Sử [ Tổng Hợp Lịch Sử ] Các Tác Phẩm Lịch Sử

W

woonopro

Câu chuyện dioxin và bệnh tật: thực hay giả?

Tuy nhiên, AO chỉ được dùng một cách qui mô trong thời chiến tranh Việt Nam, với mục đích chính là khai hoang đồng cỏ, làm cho đối phương (quân đội cộng sản) không có chỗ lẫn tránh. Ngày 20 tháng 11 năm 1961, Tổng thống Kennedy phê chuẩn cho quân đội Mỹ tiến hàng chiến dịch Operation Ranch Hand để khai hoang đồng cỏ Việt Nam [2]. Quyết định này được Tổng thống Ngô Đình Diệm ủng hộ một cách nồng nhiệt [3], vì ông ta cho rằng ông "biết cộng sản đang ở đâu." Tuy nhiên, trong nội bộ Mỹ, có sự phản đối từ các nhân vật cao cấp từ Bộ Ngoại giao như Roger Hilsman và W. Averell Harriman, vì họ cho rằng không có cách gì để biết được là đồng lúa của đối phương sẽ bị tiêu hủy hay không. Nhưng chiến dịch vẫn được thi hành.

Kể từ năm 1962, Lực lượng Không quân Mỹ đã bắt đầu dùng chất độc màu da cam ở các vùng đất thuộc miền Nam và Trung Việt Nam. Năm 1969, trong một báo cáo khoa học cho Viện Y học (Mỹ), dựa vào các thí nghiệm trên chuột, một số nhà khoa học Mỹ đã kết luận rằng chất màu da cam có thể gây ra dị thai (birth defect). Năm 1970, chính phủ Mỹ ra lệnh ngưng dùng chất màu da cam trong chiến tranh, nhưng trên thực tế, các thuốc khai hoang khác vẫn được tiếp tục xịt cho đến năm 1971 mới chấm dứt. Trong thời gian mười năm (tính từ 1962 đến 1971), trong Chiến dịch Ranch Hand, quân đội Mỹ đã rải xuống Việt Nam khoảng 19 triệu gallons (tức khoảng 71.9 triệu lít) thuốc khai hoang, trong đó có 11 triệu gallons (hay 41.6 triệu lít) AO [4]. Với 11 triệu gallons AO, người ta đoán rằng có chứa khoảng 368 pounds (tức 167 kg) dioxin [5]. Phần lớn (90%) AO được rải xuống Việt Nam bằng máy bay loại C-123, và phần còn lại (10%) bằng trực thăng, xe vận tải, và đi bộ. Tổng diện tích mà quân đội Mỹ đã rải là 1.5 triệu hectares, tức gần 10% diện tích của miền nam Việt Nam, trong đó có nhiều vùng bị rải hơn 4 lần. Theo báo cáo chính thức của Chiến dịch Ranch Hand, kết quả là quân đội Mỹ đã phá hủy khoảng 14% diện tích rừng nam Việt Nam, kể cả 50% các vườn xoài [6].

 
W

woonopro

Câu chuyện dioxin và bệnh tật: thực hay giả?

TDioxin và cựu chiến binh Mỹ

Sau khi cuộc chiến Việt Nam kết thúc, hai thành phần được công nhận là chịu ít nhiều ảnh hưởng của dioxin: đồng bào Việt Nam sống trong các vùng bị rải AO, và quân nhân Mỹ, những người trực tiếp rải hóa chất này. Sau năm 1975, một số cựu chiến binh Mỹ và thân nhân của họ bắt đầu phàn nàn tình trạng suy đồi sức khỏe, đặc biệt là ung thư, và tình trạng khuyết tật trong con cái của họ. Những cựu chiến binh này nghi ngờ rằng dioxin là thủ phạm của những bệnh tật như thế. Họ vận động với chính phủ, và một số thượng nghị sĩ cũng khẳng định rằng AO, hay dioxin, là độc chất gây ra bệnh tật cho giới cựu chiến binh, và kêu gọi chính phủ phải bồi thường cho những thiệt hại này. Tiếp theo đó, Bộ phụ trách các dịch vụ cựu chiến binh (Department of Veterans Affairs) bắt đầu tiến hành thủ thục bồi thường cho những cựu chiến binh mắc bệnh "non-Hodgkins lymphoma" hay "soft tissue sarcoma."

Nhưng ý kiến dioxin là thủ phạm của những vấn đề sức khỏe trong giới cựu chiến binh bị một số nhà nghiên cứu y khoa thách thức. Các nhà nghiên cứu này trình bày dữ kiện cho thấy không có một sự liên đới nào giữa AO hay dioxin và ung thư. Nhận xét này được phù hợp với một nghiên cứu ở Úc, mà trong đó các nhà nghiên cứu Úc không tìm thấy mối liên hệ nào giữa dioxin và các vấn đề sức khỏe trong cựu quân nhân Úc từng tham chiến ở Việt Nam.

Vấn đề trở nên phức tạp hơn khi một số nhà nghiên cứu khác trình bày dữ kiện cho thấy dioxin có thể gây ra ung thư, dị thai, và một loạt tác hại khác cho sức khỏe. Một cuộc tranh luận "nóng" giữa các nhà nghiên cứu xảy ra trên các tập san y học. Các nhà nghiên cứu y học thường rất bình tĩnh, lạnh lùng, và ôn hòa trong lời văn chữ viết, nhưng trong cuộc tranh luận này, đã có lúc họ dùng đến những danh từ nặng cảm tính như "huyền thoại" (myth), "sai lầm" (wrong, mistake) …

Để giải quyết tình trạng bất đồng ý kiến này, chính phủ Mỹ đã chi ra một ngân khoảng rất lớn (140 triệu đô-la) để ủy nhiệm một số chuyên viên khoa học và bác sĩ tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của dioxin trong sức khỏe của cựu chiến binh Mỹ. Cuộc nghiên cứu này được lấy tên chiến dịch rải AO, tức là "The Operation Ranch Hand Study" [7]. Trong nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu theo dõi tình trạng sức khoẻ của hai nhóm cựu chiến binh từng tham gia vào chiến dịch này trong thời chiến tranh: nhóm I gồm khoảng 1000 người từng trực tiếp rải AO xuống Việt Nam; và nhóm II có khoảng 1300 người không trực tiếp rải chất AO, nhưng có mặt trong nhà kho, bảo quản chất AO trong thời chiến tranh. Trong thời gian từ 1982, 1985, 1987, 1992, 1997, và 2002 (sắp tới), mỗi cựu chiến binh (nếu còn sống) được khám để thu thập số liệu liên quan đến độ tích tụ dioxin, và quá trình phát triển bệnh tật. Một loạt báo cáo khoa học đã được công bố trên các tạp san y khoa danh tiếng, và kết quả có thể được tóm tắt như sau:

a. Tử vong. Nói chung, không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ tử vong giữa hai nhóm. Tuy nhiên, nhóm rải AO (nhóm I) có tỷ lệ chết vì bệnh tim mạch cao hơn nhóm II.

b. Bệnh tiểu đường. Các nhà nghiên cứu kết luận rằng dioxin có khả năng làm tăng sự nghiêm trọng của bệnh tiểu đường, làm giảm độ insulin và dung nạp glucose (glucose tolerance). Tỷ lệ bị bệnh tiểu đường trong nhóm I cao hơn trong nhóm II khoảng 5%.

c. Bệnh ung thư. Trong một bài báo đăng trên Tập san American Journal of Epidemiology, các nhà khoa học kết luận rằng không có mối quan hệ nào giữa dioxin và ung thư da, ung thư tiền liệt.

d. Hệ thống miễn nhiễm. Kết quả nghiên cứu trong hai nhóm cựu chiến binh cho thấy không có mối liên hệ nào giữa dioxin và các chỉ số sinh hóa như lymphocytes, immunoglobulin, tế bào clonal B, v.v. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu không tìm thấy ảnh hưởng của dioxin đến hồng huyết cầu hay bạch huyết cầu, hay haematocrit, haemoglobin, hay ESR.

e. Dùng số liệu từ năm 1982 đến 1997, các nhà nghiên cứu ước lượng rằng tính trung bình, mức độ tồn tại trung bình của dioxin trong cơ thể là khoảng từ 7 đến 8.2 năm.

