Kể chuyện về các nhà toán học

C

chienhopnguyen

Hà Huy Khoái
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Hà Huy Khoái (sinh ngày 24 tháng 11 năm 1946) là Giáo sư, Tiến sỹ Khoa học ngành toán học của Việt Nam, cựu Viện trưởng Viện Toán học Việt Nam, Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học các nước thế giới thứ ba. Lĩnh vực ông nghiên cứu chủ yếu là Lý thuyết Nevanlinna (p-adic và phức), không gian Hyperbolic, xấp xỉ Diophantine và các L-hàm.
Mục lục [ẩn]
1 Tiểu sử
2 Gia đình
3 Một số công trình khoa học
4 Các hoạt động xã hội khác
5 Liên kết ngoài
[sửa]Tiểu sử

Ông sinh làng Thịnh Xá, xã Sơn Thịnh, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1963, ông tốt nghiệp Trường Trung học Phổ thông Huỳnh Thúc Kháng, thành phố Vinh, Nghệ An. Năm 1967, ông tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Hà Nội chuyên ngành toán học. Ông bảo vệ luận án tiến sĩ năm 1978 và là tiến sĩ khoa học năm 1984 tại Viện Toán học, Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô.
Ông được phong chức danh Phó giáo sư năm 1984 và Giáo sư năm 1991. Từ năm 2001-2007 ông là Viện trưởng Viện Toán học Việt Nam. Năm 2004, ông được bầu là Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học thế giới thứ ba. Ông còn là Phó chủ tịch Hội Toán học Việt Nam, Ủy viên Họi đồng chức danh giáo sư Nhà nước, Chủ tịch Hội đồng chức danh giáo sư ngành Toán (2009-2015), ủy viên Hội đông khoa học ngành Toán của Quỹ Nafosted.
GS Hà Huy Khoái là một nhà sư phạm có tài. Ông đã đào tạo ra nhiều học trò giỏi. Một trong số những học trò thành danh của ông là PGS.TS. Tạ Thị Hoài An - nữ toán học trẻ tuổi, xuất sắc của Viện Toán học.
[sửa]Gia đình

Vợ ông là Phó giáo sư, Tiến sĩ sử học Đinh Thị Thu Cúc. Trong gia đình ông còn có nhiều người theo nghiệp toán. Đó là Hà Huy Hân giảng viên Học viện Kỹ thuật Quân sự; PGS. TSKH Hà Huy Vui; GS. TSKH Hà Huy Bảng làm việc ở Viện Toán học Việt Nam; TS Hà Huy Tài(con Gs Hà huy Hân) đã từng đoạt huy chương bạc tại kỳ thi Olympic toán học quốc tế dành cho học sinh phổ thông năm 1991, hiện đang dạy toán ở Mỹ, TS Hà Minh Lam (con gái GS Hà Huy Vui), TS Vũ Thế Khôi (con rể GS Hà Huy Hân), Hà Huy Minh, con trai ông, cũng từng đoạt huy chương đồng tại kỳ thi Olympic toán học quốc tế dành cho học sinh phổ thông năm 1989, Hà Huy Thái, con trai thứ hai của ông đang làm tiến sĩ về Toán ở Paris. Ngoài ra, trong số các người thân của ông còn có GS, TSKH cầu đường Hà Huy Cương hiện đang làm giảng viên Học viện Kỹ thuật Quân sự; GS, TSKH Hà Huy Khôi là Viện trưởng Viện Dinh dưỡng thuộc Bộ Y tế Việt Nam.
[sửa]Một số công trình khoa học

(Cùng với Nguyễn Văn Khuê) Holomorphic mappings on Banach analytic manifolds. Func. Analyz i ego Priloz., T.4, N.4, 1973 (Tại Nga).
On p-adic Interpolation. Mat. Zametki, t.26, 1, 1979 (Tại Nga).
On p-adic L-functions associated to elliptic curves. Mat. Zametki, t.26, 2, 1979 (Tại Nga).
On p-adic meromorphic function. Duke Math. J., Vol. 50, 1983.
(Cùng với My Vinh Quang) p-adic Nevanlinna Theory. Lecture Notes in Math. 1351, 138-152.
La hauteur des fonctions holomorphes p-adiques de plusieurs variables. C. R. A. Sc. Paris, 312, 1991, 751-754.
La hauteur d'une suite de points dans $C_p^k$ et l'interpolation des fonctions holomorphes de plusieurs variables. C. R. A. Sc. Paris, 312, 1991, 903-905.
Sur les series L associ\'ees aux formes modulaires. Bull. Soc. math. France, t. 120, 1992, 1-13.
(Cùng với Nguyễn Văn Khuê) Finite codimensional subalgebras of Stein algebras and semiglobally Stein algebras. Trans. AMS, 1992, 503-509
(Cùng với Mai Van Tu) p-adic Nevanlinna-Cartan Theorem, Internat. J. Math, Vol.6, N.5, 1995, 710-731.
Hyperbolic surfaces in $P^3(C)$, Proc. Amer. Math. Soc., Vol. 125, 1997, pp. 3527-3532.
(Cùng với Tạ Thị Hoài An) On uniqueness Polynomials and bi-URS for p-adic Meromorphic Functions. J. Number Theory, 87, 211-221 (2001).
[sửa]Các hoạt động xã hội khác

Ngoài các công trình về toán học, Hà Huy Khoái viết nhiều bài về khoa học, giáo dục, văn hoá, chủ yếu đăng trên tạp chí Tia sáng. Ông còn thường xuyên tham gia ôn luyện cho đội tuyển thi Olympic toán học quốc tế dành cho học sinh phổ thông của Việt Nam. Đến nay, tuy ông đã không tham gia quản lý song ông vẫn rất tâm huyết với toán học Việt nam.
 
C

chienhopnguyen

Lê Tự Quốc Thắng
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lê Tự Quốc Thắng
Sinh 1965
Huế
Quốc tịch Việt Nam
Quốc tịch Việt Nam
Nổi tiếng vì Huy chương vàng Olympic Toán học Quốc tế 1982
Lê Tự Quốc Thắng (sinh 1965) là một học sinh Việt Nam đạt huy chương vàng tại kỳ thi toán quốc tế IMO lần thứ 23 tại Budapest, Hungary năm 1982. Ông cũng là thành viên của hội đồng tác giả cuốn Encyclopedia of Mathematical Physics (Bách khoa toàn thư về toán lý) do nhà xuất bản Elsevier ấn hành, xuất bản năm 2006. Hiện ông đang là giáo sư tại Viện Công nghệ Georgia, Hoa Kỳ.
Mục lục [ẩn]
1 Tiểu sử
2 Đóng góp
3 Chú thích
4 Liên kết ngoài
[sửa]Tiểu sử

