C
chienhopnguyen
Hà Huy Khoái
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Hà Huy Khoái (sinh ngày 24 tháng 11 năm 1946) là Giáo sư, Tiến sỹ Khoa học ngành toán học của Việt Nam, cựu Viện trưởng Viện Toán học Việt Nam, Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học các nước thế giới thứ ba. Lĩnh vực ông nghiên cứu chủ yếu là Lý thuyết Nevanlinna (p-adic và phức), không gian Hyperbolic, xấp xỉ Diophantine và các L-hàm.
Mục lục [ẩn]
1 Tiểu sử
2 Gia đình
3 Một số công trình khoa học
4 Các hoạt động xã hội khác
5 Liên kết ngoài
[sửa]Tiểu sử
Ông sinh làng Thịnh Xá, xã Sơn Thịnh, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1963, ông tốt nghiệp Trường Trung học Phổ thông Huỳnh Thúc Kháng, thành phố Vinh, Nghệ An. Năm 1967, ông tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Hà Nội chuyên ngành toán học. Ông bảo vệ luận án tiến sĩ năm 1978 và là tiến sĩ khoa học năm 1984 tại Viện Toán học, Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô.
Ông được phong chức danh Phó giáo sư năm 1984 và Giáo sư năm 1991. Từ năm 2001-2007 ông là Viện trưởng Viện Toán học Việt Nam. Năm 2004, ông được bầu là Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học thế giới thứ ba. Ông còn là Phó chủ tịch Hội Toán học Việt Nam, Ủy viên Họi đồng chức danh giáo sư Nhà nước, Chủ tịch Hội đồng chức danh giáo sư ngành Toán (2009-2015), ủy viên Hội đông khoa học ngành Toán của Quỹ Nafosted.
GS Hà Huy Khoái là một nhà sư phạm có tài. Ông đã đào tạo ra nhiều học trò giỏi. Một trong số những học trò thành danh của ông là PGS.TS. Tạ Thị Hoài An - nữ toán học trẻ tuổi, xuất sắc của Viện Toán học.
[sửa]Gia đình
Vợ ông là Phó giáo sư, Tiến sĩ sử học Đinh Thị Thu Cúc. Trong gia đình ông còn có nhiều người theo nghiệp toán. Đó là Hà Huy Hân giảng viên Học viện Kỹ thuật Quân sự; PGS. TSKH Hà Huy Vui; GS. TSKH Hà Huy Bảng làm việc ở Viện Toán học Việt Nam; TS Hà Huy Tài(con Gs Hà huy Hân) đã từng đoạt huy chương bạc tại kỳ thi Olympic toán học quốc tế dành cho học sinh phổ thông năm 1991, hiện đang dạy toán ở Mỹ, TS Hà Minh Lam (con gái GS Hà Huy Vui), TS Vũ Thế Khôi (con rể GS Hà Huy Hân), Hà Huy Minh, con trai ông, cũng từng đoạt huy chương đồng tại kỳ thi Olympic toán học quốc tế dành cho học sinh phổ thông năm 1989, Hà Huy Thái, con trai thứ hai của ông đang làm tiến sĩ về Toán ở Paris. Ngoài ra, trong số các người thân của ông còn có GS, TSKH cầu đường Hà Huy Cương hiện đang làm giảng viên Học viện Kỹ thuật Quân sự; GS, TSKH Hà Huy Khôi là Viện trưởng Viện Dinh dưỡng thuộc Bộ Y tế Việt Nam.
[sửa]Một số công trình khoa học
(Cùng với Nguyễn Văn Khuê) Holomorphic mappings on Banach analytic manifolds. Func. Analyz i ego Priloz., T.4, N.4, 1973 (Tại Nga).
On p-adic Interpolation. Mat. Zametki, t.26, 1, 1979 (Tại Nga).
On p-adic L-functions associated to elliptic curves. Mat. Zametki, t.26, 2, 1979 (Tại Nga).
On p-adic meromorphic function. Duke Math. J., Vol. 50, 1983.
(Cùng với My Vinh Quang) p-adic Nevanlinna Theory. Lecture Notes in Math. 1351, 138-152.
La hauteur des fonctions holomorphes p-adiques de plusieurs variables. C. R. A. Sc. Paris, 312, 1991, 751-754.
La hauteur d'une suite de points dans $C_p^k$ et l'interpolation des fonctions holomorphes de plusieurs variables. C. R. A. Sc. Paris, 312, 1991, 903-905.
Sur les series L associ\'ees aux formes modulaires. Bull. Soc. math. France, t. 120, 1992, 1-13.
(Cùng với Nguyễn Văn Khuê) Finite codimensional subalgebras of Stein algebras and semiglobally Stein algebras. Trans. AMS, 1992, 503-509
(Cùng với Mai Van Tu) p-adic Nevanlinna-Cartan Theorem, Internat. J. Math, Vol.6, N.5, 1995, 710-731.
Hyperbolic surfaces in $P^3(C)$, Proc. Amer. Math. Soc., Vol. 125, 1997, pp. 3527-3532.
(Cùng với Tạ Thị Hoài An) On uniqueness Polynomials and bi-URS for p-adic Meromorphic Functions. J. Number Theory, 87, 211-221 (2001).
[sửa]Các hoạt động xã hội khác
Ngoài các công trình về toán học, Hà Huy Khoái viết nhiều bài về khoa học, giáo dục, văn hoá, chủ yếu đăng trên tạp chí Tia sáng. Ông còn thường xuyên tham gia ôn luyện cho đội tuyển thi Olympic toán học quốc tế dành cho học sinh phổ thông của Việt Nam. Đến nay, tuy ông đã không tham gia quản lý song ông vẫn rất tâm huyết với toán học Việt nam.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Hà Huy Khoái (sinh ngày 24 tháng 11 năm 1946) là Giáo sư, Tiến sỹ Khoa học ngành toán học của Việt Nam, cựu Viện trưởng Viện Toán học Việt Nam, Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học các nước thế giới thứ ba. Lĩnh vực ông nghiên cứu chủ yếu là Lý thuyết Nevanlinna (p-adic và phức), không gian Hyperbolic, xấp xỉ Diophantine và các L-hàm.
Mục lục [ẩn]
1 Tiểu sử
2 Gia đình
3 Một số công trình khoa học
4 Các hoạt động xã hội khác
5 Liên kết ngoài
[sửa]Tiểu sử
Ông sinh làng Thịnh Xá, xã Sơn Thịnh, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1963, ông tốt nghiệp Trường Trung học Phổ thông Huỳnh Thúc Kháng, thành phố Vinh, Nghệ An. Năm 1967, ông tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Hà Nội chuyên ngành toán học. Ông bảo vệ luận án tiến sĩ năm 1978 và là tiến sĩ khoa học năm 1984 tại Viện Toán học, Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô.
Ông được phong chức danh Phó giáo sư năm 1984 và Giáo sư năm 1991. Từ năm 2001-2007 ông là Viện trưởng Viện Toán học Việt Nam. Năm 2004, ông được bầu là Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học thế giới thứ ba. Ông còn là Phó chủ tịch Hội Toán học Việt Nam, Ủy viên Họi đồng chức danh giáo sư Nhà nước, Chủ tịch Hội đồng chức danh giáo sư ngành Toán (2009-2015), ủy viên Hội đông khoa học ngành Toán của Quỹ Nafosted.
GS Hà Huy Khoái là một nhà sư phạm có tài. Ông đã đào tạo ra nhiều học trò giỏi. Một trong số những học trò thành danh của ông là PGS.TS. Tạ Thị Hoài An - nữ toán học trẻ tuổi, xuất sắc của Viện Toán học.
[sửa]Gia đình
Vợ ông là Phó giáo sư, Tiến sĩ sử học Đinh Thị Thu Cúc. Trong gia đình ông còn có nhiều người theo nghiệp toán. Đó là Hà Huy Hân giảng viên Học viện Kỹ thuật Quân sự; PGS. TSKH Hà Huy Vui; GS. TSKH Hà Huy Bảng làm việc ở Viện Toán học Việt Nam; TS Hà Huy Tài(con Gs Hà huy Hân) đã từng đoạt huy chương bạc tại kỳ thi Olympic toán học quốc tế dành cho học sinh phổ thông năm 1991, hiện đang dạy toán ở Mỹ, TS Hà Minh Lam (con gái GS Hà Huy Vui), TS Vũ Thế Khôi (con rể GS Hà Huy Hân), Hà Huy Minh, con trai ông, cũng từng đoạt huy chương đồng tại kỳ thi Olympic toán học quốc tế dành cho học sinh phổ thông năm 1989, Hà Huy Thái, con trai thứ hai của ông đang làm tiến sĩ về Toán ở Paris. Ngoài ra, trong số các người thân của ông còn có GS, TSKH cầu đường Hà Huy Cương hiện đang làm giảng viên Học viện Kỹ thuật Quân sự; GS, TSKH Hà Huy Khôi là Viện trưởng Viện Dinh dưỡng thuộc Bộ Y tế Việt Nam.
[sửa]Một số công trình khoa học
(Cùng với Nguyễn Văn Khuê) Holomorphic mappings on Banach analytic manifolds. Func. Analyz i ego Priloz., T.4, N.4, 1973 (Tại Nga).
On p-adic Interpolation. Mat. Zametki, t.26, 1, 1979 (Tại Nga).
On p-adic L-functions associated to elliptic curves. Mat. Zametki, t.26, 2, 1979 (Tại Nga).
On p-adic meromorphic function. Duke Math. J., Vol. 50, 1983.
(Cùng với My Vinh Quang) p-adic Nevanlinna Theory. Lecture Notes in Math. 1351, 138-152.
La hauteur des fonctions holomorphes p-adiques de plusieurs variables. C. R. A. Sc. Paris, 312, 1991, 751-754.
La hauteur d'une suite de points dans $C_p^k$ et l'interpolation des fonctions holomorphes de plusieurs variables. C. R. A. Sc. Paris, 312, 1991, 903-905.
Sur les series L associ\'ees aux formes modulaires. Bull. Soc. math. France, t. 120, 1992, 1-13.
(Cùng với Nguyễn Văn Khuê) Finite codimensional subalgebras of Stein algebras and semiglobally Stein algebras. Trans. AMS, 1992, 503-509
(Cùng với Mai Van Tu) p-adic Nevanlinna-Cartan Theorem, Internat. J. Math, Vol.6, N.5, 1995, 710-731.
Hyperbolic surfaces in $P^3(C)$, Proc. Amer. Math. Soc., Vol. 125, 1997, pp. 3527-3532.
(Cùng với Tạ Thị Hoài An) On uniqueness Polynomials and bi-URS for p-adic Meromorphic Functions. J. Number Theory, 87, 211-221 (2001).
[sửa]Các hoạt động xã hội khác
Ngoài các công trình về toán học, Hà Huy Khoái viết nhiều bài về khoa học, giáo dục, văn hoá, chủ yếu đăng trên tạp chí Tia sáng. Ông còn thường xuyên tham gia ôn luyện cho đội tuyển thi Olympic toán học quốc tế dành cho học sinh phổ thông của Việt Nam. Đến nay, tuy ông đã không tham gia quản lý song ông vẫn rất tâm huyết với toán học Việt nam.