Sử 12 Hệ thống những vấn đề cơ bản của lịch sử thế giới từ 1917 - 2000; phần 5

Thái Minh Quân

Cựu Cố vấn Lịch sử | Cựu Chủ nhiệm CLB Lịch sử
Thành viên
29 Tháng mười 2018
3,304
4,365
561
TP Hồ Chí Minh
THCS Nguyễn Hiền
[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

3. Những sự kiện lịch sử thế giới có ảnh hưởng và tác động trực tiếp đến cách mạng Việt Nam
3.8. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bị bao vây và cô lập (9/1945 - 12/1946)
- Tác động từ hai hội nghị lớn đầu và giữa năm 1945: hội nghị Yalta tuyên bố Đông Nam Á thuộc ảnh hưởng của các nước phương Tây (Liên Xô không có ảnh hưởng và không thể ủng hộ cách mạng Việt Nam được, vì việc phân chia này là các nước phương Tây có ảnh hưởng; Pháp rục rịch trở lại xâm lược nước ta); trong khi hội nghị Postdam thì quân Anh và quân Trung Hoa dân quốc kéo vào nước ta giải giáp quân Nhật. Trên lý thuyết thì như vậy, nhưng thực tế Anh đang ủng hộ Pháp và giúp Pháp chuẩn bị đưa quân trở lại xâm lược Việt Nam; trong khi đó Trung Hoa Dân quốc đang tìm mọi cách phá hoại chính quyền cách mạng mới của nước ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Đông Dương, không muốn cho nhân dân ta được độc lập và tự do
- Quân Nhật trong khi chờ giải giáp thì chúng ngang nhiên chống phá cách mạng Việt Nam theo lời của quân Anh và Trung Hoa Dân quốc; tay sai của Pháp, Nhật và Trung Hoa dân quốc đều muốn phá hoại cách mạng Việt Nam cho bằng được
- Quan hệ Mĩ và Liên Xô thay đổi, không có lợi cho cách mạng Việt Nam. Họ chuyển từ quan hệ đồng minh sang đối đầu và chuẩn bị phát động chiến tranh lạnh. Mĩ lúc này đang phát động chiến lược toàn cầu với 3 mục tiêu chính nhằm làm bá chủ thế giới
- Liên Xô không có ảnh hưởng ở Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng, vì hội nghị Yalta không cho phép; cách mạng Trung Quốc chưa thành công. Nước ta mặc dù đã độc lập, nhưng không một nước nào công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam
=> Những sự kiện này tác động mạnh mẽ đến Việt Nam, làm cho nước ta "ngàn cân treo sợi tóc"

3.9. Chiến tranh lạnh tác động đến cách mạng Việt Nam (1947 - 1950)
- Tháng 3/1947, Mĩ khởi động chiến tranh lạnh bắt đầu từ diễn văn của Truman đọc trước Quốc hội Mĩ, tuyên bố Liên Xô là kẻ thù nguy hiểm nhất; ra lời kêu gọi ngăn chặn chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu, ngăn cản phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Để thực hiện điều này, Mĩ lôi kéo các nước đồng minh tham gia thông qua kế hoạch Marshall (các nước Tây Âu được Mĩ viện trợ 17 tỉ dollar, đổi lại các nước Tây Âu phải là đồng minh của Mĩ trong chiến tranh lạnh). Mĩ giúp Pháp trở lại xâm lược Việt Nam, rồi từng bước thực hiện các âm mưu tiếp theo
- Tháng 5/1949, Mĩ bắt đầu dính líu vào cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp thông qua viện trợ kinh tế và quân sự. Được Mĩ giúp đỡ, Pháp thông qua kế hoạch Revers. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đánh bại quân Pháp ở chiến dịch Biên giới 1950, khiến kế hoạch Revers bị phá sản
- Tình hình quốc tế có nhiều thuận lợi cho cách mạng Việt Nam: cách mạng thành công và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời (10/1949), hệ thống xã hội chủ nghĩa lớn mạnh và không ngừng mở rộng từ châu Âu ra khu vực châu Á, góp phần làm xói mòn trật tự hai cực Yalta. Nhiều nước đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam

3.10. Quan hệ quốc tế phức tạp - Mĩ chuyển trọng tâm chiến lược toàn cầu sang Việt Nam
- Quan hệ giữa các nước lớn có sự thỏa thuận, hòa hoãn: các nước thỏa thuận với nhau chia cắt nước Đức, chia cắt Triều Tiên ở vĩ tuyến 38 bằng hội nghị Genève. Điều này gây bất lợi lớn cho Việt Nam tại Hội nghị quốc tế Genève.
- Hệ thống xã hội chủ nghĩa không ngừng lớn mạnh về không gian và thời gian, vượt qua vòng vây của chủ nghĩa tư bản và phát triển vươn lên
- Phong trào cách mạng thế giới thắng lợi ở nhiều nơi, làm thay đổi sâu sắc bản đồ chính trị thế giới. Đó là thắng lợi của các cuộc cách mạng ở Trung Quốc, Ấn Độ, các nước Đông Nam Á... Mĩ lo ngại vì cách mạng Trung Hoa vừa giành thắng lợi, quân dân Việt Nam vừa đại thắng Pháp ở Điện Biên Phủ
- Mĩ thất bại trong việc ngăn chặn chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu nên Mĩ chuyển trọng tâm chiến lược toàn cầu sang Việt Nam (Việt Nam hội tụ cả ba mục tiêu của Mĩ: chủ nghĩa xã hội, phong trào GPDT trên thế giới, đồng minh của Mĩ), lấy Việt Nam làm nơi "đụng đầu lịch sử" trong chiến tranh xâm lược của Mĩ ở Việt Nam (1954 - 1975)
=> Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của nhân dân Việt Nam trở thành cuộc chiến tranh cục bộ lớn nhất chịu tác động của cuộc đối đầu Đông - Tây

3.11. Xu thế hòa hoãn Đông - Tây tác động đến cách mạng Việt Nam
- Quan hệ Đông - Tây chuyển biến (từ nửa đầu những năm 70) tích cực: từ chỗ đối đầu chuyển sang hòa dịu để dần kết thúc chiến tranh lạnh. Khởi đầu từ cuộc gặp Xô - Mĩ, sau đó là cuộc gặp Mĩ - Trung dẫn tới ra đời Thông cáo Thượng Hải (sau đó Tổng thống Mĩ sang thăm Liên Xô), gây nhiều bất lợi cho cách mạng Việt Nam. Theo Thông cáo Thượng Hải 1972, Mĩ công nhận Đài Loan là lãnh thổ của Trung Quốc, đổi lại Trung Quốc ngừng viện trợ và giúp đỡ Việt Nam; Mĩ giúp Trung Quốc ngồi vào chiếc ghế của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc thay cho Đài Loan (Trung Hoa dân quốc) và cho Trung Quốc 400 triệu dollars để nước này xây dựng đất nước - đã làm ảnh hưởng xấu đến quan hệ Việt - Trung.
- Định ước Helsinki (8/1975) được ký giữa 33 nước châu Âu đã khẳng định những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ giữa các nước châu Âu, giải quyết các vấn đề bằng con đường hòa bình
- Liên Xô và Mĩ tuyên bố chấm dứt chiến tranh lạnh (12/1989) và hai nước Đức tái thống nhất
=> Điều này tác động trực tiếp đến các nước Đông Nam Á, khi tổ chức ASEAN và Việt Nam điều chỉnh chính sách theo hướng hòa dịu, mở rộng hợp tác để cùng nhau phát triển đi lên cho phù hợp với tình hình quốc tế: Hiệp ước Bali (1976) khởi đầu cho sự phát triển của tổ chức này; giải quyết thành công vấn đề Campuchia (10/1991) thể hiện xu thế hòa dịu, hợp tác giữa các nước dưới tác động của tình hình quốc tế