Ông sinh năm 1965 tại Huế trong một gia đình có truyền thống về toán, cha là ông Lê Tự Hỷ từng là giảng viên khoa toán tại Đại học Huế, mẹ là bà Đinh Thị Quý Hương là giáo viên dạy toán cấp 3, anh trai là Lê Tự Quốc Hùng giảng viên khoa toán - tin tại trường Đại học Wroclaw (Ba Lan).
Ông học cấp 3 tại lớp chuyên toán trường THPT chuyên Lê Hồng Phong, Thành phố Hồ Chí Minh [1].
Năm 1982, ông giành huy chương vàng toán tại kì thi toán quốc tế IMO lần thứ 23 với số điểm tuyệt đối 42/42. Sau đó theo học khoa toán tại trường Đại học Tổng hợp Quốc gia Moskva mang tên Lomonosov, Nga. Trong 8 năm học tại đây ông đã 2 lần đoạt giải nhất nghiên cứu khoa học của trường
Năm 1991, ông bảo vệ thành công luận án tiến sĩ chuyên ngành toán hình học topo.
Đầu năm 1992, ông công tác tại Viện toán học Steklov, Nga.
Từ tháng 9 năm 1992 đến tháng 3 năm 1994 ông công tác tại Viện Toán học Max - Planck, Bonn, Đức.
Từ tháng 3 năm 1994 đến tháng 8 năm 1997 ông công tác tại Viện Vật lý lý thuyết Trieste, Ý.
Từ tháng 6 năm 1994 ông là giáo sư thỉnh giảng tại Đại học Tokyo.
Từ 1996 đến 1997 ông là thành viên hậu tiến sĩ của Viện nghiên cứu khoa học Toán, Berkeley, California [1]
Từ 1994 đến 1996 ông là giáo sư trợ lý tại Đại học Bang New York (State University of New York, SUNY) ở Buffalo, New York.
Ông là giáo sư thỉnh giảng tại Đại học Osaka (từ tháng 11 năm 1996), Viện Mittag - Leffler, Thụy Ðiển (từ tháng 5 năm 1999).
Từ 1999 đến 2003 ông là phó giáo sư tại SUNY, Buffalo.
Ông là giáo sư thỉnh giảng tại Viện nghiên cứu khoa học toán tại Tokyo, Nhật Bản (từ tháng 7 năm 2001 đến tháng 9 năm 2001), Đại học Grenoble [1] (từ tháng 6 năm 2002), Đại học Paris VII, Pháp (từ tháng 7 năm 2002), Đại học Genève, Thuỵ Sĩ (từ tháng 6 năm 2004 đến tháng 6 năm 2005).
Từ tháng 1 năm 2004 đến nay ông là giáo sư chính thức của Viện Công nghệ Georgia, Hoa Kỳ.
[sửa]Đóng góp

1995: Ông cùng với 2 giáo sư người Nhật là J. Murakami và T. Ohtsuki đã phát minh ra bất biến lượng tử mang tên Le - Murakami - Ohtsuki mở ra một hướng mới cho ngành lý thuyết bất biến và đa tạp ba chiều, một nội dung kiến thức quan trọng trong toán học topo.
Ông đã cùng với các giáo sư toán Ngô Bảo Châu và Nguyễn Tiến Dũng, cũng đều là các học sinh đã giành huy chương vàng tại các kì thi IMO, đang tích cực kết nối giúp giới toán học Việt Nam có điều kiện giao lưu với nước ngoài để tiếp tục làm toán. Ngoài ra, ông đã liên tục tìm cách giới thiệu, tuyển chọn một số sinh viên Việt Nam qua Mỹ học nghiên cứu sinh ngành toán.
Hàng năm vào dịp hè ông thường về nước và tham gia giảng dạy tại lớp cử nhân tài năng toán trường Đại học KHTN - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Đặc biệt tại kì thi IMO lần thứ 48 tổ chức tại Hà Nội, ông đã cùng nhiều giáo sư toán học Việt kiều đã về nước tham gia vào công tác chấm thi, tạo ra một kì thi IMO thành công tại Việt Nam.
 
C

chienhopnguyen

Lê Văn Thiêm
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lê Văn Thiêm

Viện trưởng Viện Toán học Việt Nam
Nhiệm kỳ Năm 1975 – năm 1980
Tiền nhiệm đầu tiên
Kế nhiệm Hoàng Tụy
Sinh 29 tháng 3, 1918
Trung Lễ, Đức Thọ, Hà Tĩnh
Mất 03 tháng 7, 1991 (73 tuổi)
Thành phố Hồ Chí Minh
Lê Văn Thiêm (1918-1991) là Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học toán học đầu tiên của Việt Nam, một trong số các nhà khoa học tiêu biểu nhất của Việt Nam trong thế kỷ 20. Lê Văn Thiêm và Hoàng Tuỵ là hai nhà toán học Việt Nam được chính phủ Việt Nam phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 vào năm 1996 về những công trình toán học đặc biệt xuất sắc.
Mục lục [ẩn]
1 Tiểu sử
2 Nghiên cứu khoa học
3 Hình ảnh công cộng
4 Tham khảo
5 Chú thích
6 Liên kết ngoài
[sửa]Tiểu sử

Ông sinh ngày 29 tháng 3 năm 1918 tại xã Trung Lễ, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, trong một gia đình có truyền thống khoa bảng.
Năm 1939, ông thi đỗ thứ nhì trong kỳ thi kết thúc lớp P.C.B (Lý - Hoá - Sinh) và được cấp học bổng sang Pháp du học tại trường đại học sư phạm Paris (école Normale Supérieure). Người ta đã phải mất rất nhiều công sức tìm hiểu mới có thể tìm tư liệu về GS Lê Văn Thiêm giai đoạn 1943-1946, nhưng lại không có nhiều thông tin về thời kỳ 1946-1949. Nhờ vào hai Giáo sư H. Esnault và E. Viehweg từ Đại học tổng hợp Essen, Đức, mới biết được thời gian GS Lê Văn Thiêm ở Đức. Ông tốt nghiệp Thạc sỹ năm 1943 tại Paris, sau đó ông sang làm luận án Tiến sỹ tại đại học tổng hợp Göttingen với học bổng của Quỹ Alexander von Humboldt. Ông là người Việt Nam đầu tiên bảo vệ thành công luận án tiến sĩ toán học ở Đức năm 1945 về giải tích phức. Ông bảo vệ luận án Tiến sỹ tại Đại học tổng hợp Göttingen (hồ sơ bảo vệ số Math.Nat.Prom. 0728). Tên của luận án là "Về việc xác định kiểu của một diện Riemann mở đơn liên". Người hướng dẫn luận án tiến sỹ của ông là nhà toán học Hans Wittich.[1]. Buổi bảo vệ được tổ chức vào ngày 4/4/1945, bằng tiến sỹ được trang vào ngày 8/4/1946. Điểm đánh giá trung bình: Giỏi[1]. Ông cũng là người Việt Nam đầu tiên có bằng Tiến sỹ toán, lại bảo vệ tại trung tâm toán học nổi tiếng nhất thế giời thời bấy giờ là Đại học tổng hợp Göttingen[2].
Luận án Tiến sĩ Quốc gia ở Pháp năm 1948 và cũng là người Việt Nam đầu tiên được mời làm giáo sư toán học và cơ học tại Đại học Tổng hợp Zurich, Thụy Sĩ vào năm 1949, điều này đang được tìm hiểu thêm.
Ông cũng là hiệu trưởng đầu tiên của Đại học Sư phạm Hà Nội[3] (khi đó có tên là Đại học Sư phạm Khoa học) và Đại học Khoa học Tự nhiên Hà Nội[4] (khi đó có tên là Đại học Khoa học Cơ bản). (1951-1954)Ông là Viện trưởng đầu tiên của Viện Toán học, chủ tịch đầu tiên của Hội Toán học Việt Nam và tổng biên tập đầu tiên của hai tạp chí toán học Việt nam là tạp chí “Acta Mathematica Vietnamica” và “Vietnam Journal of Mathematics”.
Ông giữ vị trí đại diện toàn quyền của Việt Nam tại Viện Liên hợp Nghiên cứu Hạt nhân Dubna, Liên Xô (1956 – 1980).
Ông mất ngày 3 tháng 7 năm 1991 tại Thành phố Hồ Chí Minh.
[sửa]Nghiên cứu khoa học

