Sử 7 Quay ngược quá khứ

Status
Không mở trả lời sau này.
Q

quynh2002ht

theo mình được biết thì cọc trên sông bạch đằng là cọc gỗ lim, tiết diện khoảng 30-40cm, chiều dài không rõ lắm nhưng mỗi cọc là 1 thân cây gỗ lim. cọc được vận chuyển bằng thuyền ra cửa sông lúc thuỷ chiều lên. công tác hạ cọc đựoc tiến hành lúc thuỷ chiều xuống, hạ cọc bằng phương pháp thủ công (bằng tay không): dùng tay xoay cho cọc tự mút xuống bùn, gốc cây lim thường nặng hơn ngọn nên được cắm xuống bùn. kết hợp giữa trọng lượng của cọc và sức nước lúc thuỷ chiều rút để cọc cắm xuống lớp bùn đáy sông với góc nghiêng khoảng 45 độ. công nhân chỉ làm công tác định vị cọc xuống lòng sông, hạ cọc bằng cách xoay cho cọc cắm vào lớp bùn dưới lòng sông, phần còn lại do thiên nhiên tự làm
 
T

tuananh1203

câu trả lời của bạn là rất chính xác
Ai cho biết tiểu sử của Ngô Quyền nào?
 
H

hhtthanyeu

câu trả lời của bạn là rất chính xác
Ai cho biết tiểu sử của Ngô Quyền nào?


Ngô Quyền sinh năm 898, mất năm 944 quê ở Đường Lâm, Ba Vì (Hà Tây ngày nay). Ông là con trai của quan mục Đường Lâm là Ngô Mân, sau trở thành bộ tướng và con rể của Tiết độ sứ Tĩnh Hải quân Dương Đình Nghệ (931 - 937), được giao cai quản Ái Châu (Thanh Hóa ngày nay).
 
Q

quynh2002ht

Ngô Quyền sinh năm 898, mất năm 944 quê ở Đường Lâm, Ba Vì, còn gọi là đất hai vua vì trước đây có Lí Bí. Ngô Quyền là con trai của Ngô Mân quan mục đường lâm, sau trở thành bộ tướng và con rể của Dương Đình Nghệ, ông được Dương Đình Nghệ giao cai quản Ái Châu được giao cai quản Ái Châu (Thanh Hóa)....
 
T

tuananh1203

Câu này thì khá dễ nên chắc ai cũng trả lời dc
Còn câu này thì sao
Diễn biến của trận chiến trên sông Bạch Đằng vào năm 938?
 
Q

quynh2002ht

938 (Mậu Tuất) :Ngô Quyền khởi nghĩa đánh bại quân xâm lược Nam Hán trên sông Bạch Đằng.
ngoquyenkhoinghia.jpg

Tháng 4-1937, Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn, hào trưởng đất Phong Châu giết chết để đoạt chức Tiết độ sứ. Ngô Quyền, vừa là bộ tướng, vừa là con rể của Dương Đình Nghệ tiến quân ra Bắc để trừ kẻ phản bội. Trước sự phẫn nộ của nhân dân, Kiếu Công Tiễn nhanh chóng cầu cứu vua Nam Hán. Nắm lấy cơ hội, vua Nam Hán dù được triều thần can ngăn nhưng vẫn quyết tâm chiếm nước ta cho bằng được.

Vua Nam Hán đã phong cho con hai là Vạn vương Hoằng Tháo chức Tĩnh hải quân tiết độ sứ, thống lĩnh thủy quân 'vượt biển sang nước ta với danh nghĩa giúp Kiều Công Tiễn đánh Ngô Quyền. Bản thân nhà vua đem quân đến đóng ở trấn Hải Môn, tỉnh Quảng Tây, sát với biên giới nước ta để kịp thời tiếp viện.