Nhưng những kết quả nghiên cứu trên đây bị giới cựu chiến binh chất vấn một cách mạnh mẽ. Sau khi điều tra và thậm định lại các phương pháp nghiên cứu và cách thức làm việc của các nhà khoa học dính dáng đến chương trình này, một số cựu chiến binh phát hiện nhiều vấn đề nghiêm trọng. Chẳng hạn như có 2 báo cáo về tình trạng dị thai trong các cựu quân nhân bị nhiễm dioxin ở mức độ cao, nhưng không được công bố. Lại còn có một báo cáo về mối liên hệ giữa dị thai và dioxin bị thay đổi từ ngữ làm cho kết quả kém quan trọng. Phần lớn các nhà khoa học làm việc trong chương trình nghiên cứu này là quân nhân, họ chịu ảnh hưởng từ các cấp chỉ huy cao hơn trong việc phân tích số liệu, và điều này làm cho người ta có lí do để chất vấn tính trung thực của việc làm của họ.
 
W

woonopro

Câu chuyện dioxin và bệnh tật: thực hay giả?

Dioxin và người Việt Nam​

Ở Việt Nam, sau một loạt trường hợp dị thai được ghi nhận ở các tỉnh miền Trung mà trong thời chiến tranh chịu ảnh hưởng chất AO, đã bắt đầu nghi ngờ tác hại của dioxin. Nhà cầm quyền Việt Nam đã cố công thu thập và trưng bày trong vài bệnh viện ở Sài Gòn nhiều trường hợp dị thai, và rải rát trên báo chí người ta tường trình các trường hợp cha mẹ bị nhiễm AO thường sinh con có tật hoặc bị bệnh. Việt Nam còn đưa ra một số số liệu thống kê để chứng minh AO gây ra dị thai. Tuy nhiên, hầu hết số liệu và nghiên cứu của Việt Nam đều bị giới khoa học thế giới đánh giá thấp, nếu không muốn nói là không được công nhận. Lí do đơn giản là tất cả các nghiên cứu của Việt Nam trong lĩnh vực này chưa đạt được tiêu chuẩn của một "nghiên cứu" nghiêm túc, tức là thiếu khoa học tính. Tuy nhiên, trong lĩnh vực này, Việt Nam có cơ hội tiến hành những nghiên cứu có chất lượng cao, và có tiềm năng cống hiến nhiều dữ kiện quan trọng cho y học thế giới mà không nơi nào có được. Song, trong vài năm gần đây, phía Việt Nam tỏ ra miễn cưỡng trong việc hợp tác với người Mỹ trong việc nghiên cứu AO ở Việt Nam, vì chính phủ Việt Nam quan tâm đến một kết quả từ những nghiên cứu như thế sẽ chẳng mang lại lợi ích gì, nếu không muốn nói là có hại, cho nền kinh tế xuất khẩu nông sản của Việt Nam! Nếu thế giới biết được những vùng như Ban Mê Thuột bị nhiễm dioxin thì kỹ nghệ sản xuất và xuất cảng cà phê của Việt Nam ắt hẳn phải gặp khó khăn.

Do đó, các tranh luận ở Mỹ và sự miễn cưỡng của Việt Nam trong vài năm qua đã biến vấn đề mang bản chất khoa học này trở thành vấn đề chính trị và kinh tế. Cộng thêm vào đó là những ồn ào trong giới cựu chiến binh, và sự quan tâm của công chúng và đặc biệt là công nhân trong các cơ xưởng kỹ nghệ về tác hại của dioxin đến sức khỏe của họ, đã biến dạng AO thành một vấn đề đầy cảm tính. Hậu quả của một sự tranh luận cảm tính như thế là sự lẫn lộn. Công chúng, nhất là những người không hiểu nhiều về y học, hay không quen thuộc với các phương pháp nghiên cứu y khoa, cảm thấy bị động bởi các bản tin lúc thì cho rằng AO gây ra ung thư, lúc lại có tin cho rằng AO là một chất hoàn toàn vô hại! Vậy sự thật ra sao? Trong bài viết này, tôi sẽ cố gắng trình bày một cách ngắn gọn kết quả của những nghiên cứu liên quan đến sự ảnh hưởng của AO trong sức khỏe con người.

 
W

woonopro

Câu chuyện dioxin và bệnh tật: thực hay giả?

Mức độ nhiễm dioxin

Ước định mức độ nhiễm độc là một chìa khóa để xác định mối quan hệ giữa một căn bệnh và một độc chất. Mức độ này được đo lường bằng thời gian, và mức độ tích tụ (concentration levels) của dioxin trong máu của cá nhân bị nhiễm. Thời gian mà cá nhân bị ảnh hưởng bởi dioxin chỉ được đánh giá qua lời khai của "nạn nhân" và không có phương pháp nào để biết những lời khai này chính xác hay không. Mức độ dioxin trong con người có thể được xác định qua thử máu, da, hoặc sữa, bằng cách dùng quan phổ kế (spectrometry). Quan phổ kế đo độ dioxin trên mỗi nghìn tỉ particles, hay còn gọi là ppt (parts per trillion). Theo kinh nghiệm lâm sàng, một mức độ tích tụ dioxin từ 10 ppt hay cao hơn được xem là bất bình thường và có hại cho sức khỏe.

Tuy nhiên, trong cả hai chỉ số đo đạt này đều có một số hạn chế nhất định. Do đó, các đo lường được ứng dụng trong tất cả các nghiên cứu chỉ là tương đối, và trong nhiều trường hợp mức độ chính xác còn rất thấp, thấp đến độ không có ý nghĩa lâm sàng gì cả.

Dù số liệu chính xác về mức độ nhiễm dioxin vẫn còn trong thời gian hoàn thiện, một số số liệu thống kê rút ra từ một loạt nghiên cứu gần đây cho thấy mức độ dioxin trong các cựu chiến binh Mỹ, tính trung bình, thấp hơn các công nhân trong các hãng xưởng kỹ nghệ. Tuy nhiên, các cựu chiến binh trong chiến dịch Operation Ranch Hand có mức độ tích tụ dioxin cao hơn trung bình. Trong các cựu chiến binh trực tiếp tham gia rải chất AO xuống Việt Nam, mức độ tích tụ dioxin trung bình là 12.7 ppt (tối thiểu là 0, và tối đa là 617 ppt); trong nhóm không rải chất AO, mức độ dioxin trung bình chỉ 4.2 ppt (min: 0, max: 54.8).

Tuy nhiên, một nhóm nghiên cứu thuộc Trường Đại học Yale đã chất vấn sự chính xác của các con số trên đây. Dùng số liệu thu thập từ Việt Nam, nhóm này khẳng định rằng mức độ dioxin trong cựu chiến binh cao hơn trung bình trong dân số đáng kể. Ngoài ra, cũng có thể giải thích bằng một giả thiết rằng các cựu chiến binh Mỹ có mức độ tích tụ cao và họ đã qua đời (nên đã làm cho con số trung bình trong nhóm cựu chiến binh thấp hơn các công nhân).

Còn trong người Việt Nam thì thế nào? Trong một nghiên cứu khoa học gần đây [8], Giáo sư Arnold Schecter thuộc Trường Đại học Texas (một người đã bỏ ra cả đời làm khoa học của ông để nghiên cứu tác hại của AO) đã đo lường độ tích tụ dioxin trong 100 cư dân ở Hà Nội (nơi không bị rải AO trong thời chiến tranh) và 100 cư dân ở Biên Hoà (từng bị rải AO nhiều nhất). Giáo sư Schecter kết luận rằng mức độ tích tụ dioxin trong cư dân Biên Hòa cao hơn mức độ dioxin trong người Hà Nội đến 135 lần (Nguyên văn: "A comparison, pooled sample from 100 residents of Hanoi, where Agent Orange was not used, measured blood TCDD levels of 2 ppt. TCDD levels of UP TO 271 ppt, a 135-fold increase, were found in Bien Hoa residents.") Con số này được giới truyền thông quốc tế loan tải rộng rải như là một báo động. Tuy nhiên, sau khi dọc kỹ bài báo khoa học này, tôi có lí do để cho rằng đây là một con số cường điệu, và giới truyền thông đã hiểu sai. Thực ra, Giáo sư Schecter đã so sánh mức độ tích tụ tối đa ở Biên Hòa (271 ppt) với mức độ trung bình ở Hà Nội (2 ppt), và đây là một việc làm không nghiêm túc, vì cách làm này cũng giống như lấy chiều cao của một người Mỹ cao nhất nước Mỹ để so với chiều cao trung bình của dân số Việt Nam!

 
W

woonopro

Câu chuyện dioxin và bệnh tật: thực hay giả?

