T
tranquang
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!! ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.
Dạy và học môn văn: Cần sự thay đổi triệt đ
Thực ra từ rất lâu, người ta đã nhận ra tính chất đa chức năng của môn văn. Môn văn trong nhà trường ít ra cũng phải đảm nhận ba chức năng: vừa là một môn học công cụ (như môn toán), vừa là một môn khoa học xã hội-nhân văn (như lịch sử, giáo dục công dân), lại là một môn nghệ thuật (như nhạc, họa). Trước khi là một môn khoa học hay nghệ thuật, môn ngữ văn cần làm tốt chức năng môn học công cụ, trang bị cho người học hiểu biết và kỹ năng sử dụng ngôn ngữ-ở đây là tiếng Việt-như là phương tiện giao tiếp, công cụ tư duy và phương tiện chuyển tải tri thức thuộc mọi lĩnh vực. Chính vì tính chất công cụ này mà môn ngữ văn cùng với môn toán là hai môn cơ sở ở cả ba cấp trong bậc học phổ thông, luôn có mặt trong các kỳ thi hết cấp và tốt nghiệp phổ thông.
Từ quan niệm chức năng của môn ngữ văn như trên sẽ định hướng cho việc xác định mục tiêu và yêu cầu của môn học ở mỗi lớp, mỗi cấp, và cũng từ đó sẽ định hướng cho việc xây dựng chương trình, viết sách giáo khoa, xác định phương pháp dạy và học. Ở đây, xin không bàn sâu về những phương diện đó, mà chỉ xin nêu một vấn đề, nhưng là vấn đề cốt yếu. Mục tiêu cơ bản của việc dạy và học ngữ văn là gì? Cung cấp tri thức hay hình thành kỹ năng? Theo tôi, phát triển năng lực ngữ văn cho người học mới là mục tiêu cuối cùng của dạy học văn. Năng lực văn là một hệ thống phức tạp bao gồm nhiều phương diện có liên quan chặt chẽ với nhau: năng lực đọc hiểu, năng lực phân tích khái quát, đánh giá một hiện tượng văn học, năng lực cảm thụ thẩm mỹ, năng lực trình bày, diễn đạt tư tưởng và cảm xúc của mình (bằng nói, viết) và cuối cùng là năng lực vận dụng vào thực tiễn.
Việc chuyển trọng tâm từ truyền thụ kiến thức sang phát triển năng lực sẽ làm thay đổi cách dạy và học, thay đổi các chuẩn đánh giá kết quả học tập. Khi ấy, các bài văn trong sách giáo khoa chỉ chủ yếu là phương tiện để hình thành năng lực văn cho học sinh. Ở nhiều nước, văn bản trong các bộ sách giáo khoa có thể khác nhau khá nhiều, mà không hề gây khó khăn cho thầy và trò. Bởi vì, trong các đề thi hầu như người ta không hỏi về các văn bản đã được học kỹ trong sách giáo khoa, mà thường là đưa ra một văn bản khác để kiểm tra năng lực đọc hiểu, vận dụng của học sinh.
Dạy, học và kiểm tra, đánh giá là những khâu liên hoàn có quan hệ chặt chẽ với nhau trong nhà trường. Cố nhiên, kết quả của việc học tập chỉ được đánh giá chính xác và toàn diện trong việc vận dụng vào thực tiễn, khi người học vào đời, nhưng trong nhà trường thì kiểm tra, thi cử vẫn là cách đánh giá quan trọng, thậm chí có khi còn là duy nhất. Thông thường thì kiểm tra, thi cử phải phù hợp với nội dung và cách thức dạy, học và yêu cầu cần đạt được của chương trình. Nhưng trong thực tế ở nước ta, lại có điều tưởng như nghịch lý mà đã thành quy luật: thi thế nào sẽ dạy và học thế ấy. Vì thế, muốn thay đổi cách dạy và học ngữ văn, theo tôi cần tác động vào khâu then chốt là thay đổi cách thi, đề thi.
