CLB Hóa học vui Hỏi-Đáp về Hóa học - Tuần 2/Tháng 10

namnam06

Học sinh tiến bộ
Thành viên
12 Tháng chín 2018
1,147
894
151
Gia Lai
THCS Lê Quý Đôn
Đường hoá học Saccharin (tiếng Anh:saccharin) là imit của axit o - sunfobenzoic Công thức phân tử chung: C7H5NO3S. Danh pháp quốc tế: 1–dioxo–1,2–benzothiazol–3–1; Tên gọi khác: benzoic sunfimit hoặc octho sunphobenzamit. Saccharin là một axit với pKa = 2. (thuộc axit Nito).
Nguồn gốc: Câu chuyện về sự ra đời của saccharin được bắt đầu vào năm 1877, khi đó, Constantin Fahlberg, một nhà hóa học người Nga chuyên nghiên cứu về đường đã được một công ty nhập khẩu đường ở thành phố Baltimore của Mỹ thuê sang làm nhiệm vụ kiểm nghiệm độ tinh khiết của đường. Vào một buổi tối tháng 6 năm 1878, sau một ngày làm việc ở phòng thí nghiệm, Fahlberg ngồi vào bàn ăn và nhặt một ổ bánh mỳ với bàn tay chưa kịp rửa sạch, khi ăn ông đã nhận thấy có một vị ngọt rất mạnh dính trên bánh. Để truy tìm nguồn gốc của vị ngọt, Fahlberg đã ngay lập tức quay lại phòng thí nghiệm và thử nếm tất cả mọi đồ vật đã tham gia vào công việc trong ngày của mình, bao gồm các lọ, cốc và đĩa được ông dùng để thí nghiệm. Cuối cùng, ông đã phát hiện ra chất ngọt này bắt nguồn từ một chiếc bình đun quá sôi, trong đó có chứa benzoic sunfimit, được tạo ra từ phản ứng của axit o-sunfobenzoic với photpho pentaclorua và amoniac.
 