Khi quân Nam Hán còn chưa đến nước ta, Ngô Quyền cùng đội quân của mình đã tiến ra Bắc tiêu diệt Kiều Công Tiễn tại thành Đại La. Trừ xong họa trong nước, Ngô Quyền cùng toàn dân chuẩn bị đánh giặc ngoại xâm. ông nhận định: “|Hoằng Tháo là một đứa trẻ dại, đem quân từ xa đến, quân lính mỏi mệt lại nghe được tin Công Tiễn đã bị giết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta sức còn mạnh, địch với quân mỏi mệt, tất phá được".

Thần tích và truyền thuyết dân gian các làng Nam Hải, Đằng Hải đều nói rõ: từ Bình Kiều, Hạ Đoạn tới Lương Khê (thuộc An Hải, Hải Phòng) là khu vực đóng quân của Ngô Quyền. Đại bản doanh của Ngô Quyền đóng tại thôn Lương Xâm-, Gia Viễn (cũng thuộc An Hải). Trước mưu đồ xâm lược trở lại của phong kiến phương Bắc, ngọn cờ cứu nước của Ngô Quyền trở thành ngọn cờ đoàn kết cả dân tộc. Đội quân của Ngô Quyền từ một đội binh ở Ái Châu nhanh chóng trở thành đội binh dân tộc. Truyền thuyết dân gian còn ghi chuyện 38 chàng trai làng Gia Viễn (An Hải) do Nguyên Tất Tố và Đào Nhuận dẫn đầu đã tự vũ trang xin theo Ngô Quyền phá giặc. Trai tráng các làng Lâm Động (Thủy Nguyên, Hải Phòng), Đằng Châu (Kim Động, Hải Hưng) người mang vũ khí, kẻ mang chiến thuyền tìm đến cửa quân xin diệt giặc.


Quân đội chủ lực của Ngô Quyền chiến đấu trong sự phối hợp với các đội dân binh và sự tham gia phục vụ chiến đấu của toàn dân.

Vùng cửa sông và vùng hạ lưu sông Bạch Đằng được Ngô Quyền chọn làm chiến trường quyết chiến. Sông Bạch Đằng có tên nôm là sông Rừng. Dân gian ở đây đã có câu ca dao:

Con ơi nhớ lấy lời cha

Gió to sóng cả động qua sông Rừng

Sông Rừng thường có sóng bạc đầu nên mới có tên gọi Bạch Đằng giang. Bạch Đằng là cửa ngõ phía Đông Bắc và là đường giao thông quan trọng từ biển Đông vào nội địa nước ta. Cửa biển Bạch Đằng to rộng, rút nước từ đồng bằng Bắc Bộ đổ ra Vịnh Hạ Long. Từ cứa biển ngược lên gần 20km là đến cửa sông Chanh. Phía hữu ngạn có dãy núi đá vôi Tràng Kênh với nhiều hang động, sông lạch và thung lũng. Hạ lưu sông Bạch Đằng chịu ảnh hưởng của thủy triều khá mạ n h . Lúc triều dâng, nước trải đôi bờ đến vài kilômét. Lòng sông vừa rộng, vừa sâu từ 8-18m. Khi triều xuống, vào độ nước cường, nước rút đến hơn 30cm trong một giờ, ào ào xuôi ra biển, mực nước chênh lệch khi cao nhất và thấp nhất cũng trên 3m. Với chế độ nhật triều, thời gian từ lúc nước triều lên cho đến lúc xuống thấp nhất chỉ trong vòng một ngày.

