Sinh [Sinh 11] Game về động vật

Status
Không mở trả lời sau này.
V

vitconxauxi_vodoi

Daemonosaurus chauliodus.

Tiếp nhé ;)

cadaubo.jpg
 
S

sj_oppa

Daemonosaurus chauliodus.

Tiếp nhé ;)

cadaubo.jpg

đây là cá đầu bò .

Toàn thân được bao bọc bởi những mảng xương cứng. Đầu cá có hai sừng chĩa ra trông mặt cá giống đầu bò. Loài này khó đạt kích thước chuẩn khi nuôi trong hồ. Thân hình mang màu sắc xanh sọc trắng, chúng là một loài ăn tạp sống ở mọi tầng mực nước. Tuy nhiên nếu nuôi lâu chúng sẻ đạt đươc kích thước như mong đợi.


Kích thước : 50 cm

Nguồn gốc : Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương

Thuần hóa : dễ

Thức ăn : ăn tạp

Mực nước sống : ở tất cả các tầng nước
 
V

vitconxauxi_vodoi

Cá tăm xỉa răng được xem là loài cá nước ngọt đáng sợ nhất. Chúng ký sinh trong mang của những con cá lớn hơn tại vùng Amazon. Mới đây, các nhà nghiên cứu đã phát hiện thấy chúng còn ký sinh ngay trong niệu đạo con người, rất khó chữa khỏi ngay cả khi tiến hành phẫu thuật.
 
M

mavuongkhongnha

trả lời
con cá này sặc sỡ kinh => đẹp ;)
cá Betta ( không có thông tin gì ngoài việc nó là cá cảnh =)) )
 
N

nicolat12

con gà (coi thường các mem wa)
thông tin
Gà (danh pháp hai phần: Gallus gallus, Gallus gallus domesticus) là một loài chim đã được con người thuần hoá cách đây hàng ngàn năm. Một số ý kiến cho rằng loài này có thuỷ tổ từ loài chim hoang dã ở Ấn Độ và loài gà rừng lông đỏ nhiệt đới ở vùng Đông Nam Á. Trong thế giới loài chim, chúng là loài vật có số lượng áp đảo nhất với 23 triệu con (thống kê 2003).

Con người thường sử dụng thịt gà, trứng gà và lông gà. Ngoài ra, ngày nay, người ta còn dùng gà để làm các thí nghiệm nghiên cứu khoa học trong các ngành sinh học, vật lý, hoá học. Từ lâu, thịt gà là một loại thực phẩm rất được ưa chuộng trên thế giới. Nếu ta so sánh với thịt heo và thịt bò, lượng đạm thịt gà cao hơn rất nhiều lần, trong khi đó lượng mỡ ít hơn. Ngoài ra, thịt gà được chế biến thành nhiều món ăn ngon khác nhau: cơm gà, gà chiên, gà nướng, gà hấp, canh gà, gà luộc xé phay ... Ở các cửa hiệu thức ăn nhanh nổi tiếng thế giới như McDonald, KFC..., thịt gà luôn được đưa lên hàng đầu thực đơn.
Có nhiều loại gà trong nước lẫn ngoài nước:
Gà Ri (giống nội)
Gà Tàu vàng (giống nội)
Gà Tam hoàng (giống ngoại)
Gà Lương phượng (giống ngoại)
Gà Hai lai (Hyline) (giống ngoại)
Gà Hu bat (Hubbard) (giống ngoại)
Gà Lơ go (giống ngoại)
Gà Gô (giống ngoại)
Gà Tò (giống nội)
Đa số loài gà có thân hình nhỏ, không bay và không bơi được, tập tính đẻ trứng ấp thành con. Gà trống gáy to vào buổi sáng. Mỗi khi gà mái đẻ trứng cũng phát ra tiếng kêu.Các đặc điểm: màu sắc, khả năng chịu đựng với môi trường, cho thịt và trứng khác nhau mỗi loài.
 
N

nicolat12

Thiên nga là một nhóm chim nước cỡ lớn thuộc họ Vịt, cùng với ngỗng và vịt. Thiên nga và ngỗng có quan hệ gần gũi, cùng được xếp vào phân họ Ngỗng trong đó thiên nga làm thành tông Cygnini. Đôi khi, chúng được phân loại thành một phân họ riêng có tên là Cygninae.