Cách đây khoảng 6 năm, Giáo sư Schecter [9] và đồng nghiệp ở Việt Nam từng công bố một nghiên cứu mà trong đó họ đo độ tích tụ dioxin ở các tỉnh và thành phố như Quảng Ninh, Hà Nội, Thanh Hóa, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Đà Nẵng, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Đồng Nai, Biên Hòa, Sông Bé, Tây Ninh, Bến Tre, Sài Gòn, Hậu Giang, An Giang, Kiêng Giang, v.v. Kết quả cho thấy mức độ tích tụ dioxin trong cư dân (khoảng 900 người) cư ngụ trong các vùng bị rải AO như sau:

Trong máu: 12.6 ppt (tối thiểu: 3.4, tối đa: 32 ppt)

Trong sữa: 7.5 ppt (tối thiểu: 1, tối đa: 17 ppt)

Trong mô mỡ: 14.7 ppt (tối thiểu: 2, tối đa: 103 ppt)

Trong nhóm cư dân không cư ngụ trong các vùng bị rải AO (khoảng 150 người), kết quả như sau:

Trong máu: 2.2 ppt (tối thiểu: 1, tối đa: 2.9 ppt)

Trong sữa: 1.9 ppt (tối thiểu: 1, tối đa: 2.1 ppt)

Trong mô mỡ: 0.6 ppt (tối thiểu: 1, tối đa: 1.4 ppt)

Bài báo này còn tính chỉ số trung bình cho mỗi tỉnh. Ở các tỉnh miền Bắc, mức độ tích tụ dioxin trung bình chỉ khỏang 2.2 ppt, miền Trung là 13.2 ppt, và miền Nam là 12.9 ppt. Tuy nhiên, mức độ không phải đồng đều như thế, có vài nơi cao hơn, và có nơi thấp hơn, trung bình. Ở miền Trung, các tỉnh như Đà Nẵng có mức độ tích tụ cao nhất (khoảng 19 ppt). Riêng ở miền Nam, các tỉnh sau đây có mức độ dioxin khá cao: Đồng Nai-Biên Hòa (28 ppt), Sông Bé (32), và huyện Trà Nóc (Hậu Giang) với mức độ tích tụ lên đến 33 ppt. Như vậy, dù Biên Hòa có mức độ tích tụ dioxin cao hơn các nơi khác trong nước, nhưng mức độ không quá báo động như 135 lần. Dựa vào số liệu của Giáo sư Schecter và theo sự ước đoán của người viết bài này, mức độ tích tụ dioxin ở Biên Hòa – Đồng Nai cao hơn Hà Nội khoảng 8,5 lần. Nhưng đó vẫn là một mức độ rất đáng quan tâm.

Dioxin thường tích tụ trong sữa. Do đó, một số nhà nghiên cứu đã căn cứ vào sữa để ước tính độ dioxin trong dân chúng. Theo báo cáo "The American People’s Dioxin Repot", độ dioxin trong sữa tìm thấy ở Đà Nẵng là cao nhất thế giới (34 ng/kg), kế đến là Nhật và Đức (27 ng/kg), Canada (26 ng/kg), Mỹ (20 ng/kg), Sài Gòn (19 ng/kg). Hà Nội (9 ng/kg), Thái Lan và Cambodia có độ dioxin trong sữa thấp nhất (3 ng/kg) [10].

 
W

woonopro

Câu chuyện dioxin và bệnh tật: thực hay giả?

Tác hại của dioxin trong thú vật​

Kết quả nghiên cứu cơ bản (trong tế bào) trên động vật như chuột cho thấy TCDD có khả năng gây nên một số ảnh hưởng đến giới tính, tuổi tác, và sự căng thẳng, kể cả gây ra ung thư, tổn hại đến hệ thống miễn nhiễm, gây ra tình trạng bất bình thường trong hệ thống tái sinh sản, tổn hại đến tế bào gan và hệ thống thần kinh, xuống cân. Trong chuột, các nhà nghiên cứu ghi nhận rằng với một liều lượng thấp, dioxin vẫn có thể làm giảm khả năng sản xuất tinh trùng, và do đó có ảnh hưởng đến khả năng sinh sản trong chuột. Ngoài ra, khi thí nghiệm trong ống nghiệm, các nhà nghiên cứu còn cho thấy dioxin có ảnh hưởng đến sự điều tiết của serotonin, một hormone có nhiệm vụ truyền tín hiệu đến hệ thống thần kinh và điều khiển mức độ ăn uống. Sự ảnh hưởng này cũng phù hợp với một số nhận xét trước đây cho thấy khi chuột bị nhiễm dioxin, chúng cũng bị chứng biếng ăn và mất cân.

Trong vài năm gần đây, còn có một số nghiên cứu sự tương quan giữa dioxin và một số bệnh tật trên thú vật, chủ yếu là chuột. Khi chuột bị nhiễm dioxin ở một mức độ cao, gan của chúng trơ nên lớn hơn, nhưng các nhà nghiên cứu không giải thích được hiện tượng này.


 
W

woonopro

Câu chuyện dioxin và bệnh tật: thực hay giả?

Tác hại của dioxin trong con người

Trong nghiên cứu y khoa, người ta phân biệt hai loại tương quan, mà tiếng Anh gọi là "association" và "linkage." Tuy theo cách dịch thông thường, hai danh từ này không khác nhau mấy, nhưng trong nghiên cứu y khoa, hai thuật ngữ này mang ý nghĩa rất khác nhau: association có thể hiểu là mối "liên hệ gián tiếp", và linkage là mối "liên hệ trực tiếp." Có thể lấy hai ví dụ sau để làm sáng tỏ hai quan niệm này: Nếu một yếu tố A ảnh hưởng đến yếu tố trung gian K, và K gây ra bệnh X, thì mối tương quan giữa A và X được xem là liên hệ gián tiếp; tuy nhiên nếu yếu tố A gây ra bệnh X mà không qua ảnh hưởng đến một yếu tố trung gian nào thì mối tương quan này được xem là liên hệ trực tiếp. Phần lớn những kết quả nghiên cứu trong lĩnh vực dioxin và bệnh tật chỉ có thể xem là liên hệ gián tiếp, vì chưa ai có thể giải thích một cách chính xác cơ chế ảnh hưởng của dioxin ra sao. Thực ra, cũng cần nói thêm rằng đại đa số các vấn đề y khoa, kể cả mối liên hệ giữa ung thư và hút thuốc lá đều có thể cho là liên hệ gián tiếp.

Dù những tác hại của dioxin đã được chứng minh khá rõ ràng trong chuột, nhưng trong con người thì nói một cách chung, vấn đề không đơn giản chút nào. Môi trường thử nghiệm trong chuột được các nhà nghiên cứu kiểm soát theo những tiêu chuẩn định sẵn trong các phòng thí nghiệm, nên kết quả thường chính xác. Nhưng sự chính xác luôn tùy thuộc vào điều kiện của môi trường. Nhưng trong nghiên cứu trên dân số hay một cộng đồng thì nhà nghiên cứu không có sự lựa chọn môi trường; nhà nghiên cứu không có quyền và cũng không thể nào bắt buộc người tham gia nghiên cứu phải sống trong một môi trường cố định. Trong thực tế, không có một cá nhân nào giống một cá nhân nào. Do đó, mức độ chính xác của kết quả nghiên cứu trong con người thường không cao. Vì sự thiếu chính xác này, các nhà nghiên cứu độc lập thường lặp lại các cuộc điều nghiên trước đây của đồng nghiệp xem có đạt được cùng kết quả hay không. Nếu nhiều cuộc nghiên cứu độc lập cho cùng một kết quả, các nhà nghiên cứu có đủ bằng chứng để kết luận. Nếu kết quả của nhiều nghiên cứu không nhất quán thì mối liên hệ, dù là gián tiếp hay trực tiếp, phải được xem là còn trong vòng nghi vấn.