Là người đã tham gia biên soạn nhiều sách giáo khoa môn văn thuộc nhiều chương trình khác nhau, lại cũng đã nhiều lần tham gia vào việc ra đề thi, hiểu rõ quá trình tìm kiếm, thay đổi của các chương trình môn văn và những cải tiến việc ra đề thi từ đầu những năm 90 đến nay, tôi thấy rất rõ rằng đã đến lúc cần một sự thay đổi triệt để, chứ không phải là những cải tiến nho nhỏ. Thử ngược trở lại khoảng mười lăm năm trước đây để tìm ra cái mô hình đầu tiên của cách ra đề thi đại học ít lâu nay. Đó là những bộ đề thi và hướng dẫn làm bài của các môn học có thi đại học, được biên soạn như một tài liệu chính thức, theo chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo lúc ấy. Phải nói là bộ đề thi môn văn được biên soạn khá công phu, đã có tác dụng định hướng rất cơ bản cho việc dạy và học môn văn ở lớp 11 và 12. Từ người dạy đến người học, rồi người ra đề thi, các nhà quản lý giáo dục đều hiểu là nội dung và yêu cầu của bài thi mn văn là nằm trong bộ đề ấy. Thậm chí, trong một số năm đầu, Bộ Giáo dục và Đào tạo còn khuyến khích các trường ra đề theo cách rút thăm ngẫu nhiên các câu trong bộ đề thi. Và thế là, ngay lập tức các cuốn sách bài văn mẫu được biên soạn và tung ra thị trường, bán rất chạy bởi nó đáp ứng một yêu cầu mang tính thực dụng của người đi thi. Những năm gần đây, bộ đề thi đã không còn được coi là tài liệu chính thức nữa. Việc ra đề cũng có một số cải tiến, ví như đề thi chung cho toàn quốc, tăng thêm số lượng câu từ hai lên ba câu v.v.. Nhưng tất cả những thay đổi đó không mang ý nghĩa cơ bản. Điều đáng ngạc nhiên nhất và cũng là điều cần nói nhất lại chính là ở chỗ này: Từ khi có bộ đề thi ấy, tất cả mọi người-từ thầy đến trò đến nhà quản lý giáo dục, từ phụ huynh học sinh đến các cơ quan ngôn luận… đều quan niệm rằng đề thi môn văn nhất thiết chỉ có thể nằm trong các văn bản ở sách giáo khoa. Không một ai, không một trường nào lại dám đưa vào đề thi một bài văn hay thậm chí chỉ một đoạn thơ không có trong sách giáo khoa, vì điều đó bị coi là ở ngoài chương trình. Nhưng hiểu như thế nào là nằm trong chương trình đối với môn ngữ văn? Có phải là đề thi chỉ được hỏi về các văn bản được học chính (không tính phần đọc thêm trong sách giáo khoa)? Chính từ cách hiểu như thế, cách ra đề như thế, đã dẫn đến cách học thi như lâu nay. Nghĩa là, thí sinh chỉ cần thuộc cho kỹ những mẫu phân tích, bình giảng về các tác phẩm, hay về một đoạn trong tác phẩm ấy, đã được cung cấp trong bài giảng của thầy, trong các sách văn mẫu. Thậm chí, có trường hợp một bài thi được điểm 10, sau đó đã bị phát hiện là giống hệt với một bài mẫu nào đó trong sách luyện thi. Lối học tầm chương, trích cú, cử tử, không coi trọng tính thực tiễn, thực nghiệp vốn là một nhược điểm nặng nề của giáo dục ở nước ta, tồn tại dai dẳng hàng nghìn năm, nay vẫn tiếp tục theo cách ấy ở trong việc học và thi môn văn. Và như thế, môn văn ngày càng xa rời đời sống, không coi trọng việc phát triển năng lực của người học, còn các kỳ thi thì lại chủ yếu đánh giá khả năng ghi nhớ, thuộc bài, viết lại theo mẫu của thí sinh. Cách dạy học và thi như thế tất sẽ dẫn đến tình trạng chán học văn của số đông học sinh. Vì vậy cần có ngay những sự thay đổi trong cách ra đề, trong việc đánh giá kết quả học tập về môn học này, đó là điểm then chốt sẽ tác động lại toàn bộ hệ thống, từ dạy, học, đến biên soạn sách giáo khoa, chương trình môn học.