Thiên nga thường kết đôi suốt đời, tuy nhiên việc "ly dị" thỉnh thoảng vẫn xảy ra, đặc biệt sau khi thất bại trong việc làm tổ. Số trứng trung bình trong mỗi ổ là 3-8. Các loài thiên nga ở Bắc bán cầu có bộ lông trắng tuyền nhưng các loài thiên nga ở Nam bán cầu có màu lông trắng-và-đen. Loài thiên nga đen của Úc (Cygnus atratus) có màu đen hoàn toàn ngoại trừ vài lông trắng trên cánh của chúng còn loài thiên nga cổ đen Nam Mỹ - như tên gọi của chúng - có cổ màu đen.

Hầu hết thiên nga có chân màu ghi đen đậm, ngoại trừ hai loài ở Nam Mỹ, có chân màu hồng. Màu mỏ của chúng rất đa dạng: 4 loài sống ở vùng cận Bắc cực có mỏ đen với những mảng vàng bất quy tắc, các loài khác có "mô hình" phân màu đỏ và đen xác định. Loài thiên nga trắng và thiên nga cổ đen có một cái bướu ở phần gốc của mỏ trên. Tất cả các bằng chứng đều đề nghị rằng chi Cygnus tiến hóa từ châu Âu hay là vùng phía tây của đại lục Á-Âu trong thế Miocen và lan ra khắp Bắc Bán cầu cho tới thế Pliocen. Thời điểm phân tách các loài ở Nam bán cầu vẫn chưa được làm rõ. Thiên nga trắng được xem là nguyên thuỷ nhất trong chi Cygnus ở Nam bán cầu; tập tính uốn cong cổ (không thẳng) và xù cánh cũng như màu sắc mỏ và đặc điểm bướu chỉ ra rằng họ hàng "còn sống" gần nhất của chúng thực ra là loài thiên nga đen. Căn cứ theo ngành địa sinh học và hình dạng ngoài của phân chi Olor, dường như nguồn gốc của chúng gần hơn thế, được minh chứng bằng những vùng phân bố hiện đại (hầu hết không thể cư trú được trong thời kỳ băng giá gần đây) và sự tương đồng lớn giữa các đơn vị phân loại.

Chi Cygnus
Phân chi Cygnus
Thiên nga trắng, Cygnus olor, là loài phổ biến ở vùng ôn đới châu Âu, thường được bán thuần hoá; những đàn chim nuôi đã được du nhập và tự nhiên hoá ở Mỹ và một số nơi khác. Phân chi Chenopis
Thiên nga đen, Cygnus atratus của Úc, được nhập nội vào New Zealand
Thiên nga New Zealand, Cygnus (atratus) sumnerensis, một phân loài đã tuyệt chủng của thiên nga đen từ New Zealand và từ quần đảo Chatham
Phân chi Sthenelides
Thiên nga cổ đen, Cygnus melancoryphus của Nam Mỹ
Phân chi Olor
Thiên nga lớn, Cygnus cygnus sinh sản ở Iceland và các vùng gần cực bắc châu Âu và châu Á, di cư sang châu Âu và châu Á ôn đới trong mùa đông
Thiên nga kèn, Cygnus buccinator là một loài ở Bắc Mỹ rất giống với thiên nga lớn (và đôi khi được xem là phân loài của nó), bị săn bắn đến gần như tuyệt chủng nhưng đã hồi phục lại
Thiên nga nhỏ, Cygnus columbianus là một loài thiên nga nhỏ sinh sản ở lãnh nguyên của Bắc Mỹ xa về phương Bắc hơn những loài thiên nga khác. Chúng trú đông ở Mỹ.
Thiên nga Bewick, Cygnus (columbianus) bewickii là dạng thiên nga ở đại lục Á-Âu, di cư từ vùng cực Bắc của nước Nga sang Tây Âu và Đông Á (Trung Quốc, Nhật Bản) vào mùa đông. Chúng thường được xem là phân loài của C. columbianus, gọi là Thiên nga lãnh nguyên. Thiên nga trắng được nhắc đến đến trong nhiều khía cạnh văn hoá châu Âu. Câu chuyện nổi tiếng nhất về thiên nga có lẽ là truyện cổ tích "Vịt con xấu xí". Câu chuyện xoay quanh một chú vịt con bị đối xử bất công cho đến khi mọi sự rõ ràng rằng chú là một con thiên nga và được đón nhận trong cộng đồng. Chú bị ngược đãi vì đối với nhiều người, những con vịt con thật sự đáng yêu hơn thiên nga con, mặc dù thiên nga con sẽ trở thành những thiên nga trưởng thành - những sinh vật thật sự quyến rũ. Thiên nga là biểu tượng của tình yêu và lòng chung thuỷ vì tập tính ghép đôi suốt đời. Vở opera nổi tiếng Lohengrin và Parsifal là một minh chứng cho điều này.