Trong hai mươi năm qua, ngoài cuộc khảo cứu trong các cựu quân nhân tham gia vào chiến dịch Operation Ranch Hand, còn có một số nghiên cứu khác. Nhưng kết quả của các nghiên cứu này thường không nhất quán, và gây ra hoang mang, hiểu lầm trong công chúng. Quốc hội Mỹ đã ủy nhiệm cho Viện Y khoa (Institute of Medicine, trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Hoa Kỳ) duyệt xét và tóm tắc các kết quả nghiên cứu. Để làm việc này, Viện Y khoa thành lập một ủy ban khoa học (gọi là "Committee to Review the Health Effects in Vietnam Veterans of Exposure to Herbicides) để xem xét, cân nhắc phương pháp và kết quả nghiên cứu và từ đó tổng kết thành một báo cáo cho chính phủ. U빠ban này gồm có 11 nhà khoa học từ các trường đại học và viện nghiên cứu trên toàn nước Mỹ, do Giáo sư Irva Hertz-Picciotto (thuộc Trường đại học North Carolina), một chuyên viên về y tế công cộng, chủ trì. Sau khi duyệt qua và cân nhắc hơn 50 nghiên cứu khác nhau có liên quan đến hóa chất dioxin và sức khỏe của cựu chiến binh được tiến hành trong vòng 20 năm qua, ủy ban đã soạn thảo thành một loạt sách, trong đó, có một cuốn tóm lược tác dụng của dioxin đến sức khoẻ [11]. Một vài nét chính của quyển sách này có thể tóm lược như sau:

a. Cho đến nay, các nhà nghiên cứu đã có đầy đủ bằng chứng khoa học để kết luận rằng dioxin trực tiếp gây ra các bệnh sau đây: Soft-tissue sarcoma, Non-Hodgkin's lymphoma, bệnh Hodgkin [12], và bệnh ban clor (chloracne) [13]. Tháng 4 năm 2001, Viện Y khoa công bố một thông cáo báo chí mà trong đó các nhà nghiên cứu cảm thấy có đủ dữ kiện để có thể kết luận rằng con của các cựu quân nhân Mỹ bị nhiễm dioxin có tỷ lệ bị bệnh ung thư máu cao hơn trung bình.

b. Tuy nhiên, mối liên hệ giữa AO và một số bệnh vẫn còn nằm trong vòng nghi vấn, vì kết quả của các nghiên cứu vẫn chưa nhất quán. Những bệnh này là: ung thư hệ thống hô hấp (phổi, thanh quản, khí quản), ung thư tuyến tiền liệt (prostate cancer), myeloma, một số bệnh thần kinh cấp tính, và bệnh nứt đốt sống (spina bifida).

c. Ngoài ra, Viện Y khoa cảm thấy chưa có đầy đủ bằng chứng khoa học để kết luận về mối liên hệ giữa dioxin và các bệnh sau đây: ung thư gan, ung thư mũi, ung thư xương, ung thư vú, ung thư hệ thống tái sản sinh trong phụ nữ (tử cung, noãn xào), ung thư bọng, ung thư thận, ung thư bộ tinh hoàn, dị thai, sanh thai chết (Neonatal/infant death and stillbirths), trọng lượng hài nhi thấp (Low birthweight), bất bình thường chỉ số tinh trùng và hiếm muộn, rối loạn hệ thống phối hợp (coordination dysfunction), các triệu chứng thần kinh ngoại vi kinh niên, các bệnh thuộc hệ thống nội tiết và tiêu hóa (như tiểu đường, loét, thay đổi enzyme của gan, bất bình thường lipid), các chứng miễn nhiễm, bệnh tim, bệnh đường hô hấp, và ung thư da.

d. Ngược lại, các nhà nghiên cứu thuộc Viện Y khoa cũng thêm rằng họ chưa có đủ bằng chứng để loại bỏ mối liên hệ giữa dioxin và các bệnh sau đây: ung thư dạ dày, ung thư tuyến tụy, ung thư ruột, ung thư trực tràng, và ung thư não (brain tumors).
 
W

woonopro

Câu chuyện dioxin và bệnh tật: thực hay giả?

Trong một cuộc khảo cứu công phu ở Ý, các nhà nghiên cứu thuộc Trường Đại học Milano-Bicocca (Ý) và Trung tâm Nghiên cứu Môi trường và Y tế (Mỹ) đã theo dõi tỷ lệ sinh sản suốt 25 năm liền trong vùng Seveso (Ý), nơi có một hãng sản xuất thuốc diệt cỏ bị cháy, nổ tung, và thải ra môi trường chung quanh khoảng 30 kí lô dioxin vào năm 1977. Họ khám phá rằng những đàn ông bị nhiễm dioxin có xác suất sinh con trai thấp hơn những đàn ông không bị nhiễm dioxin (hay bị nhiễm nhưng ở mức độ thấp). Trong các người cha không sống trong vùng bị nhiễm hay sống trong vùng bị nhiễm nhưng có mức tích tụ dioxin trong máu dưới 16 ppt, tỷ lệ sinh con trai là khoảng 56%; và trong các người cha sống trong vùng bị nhiễm với mức tích tụ dioxin trong máu từ 16 ppt hay cao hơn, tỷ lệ sinh con trai chỉ 44% [14].

Vài nhận xét cá nhân​

Trong y học, một khi một công thức thuốc được phát triển, người ta phải làm thử nghiệm về sự an toàn của thuốc trên thú vật như chuột cực kỳ kỹ càng trước khi đem ra dùng cho bệnh nhân. Ngay cả thử nghiệm trên chuột, các nhà khoa học phải được phép của hội đồng y đức trước khi để tiến hành nghiên cứu. Trong khi đó, quyết định dùng chất màu da cam chứa dioxin trong chiến tranh Việt Nam chỉ do một người quyết định (Tổng thống Kennedy) và nhận được sự ủng hộ của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Người dân Việt Nam hoàn toàn không biết gì đến quyết định này. Vì thế, có thể nói rằng quyết định dùng AO ở Việt Nam là một việc làm tàn nhẫn và vô nhân đạo. Nó thể hiện một thái độ ngạo mạn của người Mỹ coi thường mạng sống con người Việt Nam và môi trường Việt Nam. Nó còn cho chúng ta thấy sự thiển cận (hay bất lực) của chính quyền miền nam Việt Nam lúc đó. Năm 1964, Liên đoàn Khoa học gia Mỹ (Federation of American Scientists) yêu cần chính phủ Mỹ ngưng dùng AO ở Việt Nam, vì những tác hại của nó đến đồng lúa và con người [15]. Tháng 1 năm 1966, Giáo sư John Edsall thuộc Trường Đại học Harvard cũng công kích quyết định của Mỹ và cho đó là một hành động dã man, chỉ có hại cho người lính và thường dân [16].

Đến nay, chiến tranh đã chấm dứt hơn một phần tư thế kỷ, nhưng ảnh hưởng của AO và dioxin vẫn còn kéo dài. Trong vòng hai thập niên qua, đã có nhiều nghiên cứu về tác hại của dioxin trong sức khỏe, nhưng đại đa số các nghiên cứu này nhắm vào đối tượng cựu quân nhân Mỹ và các công nhân trong hãng xưởng Mỹ; chỉ có một số ít dữ kiện được thu thập từ đồng bào Việt Nam. Dù kết quả nghiên cứu có khi không nhất quán, nhưng chúng ta đã có đủ bằng chứng khoa học để kết luận rằng trong các cựu quân nhân Mỹ, dioxin là một độc chất nguy hiểm, có khả năng gây ra ung thư tế bào và ung thư máu. Nhưng chúng ta chưa đủ bằng chứng để kết luận rằng dioxin gây ra dị thai, một quan tâm lớn của công chúng. Thực vậy, trong một báo cáo khoa học mật được đệ trình lên Quốc hội Mỹ (nhưng đã bị tiết lộ ra ngoài báo chí gần đây), các nhà khoa học Mỹ đã khẳng định rằng dioxin là một độc chất nguy hiểm vào hàng số một do con người tạo ra và biết đến. (Tưởng cần nhắc lại là trước đây, EPA chỉ phân loại dioxin như là một chất "có thể gây ra ung thư".)

 
W

woonopro

Câu chuyện dioxin và bệnh tật: thực hay giả?

Với gần 72 triệu lít chất khai hoang rải xuống Việt Nam, chúng ta ắt phải nghĩ rằng Việt Nam là môi trường lý tưởng để nghiên cứu về tác hại của AO và dioxin. Song, thực tế trái ngược: các dữ kiện từ Việt Nam về AO và dioxin chỉ bằng một phần nhỏ so với phía Mỹ. Điều này có thể hiểu được một phần nào vì, sau 1975, Việt Nam có hàng trăm vấn đề y tế cấp bách phải đối phó, thiếu ngân sách, và phương tiện nghiên cứu, nên đã bỏ qua một cơ hội quan trọng để thu thập dữ kiện. Số liệu về AO và dioxin từ Việt Nam chỉ được phân tích gần đây, kể từ ngày Mỹ bỏ lệnh cấm vận Việt Nam. Qua các báo cáo khoa học được công bố trên các tạp san y học quốc tế gần đây, chúng ta có thể kết luận rằng dioxin vẫn còn tồn tại trong môi trường Việt Nam ở một mức độ có hại cho sức khỏe. Một nghiên cứu sơ bộ gần đây do Công ty Hatfield (Canada) thực hiện cho thấy mức độ tích tụ dioxin trong hải sản và mô động vật (gà, heo, bò) ở miền trung và nam Việt Nam vẫn còn cao. Điều này có thể (chỉ "có thể" thôi) cho thấy dioxin ở Việt Nam đã xâm nhập vào nguồn thực phẩm. Theo tiêu chuẩn ở các nước Tây phương, một tình trạng như thế có thể được xem là khủng hoảng y tế công cộng. Tuy nhiên, giới y tế Việt Nam vẫn chưa có kế hoạch nào cụ thể để giải quyết vấn đề.