Giáo sư Lê Văn Thiêm là một tài năng toán học xuất sắc, tầm cỡ quốc tế, là người có công đầu đặt nền móng xây dựng và phát triển nền toán học Việt nam.
Ông là một trong những người đầu tiên giải được bài toán ngược của lý thuyết phân phối giá trị hàm phân hình, hiện nay trở thành kết quả kinh điển trong lý thuyết này.
Năm 1963, nghiên cứu công trình về ứng dụng hàm biến phức trong lý thuyết nổ, vận dụng phương pháp Lavrentiev, giáo sư Thiêm cùng các học trò tham gia giải quyết thành công một số vấn đề thực tiễn ở Việt Nam như:
Tính toán nổ mìn buồng mỏ đá Núi Voi lấy đá phục vụ xây dựng khu gang thép Thái Nguyên (1964)
Phối hợp với Cục Kỹ thuật Bộ Quốc phòng lập bảng tính toán nổ mìn làm đường (1966)
Phối hợp với Viện Thiết kế Bộ Giao thông Vận tải tính toán nổ mìn định hướng để tiến hành nạo vét kênh Nhà Lê từ Thanh Hoá đến Hà Tĩnh (1966 – 1967)
Ông đã ứng dụng hàm biến phức sang các lĩnh vực khác như: lý thuyết đàn hồi, chuyển động của chất lỏng nhớt. Kết hợp nghiên cứu lý thuyết với ứng dụng, Lê Văn Thiêm đề xuất một phương pháp độc đáo sử dụng nguyên lý thác triển đối xứng của hàm giải tích để tìm nghiệm tường minh cho bài toán thấm trong môi trường không đồng chất. Công trình này được đánh giá cao, được đưa vào cuốn sách chuyên khảo “The Theory of Groundwater Movement” (Lý thuyết chuyển động nước ngầm) của nữ Viện sĩ người Nga P.Ya.Polubarinova Kochina, xuất bản ở Moskva năm 1977.
Ông đã cùng với các cộng sự ở Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam dùng toán học để góp phần giải quyết các vấn đề như:
Tính toán nước thấm và chế độ dòng chảy cho các đập thuỷ điện Hòa Bình, Vĩnh Sơn
Tính toán chất lượng nước cho công trình thuỷ điện Trị An
Ông là tác giả của khoảng 20 công trình toán học được đăng trên các tạp chí quốc tế
Ông chủ biên nhiều sách về toán học. Trong đó có 2 cuốn sách chuyên khảo : Một số vấn đề toán học trong lý thuyết đàn hồi (1970) và Một số vấn đề toán học chất lỏng nhớt (1970).
Ông đã được Nhà nước Việt Nam trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 năm 1996.
 
C

chienhopnguyen

Nguyễn Cảnh Toàn
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nguyễn Cảnh Toàn
Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Nhiệm kỳ 1967 – 1975
Tiền nhiệm Nguyễn Lương Ngọc
Kế nhiệm Dương Trọng Bái
Sinh 28 tháng 9, 1926 (86 tuổi)
Đô Lương - Nghệ An
Nguyễn Cảnh Toàn (1926-) là một Giáo sư Toán học Việt Nam, nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội, thứ trưởng Bộ Giáo dục Việt Nam (1976-1989), phó Chủ tịch Hội Toán học Việt Nam và Tổng biên tập tạp chí Toán học và Tuổi trẻ trong hơn 40 năm. Có người cho rằng ông là một tấm gương tự học thành tài[1] và có công lao trong việc đào tạo và xây dựng đội ngũ những giáo viên toán [2] Mặc khác, việc ông nhận nhiều giải thưởng hữu danh vô thực đã gây phản cảm trong giới chuyên môn[3] nhất là trong trường hợp sự đóng góp có tầm quốc tế không nhiều và đã lâu không còn tham gia nghiên cứu.
Mục lục [ẩn]
1 Tiểu sử
2 Hoạt động
2.1 Tạp chí Toán học và tuổi trẻ
3 Tác phẩm
4 Danh dự, khen thưởng
5 Dư luận
6 Chú thích
7 Liên kết ngoài
[sửa]Tiểu sử

Ông sinh ngày 28 tháng 9 năm 1926 tại làng Nghiêm Thắng, tại xã Đông Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An.
Nguyễn Cảnh Toàn vào học ở Trường Quốc học Huế năm 1942 và tốt nghiệp tú tài Toán năm 1944.
Cuối năm 1946, trong kỳ thi toán học đại cương, Nguyễn Cảnh Toàn đã tham dự và đỗ thủ khoa. Năm 1947, trong thời gian kháng chiến, Sở Giáo dục Khu 4 triệu tập ông về dạy toán cho Trường Trung học chuyên khoa Huỳnh Thúc Kháng.[4]
Năm 1951, ông được Bộ Giáo dục Việt Nam điều lên dạy đại học ở Khu học xá Trung ương, đặt tại Nam Ninh (Trung Quốc).[4]
Năm 1954, Nguyễn Cảnh Toàn giảng dạy toán tại trường Đại học Khoa học Hà Nội.
Năm 1957, ông nằm trong số chín cán bộ giảng dạy đại học đầu tiên sang Liên Xô làm thực tập sinh. Năm 1959, ông bảo vệ thành công luận án Phó tiến sĩ tại Đại học Lomonosov.
Trở về Việt Nam năm 1959, ông giảng dạy tại khoa Toán và tự nghiên cứu đề tài khoa học về hình học. Trong một chuyến đi công tác tại Liên Xô ba tháng, tháng 6 năm 1963, Nguyễn Cảnh Toàn bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ khoa học.[4] Đây là luận án Tiến sĩ Khoa học đầu tiên về khoa học cơ bản của người Việt nghiên cứu ở trong nước và bảo vệ tại Liên Xô.
Sau khi bảo vệ luận án tiến sĩ khoa học về hình học, ông tiếp tục giảng dạy tại khoa Toán Đại học sư phạm Hà Nội và đảm nhiệm các chức vụ: chủ nhiệm bộ môn hình học, chủ nhiệm khoa toán, hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội (1967 - 1975), thứ trưởng Bộ Giáo dục, nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo (1976-1989).
Năm 1994, ông nghỉ hưu.
Cho đến năm 2006, ông vẫn tiếp tục nghiên cứu và giảng dạy bộ môn toán.[5].
[sửa]Hoạt động

Ông đã công bố 8 bài báo khoa học, biên soạn và viết 26 cuốn sách và hơn 650 bài báo về giáo dục. Ông làm phó Chủ tịch Hội Toán học Việt Nam và tổng biên tập tạp chí Toán học và Tuổi trẻ hơn 40 năm.
Ông là người đề xuất chủ trương đào tạo phó tiến sĩ và tiến sĩ trong nước, vì căn cứ vào thực tế số người đủ khả năng và trình độ để làm luận án Phó tiến sĩ, Tiến sĩ thì nhiều nhưng chỉ tiêu gửi đi nước ngoài để đào tạo thì hạn hẹp. Khi ba luận án Phó tiến sĩ đầu tiên được bảo vệ thành công ngày 23-4-1970 tại Trường đại học Sư phạm Hà Nội, thì nhà nước Việt Nam chính thức quyết định mở hệ nghiên cứu sinh trong nước.[4]. Nhờ đó mà đã có hàng trăm Phó tiến sĩ, Tiến sĩ được đào tạo ở Việt Nam.
Ông còn là người đề xuất phong trào "Dạy tốt - học tốt" tại các khoa trong trường Đại học Sư phạm Hà Nội trong những năm cuối của thập niên 1960, xây dựng phong cách giảng dạy mới, phong cách học tập mới, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Phong trào này đã góp phần quan trọng nâng cao chất lượng đào tạo trong những năm chiến tranh.[6]
Trong tuyển tập "Bàn về giáo dục Việt Nam", ông đã viết một số quan điểm của mình, ông quan niệm "...Tư duy và nhân cách quan trọng hơn kiến thức...Người thày dở là người chỉ đem kiến thức cho học trò, người thày giỏi là người biết đem đến cho họ cách tự tìm ra kiến thức...".
 