Forgert Me Not

CTV box "Sách - Người bạn vô giá"
HV CLB Hội họa
Thành viên
31 Tháng mười 2017
536
570
121
22
TP Hồ Chí Minh
Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu - Mỹ Tho
Lịch sử sợi tổng hợp bắt đầu năm 1932. Lúc đó, ở Đức bắt đầu sản xuất công nghiệp sợi tổng hợp đầu tiên là polivinylclorua dùng vào mục đích kỹ thuật. Khi clo hoá trực tiếp polivinylclorua ta được nhựa peclovinyl, từ đó có thể sản xuất ra loại sợi bền về mặt hoá học: sợi clorin. Năm 1930, người ta bắt đầu sản xuất sợi từ nhựa poliamit, là polime tổng hợp tương tự protein. Trong phân tử của chúng, cũng giống như trong protein, có các nhóm amit- CO-NH- lặp lại nhiều lần. Các sợi poliamit đầu tiên là nilon và capron, về một số tính chất còn tốt hơn cả tơ thiên nhiên. Những sợi tổng hợp có bản chất hoá học khác như polieste, poliolefin (trên cơ sở trùng hợp etylen),v.v... cũng xuất hiện.
Sợi hoá học đã thay thế một cách có hiệu quả các loại sợi thiên nhiên là tơ, len, bông và không ít trường hợp vượt các loại sợi thiên nhiên về chất lượng.Sản xuất sợi hoá học có tầm quan trọng lớn lao đối với nền kinh tế quốc dân, góp phần nâng cao phúc lợi vật chất cho con người và có khả năng đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân về các mặt hàng thông dụng: vải, các sản phẩm dệt kim và tơ lông nhân tạo.
Câu 6 : Saccharin là chất gì ?
Đường hoá học Saccharin (saccharin) là imit của axit o - sunfobenzoic
Công thức phân tử chung: C7H5NO3S.
Danh pháp quốc tế: 1–dioxo–1,2–benzothiazol–3–1;
Tên gọi khác: benzoic sunfimit hoặc octho sunphobenzamit.
Saccharin là một axit với pKa = 2. (thuộc axit Nito).
Đường hoá học này ở dạng tinh thể không màu, nhiệt độ nóng chảy khoảng từ 224 – 226 °C. Là chất tan trong nước với tỷ lệ 1/250 (ít tan) nhưng muối natri của saccharin là chất dễ tan trong nước.
Đường hoá học Saccharin ngọt hơn đường thường khoảng từ 200 đến 600 lần.
Với độ ngọt mạnh hơn 300 lần so với đường kính, saccharin (hay còn gọi là đường hóa học) chính là chất tạo ngọt nhân tạo đầu tiên được loài người phát hiện. Trải qua hơn 130 năm kể từ khi ra đời, cấu trúc phân tử của saccharin không thay đổi nhưng câu chuyện về nó thì đã vượt ra ngoài khuôn khổ của phòng thí nghiệm và ngày càng trở nên phức tạp với những tình tiết mới được thêm vào. Người ta đã nói về saccharin như một sự ngẫu nhiên đầy may mắn, một thứ thần dược hay một chất gây ung thư nguy hiểm.
Câu chuyện về sự ra đời của saccharin được bắt đầu vào năm 1877, khi đó, Constantin Fahlberg, một nhà hóa học người Nga chuyên nghiên cứu về đường đã được một công ty nhập khẩu đường ở thành phố Baltimore của Mỹ thuê sang làm nhiệm vụ kiểm nghiệm độ tinh khiết của đường. Vào một buổi tối tháng 6 năm 1878, sau một ngày làm việc ở phòng thí nghiệm, Fahlberg ngồi vào bàn ăn và nhặt một ổ bánh mỳ với bàn tay chưa kịp rửa sạch, khi ăn ông đã nhận thấy có một vị ngọt rất mạnh dính trên bánh. Để truy tìm nguồn gốc của vị ngọt, Fahlberg đã ngay lập tức quay lại phòng thí nghiệm và thử nếm tất cả mọi đồ vật đã tham gia vào công việc trong ngày của mình, bao gồm các lọ, cốc và đĩa được ông dùng để thí nghiệm. Cuối cùng, ông đã phát hiện ra chất ngọt này bắt nguồn từ một chiếc bình đun quá sôi, trong đó có chứa benzoic sunfimit, được tạo ra từ phản ứng của axit o-sunfobenzoic với photpho pentaclorua và amoniac.
Fahlberg đã một mình đăng ký bằng sáng chế ở Mỹ và Đức cho một phương pháp tổng hợp saccharin mới, rẻ tiền hơn và số lượng lớn hơn các phương pháp trước đó.
Kể từ đó, việc sử dụng đường saccharin để thay thế cho đường mía đã nhanh chóng trở nên vô cùng phổ biến ở châu Âu và Mỹ do những ưu điểm nổi bật của loại đường này như có thể tổng hợp được bằng phương pháp công nghiệp, có vị ngọt mạnh nên tiết kiệm được chi phí và không gây sâu răng. Nhiều nhà máy sản xuất đường saccharin đã ra đời và phương pháp sản xuất cũng liên tục được cải tiến. Không chỉ dùng trong chế biến thực phẩm và đồ uống thông thường, đường saccharin còn được sử dụng rộng rãi trong chế độ ăn uống của các bệnh nhân đái tháo đường hoặc những người cần giảm cân, do nó không chuyển hóa trong cơ thể nên không làm tăng đường huyết và không sinh ra năng lượng. Cũng do đặc tính này mà đường saccharin còn được sử dụng làm phụ gia trong các loại đồ uống và thực phẩm giảm năng lượng hoặc không dùng được đường kính vì có thể gây hư hỏng. Không chỉ sử dụng trong chế biến thực phẩm, saccharin còn được các thầy thuốc kê đơn để điều trị nhiều loại bệnh khác nhau như đau đầu, buồn nôn, béo phì...
 
  • Like
Reactions: Tống Huy

Tống Huy

Cựu TMod Cộng đồng
Thành viên
25 Tháng sáu 2018
4,084
7,241
691
19
Hà Tĩnh
THPT Lê Hữu Trác
Đáp án câu 5 : Saccharin là imit của axit o - sunfobenzoic .