Đã từ lâu, giới y học Tây phương và Việt Nam đã ghi nhận tỷ lệ dị thai ở miền trung Việt Nam cao hơn trung bình, nhưng ý kiến về nguyên nhân thì khác nhau. Phía Việt Nam tin rằng AO và dioxin là nguyên nhân, nhưng phương pháp nghiên cứu và cách xử lý số liệu của họ không được chấp nhận là nghiêm túc và khoa học. Do đó, mối liên hệ giữa dị thai và dioxin ở Việt Nam vẫn còn nằm trong vòng nghi vấn, vì bằng chứng chưa đầy đủ. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là dioxin không phải là nguyên nhân gây ra dị thai. Tất nhiên, bằng chứng chưa đầy đủ không có nghĩa rằng không có bằng chứng ("the absence of evidence does not mean that the evidence is absent.") Thực vậy, một nhóm nghiên cứu thuộc Trường Đại học Texas vừa được chính phủ Mỹ cấp một ngân sách $874,000 để nghiên cứu về mối liên hệ quan trọng này.

Mới đây, một nhà khoa học Việt Nam và một nhà khoa học Thụy Điển vừa công bố một nghiên cứu sơ bộ về mối quan hệ giữa Agent Orange và sinh đẻ (Impact of chemical warfare with agent orange on women's reproductive lives in Vietnam: a pilot study, đăng trong Tập san Reprod Health Matters năm 2001; số 9(18), trang 156-64) trong đó trong 30 gia đình. Hai nhà nghiên cứu ghi nhận rằng, trong số 30 gia đình này, tỉ lệ trẻ em bị dị tật, tỉ lệ sẩy thai, sinh sớm (premature births) trong những người cha hay mẹ bị ảnh hưởng Agent Orange cao hơn bình thường (nguyên văn: "The women had had a high number of miscarriages and premature births. About two-thirds of their children had congenital malformations or developed disabilities within the first years of life.") Tuy nhiên, vì đây là nghiên cứu sơ bộ, nên kết quả này cần phải được cân nhắc cẩn thận, và một nghiên cứu qui mô hơn và có hệ thống hơn đang được tiến hành.
 
W

woonopro

Câu chuyện dioxin và bệnh tật: thực hay giả?

Trái lại với nhiều dư luận báo chí, chính phủ Việt Nam chưa bao giờ chính thức đòi chính phủ Mỹ bồi thường những thiệt hại mà chiến dịch Operation Ranch Hand gây ra. Nhưng chính phủ Mỹ đã và đang bồi thường một số cựu chiến binh Mỹ từng tham gia vào chiến dịch này. Chính phủ Mỹ cũng chưa có viện trợ hay kế hoạch nào để làm sạch, tẩy xóa dioxin trong môi trường Việt Nam. Thái độ này đã được giới khoa bảng Mỹ chất vấn, và chính phủ Mỹ giải thích rằng họ cần phải có bằng chứng khoa học trước khi thảo luận vấn đề bồi thường. Suy cho cùng, đây cũng không hẳn là một thoái thác của Mỹ, mà họ hành động một cách duy lí. (Chỉ đáng trách là phía Việt Nam ta đã không thừa cơ hội để thu thập dữ kiện một cách khoa học làm bằng chứng.) Để tỏ thiện chí của mình, gần đây, chính phủ Mỹ đã thỏa thuận và cung cấp một ngân sách cho các nhà khoa học Mỹ cùng hợp tác với các nhà khoa học Việt Nam để nghiên cứu tác hại của AO và dioxin ở Việt Nam. Hi vọng trong tương lai, kết quả của nghiên cứu này sẽ làm cho vấn đề sáng tỏ hơn và tránh mọi suy luận theo cảm tính.

chat-doc-da-cam-13775953733898_html_m1121dc9b.jpg



 
W

woonopro

Câu chuyện dioxin và bệnh tật: thực hay giả?

Chú thích:

(*) Mối liên hệ giữa chuyện dioxin và bệnh tật rất phức tạp. Bài viết này không có tham vọng trình bày mọi khía cạnh của mối liên hệ này, nhưng chỉ đưa ra những thông tin liên quan đến Việt Nam mà thôi. Trong một dịp khác, người viết bài này sẽ quay lại vấn đề này một cách chi tiết hơn về kinh nghiệm dioxin ở các nơi khác trên thế giới.

1. Tên gọi "Agent Orange" xuất phát từ những thùng phuy có khoanh màu cam. Do đó, người ta quen gọi là "Agent Orange." Thực ra, trong thời chiến tranh Việt Nam, Mỹ đã dùng đến 15 hóa chất khác nhau để khai hoang. Các hóa chất khác cũng từng được nhận diện bằng màu như thế, chẳng hạn như "Agent White," "Agent Blue," "Agent Purple," "Agent Pink," và "Agent Green." Trong thời gian 1962-1964, Agent Purple (2,4,-D and 2,4,5,-T), Agent Green (2,4,5-T), và Agent Pink (2,4,5-T) được dùng; trong thời gian 1965-1970, Agent Orange (2,4,-D và 2,4,5-T) là chất được dùng chính.

2. Theo tài liệu NSAM 115, subject: Defoliant Operations in Vietnam, Nov. 30, 1961. Trích từ "Operation Ranch Hand: Herbicides in Southeast Asia 1961-1971" của Tiến sĩ William A. Buckingham, Jnr.

3. Theo tài liệu Record, 4th SECDEF Conference, HQ CINCPAC, March 21, 1962. Trích từ "Operation Ranch Hand: Herbicides in Southeast Asia 1961-1971" của Tiến sĩ William A. Buckingham, Jnr.

4. Xem bài xã luận "New IOM Report links Agent Orange exposure to risk of birth defect in Vietnam Vets’ children," do Tiến sĩ Joan Stephenson viết trong [Tập san] Journal of the American Medical Association (JAMA), số 275, ra ngày 10 tháng Tư 1996, trang 1066-1067.

5. Xem bài xã luận "Agent Orange: exposure and policy," do Tiến sĩ Michael Gough viết trong [Tập san] American Journal of Public Health, năm 1991; số 81: trang 289-290.

6. Theo báo cáo của Công ty Tư vấn Hatfield (Canada), #201-1571 Bellevue Avenue, West Vancouver, BC V7V 1A6, Canada.

7. Xem các bài báo sau đây: "Exposure to Agent Orange and occurrence of soft-tissue sarcomas or non-Hodgkin lymphomas: an ongoing study in Vietnam," [Tập san] Environmental Health Perspective 1998 Apr;106 Suppl 2:671-8; "Serum dioxin, insulin, fasting glucose, and sex hormone-binding globulin in veterans of Operation Ranch Hand," [Tập san] Journal of Clinical Endocrinology and Metabolism 1999 May;84(5):1540-3; "Vietnam veterans' risks for fathering babies with birth defects," [Tập san] JAMA 1984 Aug 17;252(7):903-12.

8. "Recent dioxin contamination from Agent Orange in residents of a southern Vietnam city," [Tập san] Journal of Occupational Environmental Medicine 2001; May; 43(5):435-43.

9. "Agent Orange and the Vietnamese: the persistence of elevated dioxin levels in human tissues," [Tập san] American Journal of Public Health 1995 Apr;85(4):516-522.

10. Trích trong bài báo "Exposure assessment: Measurement of dioxins and related compounds in human tissues," của A. Schecter, in trong sách "Dioxins and Health," Arnold Schecter, editor, pp. 449-486. New York: Plenum Press, năm 1994.

11. Xin xem "Veterans and Agent Orange: Update 2000" do Committee to Review the Health Effects in Vietnam Veterans of Exposure to Herbicides (Third Biennial Update) soạn thảo, và Institute of Medicine xuất bản năm 2001.

12. Bệnh non-Hodgkin's lymphoma là một bệnh mà các tế bào ung thư được tìm trong hệ thống bạch huyết.

13. Ban clor là một bệnh ngoài da giống như trứng cá (viêm nang lông). Bệnh Hodgkin là một bệnh ác tính của các mô máu trắng, thường có đặc điểm là một hay nhiều nhóm hạch máu trắng lớn thấy ở cổ, nách, háng và ngực hay bụng, có thể gồm cả lá lách, và tủy xương.