Những nàng thiên nga có thể biến từ người thành thiên nga và ngược lại, là một hình mẫu phổ biến trong văn hoá dân gian trên toàn thế giới. Một câu chuyện điển hình có nội dung là một nàng thiên nga nhất thời bị phù phép và bị ép buộc phải lấy một người đàn ông.

Thiên nga là hình ảnh nổi bật trong thần thoại. Trong thần thoại Hy Lạp, câu chuyện Leda và thiên nga thuật lại chi tiết việc nàng Helen thành Troia là kết quả của cuộc hôn nhân giữa thần Zeus hoá phép thành một con thiên nga và Leda, nữ hoàng thành Sparta.

Những đứa con của Lear trong truyền thuyết Ireland kể về một người mẹ kế phù phép biến những đứa con riêng của chồng thành thiên nga trong 900 năm. Huyền thoại về chính những con thiên nga cũng có tồn tại. Người ta đã từng tin rằng vào lúc chết, những con thiên nga trắng vốn chỉ im lặng sẽ cất tiếng hót ngọt ngào – vì thế mà có cụm từ nói về "bài hát thiên nga" trong các ngôn ngữ châu Âu.

Trong thần thoại Bắc Âu, có hai con thiên nga uống nước thiêng trong giếng Urd thuộc Asgard, thiên đường của các thần. Theo tập Edda bằng văn xuôi, nước giếng này tinh khiết và thiêng liêng đến mức tất cả những gì nó chạm vào đếu biến thành màu trắng, trong đó có đôi thiên nga và những thế hệ con cháu của chúng. Bài thơ "Volundarkvida" trong Edda bằng thơ cũng nhắc đến các nàng thiên nga.

Sử thi Kalevala của Phần Lan có nhắc đến một con thiên nga trên sông Tuoni dưới địa ngục Tuonela, bất kì ai giết chết con thiên nga này cũng sẽ phải chết theo nó. Jean Sibelius sáng tác nhạc phẩm Lemminkäinen Suite dựa theo Kalevala, bản thứ 2 có tựa đề "Tuonelan joutsen" (Thiên nga của Tuonela). Ngày nay, hình ảnh 5 con thiên nga đang bay là biểu tượng của các nước Bắc Âu và thiên nga lớn (Cygnus cygnus) là quốc điểu của Phần Lan.

Trong văn học Mỹ Latinh, nhà thơ Nicaragua Ruben Dario đã tôn vinh thiên nga là biểu tượng của niềm cảm hứng nghệ thuật, vì lòng chung thuỷ của hình tượng thiên nga trong văn hoá phương Tây, bắt đầu từ việc cưỡng đoạt Leda và kết thúc với vở Lohengrin của Richard Wagner. Bài thơ nổi tiếng nhất của Dario trong lĩnh vực này là "Blason" (Phù hiệu, 1986) cùng với hình ảnh thiên nga được sử dụng ở đây đã khiến bài thơ trở thành biểu tượng cho xu hướng thơ cách tân (Modernismo) - một thể loại thống trị thơ tiếng Tây Ban Nha từ thập niên 1880 cho đến Thế chiến thứ nhất.