3.12. Tình đoàn kết và chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương
- Cơ sở của tình đoàn kết và chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương:
+ Cuối thế kỷ XIX, ba nước Đông Dương đều có chung kẻ thù là quân Pháp xâm lược nên ba nước cùng đoàn kết chống giặc
+ Các dân tộc đều có chung đường biên giới nên họ giúp đỡ nhau
+ Năm 1930, Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời đã lãnh đạo nhân dân ba nước cùng chống kẻ thù chung
- Trong kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954)
+ Tháng 3/1951, ba mặt trận (Việt Minh, Lào Issala, Khmer Issarak) họp hội nghị, tuyên bố thành lập Mặt trận Việt - Miên - Lào
+ Từ tháng 12/1953 đến tháng 1/1954, liên quân Lào - Việt mở các chiến dịch Trung Lào và Thượng Lào, bước đầu làm đảo lộn kế hoạch Navarre; tạo điều kiện cho quân dân ta đánh thắng Pháp ở Điện Biên Phủ (1954), buộc Pháp ký kết Hiệp định Genève
- Trong kháng chiến chống Mĩ (1954 - 1975)
+ Năm 1970, sau sự kiện Mĩ lật đổ chính quyền trung lập Campuchia của vua Sihanouk và xâm lược Campuchia, nhân dân Campchia cùng đoàn kết với Việt Nam và Lào hợp sức đánh quân Mĩ xâm lược. Tháng 4/1970, ba nước họp Hội nghị cấp cao ở Hà Nội để thể hiện quyết tâm chống kẻ thù chung.
+ Từ năm 1970 đến năm 1971, quân ta đã phối hợp với bạn Lào và Campuchia mở các chiến dịch lớn, giúp nước bạn giải phóng nhiều vùng đất. Đặc biệt là chiến dịch đường 9 - Nam Lào (1971) đã giữ vững hành lang chiến lược của ba nước, thắc chặt hơn nữa tình đoàn kết giữa ba nước Đông Dương; góp phần làm thất bại chiến lược "Việt Nam hóa - Đông Dương hóa chiến tranh" của quân địch.
- Trong xây dựng đất nước (1975 - 2000)
+ Quân tình nguyện Việt Nam giúp đỡ nhân dân Campuchia đánh đổ tập đoàn Polpot (1979 - 1989) và giúp bạn xây dựng đất nước

3.13. Bối cảnh quốc tế khiến Việt Nam tiến hành đổi mới đất nước (1986)
- Xu thế hòa hoãn Đông - Tây, chiến tranh lạnh sắp kết thúc. Tuy rằng Việt Nam tiến hành đổi mới khi chiến tranh lạnh chưa kết thúc, nhưng xu thế hòa hoãn Đông - Tây đã tác động lớn nên Việt Nam cần phải điều chỉnh về chính sách đối ngoại của mình để phù hợp với tình hình quốc tế (không căng thẳng nữa, muốn hòa dịu để phát triển đi lên)
- Tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và xu thế toàn cầu hóa. Hệ quả tất yếu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã khiến các nước lạc hậu phải thay đổi để thích ứng thời cuộc. Những nước áp dụng thành tựu cách mạng khoa học kỹ thuật đều phát triển rất nhanh, vì vậy dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và xu thế toàn cầu hóa, các nước buộc phải thay đổi để thích ứng - đây vừa là cơ hội vừa là thách thức với các dân tộc. Những nước nào có trình độ thấp kém khi áp dụng cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật thì đều thành công (Việt Nam không là ngoại lệ)
- Xu thế cải cách, mở cửa trên thế giới. Xu thế này diễn ra sau năm 1945 và đang phát triển mạnh mẽ ở các quốc gia trên thế giới, nổi bật là Nhật Bản. Nhật bị suy sụp nặng nề do chiến tranh, hậu quả của việc Mĩ ném bom nguyên tử; nhưng người Nhật đã vươn lên để tiến hành cải cách dân chủ từ năm 1946. Cuộc cải cách này giúp Nhật phát triển nhanh chóng, như một cơn "gió thần" phát triển mạnh về kinh tế từ 1952 đến 1973 - nổi bật nhất là thời kỳ phát triển "thần kỳ" của Nhật (từ 1960 đến 1973). Sự phát triển "thần kỳ" của Nhật Bản gắn liền với cải cách dân chủ và tác động đến các nơi khác. Các nước sáng lập Asean, sau khi tiến hành chính sách kinh tế "hướng nội" không thành thì chuyển sang "hướng ngoại", hướng đến cải cách và mở cửa. Các "con rồng kinh tế" của châu Á như Hàn Quốc, Hongkong, Đài Loan, Singapore đều nhờ vào cải cách xã hội, cải cách dân chủ. Trung Quốc cải cách khá muộn, nhưng có những thành công bước đầu, hướng đi của nước này là phù hợp với xu thế chung của thế giới. Các nước "công nghiệp mới" ở Mĩ latinh như Mexico, Brazil và Arhentina cũng nhờ vào cải cách hội nhập quốc tế. Liên Xô cũng tuy cải cách muộn và cuối cùng bị thất bại, nhưng cũng là bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
- Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu bị khủng hoảng trầm trọng. Chúng ta không thể trông chờ vào sự giúp đỡ của Liên Xô và Đông Âu nữa mà cần phải vươn lên, vượt qua mọi khó khăn
- Quan hệ quốc tế và khu vực từ những năm 70 đang có những bất lợi với cách mạng Việt Nam, cần phải có sự điều chỉnh cho phù hợp với thời cuộc. Mĩ cấm vận Việt Nam từ năm 1975 và còn kéo dài, lôi kéo các nước cùng cấm vận nước ta. Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc cũng căng thẳng sau chiến tranh biên giới 1979 diễn ra, kéo dài đến cuối những năm 80. Liên Xô và Đông Âu bị khủng hoảng và sụp đổ
=> Bối cảnh quốc tế đã chứng minh: Việt Nam tiến hành đổi mới đất nước là phù hợp với xu thế chung của thế giới (với dân tộc Việt Nam, việc đổi mới là sự sống còn của chủ nghĩa xã hội)