14. Bài báo nghiên cứu của Giáo sư Paolo Mocarelli và đồng nghiệp có tên là "Paternal concentration of dixin and sex ratio of offspring", công bố trên Tập san y khoa Lancet, số 355, ra ngày 27 tháng 5, 2000, trang 1858-1863.

15. "FAS Statement on Biological and Chemical Warfare," Bulletin of the Atomic Scientists (Oct. 1964), pp. 46-47.

16. Có thể xem "Scientists Protest Viet Crop Destruction," Tập san Science, Jan. 21, 1966, p. 309; và bài báo "5000 Scientists Ask Ban on Gas in Vietnam," Washington Post, Feb. 15, 1967, p. A-1
 
W

woonopro


Chất độc da cam và nguy cơ ung thư

Phát hiện mới và cơ hội mới

Trong phiên tòa da cam gần đây ở New York, Thẩm phán Weinstein cho rằng chất độc da cam chỉ là một hóa chất diệt cây cỏ chứ không phải là độc chất, dù ông công nhận chất này có chứa dioxin và dioxin là một độc chất. Nhưng một nghiên cứu mới nhất từ Mĩ cho thấy phán quyết đó không đúng với thực tế, vì ngay cả những cựu chiến binh Mĩ ít bị phơi nhiễm dioxin cũng có nguy cơ bị ung thư cao.

Có thể nói rằng mối liên hệ sinh học giữa dioxin hay chất độc da cam và ung thư đã từng là một nỗi “ám ảnh” nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới. Trong khi bằng chứng nghiên cứu trên chuột và động vật cấp thấp cho thấy khi chuột bị cho phơi nhiễm dioxin, chúng có tỉ lệ bị ung thư, nhất là ung thư các mô mềm, cao hơn chuột không bị nhiễm dioxin. Thế nhưng mối liên hệ giữa dioxin và ung thư trong con người thì có khi thiếu tính nhất quán. Cái khó khăn chính trong việc thiết lập mối liên hệ này là vì các nhà không có những đối tượng lí tưởng cho nghiên cứu. Không ai có thể làm nghiên cứu bằng cách cho con người bị phơi nhiễm dioxin ở nồng độ cao rồi theo dõi xem có bao nhiêu người bị ung thư! Do đó, tất cả các dữ kiện về mối liên hệ giữa dioxin và ung thư trong con người chỉ có thể dựa vào những đối tượng gián tiếp.

Một trong những đối tượng gián tiếp đó là các cựu chiến binh Mĩ từng tham gia vào chiến dịch “Bàn tay nông dân” (Operation Ranch Hand) phun độc chất xuống Việt Nam trong thời gian từ 1962 đến 1971. Bắt đầu từ năm 1982, Chính phủ Mĩ ủy nhiệm cho một nhóm khoa học gia nghiên cứu tác hại của chất độc da cam đến sức khỏe cựu chiến binh Mĩ. Trong công trình nghiên cứu kéo dài hơn 20 năm này, các nhà nghiên cứu xem xét sức khỏe của hơn 2000 đối tượng, và họ chia thành hai nhóm: nhóm I gồm khoảng 1000 người từng trực tiếp rải chất độc da cam xuống Việt Nam; và nhóm II có khoảng 1300 người không trực tiếp rải độc chất, nhưng có mặt trong nhà kho, bảo quản hóa chất. Trong thời gian từ 1982 đến nay, cứ mỗi 2 năm, mỗi cựu chiến binh (nếu còn sống) được tái khám để thu thập số liệu liên quan đến nồng độ dioxin, và quá trình phát triển bệnh tật. Công trình nghiên cứu này đã đem lại rất nhiều thông tin có ích cho khoa học về tác hại của dioxin, và tôi đã tóm lược các kết quả chính trong cuốn sách Chất độc da cam, dioxin và hệ quả (Nhà xuất bản Trẻ, tháng 7, 2004).

Trong một báo cáo khoa học mới nhất trên tập san y khoa về lao động, môi trường và sức khỏe (Journal of Occupational and Environmental Medicine), các nhà nghiên cứu cho phát hiện rằng ngay cả những cựu quân nhân trong nhóm II (tức không trực tiếp tiếp xúc với chất độc da cam) có nguy cơ bị ung thư cao hơn tỉ lệ trong dân số đến 60% [1]. Những ung thư được ghi nhận có tỉ lệ cao trong các cựu chiến binh này: ung thư hệ thống hô hấp, ung thư hệ thống tiêu hóa, và ung thư da ác tính. Ngoài ra, nguy cơ bị ung thư có xu hướng tăng cao theo thời gian phục vụ ở Việt Nam


 
W

woonopro


Chất độc da cam và nguy cơ ung thư

Như vậy nghiên cứu mới nhất từ Mĩ cung cấp thêm cho chúng ta một bằng chứng mới nhất về khả năng gây ung thư của độc chất da cam và dioxin. Từ hơn 10 năm qua, một số nghiên cứu lớn từ Đức, Ý và Mĩ cũng cho thấy tỉ lệ bị ung thư trong các đối tượng bị nhiễm dioxin cao hơn tỉ lệ trong các đối tượng không bị nhiễm dioxin. Nhưng cái mới của nghiên cứu này là ngay cả những người bị phơi nhiễm thấp cũng có nguy cơ bị ung thư cao.

Thật vậy, nồng độ dioxin trong máu các cựu chiến binh trong công trình nghiên cứu này chỉ 3.8 pg/g, tức chỉ cao hơn trong dân số khoảng 1.5 pg/g. (Cũng cần nóu thêm rằng nồng độ dioxin trong các cựu chiến binh Mĩ từng phun độc chất là từ 15 pg/g đến 45.7 pg/g). Do đó, ý nghĩa quan trọng nhất của phát hiện mới này là đối với khả năng gây tác hại của dioxin, không có cái gọi là “nồng độ dioxin an toàn

Có thể lí giải rằng những ước tính về mức độ ảnh hưởng của dioxin đến nguy cơ mắc bệnh ung thư còn thấp hơn so với thực tế, bởi vì phần lớn những nghiên cứu này được tiến hành sau khi nạn nhân bị nhiễm dioxin cả 20 đến 30 năm. Với một thời gian dài như thế và thời gian bán hủy (khoảng 10 năm) thì nồng độ dioxin trong người lúc nghiên cứu không phản ánh đúng nồng độ thực lúc ban đầu. Ngoài ra, có thể một số nạn nhân bị nhiễm nặng đã qua đời, và những đối tượng mà các nhà nghiên cứu liên lạc được là những người “khỏe”. Đó là những hạn chế trong các nghiên cứu về dioxin mà chúng ta phải ghi nhận khi diễn dịch các kết quả trên đây

Nghiên cứu này chỉ thẩm định mối liên hệ giữa dioxin và ung thư, còn hậu quả của ung thư thì sao? Các nhà nghiên cứu Ý đã phân tích dữ kiện thu thập sau 20 năm về ảnh hưởng của dioxin đến tỉ lệ tử vong vì ung thư [2]. Họ ghi nhận rằng các cư dân sống trong vùng bị nhiễm dioxin cao có tỉ lệ tử vong (vì ung thư) cao hơn 30% so với các cư dân không sống trong vùng bị nhiễm. Tỉ lệ cư dân chết vì ung thư Hodgkin và phi-Hodgkin trong cư dân bị nhiễm cao gấp 2 đến 4 lần so với cư dân trong các vùng không bị nhiễm.

Đối với nạn nhân chất độc da cam, phát hiện mới nhất về mối liên hệ giữa dioxin và ung thư từ Mĩ là một bằng chứng khác cho thấy phán quyết của Thẩm phán Weinstein (rằng chất độc da cam không phải là một độc chất) là thiếu cơ sở khoa học. Tháng Hai năm 1997, Cơ quan nghiên cứu ung thư quốc tế (International Agency for Research on Cancer, một cơ quan thuộc Tổ chức y tế thế giới) tiến hành một loạt nghiên cứu khoa học và kết luận rằng dioxin, nhất là dioxin trong chất màu da cam, là một độc tố có thể gây ra ung thư thuộc vào nhóm 1 (còn gọi là Class 1 carcinogen). Tháng Giêng năm 2001, Chương trình nghiên cứu về độc chất quốc gia của Mĩ (National Toxicology Program) cũng công nhận dioxin là một độc chất gây nên ung thư trên con người. Trong một báo cáo khoa học được đệ trình lên Quốc hội Mĩ, các nhà nghiên cứu Mĩ đã khẳng định rằng dioxin gây ra nhiều ung thư trong con người, kể cả ung thư máu và ung thư phổi. Họ cũng đề nghị EPA phân loại lại dioxin là độc chất số một, tức độc hại nhất trong các hóa chất mà con người biết đến.