C

chienhopnguyen

Nguyễn Hữu Thận
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nguyễn Hữu Thận (1757-1831), tự Chân Nguyên, hiệu Ý Trai (hoặc Ức Trai)[1]; là nhà toán học, và là đại thần trải hai triều: nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.
Mục lục [ẩn]
1 Thân thế và sự nghiệp
2 Tác phẩm
3 Khen ngợi, ghi công
4 Sách tham khảo
5 Chú thích
[sửa]Thân thế và sự nghiệp

Theo Phổ hệ họ Nguyễn Hữu (trước là Nguyễn Phú), Nguyễn Hữu Thận sinh vào tháng 3 năm Đinh Sửu (tức tháng 4 năm 1757, đời chúa Nguyễn Phúc Khoát) tại làng Đại Hòa, tổng An Dã, huyện Hải Lăng, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị (nay thuộc xã Triệu Đại, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị).
Cha ông là Nguyễn Phú Điêu, làm Huấn đạo (chức quan phụ trách việc học hành ở cấp huyện) nhà Hậu Lê, nhưng lại là người thích nghiên cứu về lịch. Sau, niềm mê say này được truyền sang Nguyễn Hữu Thận.
Tháng 5 (âm lịch) năm Bính Ngọ (1786), quân Tây Sơn do tướng Nguyễn Huệ chỉ huy, đánh đuổi quân Trịnh ra khỏi Phú Xuân. Sau đó, Nguyễn Hữu Thận ra làm quan cho nhà Tây Sơn, rồi được cử vào Quy Nhơn. Làm quan ở đó được 9 năm, ông được triệu về làm ở Phú Xuân, dần thăng lên chức Hữu thị lang bộ Hộ.
Tháng 5 (âm lịch) năm Tân Dậu (1801), chúa Nguyễn Phúc Ánh (sau lên ngôi là Gia Long) mang binh thuyền đánh chiếm Phú Xuân. Cũng như nhiều viên khác của triều Tây Sơn, ông phải ra "hiệu thuận", tức là thuận theo triều đại mới và làm việc hết sức để chuộc lỗi [2]. Ban đầu được bổ làm Chế cáo ở Viện Hàn lâm, rồi Thiêm sự ở bộ Lại và Cai bạ Quảng Nghĩa (Quảng Ngãi ngày nay).
Đầu năm Kỷ Tỵ (1809), ông được điều động về kinh làm Tham tri bộ Lại. Tháng 3 (âm lịch) năm đó, ông được cử làm Chánh sứ để cùng với hai Phó sứ là Lê Đắc Tân và Ngô Thì Vị sang Thanh (Trung Quốc) dâng hai lễ cống của năm Đinh Mão (1807) và năm Kỷ Tỵ (1809). Thời gian ở Yên Kinh (Bắc Kinh ngày nay), ông chịu khó học hỏi và tìm mua được nhiều sách quý về lịch số và toán học.
Tháng 4 (âm lịch) năm Canh Ngọ (1810), ông trở về nước, dâng lên vua Gia Long quyển Đại lịch tượng khảo thành thơ do ông tìm được ở Trung Quốc và tấu rằng: "Lịch vạn toàn nước ta và sách Đại Thanh thời hiến bên Tàu, đều theo lịch Đại Thống nhà Minh, hơn 300 năm chưa hề sửa lại, càng lâu lại càng sai lắm. Đời Khương Hy nước Tàu, mới tham dùng phép lịch Thái Tây, làm ra quyển lịch này, mà sách này suy xét góc độ số tinh tường hơn sách Đại Thống, phép tam tuyến bát giác lại tinh xảo lắm. Xin giao học trò Khâm thiên giám theo lịch này để khảo cứu làm phép lịch, thời biết đúng độ số trời mà nhằm tiết hậu". Ngài (vua Gia Long) cho là phải [3]. Sau đó, ông được chuyển qua làm Tham tri bộ Hộ.
Tháng Giêng năm Nhâm Thân (1812), cho ông kiêm quản việc tòa Khâm thiên giám. Năm Bính Tý 1816, ông được điều ông ra làm Hộ tào Bắc Thành, ít lâu lại trở về triều làm Thượng thư bộ Lại, nên được người dân gọi là "ông Thượng Đại Hòa".
Năm Canh Thìn (1820), Minh Mạng lên ngôi, đổi ông làm Thượng thư bộ Hộ. Tháng 5 (âm lịch) năm đó, nhà vua sai ông lựa người nào học hạnh thuần cẩn, sung làm Hoàng tử trực học để dạy các hoàng tử. Trương Đăng Quế, Doãn Văn Xuân và Ngô Hữu Vĩ liền được ông cử lên và được dùng [4].
Năm Nhâm Ngọ (1822), lại cho ông kiêm quản Khâm thiên giám, và làm chủ nhiệm sách Vạn niên thư theo cách thức của triều Thanh.
Ngày 5 tháng 7 (âm lịch) năm Tân Mão (12 tháng 8 năm 1831), Nguyễn Hữu Thận mất, thọ 74 tuổi.
 
C

chienhopnguyen

Nguyễn Xuân Vinh
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nguyễn Xuân Vinh, hiệu Toàn Phong, (sinh tháng 1 năm 1930) hiện là giáo sư danh dự ngành kỹ thuật không gian (professor emeritus of aerospace engineering) của Đại học Michigan ở Hoa Kỳ. Ông ra đời tại Yên Bái, Việt Nam.
Ông là nhà toán học, nhà khoa học không gian xuất sắc của Hoa Kỳ đồng thời cũng là cựu tư lệnh Không quân Việt Nam Cộng hòa và là nhà văn với bút hiệu Toàn Phong.
Mục lục [ẩn]
1 Hoạt động
2 Giải thưởng
3 Linh tinh
4 Tác phẩm
4.1 Khoa học
4.2 Văn chương
5 Liên kết ngoài
[sửa]Hoạt động

Từ khi còn nhỏ ông đã tỏ ra là một người có năng khiếu toán và tham gia viết sách từ rất sớm; trong thời gian còn là học sinh, ông đã cho xuất bản cuốn sách giáo khoa Bài tập hình học không gian. Cuốn sách này đã trở thành tài liệu tham khảo và học vấn quan trọng thời bấy giờ.
Năm 1951 ông nhập ngũ theo lệnh động viên và tham gia khóa I Trường Sĩ quan Trừ bị Nam Định và Thủ Đức.
1952-1955 theo học tại Học viện Không quân ở Salon-de-Provence, Pháp (École de l'Air) và sau đó lưu trú tại Pháp và Maroc. Trong thời gian này ông đồng thời lấy bằng cử nhân toán ở Đại học Marseille.
1957 được bổ nhiệm chức vụ Tham mưu trưởng Không lực Việt Nam Cộng Hoà.
Tháng 2 năm 1958 được giao chức Tư lệnh Không quân.
Năm 1962, rời bỏ chức vụ Tư lệnh để đi du học ở Hoa Kỳ.
Năm 1965, là người đầu tiên được cấp bằng tiến sĩ về khoa học không gian tại Đại học Colorado.
Năm 1968, làm giảng sư (associate professor) tại Đại học Michigan.
Năm 1972, được phong chức giáo sư (professor) của viện đại học này.
Cũng trong năm 1972 trở thành tiến sĩ quốc gia toán học tại Đại học Sorbonne, Paris, Pháp.
Năm 1982, là giáo sư (chair professor) của ngành toán ứng dụng tại Đại học Quốc gia Thanh Hoa (National Tsing Hua University) ở Đài Loan.
Năm 1984, là người Hoa Kỳ thứ ba và là người Á châu đầu tiên được bầu vào Viện Hàn lâm Quốc gia Hàng không và Không gian Pháp (Académie Nationale de l'Air et de l'Espace).
Năm 1986 là viện sĩ chính thức của Viện Hàn lâm Không gian Quốc tế (International Academy of Astronautics).
Năm 1998, khi về hưu, được Hội đồng Quản trị (Board of Regents) tại Đại học Michigan phong tặng chức Giáo sư danh dự vì công lao đóng góp cho khoa học và giáo dục.
Trong nhiều năm ông đã được tham gia thuyết trình thỉnh giảng tại rất nhiều đại học lớn cũng như hội nghị quốc tế khắp nơi trên thế giới bao gồm Mỹ, Canada, Anh, Pháp, Áo, Đức, Ý, Hoà Lan, Thụy Sĩ, Na Uy, Thụy Điển, Hungary, Israel, Nhật, Trung Quốc, Đài Loan và Úc.
 