Sự thay đổi ít ra cũng cần thể hiện ở hai hướng sau:
Một là, cần tăng cường các đề thi gắn với thực tiễn đời sống. Có thể ra đề về những vấn đề gần gũi với học sinh, thanh niên, những vấn đề mang tính thiết yếu, cập nhật của xã hội, đất nước, như về việc học tập, về đọc sách, giải trí, về internet hoặc về văn hóa, thiên nhiên, môi trường…
Hai là, với loại đề nghị luận văn học thì cần coi trọng đánh giá năng lực vận dụng chứ không phải là nhớ và thuộc bài. Vì thế, nói chung không nên ra đề vào những văn bản đã được giảng kỹ trong chương trình, mà cần đưa ra những văn bản mới để thí sinh thể hiện năng lực đọc hiểu của mình bằng cách vận dụng các tri thức ngữ văn đã được tích lũy trong cả quá trình học phổ thông cùng với các kỹ năng cần thiết đã được hình thành và rèn luyện trong việc đọc hiểu rất nhiều văn bản trong sách giáo khoa…
Về vấn đề này, chúng tôi sẽ bàn sâu vào một dịp thích hợp. Chúng tôi tin rằng thầy và trò trong các trường phổ thông đang chờ đợi câu trả lời bằng hành động của các cơ quan quản lý giáo dục.
Tiến sĩ NGUYỄN VĂN LONG
Thực ra từ rất lâu, người ta đã nhận ra tính chất đa chức năng của môn văn. Môn văn trong nhà trường ít ra cũng phải đảm nhận ba chức năng: vừa là một môn học công cụ (như môn toán), vừa là một môn khoa học xã hội-nhân văn (như lịch sử, giáo dục công dân), lại là một môn nghệ thuật (như nhạc, họa). Trước khi là một môn khoa học hay nghệ thuật, môn ngữ văn cần làm tốt chức năng môn học công cụ, trang bị cho người học hiểu biết và kỹ năng sử dụng ngôn ngữ-ở đây là tiếng Việt-như là phương tiện giao tiếp, công cụ tư duy và phương tiện chuyển tải tri thức thuộc mọi lĩnh vực. Chính vì tính chất công cụ này mà môn ngữ văn cùng với môn toán là hai môn cơ sở ở cả ba cấp trong bậc học phổ thông, luôn có mặt trong các kỳ thi hết cấp và tốt nghiệp phổ thông.
Từ quan niệm chức năng của môn ngữ văn như trên sẽ định hướng cho việc xác định mục tiêu và yêu cầu của môn học ở mỗi lớp, mỗi cấp, và cũng từ đó sẽ định hướng cho việc xây dựng chương trình, viết sách giáo khoa, xác định phương pháp dạy và học. Ở đây, xin không bàn sâu về những phương diện đó, mà chỉ xin nêu một vấn đề, nhưng là vấn đề cốt yếu. Mục tiêu cơ bản của việc dạy và học ngữ văn là gì? Cung cấp tri thức hay hình thành kỹ năng? Theo tôi, phát triển năng lực ngữ văn cho người học mới là mục tiêu cuối cùng của dạy học văn. Năng lực văn là một hệ thống phức tạp bao gồm nhiều phương diện có liên quan chặt chẽ với nhau: năng lực đọc hiểu, năng lực phân tích khái quát, đánh giá một hiện tượng văn học, năng lực cảm thụ thẩm mỹ, năng lực trình bày, diễn đạt tư tưởng và cảm xúc của mình (bằng nói, viết) và cuối cùng là năng lực vận dụng vào thực tiễn.