Ngô Quyền đã huy động quân dân vào rừng đẵn gỗ, vót nhọn, bịt sắt rồi đóng xuống dòng sông, bãi cọc tạo thành bãi chướng ngại ở hai bên cửa sông. Khi nước triều lên, cả bãi cọc ngập chìm dưới nước nhằm chặn đường rút của thủy quân địch. Cả một đoàn binh thuyền cửa Hoằng Tháo vượt biển tiến vào sông Bạch Đằng. Ngô Quyền cho quân thủy dùng thuyền nhẹ đón đánh địch từ xa, quân ta giả thua rút chạy. Hoằng Tháo cho quân đuổi theo, vượt qua bãi cọc, tiến sâu vào thế trận quân ta đã dàn sẵn. Khi thủy triều xuống, quân ta bất ngờ tiến công mãnh liệt Quân địch bị chặn bởi bãi cọc, không rút chạy được bị. Quân giặc phần bị giết, phần bị chết đuối, thiệt hại đến quá nửa. Hoằng Tháo đã bỏ mạng theo Kiều Công Tiễn, đội quân xâm lược hoàn toàn tan rã. Vua Nam Hán đang điều quân sang tiếp viện cho con nhưng nửa đường nghe tin Hoằng Tháo chết trận quá đau xót, y thu nhặt tàn quân rút chạy. Ý chí xâm lược của nhà Nam Hán bị đè bẹp.

Vua Nam Hán đã mắc phải sai lầm vô cùng lớn cũng chi vì lòng tham không đáy. Nuôi mộng bành trướng, chiếm lĩnh nước ta, chúng không biết suy xét thực tế rằng Kiều Công Tiễn là một kẻ "vô luân, bất nhân", nhẫn tâm giết hại chủ tướng là "bất nghĩa", hại cha nuôi của mình là "bất hiếu', lại đang tâm bán nước là "bất trung"; chính vì thế y không được lòng bộ tướng, binh sĩ cũng như lòng dân, cả nước lên án kẻ tội đồ; vậy thì làm sao có khả năng "giúp sức" cho quân xâm lược tiến vào lãnh thổ. Cái chết của Kiều Công Tiễn, Hoằng Tháo, sự thua trận của quân Nam Hán là tất yếu !
bd938.jpg
 