Câu chuyện về sự ra đời của saccharin được bắt đầu vào năm 1877, khi đó, Constantin Fahlberg, một nhà hóa học người Nga chuyên nghiên cứu về đường đã được một công ty nhập khẩu đường ở thành phố Baltimore của Mỹ thuê sang làm nhiệm vụ kiểm nghiệm độ tinh khiết của đường. Vào một buổi tối tháng 6 năm 1878, sau một ngày làm việc ở phòng thí nghiệm, Fahlberg ngồi vào bàn ăn và nhặt một ổ bánh mỳ với bàn tay chưa kịp rửa sạch, khi ăn ông đã nhận thấy có một vị ngọt rất mạnh dính trên bánh. Để truy tìm nguồn gốc của vị ngọt, Fahlberg đã ngay lập tức quay lại phòng thí nghiệm và thử nếm tất cả mọi đồ vật đã tham gia vào công việc trong ngày của mình, bao gồm các lọ, cốc và đĩa được ông dùng để thí nghiệm. Cuối cùng, ông đã phát hiện ra chất ngọt này bắt nguồn từ một chiếc bình đun quá sôi, trong đó có chứa benzoic sunfimit, được tạo ra từ phản ứng của axit o-sunfobenzoic với photpho pentaclorua và amoniac.
 
  • Like
Reactions: Tư Âm Diệp Ẩn

Forgert Me Not

CTV box "Sách - Người bạn vô giá"
HV CLB Hội họa
Thành viên
31 Tháng mười 2017
536
570
121
22
TP Hồ Chí Minh
Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu - Mỹ Tho
Câu 7 :
Thần sa là chất gì ?
Chu sa hay thần sa, đan sa, xích đan, cống sa, là các tên gọi dành cho loại khoáng vật cinnabarit của thủy ngân sẵn có trong tự nhiên, có màu đỏ. Thành phần chính của nó là sunfua thủy ngân (II) (HgS).
Tên gọi cinnabarit có nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp - "kinnabari" – được sử dụng và có lẽ nó được dùng cho một vài loại chất khác nhau. Một số nguồn tài liệu khác lại cho rằng nó có nguồn gốc từ tiếng Ba Tư zinjifrah, một từ không rõ nguồn gốc. Trong tiếng la Tinh, nó được gọi là minium, nghĩa là "chì đỏ" – một từ vay mượn từ các ngôn ngữ xứ Iberia (chẳng hạn tiếng Basque armineá ="cinnabarit").
 

namnam06

Học sinh tiến bộ
Thành viên
12 Tháng chín 2018
1,147
894
151
Gia Lai
THCS Lê Quý Đôn
Chu sa hay thần sa, đan sa, xích đan, cống sa, là các tên gọi dành cho loại khoáng vật cinnabarit của thủy ngân sẵn có trong tự nhiên, có màu đỏ. Thành phần chính của nó là sulfua thủy ngân (II) (HgS).
Tên gọi cinnabarit có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp - "kinnabari" – được Theophrastus sử dụng và có lẽ nó được dùng cho một vài loại chất khác nhau. Một số nguồn tài liệu khác lại cho rằng nó có nguồn gốc từ tiếng Ba Tư zinjifrah, một từ không rõ nguồn gốc. Trong tiếng La tinh, nó được gọi là minium, nghĩa là "chì đỏ" – một từ vay mượn từ các ngôn ngữ xứ Iberia (chẳng hạn tiếng Basque armineá ="cinnabarit").
 
  • Like
Reactions: Tống Huy

Forgert Me Not

CTV box "Sách - Người bạn vô giá"
HV CLB Hội họa
Thành viên
31 Tháng mười 2017
536
570
121
22
TP Hồ Chí Minh
Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu - Mỹ Tho
Chu sa hay thần sa, đan sa, xích đan, cống sa, là các tên gọi dành cho loại khoáng vật cinnabarit của thủy ngân sẵn có trong tự nhiên, có màu đỏ. Thành phần chính của nó là sunfua thủy ngân (II) (HgS).
Tên gọi cinnabarit có nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp - "kinnabari" – được sử dụng và có lẽ nó được dùng cho một vài loại chất khác nhau. Một số nguồn tài liệu khác lại cho rằng nó có nguồn gốc từ tiếng Ba Tư zinjifrah, một từ không rõ nguồn gốc. Trong tiếng la Tinh, nó được gọi là minium, nghĩa là "chì đỏ" – một từ vay mượn từ các ngôn ngữ xứ Iberia (chẳng hạn tiếng Basque armineá ="cinnabarit").
Chu sa thường ở thể bột đỏ, thần sa thường ở thể cục thành khối óng ánh, to nhỏ không nhất định, màu đỏ tối hay đỏ tươi, chất nặng nhưng dễ vỡ vụn, không mùi, vị nhạt. Khi nghiền bằng tay, tay không bị bắt màu đỏ là loại tốt. Chu sa và thần sa hiện nay ta đều còn phải nhập cả, tuy nhiên chu sa và thần sa đều là những vị thuốc rất thông dụng.
 
Top Bottom