Thiên nga được tôn thờ trong nhiều tôn giáo và nền văn hoá, đặc biệt là đạo Hindu. Thiên nga trong tiếng Phạn được gọi là hamsa hoặc hansa, là phương tiện đi lại của rất nhiều vị thần như nữ thần Saraswati. Thiên nga được đề cập một vài lần trong kinh Vệ Đà, và những người có khả năng tinh thần đặc biệt đôi khi được gọi là Paramahamsa (Thiên nga thần thánh) vì dáng vẻ duyên dáng thoát lộ từ bên trong và khả năng di chuyển giữa các thế giới tâm linh. Trong kinh Vệ Đà, thiên nga cư trú bên hồ Manasarovar trong mùa hè và di cư đến các vùng hồ Ấn Độ vào mùa đông. Tranh tượng Hindu thường sử dụng hình ảnh thiên nga trắng. Nhiều nhà sử học đã nhầm lẫn khi cho rằng từ hamsa chỉ ám chỉ đến loài ngỗng, vì ngày nay thiên nga không còn có ở Ấn Độ, ngay cả trong các vườn thú. Tuy nhiên, danh mục điểu học đã phân loại một số loài thiên nga là chim lạc vùng ở Ấn Độ một cách rõ ràng.
 
V

vitconxauxi_vodoi

Pic mấy nay sao ế ẩm quá vậy :(?Mọi người sôi động lên nào
Câu trả lời của vịt đây: Đó chính là con cò tuyết,đẹp phải không mọi người?
Cò tuyết (danh pháp hai phần: Egretta thula) là một loài chim thuộc họ Diệc. Môi trường sống tự nhiên của chúng là vùng nội địa rộng lớn và các vùng đất ngập nước ven biển từ dưới Ngũ Đại Hồ và tây nam Hoa Kỳ đến [Nam Mỹ]. Phạm vi sinh sản ở miền đông Bắc Mỹ mở rộng dọc theo bờ biển Đại Tây Dương và vùng Vịnh từ Maine tới Texas, và nội địa dọc theo sông và hồ lớn. Chúng làm tổ thành từng bầy, thường với các loài cò khác, thường là trên các búi cây hoặc cây bụi. Tổ nông làm bằng cây gậy và lót bằng cành cây và cây cói. Mối tổ có 3 đến 4 trứng màu xanh hình bầu dục được cả chim cha lẫn chim mẹ ấp. Chim non rời tổ ​​trong 20-25 ngày và đỗ trên nhánh gần tổ cuối cùng trước khi bay đi
~>Các bạn ra câu hỏi tiếp đi nh;)
 
T

thienlong233

Lợn biển

( gia đình Trichechidae , chi Trichechus ) lớn, hoàn toàn thủy sản, chủ yếu là động vật ăn cỏ động vật có vú biển đôi khi được gọi là bò biển . Có ba loài được chấp nhận sống Trichechidae, đại diện cho ba trong số bốn loài sống theo thứ tự Sirenia : lợn biển Amazon ( Trichechus inunguis ), lợn biển Tây Ấn Độ ( Trichechus manatus ), và lợn biển Tây Phi ( Trichechus senegalensis ). Họ đo lên đến 13 feet (4,0 m) dài
Lợn biển có một khối lượng 400 đến 550 kg (880 đến 1.200 lb), và có nghĩa là chiều dài 2,8 đến 3,0 mét (9.2 đến 9,8 ft), với cực đại 3,6 m (12 ft) và 1.775 kg
 
N

nicolat12

này này, anh thienlong233 đừng lợi dụng trang web của em mà trả lời nha.
em chưa đang hình sao anh biết
đang tập cách đang hình mà
CÁC MOD XÓA BÀI ANH THIENLONG233 ĐI. BÀI ĐÓ KHÔNG TÍNH ĐÂU
 