P

pro3182001

“ Lưu Cung tham đất đai của người, muốn mở rộng bờ cõi, đất đai chưa lấy được mà đã hại mất đứa con của mình và hại cả nhân dân, tức như Mạnh Tử nói: "Đem cái mình không yêu mà hại cái mình yêu" vậy chăng? ”
—Ngô Sĩ Liên[1]
“ Tiền Ngô Vương có thể lấy quân mới họp của nước Việt ta mà đánh tan được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Tháo, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa. Có thể nói là một lần nổi giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy. Tuy chỉ xưng vương, chưa lên ngôi đến, đổi niên hiệu, nhưng chính thống của nước Việt ta, ngõ hầu đã nối lại được. ”
—Ngô Sĩ Liên [1]
Trận thắng lớn ở sông Bạch Đằng năm 938 có ý nghĩa quan trọng đối với Việt Nam vì nó đã giúp chấm dứt 1000 năm Bắc thuộc trong lịch sử Việt Nam, mở ra một thời kỳ độc lập tự chủ cho Việt Nam.
Chiến thắng Bạch Đằng có thể coi là trận chung kết toàn thắng của dân tộc Việt Nam trên con đường đấu tranh chống Bắc thuộc, chống đồng hóa, đấu tranh giành lại độc lập dân tộc. Phải đặt trong bối cảnh Bắc thuộc kéo dài sau 1117 năm (179 TCN - 938) mới thấy hết ý nghĩa lịch sử vĩ đại của nó.
Hơn thế nữa, trong hơn 1000 năm Bắc thuộc đó, kẻ thù của dân tộc Việt là một đế quốc lớn mạnh bậc nhất ở phương Đông với chủ nghĩa bành trướng Đại Hán đang lúc phát triển cao độ, nhất là dưới thời Hán, Đường. Tiếp tục công cuộc bành trướng của Tần Thủy Hoàng, nhà Hán đã chinh phục miền Bắc xứ Triều Tiên chiếm đất đai các bộ lạc dụ mục phía Bắc, mở rộng lãnh thổ về phía Trung Á, xâm lược các nước Hạ Lang, Điền ở Tây Nam. Đầu thế kỷ thứ 7, nhà Tùy bành trướng mạnh về phía Đông, chinh phục Triều Tiên, Lưu Cầu (Đài Loan), Giao Châu, Lâm Ấp, Tây Đồ Quốc..., nhà Đường mở rộng bành trướng về mọi phía, lập thành một đế chế bao la như Đường Thái Tông đã từng tuyên bố: "Ta đã chinh phục được hơn 200 vương quốc, dẹp yên bốn bề, bọn Di Man ở cõi xa cũng lần lượt về quy phục" (theo Đường thư).
Từ đầu công nguyên, dân số của đế chế Hán đã lên đến 57 triệu người. Thời gian đó, dân số của Việt Nam chỉ độ một triệu. Sau khi chiếm được Việt Nam, mưu đồ của nhà Hán không phải chỉ dừng lại ở chỗ thủ tiêu chủ quyền quốc gia, bóc lột nhân dân, vơ vét của cả, mà còn tiến tới đồng hóa vĩnh viễn dân tộc Việt, sát nhập đất đai vào Trung Quốc. Chính sách đồng hóa là một đặc trưng nổi bật của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán, đã được thực hiện từ thời Hán và đẩy mạnh tới nhà Đường. Trong toàn bộ tiến trình lịch sử Việt Nam, đây là một trong những thời kỳ vận mạng dân tộc trải qua một thử thách cực kỳ hiểm nghèo.
Ngô Quyền - người anh hùng của chiến thắng oanh liệt trên sông Bạch Đằng năm 938 - trở thành vị vua có "công tái tạo, vua của các vua" theo như nhận định của Đại Việt Sử ký Toàn thư.[1] Ông xứng đáng với danh hiệu là "vị tổ trung hưng" của dân tộc như nhà yêu nước Phan Bội Châu lần đầu tiên đã nêu lên trong Việt Nam quốc sử khảo.
Sau chiến thắng Bạch Đằng, Việt Nam bước vào thời kỳ xây dựng đất nước trên quy mô lớn. Đó là kỷ nguyên của văn minh Đại Việt, của văn hóa Thăng Long, kỷ nguyên phá Tống, bình Nguyên, đuổi Minh, một kỷ nguyên rực rỡ của các nhà Lý, Trần, Lê.
Nhà sử học Ngô Thì Sĩ đánh giá:

Trận thắng trên sông Bạch Đằng là cơ sở cho việc khôi phục quốc thống. Những chiến công đời Đinh, Lê, Lý, Trần sau này còn nhờ vào uy danh lẫm liệt ấy để lại. Trận Bạch Đằng vũ công cao cả, vang dội đến nghìn thu, há phải chỉ lẫy lừng ở một thời bấy giờ mà thôi đâu
 
T

tuananh1203

Hê hơi bị dài đấy rút ngắn đi bạn à SGK có ghi đấy?..........................................................................
 
Z

zoro153

TK XV:Đại Việt thế kỉ XV – Thời Lê Sơ

Triều Hậu Lê kéo dài 361 năm (1428 - 1789), được chia làm 2 thời kì : Lê sơ được tình từ khi Lê Lợi lên ngôi( 1428) đến khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi ( 1527), gồm 11 đời vua, trong đó Lê Thái Tổ là người sáng lập, Lê Thánh Tông là người đưa vương triều Lê đến giai đoạn thịnh trị nhất.
Lúc đó đời sống nhân dân được ấm no
TK XVI:- Đầu thế kỉ XVI vua
quan không lo việc nước,
chỉ hưởng lạc sa đoạ.
- Triều đình rối loạn, chia
bè kéo cánh, tranh giành
quyền lực.
 
S

sieutrom1412

Nhà Lê Sơ đã chiến thắng quân Minh như thế nào?Vẽ bộ máy nhà nước thời Lê Sơ?
 