Việc chuyển trọng tâm từ truyền thụ kiến thức sang phát triển năng lực sẽ làm thay đổi cách dạy và học, thay đổi các chuẩn đánh giá kết quả học tập. Khi ấy, các bài văn trong sách giáo khoa chỉ chủ yếu là phương tiện để hình thành năng lực văn cho học sinh. Ở nhiều nước, văn bản trong các bộ sách giáo khoa có thể khác nhau khá nhiều, mà không hề gây khó khăn cho thầy và trò. Bởi vì, trong các đề thi hầu như người ta không hỏi về các văn bản đã được học kỹ trong sách giáo khoa, mà thường là đưa ra một văn bản khác để kiểm tra năng lực đọc hiểu, vận dụng của học sinh.
Dạy, học và kiểm tra, đánh giá là những khâu liên hoàn có quan hệ chặt chẽ với nhau trong nhà trường. Cố nhiên, kết quả của việc học tập chỉ được đánh giá chính xác và toàn diện trong việc vận dụng vào thực tiễn, khi người học vào đời, nhưng trong nhà trường thì kiểm tra, thi cử vẫn là cách đánh giá quan trọng, thậm chí có khi còn là duy nhất. Thông thường thì kiểm tra, thi cử phải phù hợp với nội dung và cách thức dạy, học và yêu cầu cần đạt được của chương trình. Nhưng trong thực tế ở nước ta, lại có điều tưởng như nghịch lý mà đã thành quy luật: thi thế nào sẽ dạy và học thế ấy. Vì thế, muốn thay đổi cách dạy và học ngữ văn, theo tôi cần tác động vào khâu then chốt là thay đổi cách thi, đề thi.
Là người đã tham gia biên soạn nhiều sách giáo khoa môn văn thuộc nhiều chương trình khác nhau, lại cũng đã nhiều lần tham gia vào việc ra đề thi, hiểu rõ quá trình tìm kiếm, thay đổi của các chương trình môn văn và những cải tiến việc ra đề thi từ đầu những năm 90 đến nay, tôi thấy rất rõ rằng đã đến lúc cần một sự thay đổi triệt để, chứ không phải là những cải tiến nho nhỏ. Thử ngược trở lại khoảng mười lăm năm trước đây để tìm ra cái mô hình đầu tiên của cách ra đề thi đại học ít lâu nay. Đó là những bộ đề thi và hướng dẫn làm bài của các môn học có thi đại học, được biên soạn như một tài liệu chính thức, theo chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo lúc ấy. Phải nói là bộ đề thi môn văn được biên soạn khá công phu, đã có tác dụng định hướng rất cơ bản cho việc dạy và học môn văn ở lớp 11 và 12. Từ người dạy đến người học, rồi người ra đề thi, các nhà quản lý giáo dục đều hiểu là nội dung và yêu cầu của bài thi mn văn là nằm trong bộ đề ấy. Thậm chí, trong một số năm đầu, Bộ Giáo dục và Đào tạo còn khuyến khích các trường ra đề theo cách rút thăm ngẫu nhiên các câu trong bộ đề thi. Và thế là, ngay lập tức các cuốn sách bài văn mẫu được biên soạn và tung ra thị trường, bán rất chạy bởi nó đáp ứng một yêu cầu mang tính thực dụng của người đi thi. Những năm gần đây, bộ đề thi đã không còn được coi là tài liệu chính thức nữa. Việc ra đề cũng có một số cải tiến, ví như đề thi chung cho toàn quốc, tăng thêm số lượng câu từ hai lên ba câu v.v.. Nhưng tất cả những thay đổi đó không mang ý nghĩa cơ bản. Điều đáng ngạc nhiên nhất và cũng là điều