[vật lý 7]vật lý lý thú

4

40phamkinhvy

Đi trên than hồng không phải là phép lạ


1183293876_11874gail%27sfeet.jpg

Than hồng có sức nóng lên tới gần 1.000 độ C. Ở nhiệt độ đó, nhiều thứ có thể cháy thành than chứ đừng nói đến da thịt của con người.
Kỷ lục thế giới đi trên than nóng đỏ lâu nhất được lập năm 1998 tại Trường Pittsburgh (Pennsylvania, Mỹ). 15 người đã đi 165 bước (khoảng 52 m) trên than hồng mà không ai bị thương.

Các màn trình diễn đi trên than đá nóng đỏ đã có từ hàng nghìn năm trước tại nhiều nơi trên thế giới. Sớm nhất tại Ấn Độ, người ta đã tìm thấy bằng cớ về màn trình diễn này cách đây khoảng 1.200 năm trước công nguyên. Thời cổ đại, các buổi biểu diễn đi trên lửa thường liên quan đến tôn giáo, để thể hiện sức mạnh siêu nhiên.

Vào những năm 1930, các nhà khoa học Anh đã bắt tay nghiên cứu về hiện tượng này. Hội đồng London nghiên cứu hiện tượng siêu nhiên đã tiến hành hai cuộc kiểm tra. Một người Ấn Độ tên là Kuda Bux và 2 người Anh đã biểu diễn đi bộ 12 bước bằng chân không trên đống than nóng đỏ. Một cuộc kiểm tra khác được hội đồng tiến hành sau đó với một người đàn ông Hồi giáo có tên là Ahmed Husain. Tất cả kết quả cho thấy, họ đều đi qua bãi than nóng đỏ bằng chân trần mà không hề bị tổn thương. Tài liệu về các cuộc kiểm tra này đã được công bố rộng rãi sau đó khẳng định hiện tượng đi trên than nóng là có thật chứ không phải là một trò ảo thuật.

Không có gì là siêu nhiên

Các tài liệu trên cũng khẳng định hiện tượng đi trên than nóng hoàn toàn có thể lý giải bằng khoa học. Bí quyết là cách thức di chuyển làm sao cho thời gian tiếp xúc với than nóng là ngắn nhất.

Nhiệt lượng được truyền theo ba cách: đối lưu, bức xạ và dẫn nhiệt. Trong đó, dạng đối lưu và bức xạ chỉ xảy ra với chất lỏng, tia sóng. Như vậy, trong tình huống đi trên than hồng, việc truyền nhiệt giữa than nóng và bàn chân con người thuộc dạng dẫn nhiệt. Đó là sự tiếp xúc trực tiếp giữa các tế bào da chân và than nóng. Nhưng giữa hai yếu tố này còn có một chất cách nhiệt khác là lớp than chì và gỗ (chưa cháy), trong đó than chì có khả năng cách nhiệt cao gấp 4 lần gỗ ướt. Khi di chuyển nhanh, thời gian tiếp xúc giữa bàn chân và than nóng sẽ rất ngắn, nhiệt lượng truyền theo dạng tiếp xúc sẽ rất thấp, vì thế bàn chân sẽ không bị tổn thương.

Loại than được sử dụng thường từ gỗ tuyết tùng, hoặc bulô trắng. Chúng cháy rất đỏ lửa nhưng nhiệt độ không thật cao, chỉ gần 400 độ C. Than này rất chắc, khó tàn và không có những cạnh sắc, giúp người thực hành di chuyển dễ dàng hơn.

Trường dạy "đùa với lửa"

Sau lần đầu tiên đi trên than hồng vào năm 1977, ông Tolly Burkan, một chuyên gia về ảo thuật người Mỹ, đã bị môn này cuốn hút. Ông đã phát hiện ra đi trên than không phải là ảo thuật mà là một nghệ thuật. Những năm đầu tiên, do kỹ thuật chưa hoàn thiện nên ông bị nhiều vết thương ở chân. Nhưng sau đó, Burkan đã phát triển nhiều kỹ thuật mới và tập hợp lại thành một giáo trình để hướng dẫn mọi người.

Ông cho biết cô con gái là Amber đã làm quen với trò đi trên than hồng từ năm 2 tuổi. Đến năm 4 tuổi, Amber đã thực hành đi trên "thảm lửa" lần đầu tiên. Và đến nay ở tuổi 17, trò đi trên than nóng đã trở thành sở thích của cô. Nhiều học viên của Tolly có thể di chuyển trên than hồng bằng cách trồng cây chuối.

Ông Tolly cho rằng, đi trên than nóng là một môn rèn luyện tinh thần rất tốt. Bên cạnh việc rèn luyện thể lực (bằng cách tập đi bộ, tập các môn hỗ trợ khác), nó giúp người thực hành vượt qua sự sợ hãi của chính bản thân. Theo ông, chế ngự sự sợ hãi sẽ giúp bạn vững vàng hơn trong cuộc sống, điều đó đồng nghĩa với sự thành đạt. Khẩu hiệu của ông là: "Hãy tin tưởng là bạn sẽ thành công".

Sau 30 năm hình thành, Trường Fire của Tolly đã cấp chứng chỉ cho 2.000 học viên đến từ khắp nơi trên thế giới. Học viên của ông đủ mọi lứa tuổi, từ trẻ em đến người già. Tuy nhiên, trẻ em chỉ được tham gia lớp quan sát hoặc lý thuyết, không thực hành.

Đi trên than nóng là chủ đề thực sự "nóng" của nhiều chương trình như Discovery, NBC, ABC, MTV và đang ngày càng thu hút sự chú ý của nhiều người. Có điều, các bạn không nên tự tập ở nhà dưới bất kỳ hình thức nào vì có thể gây thương tích cho bản thân.
 
4

40phamkinhvy

Trăng đánh lừa mắt ta

1183352898_trang.jpg
Khi nằm thấp ở gần đường chân trời, mặt trăng trông có vẻ to hơn so với khi nằm trên cao. Nhưng kỳ thực nó chỉ là một ảo giác đánh lừa mắt, các nhà khoa học nói, và nó chẳng liên quan gì đến bất cứ ảnh hưởng nào của bầu khí quyển. Thay vào đó, nó là do quan niệm của bạn.

Và đây là cơ chế hoạt động của hiện tượng đó:

Não của chúng ta nghĩ rằng mọi thứ nằm trên đường chân trời thì ở xa hơn so với những thứ ở trên đầu. Đó là bởi chúng ta đã quen với việc nhìn thấy các đám mây gần ngay trên đầu so với các thứ khác ở đường chân trời. Trong con mắt của tư tưởng, bầu trời là một mái vòm phẳng.

Và lấy mái vòm này làm chuẩn, chúng ta ước định các thứ ở đường chân trời (mặt trăng chẳng hạn) sẽ ở xa hơn, và vì thực tế nó không xa hơn so với khi ở trên đầu, nên não của chúng ta sẽ ngốc nghếch tưởng tượng rằng nó to hơn.

Nếu bạn hoài nghi? Có thể thử điều này tại nhà.

Khi trăng bắt đầu mọc, hãy cầm một thứ nhỏ giống như một cục tẩy và so sánh kích cỡ nó với mặt trăng trên bầu trời. Làm lại 2 giờ sau đó khi mặt trăng đã ở cao hơn.

Hoặc có thể thử cách khác: Hãy chụp ảnh mặt trăng ở hai vị trí, sau đó cắt, dán và so sánh.

Một mẹo khác: Làm một ống nhòm bằng tờ giấy cuộn lại, sao cho lỗ hổng chỉ nhỉnh hơn mặt trăng chút xíu so với khi trăng bắt đầu lên. Dán cái ống lại sao cho kích cỡ của nó cố định, và sau đó làm lại thí nghiệm để xem mặt trăng có thay đổi kích cỡ không.
 