Z

zoro153

Mùa xuân năm Bính Tuất (7-2-1418) Lê Lợi – Nguyễn Trãi tụ nghĩa ở Lam Sơn tụ được nhiều nhân tài, hào kiệt tham gia cùng nhân dân ủng hộ. Từ cuộc khởi nghĩa ban đầu đã dấy lên cuộc kháng chiến chống quân Minh suốt 10 năm.

Từ năm 1418 đến năm 1422, quân Minh liên tiếp mở các cuộc tấn công vây quét thành những chiến dịch mấy vạn quân, kéo dài 2, 3 tháng để tìm diệt nghĩa quân, dập tắt phong trào kháng chiến. Quân ta đã một lòng vượt qua muôn vàn khó khăn, anh dũng chiến đấu “lấy ít địch nhiều, lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”, thu phục được lòng người, nhiều cuộc nổi dậy của nông dân tiếp tục bùng phát chống quân Minh.

Với kế sách của Nguyễn Trãi, cùng chiến thuật quân sự tài tình của Lê Lợi nghĩa quân càng đánh càng mạnh, phát triển và bảo tồn được lực lượng, trưởng thành, thắng nhiều trận lớn, duy trì được cuộc kháng chiến cứu nước trong suốt 10 năm ròng rã “nếm mật, nằm gai”.

Đến tháng 9-1424, khi quân Minh ngược dòng sông Lam mở các cuộc hành quân tìm diệt lực lượng, đánh phá căn cứ ta Lê Lợi – Nguyễn Trãi đã tập trung tướng lĩnh, nghĩa quân phục kích đánh thắng nhiều trận lớn “thuyền giặc đắm ngang dòng, xác địch nối lấp sông, khí giới thu chất đầy khe núi”. Thừa thắng quân ta tiến đến bao vây thành Nghệ An, đồng thời đánh chiếm các châu, huyện, phủ xung quanh. Có nơi 8.000 quân địch xin hàng theo nghĩa quân chống giặc Minh. Chỉ sau 3 tháng ta giải phóng hầu hết tỉnh Nghệ An, cô lập hai thành Diễn Châu và Nghệ An… từ tháng 9-1426, Lê Lợi – Nguyễn Trãi quyết định chuyển quân ra Bắc Hà. Quân ta đã đánh thắng nhiều trận lớn, trong đó có trận Tốt Động – Chúc Động (Chương Mỹ – Hà Tây) tiêu diệt 5 vạn tên – một trận thắng nổi tiếng.

Sau những thất bại nặng nề liên tiếp, địch phải co lại cố thủ để xin tăng viện từ chính quốc. Vương Thông dao động, “trá hàng” chờ viện binh. Ngày 18-10-1427, Liễu Thăng chỉ huy 10 vạn quân hướng chủ yếu vào Lạng Sơn. Mộc Thạch chỉ huy 5 vạn vào hướng Hà Giang để giải cứu cho Vương Thông trong kinh thành Đông Đô. Ta chủ động vây thành diệt viện binh “Viện binh bị tiêu diệt thì thành phải hàng – Đánh một mà được hai” theo kế sách của Nguyễn Trãi.

Quyết chiến điểm mai phục trận diệt viện binh trên hướng Lạng Sơn xuống là ải Chi Lăng với 4 vạn quân cơ động phục kích. Liễu Thăng hùng hổ dẫn đầu 1 vạn quân vào Đông Đô vào ngày 20-10-1427. Đúng vào kế mai phục của ta, cả vạn quân địch “tiên phong” này bị tiêu diệt và tan rã hoàn toàn. Liễu Thăng bị Trần Lựu của ta chém đầu tại trận bên sườn núi Mã Yên. Tiếp theo, trong gần một tháng sau ta tiêu diệt, đánh tan tác 7 vạn tên, bắt sống 3 vạn tên. Phía Hà Giang 5 vạn quân của Mộc Thạch bị tiêu hao phải tháo lui qua biên giới với các trận bám đánh của địa phương quân ta. Viện binh cả hai hướng đều bị tiêu diệt và tháo chạy, Vương Thông hoàn toàn bị cô lập mất hết nhuệ khí, hy vọng vào viện binh từ chính quốc tan tành, nên y đã xin Lê Lợi cho đầu hàng.

Ngày 16-12-1427, Nguyễn Trãi đã tổ chức “Hội thề Đông Quan” (phía Nam Hoàng Thành) để Vương Thông đọc lời thề cam kết xin rút hết quân về nước và không bao giờ xâm phạm Đại Việt nữa. Cuối năm đó Lê Lợi đã cấp thuyền, ngựa, lương thực cho 86.000 quân sĩ Vương Thông triệt thoái an toàn khỏi nước ta. Đồng thời gửi sang vua nhà Minh mũ mão, xiên giáp, ấn tín của Liễu Thăng và nhiều tên tướng khác cùng với danh sách 27.000 tên tù binh.
 
S

satthuphucthu

câu trả lời của bạn là rất chính xác
Ai cho biết tiểu sử của Ngô Quyền nào?

Ngô Quyền (chữ Hán: 吳權, 898 - 944), còn được biết đến với tên gọi Tiền Ngô Vương (前吳王), là vị vua đầu tiên của nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam. Năm 938, ông là người lãnh đạo nhân dân đánh bại quân Nam Hán trong trận Bạch Đằng nổi tiếng, chính thức kết thúc hơn một thiên niên kỉ Bắc thuộc, mở ra một thời kì độc lập lâu dài của Việt Nam. Sau chiến thắng này, ông lên ngôi vua, trị vì từ năm 939 đến năm 944.

Sinh năm 898 trong một dòng họ hào trưởng có thế lực ở châu Đường Lâm, Ngô Quyền được sử sách mô tả là bậc anh hùng tuấn kiệt, "có trí dũng"[1]. Ngô Quyền lớn lên khi chính quyền đô hộ của nhà Đường tại Tĩnh Hải quân đang suy yếu và tan rã, khó lòng khống chế các thế lực hào trưởng người Việt ở địa phương, do đó dẫn tới sự xác lập quyền lực của họ Khúc ở phủ thành Đại La vào năm 905 và họ Dương vào năm 931. Sau khi trở thành con rể cho Dương Đình Nghệ, ông được tin cậy giao cai quản Ái Châu, đất bản bộ của họ Dương. Năm 937, hào trưởng đất Phong Châu là Kiều Công Tiễn sát hại Dương Đình Nghệ, trở thành vị Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ cuối cùng trong thời kì Tự chủ. Nhưng vị tân Tiết độ sứ lại không có chỗ dựa chính trị vững chắc, hành động tranh giành quyền lực của ông bị phản đối bởi nhiều thế lực địa phương và thậm chí nội bộ họ Kiều cũng chia rẽ trầm trọng. Bị cô lập, Kiều Công Tiễn vội vã cầu cứu nhà Nam Hán. Ngô Quyền nhanh chóng tập hợp lực lượng, kéo quân ra Bắc, giết chết Kiều Công Tiễn rồi chuẩn bị quyết chiến với quân Nam Hán. Thắng lợi của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng vào năm 938 đã đặt dấu chấm hết cho mọi âm mưu xâm lược Tĩnh Hải quân của nhà Nam Hán, đồng thời cũng kết thúc thời kì Bắc thuộc của Việt Nam. Năm 939, Ngô Quyền xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa, lập ra nhà Ngô. Ngô Vương qua đời ở tuổi 47, trị vì được 6 năm. Sau cái chết của ông, nhà Ngô suy yếu nhanh chóng, không khống chế được các thế lực cát cứ địa phương và sụp đổ vào năm 965.

Ngô Quyền nằm trong danh sách 14 anh hùng dân tộc tiêu biểu của Việt Nam, là vị "vua đứng đầu các vua", là vị Tổ trung hưng của Việt Nam. Tuy vậy, cuộc đời và sự nghiệp Ngô Quyền còn chứa đựng nhiều vấn đề chưa rõ ràng về quê quán và gia đình.

 
S

satthuphucthu

Câu này thì khá dễ nên chắc ai cũng trả lời dc
Còn câu này thì sao
Diễn biến của trận chiến trên sông Bạch Đằng vào năm 938?
Khi Ô Mã Nhi dẫn đoàn thuyền tiến vào sông Bạch Đằng nhân lúc nước lớn, thủy quân nhà Trần tràn ra giao chiến, rồi giả thua chạy vào sâu bên trong. Ô Mã Nhi trúng kế khích tướng nên thúc quân ra nghinh chiến, các tướng Phàn Tham Chính, Hoạch Phong cũng ra tiếp ứng. Khi thuyền quân Nguyên đã vào sâu bên trong sông Bạch Đằng, tướng Nguyễn Khoái dẫn các quân Thánh Dực ra khiêu chiến và nhử quân Nguyên tiến sâu vào khúc sông đã đóng cọc, trong khi quân Trần đợi cho thủy triều xuống mới quay thuyền lại và đánh thẳng vào đội hình địch. Bình chương Áo Lỗ Xích của Nguyên Mông đã bị bắt sống trong cuộc chiến đấu quyết liệt của quân Thánh Dực.

Thủy quân Đại Việt từ Hải Đông - Vân Trà từ các phía Điền Công, Gia Đước, sông Thái, sông Giá nhanh chóng tiến ra sông Bạch Đằng, với hàng trăm chiến thuyền cùng quân lính các lộ dàn ra trên sông và dựa vào Ghềnh Cốc thành một dải thuyền chặn đầu thuyền địch ngang trên sông. Trong lúc thủy chiến đang diễn ra dữ dội thì đoàn chiến thuyền của hai vua Trần đóng ở vùng Hiệp Sơn (Kinh Môn, Hải Dương) bên bờ sông Giáp (sông Kinh Thầy, vùng Kinh Môn, Hải Dương) làm nhiệm vụ đánh cầm chừng và cản bước tiến của địch, cũng tấn công từ phía sau khiến quân Nguyên càng lúng túng và tổn thất rất nặng. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, "nước sông do vậy đỏ ngầu cả. Bị bất lợi hoàn toàn, rất nhiều thuyền chiến của quân Nguyên bị cháy rụi. Bị tấn công tới tấp trên sông, một số cánh quân Nguyên bỏ thuyền chạy lên bờ sông bên trái của Yên Hưng để tìm đường trốn thoát, nhưng vừa lên tới bờ họ lại rơi vào ổ phục kích của quân Trần, bị chặn đánh kịch liệt. Trời về chiều khi giao tranh sắp kết thúc, Ô Mã Nhi cùng với binh lính dưới quyền chống cự tuyệt vọng trước sự tấn công của quân Trần, vì quân Nguyên của Thoát Hoan không tới cứu viện, nên đạo quân này hoàn toàn bị quân Trần tiêu diệt. Theo Nguyên sử, truyện của Phàn Tiếp chép rằng kịch chiến xảy ra từ giờ mão đến giờ dậu, tức là từ sáng kéo dài đến chiều tối mới kết thúc. Nguyên Sử có chép về tướng Nguyên Phàn Tiếp: "Tiếp cùng Ô Mã Nhi đem quân thủy trở về, bị giặc đón chặn. Triều sông Bạch Đằng xuống, thuyền Tiếp mắc cạn. Thuyền giặc dồn về nhiều, tên bắn như mưa. Tiếp hết sức đánh từ giờ mão đến giờ dậu. Tiếp bị súng bắn, rớt xuống nước. Giặc móc lên bắt, dùng thuốc độc giết". Sông Bạch Đằng nước ròng, tức nước lớn rất nhanh mà nước rút cũng mạnh, nên khi nước rút thuyền của quân Nguyên bị cọc gỗ đâm trúng, lật đỗ, quân Nguyên chết đuối hoặc bị giết vô số.

Bia Lý Thiên Hựu cũng chép: “Tháng ba, đến cảng Bạch Đằng, người Giao chắn chiến hạm ngang sông để chống cự quân ta, đến lúc nước triều rút, thuyền không tiến được, quân tan vỡ…”.
Quân nhà Trần đại thắng, bắt được hơn 400 chiến thuyền, tướng Đỗ Hành bắt được tướng Nguyên là Tích Lệ Cơ và Ô Mã Nhi dâng lên Thượng hong Trần Thánh Tông. Thượng hoàng đã vui vẻ hậu đãi những viên bại tướng này. Khoảng hơn 4 vạn tướng sĩ Nguyên Mông đã bị loại ra khỏi vòng chiến. Tướng Nguyên là Phàn Tiếp bị bắt sống, rồi bị bệnh chết, trong khi một bại tướng khác là Phạm Nhan thì đã bị Trần Quốc Tuấn cho trảm quyết.[1] Cánh thủy quân của quân Nguyên hoàn toàn bị tiêu diệt. Chiến thắng vinh quang của quân Đại Việt trong trận sông Bạch Đằng năm 1288 được xem là một trận đánh hủy diệt và thủy chiến lớn nhất trong lịch sử kháng chiến của dân tộc Việt Nam, và cũng được xem là thắng lợi tiêu biểu nhất của quân Đại Việt trong ba cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên-Mông, dẫn đến chấm dứt thắng lợi cho Đại Việt trong cuộc Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần thứ ba.

Mặc dầu về sau này, "Giao Chỉ" hãy còn "ngứa ngáy trong tim Hốt Tất Liệt", đại thắng của Quân đội Đại Việt trong trận sông Bạch Đằng không chỉ hoàn tất mục đích đập vỡ đoàn binh thuyền của Ô Mã Nhi, mà còn hoàn toàn phá vỡ âm mưu xâm lược Đại Việt, và qua đó Đế quốc Mông Cổ không thể nào làm chủ cả Đông Nam Á.
 
S

sieutrom1412

[Game box sử ] Quay ngược quá khứ

Ai là người có công đóng góp quan trọng nhất trong việc sáng lập ra chữ Quốc ngữ ?
a.A-lêc-xăng đi Rốt b.Nguyễn Chích c. Nguyễn Trãi d. Lê Thánh Tông.
 
L

long09455

Ngượi có công sáng lập ra chữ Quốc Ngữ là:
a.A-lêc-xăng
Là đáp án của mình
 
P

phamducanhday

Alexandre de Rhodes (phiên âm tiếng ViệtA-Lịch-Sơn Đắc-Lộ hay Cha Đắc Lộ, A-lếc-xăng Đơ-rốt; 15 tháng 3 năm 15915 tháng 11 năm 1660) là một nhà truyền giáo dòng Tên người Avignon và một nhà ngôn ngữ học. Ông đã góp phần quan trọng vào việc hình thành chữ quốc ngữ Việt Nam hiện đại bằng công trình Tự điển Việt-Bồ-La, hệ thống hóa cách ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự La tinh.



=> A
 
Last edited by a moderator:
F

flytoyourdream99


Ai là người có công đóng góp quan trọng nhất trong việc sáng lập ra chữ Quốc ngữ ?
a.A-lêc-xăng đi Rốt b.Nguyễn Chích c. Nguyễn Trãi d. Lê Thánh Tông.
 
Status
Không mở trả lời sau này.
Top Bottom