cần nói nhất lại chính là ở chỗ này: Từ khi có bộ đề thi ấy, tất cả mọi người-từ thầy đến trò đến nhà quản lý giáo dục, từ phụ huynh học sinh đến các cơ quan ngôn luận… đều quan niệm rằng đề thi môn văn nhất thiết chỉ có thể nằm trong các văn bản ở sách giáo khoa. Không một ai, không một trường nào lại dám đưa vào đề thi một bài văn hay thậm chí chỉ một đoạn thơ không có trong sách giáo khoa, vì điều đó bị coi là ở ngoài chương trình. Nhưng hiểu như thế nào là nằm trong chương trình đối với môn ngữ văn? Có phải là đề thi chỉ được hỏi về các văn bản được học chính (không tính phần đọc thêm trong sách giáo khoa)? Chính từ cách hiểu như thế, cách ra đề như thế, đã dẫn đến cách học thi như lâu nay. Nghĩa là, thí sinh chỉ cần thuộc cho kỹ những mẫu phân tích, bình giảng về các tác phẩm, hay về một đoạn trong tác phẩm ấy, đã được cung cấp trong bài giảng của thầy, trong các sách văn mẫu. Thậm chí, có trường hợp một bài thi được điểm 10, sau đó đã bị phát hiện là giống hệt với một bài mẫu nào đó trong sách luyện thi. Lối học tầm chương, trích cú, cử tử, không coi trọng tính thực tiễn, thực nghiệp vốn là một nhược điểm nặng nề của giáo dục ở nước ta, tồn tại dai dẳng hàng nghìn năm, nay vẫn tiếp tục theo cách ấy ở trong việc học và thi môn văn. Và như thế, môn văn ngày càng xa rời đời sống, không coi trọng việc phát triển năng lực của người học, còn các kỳ thi thì lại chủ yếu đánh giá khả năng ghi nhớ, thuộc bài, viết lại theo mẫu của thí sinh. Cách dạy học và thi như thế tất sẽ dẫn đến tình trạng chán học văn của số đông học sinh. Vì vậy cần có ngay những sự thay đổi trong cách ra đề, trong việc đánh giá kết quả học tập về môn học này, đó là điểm then chốt sẽ tác động lại toàn bộ hệ thống, từ dạy, học, đến biên soạn sách giáo khoa, chương trình môn học.
Sự thay đổi ít ra cũng cần thể hiện ở hai hướng sau:
Một là, cần tăng cường các đề thi gắn với thực tiễn đời sống. Có thể ra đề về những vấn đề gần gũi với học sinh, thanh niên, những vấn đề mang tính thiết yếu, cập nhật của xã hội, đất nước, như về việc học tập, về đọc sách, giải trí, về internet hoặc về văn hóa, thiên nhiên, môi trường…
Hai là, với loại đề nghị luận văn học thì cần coi trọng đánh giá năng lực vận dụng chứ không phải là nhớ và thuộc bài. Vì thế, nói chung không nên ra đề vào những văn bản đã được giảng kỹ trong chương trình, mà cần đưa ra những văn bản mới để thí sinh thể hiện năng lực đọc hiểu của mình bằng cách vận dụng các tri thức ngữ văn đã được tích lũy trong cả quá trình học phổ thông cùng với các kỹ năng cần thiết đã được hình thành và rèn luyện trong việc đọc hiểu rất nhiều văn bản trong sách giáo khoa…
Về vấn đề này, chúng tôi sẽ bàn sâu vào một dịp thích hợp. Chúng tôi tin rằng thầy và trò trong các trường phổ thông đang chờ đợi câu trả lời bằng hành động của các cơ quan quản lý giáo dục.
Tiến sĩ NGUYỄN VĂN LONG
Last edited by a moderator: