Sử 12 Mỹ đã hai lần âm mưu dùng vũ khí hạt nhân trong chiến tranh Việt Nam (1945 - 1975)

Thái Minh Quân

Cựu Cố vấn Lịch sử | Cựu Chủ nhiệm CLB Lịch sử
Thành viên
29 Tháng mười 2018
3,304
4,365
561
TP Hồ Chí Minh
THCS Nguyễn Hiền
[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam (1945 - 1975), Mỹ đã hai lần âm mưu dùng vũ khí hạt nhân để giải quyết chiến tranh (1954, 1968)
1. Năm 1954 khi chiến dịch Điện Biên Phủ vừa diễn ra ít lâu, phía Pháp cảm thấy cuộc chiến này không ổn và nghĩ sẽ thất bại nên đã cầu cứu Mỹ. Lý do của việc làm này là Pháp ngay từ đầu đã nhận ra những bất ngờ mới từ quân ta: Việt Nam có pháo cao xạ, dù di chuyển rất khó khăn do đường xa, nhưng lại bắn rất chính xác. Đại tá Piroth chỉ huy pháo binh Pháp thất kinh trước hiệu quả của pháo binh Việt Nam đã phải tự sát bằng lựu đạn vào ngày 15/3 (chỉ 2 ngày sau khi chiến dịch Điên Biên Phủ bắt đầu). Thứ hai, Việt Nam giải quyết được khâu hậu cần dù chỉ có phương tiện vận tải thô sơ. Thứ ba, hệ thống chiến hào chằng chịt (dài 400km) của quân ta như thòng lọng thít dần cổ quân Pháp mà chúng không tài nào khắc chế được. Đường tiếp tế duy nhất của quân Pháp là cầu hàng không cũng gặp muôn vàn khó khăn do (1) hỏa lực của cả pháo cao xạ và pháo mặt đất của Việt Minh, (2) thời tiết sương mù nhiều mây ở Điện Biên Phủ, và (3) địa hình rừng núi khu vực Tây Bắc.
Ngày 20/3, tướng Pháp là Ely đã tới Washington để cầu cứu sự giúp đỡ của Mỹ. Theo sử gia Pháp Philippe Deviller và Jean Lacouture trong cuốn “Kết thúc một cuộc chiến tranh”, sự can thiệp của Mĩ sẽ giúp Pháp vô hiệu hóa được hỏa lực pháo binh và cao xạ của Quân đội Nhân dân Việt Nam và ghìm chân bộ binh của ta. Sách này viết: "số phận của Điện Biên Phủ phụ thuộc vào việc tiếp tế bằng dù và rút lui (qua đường hàng không). Ông này cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng cường sử dụng không quân đánh phá hậu phương của Việt Minh, phá hủy giao thông và kho tàng để ngăn tiếp tế. Ông ta đề xuất ném bom napalm để tạo nên một vành đai tử thần quanh tập đoàn cứ điểm, làm lộ các vị trí của Việt Minh. Navarre xem đó là cách duy nhất để tránh thảm họa thất trận hoặc thế thua trong đàm phán về hòa bình ở Đông Dương". Đến cuối tháng 3/1954, chính phủ Mĩ nhận lời giúp Pháp để "ngăn chặn “cộng sản kiểm soát vùng này” vì việc mất vùng này sẽ gây ra những hậu quả khôn lường.
Đầu tháng 4/1954, Pháp và Mĩ hợp tác trong chiến dịch Kền Kền. Trước đó, Mĩ đã chi tới 80% chiến phí cho Pháp ở Đông Dương. Trong trận Điện Biên Phủ, Mỹ còn tham gia hỗ trợ Pháp bằng cả máy bay và phi công trong tiếp vận và ném bom. Hai phi công Mỹ McGovern và Buford chết trong trận Điện Biên Phủ được coi là những người Mỹ đầu tiên chết trong chiến đấu tại Việt Nam. Theo nữ tác giả Rebecca Grant có bài viết đăng trên tạp chí Air Force (của Hiệp hội Không quân Mỹ), tham mưu trưởng quân Pháp tướng Ely đã gặp gỡ với cả Dulles và Radford, cùng thảo luận và thông qua chiến dịch Kền kền.
Theo các nguồn tài liệu phương Tây, kế hoạch của phái “diều hâu” Mỹ và Pháp như sau: Mỹ sẽ tung 60 oanh tạc cơ chiến lược B-29 từ các căn cứ Mỹ trong khu vực (như Philippines) vào ném bom các vị trí của Việt Minh quanh thung lũng Điện Biên, mỗi đêm sẽ ném dồn dập 450 tấn bom để phá vỡ vòng vây và phá hủy vũ khí của Việt Minh. (Có tài liệu nói dùng tới 300 máy bay cường kích để dọn sạch khu vực quanh Điện Biên Phủ.) Các “siêu pháo đài” B-29 này sẽ được hỗ trợ bởi 150 chiến đấu cơ từ các tàu sân bay của Hạm đội Bảy (hải quân Mỹ), do Mỹ lo ngại Không quân Trung Quốc sẽ vào cuộc.