4

40phamkinhvy

Vì sao ít người tách nước ngọt từ nước biển?


1183344425_water.jpg

Khi các thành phố lún sâu vì hết nước ngọt, giải pháp hiển nhiên sẽ là tách nước biển. Song thực tế, công nghệ này tiến rất chậm trong hàng nghìn năm qua.


Mặc dù việc khử muối khỏi nước nghe dễ dàng, nhưng năng lượng phải bỏ ra cho việc này vẫn khó mà chấp nhận được.
"Cho đến gần đây, việc khử muối khỏi nước biển vẫn là một giải pháp cực kỳ đắt đỏ", Gary Crisp, một kỹ sư của Tập đoàn nước miền tây Australia, cho biết.
Uống trực tiếp nước biển là một ý tưởng tồi vì cơ thể bạn phải dùng một lượng nước còn lớn hơn để đào thải muối qua đường tiểu.
Nước biển chứa khoảng 130 g muối trên mỗi gallon (khoảng 4,5 lít). Việc khử muối có thể làm giảm lượng muối xuống dưới 2 gram trên mỗi gallon, là giới hạn an toàn mà con người có thể uống được.
Hiện tại, trên toàn thế giới có khoảng 10 đến 13 tỷ gallon nước biển được khử muối mỗi ngày. Chúng chỉ chiếm 0,2% tổng tiêu thụ trên toàn cầu. Con số này đang tăng lên.
Những nỗ lực của Aristotle
Quay trở lại thế kỷ 4 trước Công nguyên, Aristotle đã hình dung ra việc sử dụng các màng lọc để loại muối khỏi nước biển.
Nhưng hoạt động thực tiễn đầu tiên lại dùng phương pháp chưng cất, tức là đun sôi nước biển để thu hơi nước. Khoảng năm 200 sau Công nguyên, các thuỷ thủ bắt đầu tách nước biển bằng các bình đun đơn giản trên tàu.
Năng lượng cần dùng cho kỹ thuật này khiến nó trở nên quá đắt ở quy mô lớn. Chính vì thế, thị trường chính cho công nghệ "khử muối bằng nhiệt này" là ở các quốc gia dầu lửa ở Trung Đông, nơi nước cực kỳ khan hiếm.
Kể từ thập kỷ 1950, các nhà nghiên cứu đã phát triển những loại màng có thể lọc muối, tương tự như hình dung của Aristotle. Hiện nay, kỹ thuật màng này cần dùng đến 1/4 năng lượng và chi phí bằng một nửa giá của phương pháp chưng cất.
"Trong 10 năm vừa qua, kỹ thuật màng lọc đã được cải tiến đến độ có thể thay thế được cho kỹ thuật chưng cất", Crisp nói.
Năng lượng là chìa khoá
Nhưng ngay cả với các màng lọc, người ta vẫn phải dùng rất nhiều năng lượng để sinh áp suất cao, đủ sức ép nước chảy qua các tấm lọc. Các phương pháp hiện nay đòi hỏi tốn 14 kWh điện để khử muối cho 1.000 gallon nước biển.
Một người Mỹ trung bình hiện tiêu thụ từ 80 đến 100 gallon nước mỗi ngày. Toàn bộ quốc gia này dùng khoảng 323 tỷ gallon nước bề mặt và 84,5 tỷ gallon nước ngầm cho một ngày đêm.
Nếu một nửa trong số đó sinh ra từ kỹ thuật khử nước biển, Mỹ sẽ cần thêm 100 nhà máy điện nữa, và mỗi nhà máy phải có công suất 1 gigawatt.
Hiện tại, tốc độ sử dụng nước nhanh gấp đôi tốc độ tăng dân số của loài người, khiến nhiều cộng đồng rơi vào tình trạng khan hiếm nước. Nhu cầu đó đẩy giá nước ngày càng cao hơn, khiến cho việc khử nước biển trở nên hấp dẫn.
 
4

40phamkinhvy

Đá trời - 'món quà' thảm họa



Với giới "săn đá trời", các mẩu thiên thạch là món hàng quý, giá có thể lên tới 1.000 euro (khoảng 20 triệu đồng Việt Nam) mỗi gram. Tuy nhiên, giới nghiên cứu vũ trụ lại cho rằng, chúng chứa đựng thảm họa.
“Chúng tôi đang ở dưới bếp chuẩn bị cho bữa điểm tâm thì nghe một tiếng nổ rất lớn, cứ như là bom nổ vậy" - ông Archer ở ngoại ô Auckland, New Zealand, kể lại tình huống khiến gia đình mình có được viên đá trời quý giá - "Chúng tôi hết sức kinh ngạc khi phát hiện nó nằm dưới sàn nhà phòng khách, nó rất nóng không thể chạm tay vào được. Tôi liền gọi điện báo cho công ty bảo hiểm và chỉ vài giờ sau, các nhà khoa học hay tin đã kéo đến đầy nhà...”.

Từ đó trở đi, ông bà Archer phải liên tục trả lời điện thoại và tiếp đón các nhà khoa học đến từ nhiều nơi trên thế giới để tìm hiểu về “món quà không mong mà có” này.

Theo các nhà thiên văn học, hòn đá mà ông bà Archer đang giữ đã di chuyển một quãng đường dài 700 triệu km từ một tiểu hành tinh ở giữa sao Hỏa và sao Mộc. Khi tiến vào bầu khí quyển của Trái Đất, nó có kích cỡ bằng trái bóng rổ và di chuyển với vận tốc lên đến 50.000 km/giờ. Vào thời điểm xuyên thủng mái nhà ông Archer thì vận tốc của nó đã giảm xuống còn khoảng 500 km/h. Đây là hòn đá trời thứ 9 được ghi nhận ở New Zealand từ trước đến nay.

Hòn thứ 8 được phát hiện trước đó 28 năm. Tiến sĩ Joel Schiff, giảng viên Đại học Auckland, biên tập viên của Tạp chí Meteorite (Thiên thạch) nhận xét, đó là một hòn đá trời lớn và đẹp.

Của báu bất ngờ...

Trường hợp đá trời rơi qua mái nhà như trên thật là hy hữu. Chính điều đó đã làm tăng thêm sự hấp dẫn của nó đối với các nhà khoa học cũng như những người chuyên sưu tầm. Các nhà sưu tập quốc tế đã trả giá rất cao để đổi lấy viên đá nhưng ông Archer cho rằng, đây là một vật quý của quốc gia, vì thế nó phải được giữ lại trong nước. Ông muốn bán nó cho một bảo tàng của nước mình. Các chuyên gia ước tính, nó có thể được mua với giá trên 10.000 USD. Quả là một món tiền không nhỏ cho một viên đá trời xám xịt chỉ nặng khoảng 1,3 kg.

Tại vùng Ensisheim có một viên đá trời được coi là cổ nhất khu vực Trung Cận Đông, rơi vào trái đất ngày 7/4/1942. Viên đá đó được cất giữ trong cung điện chính của thành phố. Tầng hai của cung điện được dành riêng để trưng bày bộ sưu tập của những người chơi đá trời đến từ Đức, Pháp, Italy, Marốc, Nga... Họ đều là thành viên của Câu lạc bộ Người săn đá trời. Hằng năm, trong một ngôi làng nhỏ của người Alsake ở vùng này, người ta thường tổ chức một hội chợ đặc biệt có tên là Hội chợ đá trời. Khách từ các nơi tấp nập đổ về. Cứ 4 euro cho một vé vào cửa với đồ uống được miễn phí.

Tại hội chợ trên, người ta đặt ra giá 1.000 euro cho một gram đá trời. Một cục đá lấy từ thiên thạch Williamette nặng 15,5 tấn đang được trưng bày tại Viện bảo tàng lịch sử thiên nhiên Mỹ có thể được bán với giá 8.000-10.000 USD. Hay những thiên thạch sắt lấy từ thung lũng Bầu trời tại Argentina rơi xuống trái đất cách nay hàng nghìn năm được bán với giá từ 40.000-50.000 USD. Những viên đá trời rẻ nhất cũng có giá 5.000-6.000 USD, lấy từ mặt trăng.

Những người đi săn đá trời thường đến các sa mạc lớn như Sahara và Antarcticque với hy vọng tìm được kho báu. Thế nhưng chỉ những người may mắn mới có được, bởi chúng xuất hiện bất thình lình ở mọi nơi, ở những chỗ mà người ta không ngờ đến và có thể mãi chỉ là hình hòn đá bình thường do không được nhận biết.

Ở Việt Nam, tại gian trưng bày ngọc và đá quý tại đường Đồng Khởi TP HCM có những viên đá trời được chau chuốt và đánh bóng đen tuyền, đặt trong hộp nhỏ lót nhung đỏ và ghi nhãn hiệu “Ngọc thiên thạch”. Nông dân vùng Đà Lạt (Lâm Đồng) đã vứt những viên đá trời này lăn lóc ở góc vườn hay trong đống rác vì không hề biết giá trị của nó. Tại đây, trong 1m3 đất có thể tìm được khoảng 10-20 viên đá trời có tên là tectit. Mỗt ngày, một người nếu tìm kỹ có thể nhặt được khoảng vài kg, đem bán cho cửa hiệu kim hoàn được vài chục nghìn đồng. Sau khi gọt giũa thành đồ trang sức, các cửa hàng kim hoàn có thể bán ra với giá gấp hàng trăm.

...nhưng cũng là thảm họa

Với các nhà nghiên cứu về vũ trụ, những viên đá trời nhiều khi chứa đựng thảm họa khó lường.

Theo những ghi chép mới nhất của Spaceguard Foundation (Tổ chức canh gác không gian, ra đời năm 1996, có nhiệm vụ phát hiện tất cả những gì trong không gian có thể gây nguy hiểm cho trái đất), mỗi năm có hàng nghìn tấn đá trời rơi xuống trái đất.

Hiện có ít nhất 1.200 viên đá trời đường kính lớn hơn 1 km và 200.000 viên đường kính trên 100 m đang bay lượn gần trái đất. Ngoài ra còn vô số viên đá mà kính viễn vọng không phát hiện ra. Chúng sẵn sàng rơi xuống trái đất bất cứ lúc nào.

Dù không thể dự đoán chính xác thời gian chúng sẽ “hạ cánh” nhưng con người cũng có thể tính toán được lực tác động của những vụ va chạm. Thường lao xuống trái đất với vận tốc từ 50.000-100.000 km/giờ, một thiên thạch có đường kính 5 m khi chạm đất cũng đủ gây ra một nguồn năng lượng tương đương một quả bom nguyên tử, với đường kính 50 km thì giống như 1.000 quả bom nguyên tử cùng phát nổ.

Và đặc biệt nghiêm trọng là: Theo tính toán, cứ trung bình 500.000 năm thì trái đất sẽ phải hứng chịu một hòn đá trời có đường kính 1-2 km, một vụ va chạm có khả năng giết chết ít nhất 1,5 tỷ người. Người ta nghi ngờ rằng điều này đã xảy ra vào 65 triệu năm trước, làm diệt vong loài khủng long.

Trong khi những nhà sưu tập đá trời luôn mơ ước một món quà từ trên trời rơi xuống thì các nhà khoa học lại đau đầu tìm cách ngăn không cho nó rơi vào trái đất: Nào là phóng tên lửa với những quả bom nguyên tử nhằm phá hủy hay làm chệch hướng rơi của khối đá, làm tan chảy khối đá bằng tia laser ngay từ khi đá trời chuẩn bị tiếp cận trái đất...
 
4

40phamkinhvy

Ôtô màu đen dễ gặp tai nạn nhất


1182740223_blackcar.jpg
Xe màu đen thường dễ gặp tai nạn Ngay giữa ban ngày, người lái những chiếc xe sơn màu đen có nguy cơ gặp nạn cao hơn 12% so với người lái ôtô trắng.
Để tìm hiểu mối liên quan giữa các tai nạn giao thông với 17 màu xe thông dụng, Trung tâm nghiên cứu tai nạn Đại học Monash (Australia) đã săm soi biên bản của cảnh sát trong hơn 855.000 ca tai nạn tại 2 bang của nước này. Họ kết luận, xe màu đen dễ gặp nạn nhất, nguy cơ cao hơn xe trắng đến 12%.

Tiếp theo trong danh sách là ôtô màu xám, xám bạc, xanh da trời và đỏ. Theo các nhà nghiên cứu, nguyên nhân có thể là những màu trên có chỉ số nhìn kém hoặc độ tương phản thấp đối với những yếu tố trên đường.
 
4

40phamkinhvy

Newton dự báo trái đất sẽ chết vào năm 2060


1182533922_newton.jpg

Trong một bức thư viết năm 1704, nhà khoa học danh tiếng người Anh Isaac Newton, cha đẻ của vật lý và thiên văn học hiện đại, dự báo thế giới sẽ diệt vong vào năm 2060.
Bức thư được công bố tại Jerusalem hôm chủ nhật vừa qua.

Là một người theo chủ nghĩa duy lý, người nhận được sự miễn trừ của hoàng gia về việc phải tuân theo những giáo lý của nhà thờ, song Newton lại sử dụng một đoạn kinh thánh làm nền tảng cho dự đoán của mình.

Căn cứ vào các câu thơ trong cuốn Sách tiên tri, tác giả của các định luật kinh điển về hấp dẫn, chuyển động và quang học bình luận rằng thế giới sẽ tận thế vào 1.260 năm sau sự sáng lập của Đế chế La Mã linh thiêng ở tây Âu vào năm 800.

Bức thư, trưng bày tại Đại học Hebrew ở Jerusalem, là một phần của triển lãm mang tên "Những bí mật của Newton", nằm trong số những bài viết mà nhà khoa học danh tiếng để lại cho đời sau, do một nhà sưu tập giầu có trao tặng.

Đại học Hebrew cho biết đây là lần đầu tiên lá thư này được công bố rộng rãi kể từ năm 1969.

Những công trình vào cuối thế kỷ 17 của Newton tại Đại học Cambridge là nền tảng cho khoa học hiện đại, cho đến khi người ta khám phá ra thuyết tương đối và cơ học lượng tử vào cuối thế kỷ trước.

Nhưng nhà vật lý nổi tiếng cũng quan tâm đến các vấn đề mê tín của thời đại ông, những vấn đề từ lâu đã xa rời khỏi khoa học hiện đại. Newton đã dành 4 năm trong thập kỷ 1670 để chuẩn bị tiến hành thuật giả kim - một ý tưởng cho rằng có thể biến các kim loại thông thường thành vàng.
 
4

40phamkinhvy

Vì sao những giọt nước mưa có kích thước khác nhau?

Vì sao những giọt nước mưa có kích thước khác nhau? Vì chúng không rơi xuống từ cùng một độ cao và hình dạng của chúng biến hoá trong quá trình rơi.
Đầu tiên, những tinh thể đá tạo nên các đám mây đều rất nhẹ và nhỏ, từ 2 đến 50 micron (1 micron bằng một phần nghìn milimét). Tác động của các phân tử không khí đủ để chúng nằm lơ lửng. Khi hấp thu hơi nước chung quanh, các tinh thể trở nên khá lớn và rơi xuống. Từ độ cao 300 mét, không khí nóng hơn làm cho chúng tan rã và tạo nên những hạt mưa bụi hình cầu có đường kính 400 micron. Những giọt nước nhỏ đó sẽ lớn lên do va chạm trong khi rơi, giọt lớn hút giọt nhỏ. Khối lượng của chúng tăng từ 500 micron tới 5 milimét. Từ 6 milimét tới mức tối đa tốc độ rơi lại tách chúng ra thành những giọt nhỏ hơn.
 
4

40phamkinhvy

Dùng lửa để dập lửa như thế nào?


1154235676_fire.jpg
Lửa Có lẽ bạn từng nghe nói, phương pháp tốt nhất, có lẽ là duy nhất, để chống lại trận cháy rừng hoặc cháy đồng cỏ là đốt rừng hoặc đồng cỏ về phía ngược lại. Ngọn lửa mới đi về phía bể lửa đang cuộn dâng, cướp đoạt "thức ăn" của nó. Hai bức tường lửa gặp nhau, lập tức tắt ngay, tựa như nuốt chửng nhau vậy.
Dưới đây là đoạn trích trong cuốn tiểu thuyết “Đồng cỏ” của nhà văn Kupe, mô tả cảnh ông già bẫy muông thú cứu những người khách du lịch đang mắc nghẽn trong đám cháy trên đồng cỏ châu Mỹ:

"Đột nhiên ông già tỏ thái độ cương quyết.

- Đến giờ hành động rồi - Ông nói.

- Ông hành động quá muộn rồi, ông già đáng thương ạ! - Mitliton thốt lên - Lửa chỉ còn cách chúng ta một phần tư dặm thôi, và gió đang táp những ngọn lửa đó về phía ta với một vận tốc kinh người.

- À, ra thế! Lửa! Ta không thể sợ lửa. Nào các cháu! Xắn tay áo lên, cắt ngay cái đám cỏ khô này đi, để làm trơ ra một khoảng đất trống.

Trong một khoảng thời gian rất ngắn, họ đã cắt trụi được một khoảng đất đường kính 6 mét. Ông già dẫn các cô gái đến một góc của khoảng đất trống không lớn lắm đó và bảo họ lấy chăn che những quần áo dễ cháy. Sau khi đã phòng bị xong xuôi rồi, ông chạy đến góc bãi trống đối diện, nơi mà ngọn lửa man rợ, cao ngất đang điên cuồng tấn công họ, ông lấy một nắm cỏ khô nhất đặt lên giá súng rồi đốt. Nắm cỏ khô dễ cháy lập tức bùng lên. Ông già ném nắm cỏ này vào trong bụi cây cao, rồi trở về giữa bãi trống, kiên tâm chờ đợi kết quả hành động của mình. Ngọn lửa do ông già ném tới đã tham lam ngấu nghiến hết những cây khô, chỉ trong chớp mắt nó đã lan sang đám cỏ…

Lửa cháy càng ngày càng to, bắt đầu lan về ba phía. Nhưng ở phía thứ tư thì nó bị mảnh đất trống cản lại. Lửa cháy càng dữ, chỗ đất trống xuất hiện ở phía trước cũng càng được mở rộng... Sau mấy phút đồng hồ, ngọn lửa ở tất cả mọi phía đều lùi đi, chỉ còn lại những đám khói dày đặc bao vây mọi người, nhưng họ đã thoát khỏi nguy hiểm vì ngọn lửa đã điên cuồng tiến lên phía trước..."

Tuy nhiên, cái phương pháp dập tắt những đám cháy không đơn giản như lúc thoạt nhìn đâu. Chỉ những người rất có kinh nghiệm mới có thể dùng phương pháp đốt lửa đón đầu để dập tắt lửa, nếu không càng đem lại những tai họa lớn hơn.

Nếu bạn suy nghĩ câu hỏi dưới đây, tất bạn sẽ thấy rõ vì sao làm việc đó cần phải có nhiều kinh nghiệm: Tại sao ngọn lửa do ông già đốt lên lại có thể cháy đi đón lửa mà không cháy theo phía ngược lại? Bởi vì gió từ phía đám cháy thổi tới, và đã đem bể lửa về phía những người lữ khách cơ mà! Nếu thế thì tưởng chừng như ngọn lửa do ông già đốt lên sẽ không cháy đi đón bể lửa mà sẽ cháy lùi về phía sau theo đồng cỏ. Nếu quả thật thế thì các hành khách không tài nào tránh khỏi bị thiêu chết.

Rúc cục, ông già bẫy muông thú có bí quyết gì? Bí quyết là ở chỗ hiểu một định luật vật lý đơn giản. Tuy gió từ phía đồng cỏ đang cháy thổi về phía những người lữ khách, nhưng ở phía trước, ngay gần ngọn lửa, phải có một dòng không khí thổi ngược trở lại.

Thực tế, không khí ở phía trên biển lửa sau khi nóng lên thì nhẹ đi và bị không khí mới ở tất cả mọi phía (nơi chưa bắt cháy) đẩy lên phía trên. Do đó ta thấy, ở cạnh biên giới của lửa nhất định có dòng không khí hút về phía ngọn lửa. Vì thế, phải bắt tay đốt lửa để đón lửa, khi đám cháy lan gần đến nỗi đã cảm thấy có dòng không khí hút đó.

Đây cũng là lý do tại sao ông già bẫy muông thú không vội vàng đốt lửa mà bình tĩnh chờ thời cơ thích hợp. Nếu luồng không khí đó chưa xuất hiện mà đã sớm đốt cỏ thì lửa sẽ cháy lan theo phương ngược lại, khiến mọi người ở vào một tình thế vô cùng nguy hiểm. Nhưng cũng không được hành động quá chậm, bởi vì lửa sẽ xô tới quá gần.
 
4

40phamkinhvy

Cho tôi một điểm tựa, tôi có thể nâng được Trái Đất không?


1153359925_achimede.jpg
Acsimet- nhà khoa học dũng cảm “Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nhấc bổng trái đất lên!” -tục truyền đó là lời của Acsimet, một nhà cơ học thiên tài thời cổ, người đã khám phá ra các định luật về đòn bẩy. Nhưng bạn có biết muốn nâng một vật nặng bằng trái đất lên cao dù chỉ 1 cm thôi, Acsimet sẽ mất bao nhiêu thời gian không? Không dưới ba mươi nghìn tỷ năm!
Có lần Acsimet viết thư cho vua Hieron ở thành phố Xiracudo, là người đồng hương và cũng là bạn thân của ông rằng, nếu dùng đòn bẩy, thì với một lực dù nhỏ bé đi nữa, cũng có thể nâng được một vật nặng bất kỳ nào: chỉ cần đặt vào lực đó một cánh tay đòn rất dài của đòn bẩy, còn vật nặng thì cho tác dụng vào tay đòn ngắn. Và để nhấn mạnh thêm điều đó, ông viết thêm rằng nếu có một trái đất thứ hai, thì bước sang đấy ông sẽ có thể nhấc bổng trái đất của chúng ta lên.

Nhưng, giá như nhà cơ học thiên tài thời cổ biết được khối lượng của trái đất lớn như thế nào thì hẳn ông đã không “hiên ngang” thốt lên như thế nữa. Ta hãy thử tưởng tượng trong một lát rằng Acsimet có một trái đất thứ hai, và có một điểm tựa như ông đã muốn; rồi lại tưởng tượng thêm rằng ông đã làm được một đòn bẩy dài đến mức cần thiết. Nhưng kể cả khi đã có mọi thứ, muốn nâng trái đất lên cao dù chỉ 1 cm thôi, Acsimet sẽ phải bỏ ra không dưới ba vạn tỷ năm! Sự thật là như thế đấy. Khối lượng của trái đất, các nhà thiên văn đã biết, tính tròn là:

60 000 000 000 000 000 000 000 000 N

Nếu một người chỉ có thể trực tiếp nâng bổng được một vật 600 N, thì muốn “nâng trái đất” lên, anh ta cần đặt tay của mình lên tay đòn dài của đòn bẩy, mà tay đòn này phải dài hơn tay đòn ngắn gấp:

100 000 000 000 000 000 000 000 lần!

Làm một phép tính đơn giản bạn sẽ thấy rằng khi đầu mút của cánh tay đòn ngắn được nâng lên 1cm thì đầu mút kia sẽ vạch trong không gian một cung “vĩ đại”, dài: 1 000 000 000 000 000 000 km. Cánh tay Acsimet tỳ lên đòn bẩy phải đi qua một đoạn đường dài vô tận như thế chỉ để nâng trái đất lên 1 cm ! Thế thì ông sẽ cần bao nhiêu thời gian để làm công việc này? Cho rằng Acsimet có đủ sức nâng một vật nặng 600 N lên cao một mét trong một giây (khả năng thực hiện công gần bằng 1 mã lực!) thì muốn đưa trái đất lên 1 cm, ông ta phải mất một thời gian là:

1 000 000 000 000 000 000 000 giây, hoặc ba vạn tỷ năm!

Acsimet dành suốt cả cuộc đời dài đằng đẵng của mình cũng chưa nâng được trái đất lên một khoảng bằng bề dày của một sợi tóc mảnh….

Không có một thứ mưu mẹo nào của nhà phát minh thiên tài lại có thể nghĩ ra cách rút ngắn khoảng thời gian ấy được. “Luật vàng của cơ học" đã nói rằng bất kỳ một cái máy nào, hễ làm lợi về lực thì tất phải thiệt về đường đi. Vì thế, ngay như Acsimet có cách để làm cho cánh tay mình có được vận tốc lớn nhất có thể trong tự nhiên là 300.000 km/s (vận tốc ánh sáng) thì với cách giả sử quãng đường này, ông cũng phải mất 10 vạn năm mới nâng được trái đất lên cao 1 cm!
 
4

40phamkinhvy

cái gì mỏng nhất?


bóng bóng xà phòng: mỏng nhất trong tự nhiên? Không mấy ai biết rằng màng bong bóng xà phòng là một trong những vật mỏng nhất mà mắt thường có thể nhìn thấy được. Những vật mà người ta thường dùng để ví với sự mỏng manh thật vô cùng thô kệch so với nó...


“Mảnh như sợi tóc”, “mỏng như tờ giấy thuốc lá”, thì cũng còn là dày ghê gớm so với màng xà phòng. Màng xà phòng mỏng hơn sợi tóc và tờ giấy cuộn thuốc lá tới 5.000 lần.

Khi phóng đại lên 200 lần, sợi tóc người có bề dày chừng 1cm, nhưng thiết đồ của màng xà phòng vẫn chưa nhìn thấy bằng mắt thường được. Phải phóng đại thêm lên 200 lần nữa, tức là phóng đại cả thảy lên 40.000 lần thì mới nhìn thấy thiết đồ của màng xà phòng thành một đường mảnh; bấy giờ sợi tóc đã có bề dày trên 2 mét rồi.

Tiếp theo có lẽ phải kể đến phần dầu loang trên mặt hồ. Để biết rõ lớp dầu đó dầy đến thế nào, ta phải quan sát màu mà ta nhìn thấy trên mặt hồ. Do hiện tượng giao thoa bản mỏng, trên các lớp dầu sẽ xuất hiện màu. Dựa vào màu sắc ( thực ra là bước sóng) góc nhìn, ta có thể xác định được bề dày của nó. Tính toán có thể thấy rằng độ dầy này chỉ gấp vài lần bước sóng ánh sáng!!!
Dầu loang có thể chưa bằng màng bong bóng ( có những màng mà độ dày chỉ cỡ bước sóng ) song cũng là một loại mỏng hàng đầu trong thiên nhiên.
Vậy màng xà phòng có độ dày cỡ bao nhiêu phân tử ?Màng xà phòng có độ dày cỡ bao nhiêu phân tử? Vậy phân tử xà phòng có độ dày là bao nhiêu? Câu hỏi này khó, bởi vì nó còn phụ thuộc vào đặc điểm của phân tử, đặc điểm liên kết ... Tuy vậy, có thể đoán rằng độ dày của màng xà phòng lớn hơn cỡ độ dày của phân tử, vì phần lớn vẫn có sự giao thoa bản mỏng với ánh sáng thấy được, còn với phân tử bình thường, chuyện đó là không thể.
 
4

40phamkinhvy

Đoán tuổi qua ảnh mắt đỏ

Chụp ảnh Hãng sản xuất máy ảnh Kodak đang áp dụng một công nghệ - vốn dùng để tự động điều chỉnh hiệu ứng mắt đỏ trong các bức ảnh số - để xác định tuổi của một người nào đó. Đây có thể là tin xấu cho những ai muốn giấu tuổi của mình.
Nhóm nghiên cứu từ phòng thí nghiệm của công ty ở Rochester, New York, cho rằng công nghệ này có thể đem lại một cách nhanh chóng và dễ dàng để kiểm tra ngày sinh của ai đó.

Hiệu ứng mắt đỏ xảy ra khi đồng tử của một người mở to cho phép ánh sáng đèn máy ảnh phản xạ trên võng mạc của họ. Phần mềm chữa mắt đỏ sẽ phân tích bức ảnh, tìm kiếm các cặp chấm đỏ ở tâm khuôn mặt, và tự động làm mờ nó đi để loại bỏ hiệu ứng.

Bằng sáng chế của Kodak đề cập đến một nghiên cứu trước đây, theo đó có một mối liên hệ giữa tuổi đời và sự tương tác của đồng tử với ánh sáng. Khi một người già đi, đồng tử của họ gặp khó khăn trong việc mở to để tiếp thu những ánh sáng yếu.

Kodak cho rằng một hệ thống nhận dạng tuổi có thể lấy ảnh chứng minh thư của một người được chụp từ một khoảng cách xa trong tầm sáng có kiểm soát. Phần mềm sau đó sẽ đo kích cỡ chấm đỏ trong mắt họ và xác định độ mở rộng của đồng tử, cuối cùng đưa ra ước tính về tuổi.

Mặc dù bằng sáng chế này không cho biết độ chính xác của hệ thống, nhưng phỏng đoán độ chính xác có thể tăng lên nếu kết hợp với việc xét các nếp nhăn và màu tóc trong ảnh.
 
4

40phamkinhvy

Lực hấp dẫn - dây cáp vô hình siêu khoẻ


Bạn hãy thử tưởng tượng, không biết vì cớ gì lực hút của mặt trời bỗng nhiên biến mất. Và trái đất, thay vì quay trên quỹ đạo, lại có nguy cơ trôi dạt vào vũ trụ mênh mông. Lúc đó, các kỹ sư quyết định dùng những dây thép nối mặt trời với hành tinh của chúng ta. Sản phẩm tạo ra là một rừng cột thép...

Cái gì có thể bền hơn thép - loại vật liệu có khả năng chịu được sức căng 1000N/mm2? Vật liệu tốt nhất để giữ chặt trái đất chạy xung quanh mặt trời ắt phải là những dây thép.

Bạn hãy hình dung ra một cột thép khổng lồ đường kính là 5 mét. Tiết diện ngang của nó tính tròn là 20 000 000 mm2, do đó cột này chỉ có thể bị kéo đứt bởi một vật nặng 20 000 000 000N.