C

chienhopnguyen

Ngô Việt Trung
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Ngô Việt Trung
Viện trưởng Viện Toán học Việt Nam
Nhiệm kỳ 2007 –
Tiền nhiệm Hà Huy Khoái
Phó viện trưởng Lê Tuấn Hoa
Ngô Đắc Tân
Nguyễn Việt Dũng
Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học các nước Thế giới thứ 3
Sinh 8 tháng 5, 1953 (59 tuổi)
Học trường Trường Trung học Phổ thông Việt Đức
Website: Thông tin riêng

Bài này còn sơ khai.
Mời bạn góp sức viết thêm để bài được hoàn thiện hơn. Xem phần trợ giúp về cách sửa bài.

Nguồn dẫn dùng trong bài này hay đoạn này có thể không đáp ứng được tiêu chuẩn về nguồn đáng tin cậy của Wikipedia.
Bạn có thể giúp kiểm tra về độ đáng tin cậy của nguồn dẫn. Xem trang thảo luận bài để biết thêm chi tiết.
Ngô Việt Trung (sinh ngày 08/05/1953) là một nhà Toán học người Việt Nam. Ông hiện là Viện trưởng Viện Toán học Việt Nam[1] và một trong 7 người Việt Nam là Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Thế giới thứ ba. Ông và Hoàng Tụy được đánh giá là hai nhà toán học tiêu biểu đương đại của Việt Nam.[2]
Ông là con trai của Ngô Điền, nguyên đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Campuchia trong thời kì Khơ-me đỏ. Ông từng là học sinh chuyên Toán Trường trung học phổ thông Việt Đức (Hà Nội). Năm 1969, ông giành giải nhất cuộc thi học sinh giỏi Toán toàn Miền Bắc.[3] Sau đó, ở tuổi 16, ông sang Đức học đại học về Toán.
 
C

chienhopnguyen

Phan Đình Diệu
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Phan Đình Diệu (sinh năm 1936 - ) là giáo sư, nhà toán học của Việt Nam. Ông là một trong những người được ghi nhận là có công đầu trong kế hoạch đào tạo và phát triển ngành tin học tại Việt Nam. Ông là chuyên gia trong các lĩnh vực: toán học kiến thiết, lôgíc toán, lý thuyết thuật toán, ôtômat và ngôn ngữ hình thức, lý thuyết mật mã và an toàn thông tin. Ông là viện trưởng đầu tiên của Viện Khoa học tính toán và Điều khiển (nay là Viện Công nghệ Thông tin Việt Nam), Chủ tịch sáng lập Hội Tin học Việt Nam, phó Trưởng ban thường trực Ban chỉ đạo Chương trình Quốc gia về Công nghệ Thông tin khóa I (1993-1997).
Mục lục [ẩn]
1 Tiểu sử
2 Gia đình
3 Tác phẩm
4 Liên kết ngoài
[sửa]Tiểu sử

Ông sinh năm 1936, lớn lên tại huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
Năm 1954, ông tốt nghiệp trung học tại trường kháng chiến Phan Đình Phùng - Hà Tĩnh, ra Hà Nội thi vào trường Đại học Khoa học.
Hết năm thứ nhất, ông chọn trường Đại học Sư phạm Khoa học. Cũng chính tại đây, Phan Đình Diệu đã tìm thấy sự say mê đối với ngành toán học. Năm 1957, ông tốt nghiệp thủ khoa và được giữ lại trường làm cán bộ giảng dạy.
Năm 1962, ông được cử đi Liên Xô làm nghiên cứu sinh tại Khoa Toán học tính toán và Điều khiển học, trường Đại học Tổng hợp quốc gia Moskva mang tên Lomonosov.
Mùa hè năm 1965, sau khi hoàn thành luận án tiến sĩ, ông được đề nghị ở lại làm tiếp luận án tiến sĩ khoa học và đến năm 1967, ông về nước với học vị Tiến sĩ Khoa học.
Ông được cử đến công tác tại Uỷ ban Khoa học Nhà nước, bộ phận máy tính, cùng các bạn đồng nghiệp khác xây dựng phòng Toán học tính toán vừa được thành lập.
Năm 1975, trong một chuyến thực tập tại Pháp, ông đã được tiếp xúc với nhiều thành tựu hiện đại của ngành tin học trên thế giới. Từ đó, ông đã say mê tìm hiểu hai hướng phát triển mà ông cho là có triển vọng nhất và có thể ứng dụng và phát triển ở Việt Nam là vi tin học (trên cơ sở kỹ thuật vi xử lý và máy vi tính) và viễn tin học (trên cơ sở công nghệ viễn thông và mạng máy tính).
Đầu năm 1977, Viện Khoa học tính toán và điều khiển được chính thức thành lập, và ông được phân công làm viện trưởng. Là người dự thảo kế hoạch và cũng là người quản lý, từ năm 1977 đến 1985, ông đã đưa viện vượt qua nhiều khó khăn, trở ngại của buổi đầu hoạt động, xây dựng được một số hướng nghiên cứu chính về tin học.
Sau đó, ông làm Phó viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam (nay là Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam), Phó trưởng thường trực Ban chỉ đạo Chương trình quốc gia về công nghệ thông tin (1993-1997), Thành viên Hội đồng Chính sách Khoa học và Công nghệ Quốc gia Việt Nam (từ năm 1992).
Ông còn là người sáng lập và chủ tịch đầu tiên Hội Tin học Việt nam.
Ông giảng dạy các môn học: độ phức tạp tính toán, lý thuyết mật mã và an toàn thông tin, lập luận logic trong các hệ tri thức cho sinh viên và học viên sau đại học tại Khoa Công nghệ Thông tin - Trường Đại học Công nghệ thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội.
Ông là một thành viên của Đoàn chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Ông hoạt động phong trào dân chủ, đòi đổi mới chính trị (đa nguyên, đa đảng) để phát triển đất nước, do đó bị gạt bỏ khỏi danh sách đại biểu Quốc hội. Tuy nhiên tiếng nói của ông có tính khoa học cao, nên có sức thuyết phục lớn, đặc biệt là đối với giới khoa học tại Hà Nội.
[sửa]Gia đình

Các con ông đều thành đạt trong khoa học. Con gái ông, nữ tiến sĩ tin học Phan Thị Hà Dương, từng giành được Huy chương Đồng Olympic Toán quốc tế năm 1990. Con trai ông, Tiến sĩ tin học Phan Dương Hiệu, đang giảng dạy tại Pháp.
[sửa]Tác phẩm

Lý thuyết ôtômát và thuật toán/ Phan Đình Diệu.- H.: Đại học và trung học chuyên nghiệp, 1977.- 407tr
Tổng quan về công nghệ thông tin/Phan Đình Diệu, Hà Nội,-1998.
 