 
W

woonopro


Chất độc da cam và nguy cơ ung thư

Công trình nghiên cứu Ranch Hand Study còn cung cấp cho chúng ta một vài kinh nghiệm và bài học về nghiên cứu tác hại của chất độc da cam. Thứ nhất, một công trình nghiên cứu qui mô về tác hại của chất độc da cam ở trong nước là một việc làm hoàn toàn khả dĩ mà không phải nhất thiết cần đến sự giúp đỡ của các nhà khoa học Mĩ. Thứ hai, nên tập trung làm những nghiên cứu lớn trên hàng ngàn đối tượng (chứ không nên làm những nghiên cứu nhỏ mà kết quả không có giá trị khoa học cao). Thứ ba, một nghiên cứu có giá trị cần phải theo dõi đối tượng nhiều năm, nhưng chỉ một hay hai năm là kết quả có thể phân tích được. Thứ tư, về định hướng nghiên cứu, tôi nghĩ có thể tập trung vào 3 khía cạnh chính: một là phát triển cho được một phương pháp để ước định mức độ phơi nhiễm độc chất cho từng cá nhân trong những vùng từng bị ảnh hưởng độc chất; hai là thiết lập mối liên hệ giữa mức độ phơi nhiễm độc chất da cam và các bệnh như ung thư, dị tật bẩm sinh, tiểu đường, và tỉ lệ giới tính; và ba là thẩm định tác hại của dioxin hay độc chất da cam đối với cấu trúc di truyền (gen)

Tóm lại, các bằng chứng khoa học trên đây cho thấy dioxin được xem là một trong những độc chất nguy hiểm nhất, vì nó có khả năng gây tác hại đến sự sống và sức khỏe của con người, nhất là ung thư và các rối loạn nội tiết và tái sản sinh khác. Phát hiện mới nhất về tác hại ung thư của dioxin từ các nhà khoa học Mĩ cung cấp thêm một bằng chứng cho thấy dioxin quả là một độc chất nguy hiểm.

Phát hiện mới này cũng đặt một câu hỏi cấp bách cho giới khoa học trong nước là bao giờ Việt Nam cũng có một công trình nghiên cứu tương tự trên người Việt Nam. Tác hại của dioxin đòi hỏi một sự cập nhật hóa kiến thức và dữ kiện một cách liên tục. Đã đến lúc Việt Nam tiến hành một nghiên cứu qui mô về dioxin và chất độc da cam để đóng góp vào việc ghi nhận những tác hại của độc chất không chỉ ở nước ta mà còn góp phần vào việc bồi đấp kho tàng tri thức cho thế giới.
 
W

woonopro


Chất độc da cam và nguy cơ ung thư

Chú thích:

[1] Pavuk M, Michalek JE, Schecter A, KetchumNS, Akhtar FZ, Fox KA. Did TCDD exposure or service in Southeast Asia increase the risk of cancer in Air Force Vietnam Veterans who did not spray Agent Orange? J Occup Environ Med 2005; 47:335-342.

[2] Bertazzi PA, Consonni D, Bachetti S, Rubagotti M, Baccarelli A, Zoccochetti C, Pesatori AC. Health effects of dioxin exposure: a 20-year mortality study. Am J Epidemiol 2001; 153:1031-1044
 
W

woonopro


Di sản của chiến tranh ( END )

Thêm bằng chứng về mối quan hệ giữa chất độc Da cam và Dị tật bẩm sinh

Ba mươi lăm năm kể từ ngày đầu tiên quân đội Mỹ tiến hành rải chất khai quang (Da cam) xuống đồng ruộng Việt nam, có khi sự hiện diện của thế hệ những người tham chiến trực tiếp và những người chịu ảnh hưởng trực tiếp của chất độc này ngày càng thưa thớt, thì hệ quả tác động nguy hại của chất độc này lên những nạn nhân của nó vẫn còn chưa được (hay chưa muốn?) làm sáng tỏ. Dù rằng những người cựu chiến binh Mỹ có tham dự trực tiếp vào các chiến dịch rải chất độc da cam đã được nhận ít ra cũng là một phần trợ cấp để giảm thiểu nỗi đau, thì những nạn nhân bị trực tiếp dội lên đầu những chất độc “khách không mời” này thì lại gần như bị lãng quên theo thời gian.

Tác hại của chất độc màu da cam lên sức khoẻ của con người đã được nhiều công trình nghiên cứu trên thế giới công bố dựa trên những số liệu về tai nạn hoặc do chiến tranh tại Việt Nam. Một trong những tác hại do chất độc màu da cam (CĐDC) gây ra đó là dị tật bẩm sinh (DTBS). Thế nhưng một điều lý thú là những số nghiên cứu về DTBS này lại không nhất quán với nhau về kết quả, hơn nữa nó có sự thiếu khách quan nguồn dữ kiện (publication bias); có nghĩa là những công bố về tác hại của chất độc màu da cam trong cuộc chiến Việt Nam của quân đội Mỹ lên DTBS lại là những nghiên cứu của người nước ngoài lên những cựu chiến binh tham chiến Việt nam (nạn nhân gián tiếp) hơn là những đối tượng trực tiếp bị ảnh hưởng (dân cư sống trong vùng bị phun xịt).

Ảnh hưởng của sự thiếu khách quan về nguồn dữ kiện thường đến từ các nguồn như: những tài liệu chưa công bố (hoặc không được công bố) có kết quả đi ngược lại với kết quả mong muốn; hoặc có thể là do chất lượng công trình nghiên cứu chưa đủ để được công bố. Vấn đề tác hại của chất độc màu da cam lên dị tật bẩm sinh (DTBS) ở nạn nhân trực tiếp của CĐDC ở Việt Nam có lẽ là do cả hai, mà chúng tôi sẽ đề cập sau.

 
W

woonopro


Di sản của chiến tranh ( END )

rong một bối cảnh hiện nay bằng chứng về mối tương quan giữa CĐDC và DTBS vẫn chưa được ngã ngũ (một số tài liệu công bố là có, một số bảo không) thì việc quy kết về một mối quan hệ tương quan thật là khó. Do đó trong nghiên cứu Y học, một loại nghiên cứu cho phép tổng hợp các kết quả nghiên cứu đã được hoặc chưa được công bố có cùng một quy trình và mục tiêu nghiên cứu lại với nhau, từ đó có thể đưa ra một kết luận có tính khách quan hơn, đó là nghiên cứu tổng hợp hay tiếng Anh còn gọi là meta-analysis.

Nghiên cứu tổng hợp trong các ngành Y khoa có lẽ không có gì là mới, tuy nhiên kết quả nghiên cứu tổng hợp về mối quan hệ giữa phơi nhiễm CĐDC và DTBS quả là lần đầu tiên, một bài nghiên cứu vừa mới công bố trên tập san Dịch tễ học quốc tế (International Journal of Epidemiology), số ra tháng 3/2006 của nhóm tác giả Ngo AD, Taylor R, Roberts CL và Nguyen TV (Ngo AD, Taylor R, Roberts CL và Nguyen TV . Association between Agent Orange and birth defects: systematic review and meta-analysis. Int J Epidemiol 2006)

Các tác giả đã tiến hành rà soát toàn bộ y văn thế giới trên hệ thống dữ liệu y văn y sinh học quốc tế để tìm kiếm tất cả các nghiên cứu về mối tương quan giứa CĐDC và DTBS, đồng thời còn phải liên hệ và thu thập tất cà các số liệu tương tự mà chưa được công bố. Cuộc tìm kiếm có hệ thống này đã thu được 22 bộ dữ liệu đáp ứng được tiêu chuẩn nghiên cứu ban đầu đặt ra để phân tích. Trong số này, có 11 nghiên cứu từ Việt Nam và 2 nghiên cứu của tác giả nước ngoài là dữ liệu chưa được công bố dưới dạng bài báo khoa học có qua hệ thống bình duyệt (peer-reviewed published article), tuy nhiên đều đã được đăng trong các kỷ yếu công trình nghiên cứu, trình bày ở các hội thảo, dưới dạng tóm tắt nghiên cứu. Tổng số đối tượng nghiên cứu gộp lên đến khoảng 205 nghìn người. Số liệu được phân tích có điều chỉnh yếu tố thiếu đồng bộ giữa các nghiên cứu. Mối tương quan giữa yếu tố phơi nhiễm với CĐDC và DTBS được biểu thị dưới dạng yếu tố nguy cơ tương đối.