Bạn hãy tưởng tượng thêm rằng cột thép đó nối liền trái đất với mặt trời. Bạn có biết là phải dùng bao nhiêu cột thép rắn chắc như thế mới giữ cho trái đất chuyển động theo quỹ đạo của nó không. Phải hàng triệu triệu cột. Để hình dung được cụ thể cái “rừng” cột thép căng chi chít ở các lục địa và đại dương, xin nói thêm rằng nếu phân bố đều các cột thép đó trên khoảng một nửa địa cầu hướng về phía mặt trời, thì khoảng cách giữa chúng chỉ hơi rộng hơn đường kính của cột một ít.

Bạn hãy hình dung ra cái lực cần thiết để làm đứt cả một “rừng” thép khổng lồ này, và bạn sẽ quan niệm được sự vĩ đại của lực hấp dẫn vô hình giữa trái đất và mặt trời.

Thế mà toàn bộ lực vĩ đại đó lại chỉ biểu lộ ra ở chỗ, khi nó làm cong đường đi của trái đất, thì mỗi giây nó bắt trái đất phải lệch khỏi tiếp tuyến của mình một khoảng 3 mm. Nhờ đó mà quỹ đạo của hành tinh chúng ta trở thành một đường cong kín, hình bầu dục.

Liệu như thế không lạ hay sao: muốn cho trái đất mỗi giây lệch đi 3 mm mà phải cần tới một lực khổng lồ đến thế! Điều đó chỉ chứng tỏ rằng, khối lượng của quả địa cầu to lớn đến nhường nào, vì ngay cả một lực khổng lồ như vậy mà cũng chỉ làm nó chuyển dời một khoảng cách nhỏ bé không đáng kể
 
4

40phamkinhvy

Sóng biển


1187846431_Image%20Wave_kils.jpg

Sóng biển là hiện tượng diễn ra ở lớp nước gần mặt biển. Sóng thường hình thành do gió và những hiệu ứng địa chất, và có thể di chuyển hàng nghìn kilomet trước khi đến đất liền. Kích cỡ sóng biến đổi từ những gợn sóng lăn tăn đến những cơn sóng thần cực lớn. Ngoài dao động thẳng đứng, các hạt nước trong sóng biển có một chút chuyển động theo phương ngang.
Sóng biển là hiện tượng diễn ra ở lớp nước gần mặt biển. Sóng thường hình thành do gió và những hiệu ứng địa chất, và có thể di chuyển hàng nghìn kilomet trước khi đến đất liền. Kích cỡ sóng biến đổi từ những gợn sóng lăn tăn đến những cơn sóng thần cực lớn. Ngoài dao động thẳng đứng, các hạt nước trong sóng biển có một chút chuyển động theo phương ngang.

Sự hình thành của sóng:
Nguyên nhân chủ yếu cho sự hình thành của sóng là gió, có 3 yếu tố của gió ảnh hưởng đến sóng:
- Tốc độ gió
- Độ dài mặt mà trong đó nước chịu ảnh hưởng của gió
- Thời gian nước bị gió thổi
Tất cả những yếu tố trên góp phần tạo nên sóng với kích thước và hình dạng khác nhau. Giá trị của từng yếu tố càng lớn đều làm cho sóng lớn hơn.
Sóng được đo bởi:
- Độ cao (từ đỉnh đến chỗ lõm)
- Bước sóng (khoảng cách giữa các đỉnh)
- Chu kì sóng (khoảng thời gian giữa các ngọn sóng liên tiếp ở một điểm cố định)

Các dạng của sóng:
Sóng có nhiều dạng:
- Sóng mao dẫn:
Thường thấy trên mặt nước phẳng lặng bị sao động bởi hòn đá, chiếc lá,... Sóng này biến mất nhanh chóng khi tác nhân gây ra sóng ngừng hoạt động. Sóng này có bước sóng quá nhỏ nên có thể mô tả tốt nếu chỉ bằng hiệu ứng sức căng mặt ngoài. Ngoài ra khi 2 ngọn sóng loại này đâm vào nhau thì hiện tượng tuân theo nguyên lí chồng chập sóng, tức là các ngọn sóng không ảnh hưởng gì đến nhau, ở vị trí chồng chập xảy ra giao thoa. Bước sóng của sóng này vào cỡ

84bc117a14b76b37832367d2ded23624.png
Trong đó γ là suất căng mặt ngoài, ρ là khối lượng riêng. Với nước λc = 1,7cm.
- Sóng biển
Dạng sóng này có kích thước lớn hơn, hình thành dưới tác dụng kéo dài của gió. Và tồn tại khá lâu sau khi gió kết thúc. Lực khôi phục sóng này là lực hấp dẫn.
Ta thường nhiền thấy sóng biển vỡ tan thành bọt khi vào bờ. Đó là khi chân sóng không thể đỡ được ngọn sóng. Hiện tượng này xảy ra mỗi khi sóng đi vào vòng nước nông hơn, hoặc khi 2 ngọn sóng đâm vào nhau (đây là điểm khác nhau giữa sóng biển và sóng mao dẫn).


Khoa học về sóng biển
Sóng biển là sóng cơ học lan truyền giữa mặt phân cách của nước và không khí, lực khôi phục của dao động này là lực hấp dẫn. Khi gió thổi, áp suất và ma sát làm xáo động bề mặt. Trong trường hợp sóng biển, các hạt ở gần mặt nước chuyển động theo một đường tròn, do đó sóng này là sự kết hợp của sóng dọc và sóng ngang. Khi sóng lan truyền trong vùng nước nông (độ sâu nhỏ hơn nửa bước sóng), quỹ đạo của các hạt nước bị nén thành dạng elip . Khi biên độ sóng tăng lên, quỹ đạo của hạt nước không còn là đường kín nữa mà sau mỗi chu kì chúng bị dịch về phía trước một ít, hiện tượng này gọi là dịch chuyển Stokes.


Đường kính quỹ đạo các hạt giảm khi độ sâu ngày càng tăng và ở độ sau cỡ nửa bước sóng, quỹ đạo này co lại gần như một điểm. Vận tốc sóng được xấp xỉ tốt bằng phương trình:
934b46286f005ad8568efae5effb66a4.png
c: vận tốc phaλ: bước sóngd: độ sâuỞ nơi nước sâu d>> (1/2)λ, c xấy xỉ
4f08fa2a922b77a8a37ca74fa4e531a9.png
. Điều này cho thấy vận tốc pha của sóng phụ thuộc vào bước sóng. Khi sóng đi vào vùng nước nông, do ma sát, phần nước cang thấp di chuyển càng chậm dẫn tới các lớp nước lướt trên nhau, sóng bị vỡ, với những con sóng lớn ta có thể thấy sóng đổ xuống rất đẹp (niềm đam mê của những người yêu lướt sóng).Ngoài những sóng thông thường trên, sóng thần là một con quái vật của tự nhiên, nó có thể cao đến 30 m. Sóng thần hình thành do động đất, những vụ nổ trong lòng đại dương hoặc một vụ va chạm với thiên thạch,...
 
4

40phamkinhvy

Bốn lực cấu tạo vũ trụ !