C

chienhopnguyen

Trần Văn Hạo
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trần Văn Hạo (sinh năm 1935), hay Trần Hạo, là một nhà toán học và nhà giáo dục Việt Nam. Ông hiện là Phó giáo sư, Tiến sĩ, Ủy viên Hội đồng bộ môn Toán của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ủy viên Ban Chấp hành Hội Toán học Thành phố Hồ Chí Minh[1], giảng viên Khoa Toán Tin, trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh[2]. Ông là tác giả hoặc đồng tác giả của nhiều giáo trình cũng như sách giáo khoa hiện đang được sử dụng trong các trường Phổ thông Trung học tại Việt Nam.
[sửa]Thân thế và sự nghiệp

Ông sinh ngày 27 tháng 10 năm 1935 tại xã Hưng Tiến, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Thủy tổ ông là cụ Trần Dĩnh Xuyên quê ở Hà Tĩnh, đến dạy học ở Hưng Nguyên từ thế kỷ 17. Ông nội của ông là cụ Trần Văn Song, Cử nhân Hán học năm 1888, anh trai là PGS TS toán học Trần Văn Hãn.[3]
Được giáo dục của thân phụ cũng như truyền thống dòng họ, từ nhỏ ông đã có chí hướng học hành. Mặc dù hoàn cảnh chiến tranh làm việc học bị gián đoạn nhiều lần, tuy nhiên, đến năm 1954, ông trở thành một những sinh viên đầu tiên của trường Đại học Sư phạm Khoa học, bấy giờ do Gíao sư Lê Văn Thiêm làm Hiệu trưởng. Ông tốt nghiệp năm 1956 và là một trong 6 sinh viên được giữ lại làm giảng viên tại trường[4].
Cuối năm 1959, Ông được Đảng và Nhà nước cử đi học và làm luận án PTS rồi TS tại Khoa Toán-Tin - Trường ĐH Tổng Hợp Lomonoxop(MGU) Liên Bang Xô Viết, đây được coi là trường lớn nhất XHCN lúc bấy giờ và ông cũng thuộc số ít sinh viên Châu Á được đào tạo tại khoa danh giá này, những người thuộc thế hệ sau này được đào tạo tại Khoa Toán đa số là học sinh xuất sắc từng đoạt giải quốc tế như Lê Bá Khánh Trình, Trương Gia Bình (FPT),... [5]
Tháng 4 năm 1963, ông về nước giảng dạy tại trường Đại học Sư Phạm Hà Nội. Đến năm 1965, ông được cử vào giảng dạy tại trường Đại học Sư phạm Vinh. Kể từ tháng 10 năm 1966, ông tham gia giảng dạy lớp Chuyên Toán đặc biệt của Đại học Sư phạm Vinh, đào tạo nhiều thế hệ nhà toán học Việt Nam như Phó giáo sư, Tiến sĩ Lê Mỹ Tú (học sinh khóa 1), Giám đốc Học viện Mật mã Trung ương; Giáo sư, Tiến sĩ, Trung tướng Phạm Thế Long (học sinh khóa 2), Giám đốc Học viện kỹ thuật Quân sự; Phó giáo sư, Tiến sĩ Trần Ngọc Giao (học sinh khóa 2), Giám đốc Học viện Quản lý Giáo dục Việt Nam; Giáo sư, Tiến sĩ Lê Tuấn Hoa (học sinh khóa 6), Chủ tịch Hội Toán học Việt Nam, Viện trưởng Viện Toán học...
Năm 1967, nhà toán học Pháp Alexander Grothendieck, người được nhận giải Huy chương Fields lần đầu tiên năm 1966, sang thăm miền Bắc Việt Nam và giảng một loạt các bài giảng về các hướng nghiên cứu toán học hiện đại, chủ yếu về đại số đồng điều. Trong bản báo cáo về chuyến đi Việt Nam, ông viết rằng “có một nền toán học Việt Nam thật sự đúng nghĩa ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa", đồng thời ghi về ấn tượng đặc biệt với khả năng của các nhà toán học trẻ Việt Nam và nêu tên đích danh 3 người là Đoàn Quỳnh, Hoàng Xuân Sính và Trần Văn Hạo. Ông có kế hoạch đưa những người này sang đào tạo ở bên Pháp, nhưng đáng tiếc về sau chỉ có giáo sư Hoàng Xuân Sính sang Paris làm luận án tiến sĩ dưới sự hướng dẫn của ông.
Năm 1983, ông được điều về Thành phố Hồ Chí Minh để tăng cường cho Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Ông là một trong những người có nhiều đóng góp cho sự phát triển cho khoa Toán, rồi khoa Toán - Tin, khoa Công nghệ Thông tin của trường.
Ông được phong học hàm Phó giáo sư năm 1980. Ông có nhiều tác phẩm giáo trình như sách giáo khoa toán học cho các học sinh và sinh viên.Cùng những đóng góp to lớn khác của ông cho nền giáo dục của Việt Nam nói chung và Khoa học Toán học nói riêng, đặt nền móng cho các thế hệ làm Toán sau này. Ông cũng là tấm gương về đạo đức nhân cách của người thầy giáo, vươn lên với tinh thần vượt khó hiếu học vì sự nghiệp giáo dục.
 
C

chienhopnguyen

Tạ Quang Bửu
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tạ Quang Bửu

Giáo sư Tạ Quang Bửu (1910–1986)
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
Nhiệm kỳ tháng 8, 1947 – tháng 7, 1948
Tiền nhiệm Võ Nguyên Giáp
Kế nhiệm Võ Nguyên Giáp
Khu vực Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp
Nhiệm kỳ 1 tháng 10, 1965 – 3 tháng 7, 1976
10 năm, 276 ngày
Tiền nhiệm không có
Kế nhiệm Nguyễn Đình Tứ
Khu vực Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Đảng Đảng Cộng sản Việt Nam
Sinh 23 tháng 7, 1910
Nam Đàn, Nghệ An
Mất 21 tháng 8, 1986 (76 tuổi)
Hà Nội
Tôn giáo Không
Phu nhân Hoàng Kim Oanh
Tạ Quang Bửu (1910–1986) là giáo sư, nhà khoa học Việt Nam, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đại biểu Quốc hội từ khoá I đến khóa VI (1946–1981).
Mục lục [ẩn]
1 Tiểu sử
1.1 1910-1945: Thời kỳ đầu
1.2 1945-1954: Hoạt động trong Chính phủ kháng chiến
1.3 Sau 1954: Tiếp tục hoạt động giáo dục và nghiên cứu
2 Tặng thưởng
3 Hình ảnh công cộng
4 Tác phẩm
5 Tham khảo
6 Liên kết ngoài
[sửa]Tiểu sử

[sửa]1910-1945: Thời kỳ đầu
Ông sinh ngày 23 tháng 7 năm 1910, trong một gia đình nhà giáo tại thôn Hoành Sơn, xã Nam Hoành, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Năm 1922, ông thi vào trường Quốc học Huế và đỗ thứ 11. Sau đó ông ra Hà Nội học trường Bưởi. Năm 1929, sau khi đỗ đầu tú tài Việt và đỗ đầu tú tài Tây ban Toán, ông nhận được học bổng của Hội Như Tây Du học của Nguyễn Hữu Bài và sang Pháp học.
Tại Pháp, năm 1929, ông đăng ký học lớp toán đặc biệt của trường Louis le Grand về toán học và vật lý lý thuyết, đăng ký học cử nhân toán ở Viện Henri Poincaré. Ông đã đến nghe giảng ở cả giảng đường Hermite (dành cho cử nhân) lẫn tham dự các buổi xê-mi-na ở giảng đường Darboux (dành cho những người học trên đại học). Tại đây, ông đã tiếp xúc với nhiều nhà toán học trẻ của nước Pháp, bí mật tham gia nhóm Nicolas Bourbaki. Đó là cơ sở để năm 1961, ông cho ra đời tác phẩm Về cấu trúc của Bourbaki.
Ông thi đỗ vào trường Centrale Paris năm 1930, theo học chương trình cử nhân khoa học ở Đại học Sorbonne, học toán ở các Đại học Paris, Đại học Bordeaux (Pháp) từ 1930 đến 1934 và được trường Bordeaux trao đổi sang Đại học Oxford (Anh) trong một thời gian ngắn. Tại đây ông học thêm vật lý lượng tử.
Trở về nước năm 1934, ông không ra làm quan mà đi dạy toán và tiếng Anh tại trường tư, ban đầu là trường Phú Xuân, sau là trường dòng Providence (Thiên Hựu) ở Huế. Ngoài tiếng Anh và toán, lí, hóa ông còn dạy các môn khoa học tự nhiên khác theo yêu cầu của nhà trường. Các môn này (động vật, thực vật, khoáng vật) ông tự nghiên cứu trong sách chuyên ngành cao hơn nhiều so với chương trình trung học rồi lên lớp với những mẫu hiện vật tự sưu tầm.


Tạ Quang Bửu và Tôn Thất Tùng tham gia nhóm hướng đạo Việt Nam.
Bên cạnh đó, ông cũng chơi tốt thể thao và truyền đạt kinh nghiệm luyện tập cho các học sinh như: đánh bóng bàn theo kiểu Barma (đương kim vô địch thế giới về bóng bàn, người Hunggary), tập điền kinh theo phương pháp khoa học nhất, bơi sải (crawl)...
Từ 1942 đến 1945, ông đi làm công cho hãng Điện-Nước SIPEA, được cử phụ trách nghiên cứu. Ông đã thiết kế nhiều bộ phận cho các nhà máy điện, tái sinh dầu nhờn cho Qui Nhơn. Ông đã khước từ Huân chương Bắc đẩu do Pháp trao vì thiết kế đường dây điện cao thế cho nhà máy vôi Long Thọ. Ngoài ra ông vẫn tranh thủ học thêm và nghiên cứu cơ học lượng tử và phương trình vi phân.
Ông là một trong những người tiên phong của Việt Nam dự trại Tráng sĩ của tổ chức Hướng đạo Việt Nam. Thi đỗ ông được cấp bằng trại trưởng và là đại diện huấn luyện cho toàn Đông Dương. Ông được bầu làm Huynh trưởng Hướng đạo sinh Trung Kỳ.
[sửa]1945-1954: Hoạt động trong Chính phủ kháng chiến
Tháng 8 năm 1945, ông tham gia Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội. Từ tháng 9 năm 1945 đến tháng 1 năm 1946, ông đã đảm nhận chức vụ Tham nghị trưởng Bộ Ngoại giao trong Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, rồi Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.[1]
Năm 1946 ông tham gia đoàn đại biểu chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dự Hội nghị trù bị Đà Lạt, rồi Hội nghị Fontainebleau (Pháp) đàm phán với Pháp và nhân đó sang Zurich dự lễ kỷ niệm 200 năm thành lập Hội các nhà khoa học tự nhiên Thụy Sĩ vào tháng 7 năm đó.
Tháng 7 năm 1947, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 8, ông làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam, sau đó một năm trở lại cương vị Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu đã chỉ đạo và biên soạn cuốn sách "Bắn máy bay bằng súng trường tập trung" phổ biến rộng rãi khắp nơi và sau đó, khiến máy bay Pháp phải dè chừng trên vùng trời Việt Nam. Kinh nghiệm này cũng được áp dụng cho dân quân du kích Việt Nam dùng súng trường bộ binh trong Chiến tranh chống Mỹ.[2], [3]


Đại diện Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam Tạ Quang Bửu ký Hiệp định đình chiến ở Đông Dương (Hiệp định Genève)
Tháng 8 năm 1948 ông là ủy viên Hội đồng Quốc phòng Tối cao vừa được thành lập, sau đó còn làm Chánh văn phòng Quân ủy Trung ương.
Tuy kiêm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng khác nhau, ông vẫn dành thời gian truyền thụ kiến thức của mình cho các thế hệ học trò. Ngay trong những ngày Cách mạng mới thành công, ông vừa tham gia các công việc của chính phủ vừa giảng dạy môn vật lý tại Đại học Hà Nội.
Năm 1954, ông tham gia đoàn đại biểu chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dự Hội nghị Geneva về Việt Nam trên cương vị Thứ trưởng Bộ Quốc phòng và là người đại diện cho Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam kí văn bản Hiệp nghị đình chỉ chiến sự tại Việt Nam và Lào, thường được biết đến dưới cái tên Hiệp định Genève về Việt Nam.
[sửa]Sau 1954: Tiếp tục hoạt động giáo dục và nghiên cứu
Ngay sau khi miền Bắc hòa bình, ông được cử làm Hiệu trưởng Đại học Bách khoa Hà Nội (1956-1961) đồng thời là Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học Nhà nước (1958 - 1965) [4] kiêm Tổng Thư ký. Là lãnh đạo Uỷ ban Khoa học Nhà nước, ông trực tiếp làm trưởng ban Sinh vật - Địa học. Các bài giảng của ông về sinh học hiện đại có các giáo sư đầu ngành đến dự. Ông cũng tham gia sáng lập Hội Vật lý Việt Nam vào năm 1966.
Ông là Bộ trưởng đầu tiên của Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp (1965-1976)[5]. Bộ trưởng Tạ Quang Bửu đã đề xuất cải tiến nội dung giảng dạy những điều "cơ bản nhất, hiện đại nhất và sát hợp với điều kiện Việt Nam nhất". Theo sự chỉ đạo của ông, hệ thống các ban thư kí các bộ môn và các ngành đào tạo được thành lập để cải tiến chương trình đào tạo đồng thời các cán bộ có trình độ cao và kinh nghiệm giảng dạy cũng được tập hợp để biên soạn các giáo trình... Những năm đầu của thập niên 1970, ông đã tổ chức một loạt các cuộc hội thảo về phương pháp giảng dạy đại học. Chủ trương mở rộng quy mô đào tạo bằng việc lập nhiều trường chuyên ngành đã được phối hợp chặt chẽ với chính sách tuyển chọn mỗi năm hàng trăm sinh viên, cán bộ ưu tú để gửi đi đào tạo tại các nước xã hội chủ nghĩa.
Ngoài công tác giáo dục, ông vẫn tham gia hoạt động trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật quân sự. Mùa hè năm 1972, Tổng thống Mỹ Richard Nixon ra lệnh thả thuỷ lôi trên sông biển và phong toả cảng Hải Phòng. Ông đã trực tiếp chỉ đạo một tổ nghiên cứu thiết kế, chế tạo khí tài phá thuỷ lôi (mật danh GK1) để chống lại thủy lôi chiến lược MK 52 của Mỹ, khí tài phá bom từ trường (mật danh GK2) do Tiến sĩ Vũ Đình Cự làm tổ trưởng.
Đêm 14 tháng 8 năm 1986, ông đột ngột ngưng làm việc do tai biến máu não. Ông mất vào ngày 21 tháng 8 năm 1986, hưởng thọ 76 tuổi. Vợ ông là bà Hoàng Kim Oanh, con gái cụ Hoàng Đạo Thúy
[sửa]Tặng thưởng

Ông đã được Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam tặng thưởng nhiều huân chương: Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất, Huân chương Chiến công hạng Nhất, Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Ba.
Năm 1996, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về khoa học công nghệ với tập hợp các công trình "Giới thiệu khoa học kĩ thuật hiện đại (sau 1945), chỉ đạo các nhiệm vụ quan trọng trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước và những quan điểm xây dựng ngành Đại học và Trung học chuyên nghiệp nước nhà". Các công trình của ông được đánh giá là đã định hướng phát triển một số ngành khoa học cơ bản; chỉ đạo kỹ thuật việc rà phá bom mìn phong toả Vịnh Bắc Bộ, Hải Phòng và chỉ đạo những nhiệm vụ kỹ thuật quan trọng khác trong cuộc chiến chống Mỹ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
 
C

chienhopnguyen

Vũ Hà Văn
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Vũ Hà Văn (sinh 1970) là nhà toán học Việt Nam, làm giáo sư toán học ở Đại học Rutgers[1]. Ông là con của nhà thơ Vũ Quần Phương. Ông đã đoạt giải Pólya (SIAM) năm 2008 của Hội Công nghiệp và Toán học ứng dụng cho công trình nghiên cứu về tập trung độ đo (concentration of measure).[2]
Mục lục [ẩn]
1 Tiểu sử
2 Các giải thưởng
3 Tham khảo
4 Liên kết ngoài
[sửa]Tiểu sử

Ông sinh ra ở Hà Nội, Việt Nam. Thời gian học phổ thông ông theo học tại trường Chu Văn An và Hà Nội - Amsterdam.
Ông tốt nghiệp cử nhân tại Đại học Eotvos, Budapest, Hungary năm 1994.[3]
Bảo vệ luận án tiến sĩ tại Đại học Yale, Hoa Kỳ.[3]
Từ năm 2001 đến 2005, ông làm việc tại Đại học California.[3]
Từ năm 2005 ông làm giáo sư tại Khoa Toán Đại học Rutgers.[3]
Từ năm học 2011, ông trở thành giáo sư của Đại học Yale.
[sửa]Các giải thưởng

Năm 2008: Giải George Polya.
Năm 2003: Giải NSF Career.
 