K

key_bimat

Lợn biển Caribbean hoặc móng tay (Trichechus manatus) một Seekuhart từ gia đình của lợn biển (Trichechidae). Ông đã sống trên bờ biển của Vịnh Mexico và vùng Ca-ri-bê và bờ biển Đại Tây Dương của Brazil và Venezuela . Ông đã sống ở nước biển ven bờ cạn và thẩm thấu thường được tìm thấy trong các con sông. Ở Nam Mỹ, Caribbean lợn biển bơi km 800 nội địa. Ngược lại, một khi một con vật đã được tìm thấy 15 km từ bờ biển đến biển. Lợn đi lang thang cho đến nay và đạt được đặc biệt ngay cả các bờ biển Đại Tây Dương của Mỹ ở Virginia và Rhode Iceland đã bắt Caribbean lợn biển và quay trở lại Vịnh Mexico.
Cây lương thực chủ yếu là rong biển trong nước muối và đất cây tầm ma ở nước ngọt, nhưng tất cả các nhà máy thủy sản khác. Mỗi ngày ăn một lợn biển khoảng 1/4 trọng lượng cơ thể của mình.
Lợn biển Caribbean là những động vật đơn độc. Duy nhất giữa một con bò và bê của cô, có một mối liên kết chặt chẽ hơn. Để ăn hay đi lang thang xung quanh làm đôi khi lợn biển một số các nhóm này nhưng không có hệ thống phân cấp xã hội, và các thành viên trong nhóm không duy trì tương tác. Là một con bò trưởng thành, họ sẽ được viếng thăm bởi một hoặc nhiều con bò đực. Bò thường cố gắng để thoát khỏi những nỗ lực giao phối của các con bò đực, và cuối cùng bị áp đảo nhiều hơn hoặc ít hơn bạo lực.
Sau một thời gian mang thai của mười hai tháng, một em bé được sinh ra. Nó sẽ là một con bú đến hai năm. Với 3-4 năm phụ nữ trưởng thành, con đực hơi sau đó. Tuổi thọ có thể hơn năm mươi năm.
9a049d3c.jpg

Câu tiếp !
 
L

lamnun_98

Kim tước (Chim én) Mỹ
Kim tước Mỹ hay Kim tước phía Đông là một loài chim Bắc Mỹ thuộc họ nhà sẻ. Kim tước là loài di trú, từ Nam Canada đến Bắc Carolina trong suốt mùa sinh sản và từ nam biên giới Canada tới Mexico vào mùa đông. Kim tước là loài sống cộng đồng. Chúng tập hợp lại với nhau khi đi kiếm mồi và di cư. Kim tước thường sống một vợ một chồng, mùa sinh sản duy nhất trong năm của chúng thường bắt đầu vào cuối tháng 7.
:D
 
N

nicolat12

iêu bộ Cá đuối (danh pháp khoa học: Batoidea) là một siêu bộ cá sụn chứa khoảng trên 500 loài đã miêu tả trong 13-19 họ. Tên gọi chung của các loài cá trong siêu bộ này là cá đuối, cá ó, cá đao, nhưng tên gọi cá đuối là phổ biến hơn cả và củ yếu áp dụng cho các loài cá trong bộ Rajiformes, hay "cá đuối thật sự". Các dạng cá đuối bao gồm cá đuối bông, cá đuối thường, cá đuối điện, cá giống và cá đao. Các loài cá đuối là cá có cơ thể bẹt, và, giống như cá nhám và cá mập, là các loài cá sụn chủ yếu sinh sống ngoài biển, nghĩa là chúng có bộ xương không cấu tạo từ chất xương mà là từ chất sụn cứng và đàn hồi. Phần lớn các loài cá đuối có 5 lỗ huyệt cơ thể giống như khe hẹp ở bụng, gọi là các khe mang dẫn tới các mang, nhưng họ Hexatrygonidae có 6 lỗ huyệt.[2] Các khe mang của các loài cá đuối nằm dưới các vây ngực trên mặt bụng, trong khi ở cá nhám và cá mập thì các khe mang ở hai bên đầu. Phần lớn các loài cá đuối có thân phẳng, giống như cái đĩa bẹt, với ngoại lệ là cá giống và cá đao, trong khi phần lớn các loài cá nhám có cơ thể thuôn động học. Nhiều loài cá đuối có các vây ngực phát triển thành các phần phụ rộng và bẹt, giống như cánh. Chúng không có vây hậu môn. Các mắt và các lỗ thở nằm trên đỉnh đầu.Phần lớn các loài cá đuối sống tại đáy biển, trong các khu vực địa lý khác nhau - nhiều loài trong vùng nước ven bờ, một vài loài tại vùng biển sâu tới độ sâu ít nhất là 3.000 m (9.800 ft), phần lớn các loài cá đuối có sự phân bố rộng khắp thế giới, trong các môi trường nhiệt đới và cận nhiệt đới, ôn đới hay vùng nước lạnh. Chỉ vài loài, như cá ó nạng hải (Manta birostris), là sinh sống ngoài biển khơi, và chỉ vài loài sinh sống trong vùng nước ngọt. Một số loài cá đuối có thể sống trong các vùng nước lợ và cửa sông. Các loài cá đuối sinh sống tại tầng đáy thở bằng cách lấy nước vào thông qua các lỗ thở, chứ không phải thông qua miệng như phần lớn các loài cá khác vẫn làm, và đẩy nước qua các mang ra ngoài. Phân loại siêu bộ cá đuối hiện tại đang được tích cực sửa đổi. Fishes of the World của Nelson năm 2006 công nhận 4 bộ. Nhóm Sclerorhynchoidea thuộc đại Trung sinh là cơ sở hoặc incertae sedis; chúng thể hiện các đặc trưng của bộ Rajiformes nhưng có mõm tương tự như của cá đao.
[sửa]
Bộ Torpediniformes
Bài chi tiết: Bộ Cá đuối điện