Kết quả công trình nghiên cứu phân tích tổng hợp được tóm tắt như sau: Nguy cơ tương đối (NCTD) giữa DTBS (tính chung tất cả các loại dị tật) và yếu tố phơi nhiễm với CĐDC là 1.95. Đối với các nghiên cứu được tiến hành tại Việt nam, trên người Việt Nam thì cho kết quả về mối tương quan này cao hơn, với NCTD là 3.0, còn các nghiên cứu không thuộc nhóm này thì có mối liên hệ yếu hơn, với NCTD là 1.26. Mặc dù biên độ ảnh hưởng của mối quan hệ có dao dộng, tất cả đều có ý nghĩa thống kê.

 
W

woonopro


Di sản của chiến tranh ( END )

Vấn đề được đặt ra là chúng ta cần phải hiểu ý nghĩa của các con số nguy cơ tương đối này là gì, và tại sao nó là như vậy? Quan trọng hơn nữa nghiên cứu tổng hợp này có đem lại một lợi ích thiết thực gì không, và có thể ứng dụng được gì trong thực tế cho những nạn nhân bị phơi nhiễm CĐDC? Trong khuôn khổ bài viết ngắn này, chúng tôi sẽ cố gắng lược giải những điều đó.

Trước hết chúng ta cần phải hiểu qua về bản chất của những nghiên cứu đơn lẻ, là chất liệu của nghiên cứu tổng hợp này. Điểm đầu tiên phải nhấn mạnh là tất cả các nghiên cứu về mối quan hệ giữa CĐDC và DTBS này đều là những nghiên cứu hồi cứu hoặc nghiên cứu tại một thời điểm trong quần thể. Có nghĩa là, dựa trên cơ sở DTBS đã xảy ra rồi, các nghiên cứu viên tìm hiểu về tiền sử phơi nhiễm với CĐDC của các đối tượng. Từ đó suy ra tỷ suất hoặc tỷ lệ tiền sử phơi nhiễm giữa hai nhóm bị dị tật hoặc không bị DTBS đối với các nghiên cứu đối chứng hoặc tỷ lệ mắc DTBS giữa hai nhóm đối tượng có phơi nhiễm hoặc không bị phơi nhiễm đối với các nghiên cứu quan sát quần thể (cohort). Kết quả được nêu lên dưới con số nguy cơ tương đối, có thể được hiểu gần đúng là tỷ lệ mắc DTBS trong quần thể những người có phơi nhiễm với CĐDC cao hơn tỷ lệ DTBS trong quần thể những người không có tiền sử phơi nhiễm với CĐDC 95% (1.95 lần). Trong khi tỷ lệ này ở những người cựu chiến binh tham chiến ở Việt nam chỉ có gia tăng 26% (nguy cơ tương đối 1.26) thì đối với những cư dân sống trong những vùng bị phun xịt trực tiếp, nguy cơ bị DTBS gia tăng đến 200% (nguy cơ tương đối 3.0). Điều này cho thấy có một mối liên hệ giữa nguy cơ DTBS và mức độ phơi nhiễm. Hơn thế nữa, như nghiên cứu đã chỉ ra, đối tượng nghiên cứu bị phơi nhiễm chính trực tiếp có khi đã qua đời, cho nên, con số tỷ lệ nguy cơ 3.0 có khi phản ánh dưới mức con số thực tế. Thế nhưng, phạm vi của nghiên cứu không cho phép có kết luận gì hơn.

Quay trở lại vấn đề thiếu khách quan do nguồn dữ liệu mà chúng tôi đã đề cập ở trên. Các nghiên cứu về mối quan hệ CĐDC và DTBS đã được công bố trên các tập san quốc tế thì đối tượng nghiên cứu chính yếu là những người cựu chiến binh tham chiến, tức là đối tượng phơi nhiễm gián tiếp, ngắn hạn; còn các nghiên cứu trên những đối tượng là nạn nhân bị phơi nhiễm trực tiếp, dài hạn thì lại không được phổ biến. Lý giải vấn đề này có thể khá tế nhị. Lấy một thí dụ, các nghiên cứu y học thuần tuý, một công trình nghiên cứu mà đưa ra kết quả “không có ý nghĩa (thống kê)”, tức là không nhằm trả lời được câu hỏi mà giới khoa học gia đương thời quan tâm, thì bài báo đó hầu như không có cơ may được đăng tải. Đối với các nghiên cứu về CĐDC, thì nếu kết quả “dương tính” có nghĩa là có mối tương quan giữa tình trạng phơi nhiễm với CĐDC và hậu quả DTBS, sẽ hẳn có thể là câu trả lời cho nhiều giới không kỳ vọng, thì số phận “đắp chiếu nằm chờ” của các công trình thuộc dạng này không có gì là ngạc nhiên. Tuy nhiên, một khía cạnh cần phải đề cập đến là giá trị của các nghiên cứu khoa học nghiên cứu tại Việt Nam còn vấp phải những vấn đề phương pháp, cho nên các nghiên cứu này không vượt qua được các “rào cản” hệ thống bình duyệt quốc tế, như các tác giả đã đề cập đến. Chính vì vậy, sự hiện diện của một công trình nghiên cứu tổng hợp để trình bày cả những số liệu chưa được công bố ở Việt nam này trên trường quốc tế là một sự cố gắng vượt bậc của các tác giả.

 
W

woonopro


Di sản của chiến tranh ( END )

Nằm trong mẫu số chung nhược điểm khác của các loại công trình nghiên cứu hồi cứu, tức là xuất phát điểm là bệnh (DTBS) đã phát sinh, tìm hiểu thông tin phơi nhiễm về quá khứ, có nghĩa là quá trình xem lại một bộ phim đã quay, hoặc xem một bức hình chụp cũ tại một thời điểm; tất cả các chi tiết đều đã được ghi nhận mà không thể theo ý đồ của người đạo diễn tái hiện sự kiện. Điều mà “người đạo diễn” hiện tại có thể làm là cố gắng lượm lặt các chi tiết có sẵn trong các “thước phim tư liệu” đó để cố gắng tái hiện trung thực nhất bối cảnh liên quan đến sự kiện mà thôi. Câu chuyện về nghiên cứu tìm hiểu mối quan hệ giữa CĐDC và DTBS ở đây cũng hoàn toàn tương tự như vậy. Dị tật bẩm sinh ở đây là tính chung tất cả các loại, và có thể là do nhiều nguồn nguyên nhân khác nhau gây ra; chính vì thế, trong quá trình nghiên cứu, cần phải cân nhắc đến ảnh hưởng của các yếu tố khác có thể gây nên DTBS như tác động của CĐDC. Mặt khác, loại dị tật bẩm sinh nào có mối liên hệ khắng khít nhất với CĐDC cũng là một yếu tố cần lưu ý mà trong khuôn khổ các nghiên cứu hồi cứu khó có thể trả lời được.

Thế nhưng điều mấu chốt mà công trình nghiên cứu tổng hợp này có thể giải quyết được là đã đưa ra một bằng chứng khó có thể bắt bẻ về một mối tương quan giữa tình trạng phơi nhiễm với CĐDC và DTBS, mà còn có xu hướng tương quan tỷ lệ với mật độ và cường độ cũng như thời gian phơi nhiễm với tác nhân.

Kết quả nghiên cứu này tuy chỉ có thể đưa ra được vài điểm kết luận ngắn gọn, thế nhưng nó là nền tảng và tiền đề cho những nghiên cứu dịch tể học có tính quy mô và trên diện rộng về mối tương quan giữa CĐDC và tác hại của nó lên sức khoẻ con người. Dù rằng con số nạn nhân bị ảnh hưởng trực tiếp của CĐDC đã bị mai một theo thời gian, nhưng xu hướng hệ quả liều lượng (dose effect) gợi mở một suy nghiệm nếu các nghiên cứu tập trung vào những vùng bị ảnh hưởng nhiều nhất có khả năng thu nạp được các đối tượng nghiên cứu “lý tưởng”.


 
W

woonopro


Di sản của chiến tranh ( END )

ã đến lúc giới khoa học gia Việt nam chúng ta cần phải lên tiếng trên trường khoa học quốc tế không phải chỉ là vấn đề bênh vực cho các nạn nhân, mà chí ít là cũng phải để làm sáng tỏ một số hệ luỵ khoa học về tác hại của CĐDC còn trong vòng tranh cãi mà môi trường nghiên cứu lý tưởng (bất đắc dĩ) là Việt nam. Công trình nghiên cứu của nhóm tác giả Việt nam và cộng sự đã cất lên một tiếng kèn khai trận. Một kết quả khiêm tốn, nhưng có lẽ cũng là một sự đồng cảm, chia sẻ công lý cho những nạn nhân của Chất độc Da cam, nhân ngày kỷ niệm 10/8.

Ngày nạn nhân CĐDC, 10/8/2006
 
Top Bottom