Lực hấp dẫn
Chất keo dính của vũ trụ

Lực hấp dẫn ngự trị trong thế giới vĩ mô. Vai trò của nó trên trái đất đã đuợc nhận ra ngay từ những tiếng bập bẹ đầu tiên của loài nguời: tất ca các vật đều rơi từ cao xuống thấp. Trong vũ trụ của Aristote vào thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên, chuyển động thẳng đứng này chỉ đặc trưng cho thế giới không hoàn hảo của trái đất và mặt trăng.Thế giới hoàn hảo của các hành tinh khác, của mặt Trời và các ngôi sao có chuyển động tròn lý tưởng và không bị lực hấp dẫn chi phối. Khái niệm hấp dẫn của vũ trụ , tức là hấp dẫn tác động đến toàn bộ vũ trụ, chỉ xuất hiện cùng với Newton vào thế kỷ 17. Lực hấp dẫn chinh là chất "keo dính" của vũ trụ. Nó hút các vật này về phía các vật khác. Nó giữ cho chúng ta ở trên mặt đất, giữ cho mặt Trăng quay quanh trái Đất và các hành tinh quay xung quanh mặt Trời, giữ cho các ngôi sao ở trong thiên hà và các thiên hà trong các đám thiên hà. Nếu loại bỏ lực hấp dẫn đi, chúng ta sẽ trở nên trôi nổi trong không gian. Mặt Trăng và các hành tinh cùng các ngôi sao sẽ tan tác trong khoảng bao la của vũ trụ.

Không có gì có thể thoát được ành hưởng của hấp dẫn. Tất cả những gì là khối lượng hay năng lượng đều phải tuân theo luật lệ của nó. Nhưng có điều nghịch lý là, mặc dù có ảnh hưởng rộng khắp như vậy, nhưng lực hấp dẫn lại cực kỳ yếu. Nó là lực yếu nhất trong số bốn lực của tự nhiên. Ở mức độ của hạt sơ cấp, lực này nhỏ không đáng kể. Nguyên tử hydrogen, nguyên tử đơn giản nhất và cũng là nguyên tử nhẹ nhất trong số tất cả các nguyên tố của vũ trụ, gồm có một electron liên kết với một proton. Lưc hấp dẫn giữa electron và proton nhỏ hơn lực điện giữa hai hạt đó cỡ 1040 (1 và 40 con số 0 tiếp theo) lần. Nguyên tử hydrogen cũng rất nhỏ (cỡ 10-8 cm = 0,00000001 cm) vì lực điện đủ mạnh để kéo electron lại gần proton. Nếu loại bỏ lực điện đi, và chỉ để lại lực hấp dẫn, thì nguyên tử hydrogen sẽ phồng to cho tới khi chiếm toàn bộ vũ trụ. Lực hấp dẫn yếu tới mức không thể hút giữ cho electron ở cách proton một khoảng nhỏ hơn vài chục tỉ năm ánh sáng

Cường độ của lực hấp dẫn phụ thuộc vào khối lượng của hai vật liên quan. Sở dĩ lực hấp dẫn giữa proton và electron yếu cũng là do khối lượng cực kỳ nhỏ của electron (10-17 g, con số khác không đầu tiên đứng sau 27 con số 0) và của proton, mặc dù proton lớn gấp 2000 lần electron. Do sự cực kỳ yếu và ít quan trọng của lực hấp dẫn ở thang nguyên tử, nên chỉ còn cách áp dụng cho nó câu ngạn ngữ: "đoàn kết tạo sức mạnh". Vì chỉ một hạt không đủ nặng để thể hiện được ảnh hưởng của mình nên nó phải thể hiện thông qua các vật lớn hơn và có khối lượng lớn hơn, chứa một số rất lớn các hạt đó. Con số này lớn tới mức khó tưởng tượng nổi khi người ta biết rằng 1 gam nước chứa tới khoảng 1024 hạt. Thậm chí ở thang các vật trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta lực hấp dẫn vẫn chưa đáng kể. Bạn (giả sử nặng 70 ký) không hề cảm nhận được lực hấp dẫn mà người đối thoại với bạn (giả sử người đó nặng 50 ký) tác dụng lên cảm thấy bị "hút" về phía người đó thì hoàn toàn không phải là do lực hấp dẫn mà là do một cái gì đó khác.. Khi bạn đi qua một tòa nhà lớn nặng hàng tấn bạn cũng không hề nhận thấy nó bị hút áp vào những bức tường của nó. Cần phải có những dụng cụ cực kỳ tinh xảo mới có thể đo được ảnh hưởng hấp dẫn của một tòa nhà lớn. Chỉ ở thang thiên văn lực hấp dẫn mới thực sự cảm nhận được và mới có tiếng nói của nình. Khối lượng lớn của trái Đất (cỡ 6 x 1027 g) đã giữ cho chúng ta khỏi phải nổi trôi trong không gian, như các nhà du hành trong khoang con tàu vũ trụ và giữ cho mặt Trăng không trôi dạt ra xa trái đất. Mặt Trời (nặng 1033 g), các ngôi sao (nặng cỡ 1033 g), các thiên hà (1045 g), các cụm thiên hà (1046 g), các đám thiên hà 1048 g) và cuối cùng, vũ trụ (?) tạo nên các nấc thang tăng dần về khối lượng và một vương quốc mở rộng mãi mãi trong đó lực hấp dẫn ngự trị với tư cách một ông chủ độc tài.
[Isaac Newton 1642-1727: Lực hấp dẫn ] [Barnard Faraday 1791-1867: Lực điện từ] [Joyce Yukawa 1907-1981: Lực tương tác hạt nhân mạnh] [Enrico Fermi 1901-1954: Lực tương tác hạt nhân yếu]


Lực Điện từ
Chất keo dính của các nguyên tử

Như chúng ta đã thấy, lực điện từ mạnh hơn lực hấp dẫn. Sức mạnh của lực điện từ làm cho một thanh nam châm dễ dàng hút được một chiếc đinh bất chấp lực hấp dẫn của toàn bộ khối lượng Trái Đất tác dụng lên nó. Lực điẹn từ tạo nên các nguyên tử bằng cách buộc các electron (mang điện tích âm)vào các hạt nhân. Một hạt nhân nguyên tử là một tâp hợp các loại protn (mang điện dương) và các neutron (hạt có khối lượng gần bằng proton, nhưng không mang điện, như tên của nó đã chỉ rõ) đươc liên kết với nhau bằng lực hạt nhân mạnh. Như vậy, chỉ cần cộng các điện tích dương của proton là ta có được điện tích dương của hạt nhân.

Trong thế giới điện tử, người ta được biết khi trên danh thiếp của mình có ghi điện tích dương hoặc âm. Bởi vì trái với lực hấp dẫn -lực tác dụng lên tất cả các khối lượng hoặc năng lượng-, lực điện từ có sự phân biệt rõ ràng. Tất cả những hạt không có điện tích, chẳng hạn như hạt ánh sáng (photon) hoặc hạt neutron đều bị loại ra và không thèm biết tới. Đối với những hạt mang điện, lực điện từ áp đặt cho chúng những quy tắc ứng xử rất nghiêm ngặt: các điện tích trái dấu hút nhau và điện tích cùng dấu đẩy nhau. Một proton và một electron sẽ hút nhau, nhưng hai proton sẽ đẩy nhau. Trái với lực hấp dẫn chỉ có hút, lực điện từ có thể hút hoặc đẩy tuỳ thuộc vào điện tích.

Miền tác dụng của lực điện từ không chỉ ngừng lại trong thế giới nguyên tử. Nó can thiệp vào cả việc tạo ra những cấu trúc phức tạp hơn. Nó gắn các nguyên tử lại bằng cách buộc chúng phải chia sẻ các electron của mình để tạo nên các phân tử. Ví dụ, để tạo nên phân tử nước, lực điện từ gắn hai nguyên tử hydro với một nguyên tử oxy. Rồi nó lại đẩy cho các phân tử kết hợp với nhau thành những chuỗi dài mà biểu hiệu cao nhất của chúng là các chuỗi xoắn kép ADN, cho phép có sự sống và di truyền nó. Do vậy, lực điện từ -chất keo gắn các nguyên tử- chính là nhân tố chủ yếu tạo ra sự cố kết, sự cứng rắn và vẻ đẹp của những vật xung quanh chúng ta. Thiếu nó, Trái Đất không còn là rắn nữa, bộ xương của bạn sẽ không còn mang nổi cơ thể bạn, và bàn tay bạn có thể dễ dàng cắt ngang qua những trang giấy của quyển sách này. Vẻ đẹp cua những hình khối điêu khắc của Rodin, những đường con tuyệt mỹ trên cơ thể người phụ nữ hay những đường nét mảnh mai và tinh tế của đóa hồng, biết bao những khoái cảm thẩm mỹ đó đều do lực điện từ mang đến cho chúng ta. Thiếu nó, thế giới sẽ không còn những hình khối và trở nên tẻ nhạt. Nếu chỉ bỏ mặc cho mỗi một lực hấp dẫn thôi, thì các nguyên tử sẽ có những kích thước khổng lồ và các ngôi sao chỉ là những hạt nhân to tướng gồm toàn các proton hoặc neutron.