Cá đuối điện có các cơ quan phát ra điện trong các tấm vây ức. Các cơ quan này được sử dụng để phóng ra tia điện nhằm làm tê liệt con mồi và để phòng ngự. Dòng điện này đủ mạnh để làm con người bất tỉnh, và những người Hy Lạp cùng La Mã cổ đại sử dụng các loài cá này để điều trị chứng đau đầu.[3]
Họ Narcinidae
Họ Narkidae
Họ Hypnidae
Họ Torpedinidae (Họ Cá đuối điện)
[sửa]
Bộ Pristiformes
Bài chi tiết: Bộ Cá đao

Cá đao trông giống như cá mập, có đuôi để bơi và các vây ức nhỏ hơn so với phần lớn các loài cá đuối khác. Các vây ức của chúng gắn với phần trên của mang như ở mọi loài cá đuối khác, làm cho chúng có bề ngoài với đầu rộng. Chúng có mõm dài, phẳng với một hàng các tấm răng ở cả hai hàm. Mõm chúng dài tới 1,8 mét (6 ft), và rộng 30 cm (1 ft), được dùng để chém và xiên qua các con cá nhỏ cũng như để thăm dò trong bùn nhằm tìm kiếm các sinh vật ẩn nấp trong đó. Cá đao có thể tiến vào các sông và hồ nước ngọt. Một vài loài dài tới 6 mét (20 ft).
Họ Pristidae (Họ Cá đao)
[sửa]
Bộ Rajiformes
Bài chi tiết: Bộ Cá đuối
Họ Rajidae (Họ Cá đuối thường)
Họ Rhinidae (Họ Cá giống)
Họ Rhinobatidae (Họ Cá đuối dài)
Họ Rhynchobatidae (Họ Cá đuối lưỡi cày)
[sửa]
Bộ Myliobatiformes
Bài chi tiết: Bộ Cá đuối ó
Họ Dasyatidae (Họ Cá đuối bông)
Họ Gymnuridae (Họ Cá đuối bướm)
Họ Hexatrygonidae (Họ Cá đuối sáu mang)
Họ Myliobatidae (họ Cá đuối ó)
Họ Platyrhinidae (Họ Cá đuối đĩa)
Họ Plesiobatidae (Họ Cá đuối biển sâu)
Họ Potamotrygonidae (Họ Cá đuối sông)
Họ Urolophidae (Họ Cá đuối tròn)
Họ Urotrygonidae (Họ Cá đuối tròn Mỹ)
Họ Zanobatidae (Họ Cá đuối quạt)
(cạn thông tin rồi)
 
Status
Không mở trả lời sau này.
Top Bottom