C

chienhopnguyen

Vũ Hữu
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Vũ Hữu (1437[1]–1530) là một nhà toán học người Việt, và cũng là một danh thần dưới triều đại Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông. Ông còn được coi là nhà toán học đầu tiên của Việt Nam.
Mục lục [ẩn]
1 Tiểu sử, sự nghiệp
2 Công trình toán học
3 Vết ố
4 Chú thích
5 Tham khảo
[sửa]Tiểu sử, sự nghiệp

Ông người làng Mộ Trạch, tổng Thì Cử, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương, nay là làng Mộ Trạch, xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Năm Quang Thuận thứ 4 đời vua Lê Thánh Tông (Quý Mùi 1463), ông đỗ Hoàng giáp.
Vũ Hữu đã kinh qua các chức vụ như Khâm hình viện lang trung, Thượng thư bộ Hộ, Thượng thư bộ Lễ trong triều đình nhà Hậu Lê, sau được tặng phong Thái bảo. Mặc dù về hưu năm 70 tuổi, đển năm 90 tuổi (1527), ông vẫn được vua tin dùng, sai mang cờ tiết đi phong vương cho Mạc Đăng Dung. Khi đó ông có tước là Tùng Dương hầu.
[sửa]Công trình toán học

Công trình toán học ông để lại cho hậu thế nổi bật là Lập Thành Toán Pháp. Quyển sách này miêu tả các phép đo đạc cũng như cách tính xây dựng nhà cửa, thành lũy. Các phép đo ruộng đất được tính theo đơn vị mẫu, sào, thước (24 mét vuông) và tấc (1/10 thước).
Sách Công dư tiệp ký ghi lại câu chuyện sau: Vua Lê Thánh Tông muốn thử tài của Vũ Hữu, nên đã giao cho ông sửa chữa ba cửa Đoan Môn, Đại Hưng và Đông Hoa của thành Thăng Long. Tuân lệnh, Vũ Hữu dùng thước đo chiều cao, chiều dài, chiều rộng của các cửa thành và tính ra số gạch đá, vật liệu phải dùng. Kết quả là khi xây xong, đá không thừa một tấc, gạch không thiếu một viên, quy mô các cửa thành được sửa chữa không sai một ly, một tấc. Vua Lê Thánh Tông rất hài lòng đã ban chiếu khen thưởng Vũ Hữu.
[sửa]Vết ố

Sách Đại Việt sử ký toàn thư có chép:
...1467 Quang Thuận thứ 8...thi khoa Hành từ. Điểm gọi các quan vào thi, tất cả là 30 người. Bấy giờ, Khâm hình viện lang trung Vũ Hữu, Viên ngoại lang Nguyễn Đình Khoa 5 người đều cáo ốm không vào thi. Vua lấy làm lạ, hỏi ra mới biết họ chỉ thích hối lộ. Nhân thế, vua dụ các quan trong triều rằng:
"Việc hình án phức tạp khó khăn, có ba điều vất vả: Một là suốt ngày cặm cụi vất vả, khổ sở. Hai là xử án không đúng, chịu tội làm sai. Ba là án tụng chất đống, khó lòng xét xử tường tận. Có ba điều vất vả ấy dẫu người không bệnh cũng đến phát ốm, huống chi là có bệnh".
Đó là nói giễu Vũ Hữu.
 
G

gioivankechuyen

Bạn cứ làm đi
tớ sẽ thanks cậu,câu đang làm cho ,mọi người
hiểu biết thêm đấy,đấy là việc tốt nên cứ viết đi!
 
L

ltlangto

chán thấy mồ:khi (182)::khi (64)::khi (41)::khi (159)::khi (30)::khi (19)::khi (62)::khi (83)::khi (83)::khi (147)::khi (104)::khi (7)::khi (103)::khi (156)::khi (48)::khi (26)::M023::M_nhoc2_21::M046::M011:::Mshiver::M018::M018:::M054::M021::M044::M_nhoc2_70::M053::M_nhoc2_49::M017::M029::M015::Mpetrified::M039::M_nhoc2_42::Mbarf::Mnotforgiven::M057::M025:
 
R

riverflowsinyou1

Paul Erdős (tiếng Hungary: Erdős Pál [ˈɛrdøːʃ paːl]; sinh ngày 26 tháng 3 năm 1913 - mất 20 tháng 9 năm 1996) là nhà toán học người Hungary. Erdős làm việc với hàng trăm cộng tác viên, theo đuổi vấn đề trong toán học tổ hợp, lý thuyết đồ thị, lý thuyết số, giải tích toán học, lý thuyết xấp xỉ, lý thuyết tập hợp và lý thuyết xác suất. Ông được coi là một trong những nhà toán học xuất sắc nhất thế kỷ XX và cũng được biết đến với tính cách lập dị của ông[3][4].
Mih rất thik nhà toán học này vừa lập dị giống mih vừa tốt bụng :)
 
D

darknightmath

Còn t thích ông David Hilbert
Người đưa ra 23 bài toán khó chưa có lời giải
Rất vui được làm quen với bạn
Paul Erdős (tiếng Hungary: Erdős Pál [ˈɛrdøːʃ paːl]; sinh ngày 26 tháng 3 năm 1913 - mất 20 tháng 9 năm 1996) là nhà toán học người Hungary. Erdős làm việc với hàng trăm cộng tác viên, theo đuổi vấn đề trong toán học tổ hợp, lý thuyết đồ thị, lý thuyết số, giải tích toán học, lý thuyết xấp xỉ, lý thuyết tập hợp và lý thuyết xác suất. Ông được coi là một trong những nhà toán học xuất sắc nhất thế kỷ XX và cũng được biết đến với tính cách lập dị của ông[3][4].
Mih rất thik nhà toán học này vừa lập dị giống mih vừa tốt bụng :)
 
D

darknightmath

David Hilbert (23 tháng 1, 1862, Wehlau, Đông Phổ – 14 tháng 2, 1943, Göttingen, Đức) là một nhà toán học người Đức, được công nhận như là một trong những nhà toán học có ảnh hưởng rộng lớn nhất của thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20. Ông thiết lập tên tuổi như là một nhà toán học và nhà khoa học vĩ đại bằng cách phát minh hay phát triển một loạt các ý tưởng khác nhau, chẳng hạn như là lý thuyết bất biến, tiên đề hóa hình học, và khái niệm không gian Hilbert,[2] một trong những nền tảng của giải tích hàm. Hilbert và các học sinh của ông đã xây dựng đủ hạ tầng cơ sở toán học cần thiết cho cơ học lượng tử và thuyết tương đối rộng. Ông là một trong những sáng lập viên của lý thuyết chứng minh, logic toán học và sự phân biệt giữa toán học và meta-toán học. Ông sử dụng và bảo vệ lý thuyết tập hợp của Cantor và các số siêu hạn (transfinite number). Một ví dụ nổi tiếng về vai trò lãnh đạo thế giới toán học là bài phát biểu năm 1900 về danh sách các bài toán quyết định hướng đi của nghiên cứu toán học trong thế kỉ thứ 20.
Đây là người đã từng đưa ra danh sách 23 bài toán khó chưa có lời giải, ngưỡng mộ lắm!
 
Top Bottom