bay Mỹ, bảo đảm giao thông thông suốt, mà còn gạn lọc được nhiều kinh nghiệm chống chiến tranh phá hoại. Tuy vậy, để có thể giảm thương vong, sau khi tìm hiểu tình hình chung, tôi trao đổi với cán bộ địa phương động viên nhân dân củng cố hầm hào. Mỗi gia đình nên có hai hầm chữ A, cách nhau ít nhất 25 mét, có giao thông hào nối nhau. Khi địch đến đánh nên chia số người trong gia đình ra hai hầm. Cán bộ xã phải tổ chức thực tập để tạo thành nền nếp. Bộ đội Đoàn 559 cũng phải thực hiện như vậy.
Ở "đất lửa" Quảng Bình, nơi mà mỗi tấc đất, ngọn cỏ nhỏ nhoi đều phải "cõng" tới cả quả bom hàng trăm bảng Anh; khi mà ranh giới giữa sự sống và cái chết quá mỏng manh thì mọi giải pháp có thể bảo toàn được từng con người, từng gia đình như một "tế bào" của cộng dồng, để chiến đấu và chiến thắng kẻ thù, đều phải tính.
Trường Sơn lúc này đang vào mùa mưa, lực lượng chủ yếu của tuyến đã tập kết về nước và ra miền Bắc, bởi vậy, cho dù nóng lòng muốn "nhập tuyến", tôi cũng không thể bất chấp quy luật tự nhiên, đành ở lại hậu tuyến cùng các anh trong Bộ Tư lệnh chuẩn bị cho một mùa ra quân mới.
Mọi việc đang được tiến hành khẩn trương, cuối tháng 7 năm 1966, Quân uỷ quyết định điều tôi về làm Phó chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần. Theo lệnh trên, tôi đành chia tay các anh trong Bộ Tư lệnh 559, quay ra Hà Nội với bao dự định còn dang dở.
Người mà tôi gặp và làm việc đầu tiên khi về nhận nhiệm vụ ở Tổng cục Hậu cần là anh Đinh Đức Thiện - Chủ nhiệm Tổng cục.
Vào việc anh Đinh Đức Thiện cho biết trước đây, trên điều tôi làm Chính uỷ Đoàn 559, nhưng mãi tới tháng 12 thì Đoàn 559 mới vào mùa vận chuyển. Bởi vậy, tôi lại được đíều về giữ chức Phó chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, phụ trách Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần tiền phương. Với địa giới từ nam Bến Thuỷ vào đến Vĩnh Linh (gồm Hà Tĩnh, Quảng Bình, Đặc khu Vĩnh Linh), Tổng cục Hậu cần tiền phương có nhiệm vụ tiếp nhận hàng hoá phía sau, tổ chức chuyển giao cho Tuyến 559 tại các cửa khẩu dọc biên giới Việt - Lào trên đường 12 và đường 20.
Theo ý anh Thiện, để tạo chân hàng tại các cửa khẩu, nhiệm vụ, của Tổng cục Tiền phương trong bốn tháng cuối năm 1966 là phải chuyển lên đó khối lượng hàng bằng khoảng 70 phần trăm lượng hàng Đoàn 559 chuyển giao chiến trường cả năm 1967. Làm được như vậy, Tuyến 559 và tuyến Tổng cục Hậu cần tiền phương sẽ hoàn toàn chủ động, "rảnh tay" đối phó với mọi hoạt động đánh phá, ngăn chặn của kẻ thù trong mùa khô tới.
Là người sinh ra và lớn lên trên xứ sở gió tây, cát trắng, từng chịu cảnh "no bão lụt, đói cơm khoai", tôi hiểu "tính trời" lắm.