Theo các nguồn tài liệu phương Tây, kế hoạch của phái “diều hâu” Mỹ và Pháp như sau: Mỹ sẽ tung 60 oanh tạc cơ chiến lược B-29 từ các căn cứ Mỹ trong khu vực (như Philippines) vào ném bom các vị trí của Việt Minh quanh thung lũng Điện Biên, mỗi đêm sẽ ném dồn dập 450 tấn bom để phá vỡ vòng vây và phá hủy vũ khí của Việt Minh. (Có tài liệu nói dùng tới 300 máy bay cường kích để dọn sạch khu vực quanh Điện Biên Phủ.) Các “siêu pháo đài” B-29 này sẽ được hỗ trợ bởi 150 chiến đấu cơ từ các tàu sân bay của Hạm đội Bảy (hải quân Mỹ), do Mỹ lo ngại Không quân Trung Quốc sẽ vào cuộc. Sau này, Nixon lên cầm quyền tỏ ra rất hung hăng khi nung nấu quyết tâm dùng bom hạt nhân chiến thuật để đánh Việt Nam, bất chấp các nguyên tắc đạo đức. Trên thực tế ông ta đã thành lập ban bệ chuyên nghiên cứu về việc này. Việt Nam đã là 1 trong các mục tiêu hàng đầu cho bom nguyên tử Mỹ sau Nhật Bản.
Nhưng kế hoạch này không thực hiện được, vì sợ bị lôi kéo sâu vào 1 cuộc chiến tranh mới, sợ Trung Quốc can thiệp, và nguy cơ leo thang chiến tranh thế giới (có sử dụng hạt nhân) với Liên Xô. Ngoài ra Mỹ cũng không tin tưởng lắm vào khả năng quân sự của Pháp qua thực tế chiến tranh tại Đông Dương. Trong quan hệ với các cường quốc khác, thái độ của họ là khác nhau: Pháp có cái nhìn khác. Pháp vừa chống cộng, vừa muốn duy trì hệ thống thuộc địa “kiểu cũ” truyền thống của mình. Nhờ Mỹ can thiệp, Pháp trong lòng lại lo ngại sẽ mất dần ảnh hưởng ở Đông Dương. Khi Pháp cố gạt bất đồng và do dự để nhanh chóng đưa ra lời đề nghị chính thức với Mỹ (vào tối 4/4) và tin rằng chiến dịch can thiệp sẽ không làm chiến tranh lan rộng thì nước Anh lại không ủng hộ, mà Mỹ thì muốn có hành động tập thể dựa trên 1 thỏa thuận chính trị với nước Pháp và nhiều nước khác, đặc biệt là Anh. Mĩ cân nhắc tình hình chiến sự Đông Dương khi biết ném bom hạt nhân cũng như bom thông thường hạng nặng xuống Điện Biên Phủ thì sẽ gây tổn thất cho cả 2 phe tham chiến. Ngoài ra rừng rậm xung quanh và tình hình thời tiết khi ấy cũng làm oanh tạc cơ của Mỹ khó có thể ném bom hiệu quả. Ném bom vào ban đêm được đánh giá sẽ khó chính xác, còn vào ban ngày thì gặp trở ngại cao xạ
2. Năm 1968, tướng Mĩ Westmoreland, Tư lệnh các lực lượng Mỹ tại Việt Nam từ năm 1964-1968 đã bí mật soạn thảo kế hoạch đưa vũ khí hạt nhân đến Việt Nam. Theo kế hoạch mang tên Fracture Jaw (tạm dịch: Hàm Gãy), tướng Westmoreland định sử dụng vũ khí hạt nhân tại Việt Nam vào năm 1968 nếu Mỹ bị đánh bại tại Khe Sanh, Quảng Trị.
Tuy nhiên, thông tin này lọt đến tai Cố vấn an ninh quốc gia Walt W. Rostow và ông nhanh chóng thông báo với Nhà Trắng, khiến Tổng thống Johnson lập tức ra lệnh hủy bỏ nhằm tránh nguy cơ bùng phát Thế chiến 3. Theo Tom Johnson - Trợ lý đặc biệt của tổng thống, dù gây áp lực buộc các tướng lĩnh Mỹ phải thắng trận tại Khe Sanh, Tổng thống Johnson lo ngại căng thẳng leo thang có thể khiến bùng nổ một “cuộc chiến mở rộng” với Trung Quốc. Ngay sau khi nhận lệnh của Tổng thống, Đô đốc Grant Sharp lập tức chỉ đạo thuộc cấp giữ bí mật toàn bộ các tài liệu, điện tín liên quan, mọi kế hoạch về Fracture Jaw bị đình chỉ (tài liệu giải mật đề ngày 12.2.1968)

43411798_253284228705882_4728162434823487488_n.jpg
 
Top Bottom