3.14. Những sự kiện quốc tế sau chiến tranh lạnh ảnh hưởng đến Việt Nam
- Trật tự hai cực Yalta sụp đổ. Thế giới đã phát triển theo nhiều xu thế khác nhau và khó lường, đó là xu thế đa cực nhiều trung tâm với sự nổi lên của các cường quốc; đó là xu thế các nước cải cách lấy kinh tế làm trọng tâm (nước nào đi đầu về kinh tế sẽ có vị thế về chính trị), đó là xu thế hòa bình thế giới mà các nước muốn diễn ra. Tuy nhiên khó dự đoán hết xu thế của thế giới ở những năm đầu thế kỷ XXI là như thế nào
- Hiệp định hòa bình về Campuchia được ký kết ở Paris (10/1991) đã mở ra một chương mới cho quan hệ giữa các nước trong khu vực Đông Dương, cho các nước Đông Nam Á với tổ chức Asean. Ngược dòng lịch sử, quan hệ giữa ba nước Đông Dương (có Việt Nam) với Asean có 3 giai đoạn: (1) từ 1967 đến 1990 là thời kỳ căng thẳng liên quan đến chiến tranh xâm lược của Mĩ tại Việt Nam và vấn đề Campuchia; (2) từ 1990 đến nay có quan hệ tốt đẹp. Như vậy, vấn đề Campuchia được giải quyết đã tháo gỡ các vướng mắc giữa ba nước Đông Dương với Asean và các khu vực khác lúc bấy giờ; nhờ đó Asean không ngừng mở rộng thành viên, lớn mạnh và hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế khác
- Trung Quốc và Mĩ bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Trung Quốc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam 1991 và Mĩ bãi bỏ cấm vận của Việt Nam 1995, Việt Nam gia nhập Asean 1995; đây vừa là thời cơ vừa là thách thức lớn với nước ta trong bối cảnh quốc tế lúc này
- Sự mở rộng và phát triển của các liên minh khu vực (EU, ASEAN), quan hệ quốc tế không ngừng mở rộng theo nhiều xu hướng khác nhau; đây vừa là thời cơ vừa là thách thức lớn với nước ta trong bối cảnh quốc tế lúc này khi chúng ta đang tiến hành hội nhập quốc tế và khu vực
- Mĩ bị khủng bố vào năm 2001 và quan hệ giữa các cường quốc (Nga - Mĩ, Nga - EU, Mĩ - Trung Quốc, Ấn Độ - Trung Quốc) đang căng thẳng. Cuộc chiến tranh thương mại Mĩ - Trung vẫn đang diễn ra; quan hệ phức tạp giữa Nga - Mĩ, Nga - EU cùng các nước đang cấm vận nước Nga.... nên xu thế hòa bình trên thế giới là rất khó dự đoán chính xác
 
Last edited:
Top Bottom