Cũng như lực hấp dẫn, lực điện từ yếu dần theo quy luật tỷ lệ nghịch với bình phương khoảng cách giữa hai hạt tích điện. Nhưng, trái lại với lực hấp dẫn -lực che đậy sự yếu ớt của mình ở thang lớn bằng cách cộng ngày càng nhiều khối lượng- lực điện từ lại phụ thuộc vào độ lớn điện tích mà đại lượng này rất khó làm cho tăng được. Bởi vì, nếu các điện tích dương được cộng lại và các điện tích âm bị trừ đi khiến cho đa số các vật trong vũ trụ đều trung hòa về điện, thì chúng sẽ không có điện tích tổng cộng. Cuốn sách, cái ghế, ngôi nhà, Mặt Trời, các ngôi sao, các thiên hàvà có thể cả vũ trụ nữa đều là trung hòa về điện. Lực điện từ không có ảnh hưởng gì đối với chúng. Vì vậy, sức mạnh của lực điện từ nói chung chỉ giới hạn trong thế giới nguyên tử. nó để mặc cho lực hấp dẫn cai quản cả vũ trụ bao la.

Như tên của nó đã chỉ rõ, lực điện từ có bản chất kép. Nó hút hoặc đẩy chiếc đinh dính vào nam châm do lực từ của nó. Hai mặt này của lực điện từ liên hệ khắng khít với nhau. Mặt này không tách rời khỏi mặt kia. Một điện tích chuyển động sinh ra một lực từ. Một từ trường biến thiên lại gây ra dòng điện. Từ trường của Trái Đất làm cho kim la bàn của nhà thám hiểm chỉ về cực Bắc là kết quả của chuyển động các hạt tích điện (các proton và electron) trong vùng tâm Trái Đất. Những vùng này nóng và bị nén mạnh bởi áp lực của các lớp ngoài của vỏ Trái Đất tới mức tâm Trái Đất không còn rắn nữa mà ở trạng thái magma và dung nham lỏng trong đó vật chất được phân tách thành các proton và electron. Cũng tương tự nhu vậy, từ trường của Mặt Trời, của các sao hoặc của Ngân Hà đều là kết quả của những chuyển động của vật chất đã được phân tách thành các điện tích.

Sự kết nối khắng khít giữa điện và từ đã được các nhà vật lý người scotland là James Maxwell thực hiện vào năm 1864
Lực yếu
Lực gây phân rã

Vật chất nói chung không phải là vĩnh cửu. Trong số hàng trăm hạt "sơ cấp" tạo nên vật chất có rất ít hạt bất tử. Xếp vào hàng những hạt bất tử hiếm hoi đó là electron, photon và một hạt trung hòa có khối lượng bằng không hoặc cực kỳ nhỏ bé có tên là neutrino. Còn lại tất cả các hạt khác đều sống trọn cuộc đời mình rối chết. Ngay cả proton cũng chỉ mon men tới cõi bất tử (tuy nhiên cuộc đời của nó rất dài, ít nhất cũng tới hàng ngàn tỉ tỉ tỉ năm (1032năm). Cái chết của một hạt sơ cấp được thể hiện ở sự phân rã của nó thành các hạt khác. Quá trình này sẽ tiếp diễn cho tới khi hoàn toàn biến hóa thành các hạt bất từ hay còn gọi là các hạt bền.

Lực điều khiển phân rã và biến hóa này là lực có biệt danh là "yếu". Như tên của nó đã chỉ rõ, lực này không mạnh lắm. Mặc dù vẫn lớn hơn lực hấp dẫn nhiều, nhưng lực này yếu hơn lực điện từ tới 1000 lần. Miền tác dụng của nó cũng rất nhỏ. Nó chỉ có sức mạnh trong thế giới nguyên tử, tức là trên những khoảng cách cỡ 10-16 cm. Trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, lực này ẩn kín tới mức người ta phát hiện ra nó một cách tình cờ. Vào một đêm năm 1896, nhà vật lý người Pháp Henri Becquerel tình cớ đặt một tấm kính ảnh vào ngăn kéo cạnh các tinh thể sulfat uranium. Hôm sau khi ông quay lại thì một lớp màn bí mật đã phủ lên tấm kính ảnh. Nghiên cứu kỹ, ông phát hiện ra rằng các nguyên tử uranium đã phân rã thành các hạt khác làm đen kính ảnh. Ông gọi quá trình phân rã là "phóng xạ".

Lực yếu chiếm một vị trí khá cách biệt trong bộ bốn lực: ngoài tính yếu của nó ra, nó còn được dùng để "gắn kết" các hạt như các lực khác. Nó an phận làm cho vật chất chết đi bằng cách bắt phải phân rã. Nếu như lực này biến mất thì nó cũng không khiến cho người ta cảm nhận sự thiếu vắng ngay tức khắc. Mặt Trời khi đó sẽ tắt sau vài triệu năm (thay vì cả chục tỷ năm) bởi vì lực yếu gây ra một số phản ứng hạt nhân trong lòng Mặt Trời, những phản ứng hạt nhân cung cấp năng lượng và tuổi thọ cho nó. Nhưng, trên hết, vật chất sẽ sống lâu hơn. Vũ trụ khi dó sẽ nhan nhản đủ các loại hạt lạ lùng và kỳ quặc cùng chung sống với các loại hạt electron, photon và proton quen thuộc. Một hóa học mới và xa lạ, một sự sống phức tạp khác biệt với sự sống của chúng ta (sự sống dựa trên hóa học của carbon) có thể sẽ nảy nở và phát triển.
Lực mạnh
Chất keo dính của các hạt:

Các hạt nhân nguyên tử là tập hợp của các hạt proton và neutron. Tất cả các proton đều mang cùng một điện tích dương. Lực điện tử ra lệnh cho chúng phải đẩy nhau, thế mà chúng vẫn ương bướng tụ tập trong các hạt nhân nguyên tử. Cần phải có một lực mạnh hơn lực điện từ rất nhièu và chống lại lực này để giữ cho các proton hợp lại và là chất keo dính của chúng. Đây là lực "mạnh", mạnh nhất trong bốn lực. Nó mạnh hơn lực điện từ tới 100 lần. Vương quốc của nó, cũng chính là vương quốc của lực yếu, là rất nhỏ bévà ảnh hưởng của nó chỉ có tác dụng trên những khoảng cách trong nguyên tử, tức là cỡ 10-13 cm. Lực này cũng có tính chọn lọc, nó chỉ tác dụng lên các hạt nặng như proton và neutron chứ không đếm xỉa tới các hạt nhẹ như electron, photon và neutrino. Khái niệm nặng nhẹ ở đây chỉ có tính chất tương đối. Proton và neutron thực tế chẳng nặng là baọ10-24 g) nhưng dù sao chúng cũng nặng hơn gấp 1836 lần electron. Người ta còn chưa biết chính xác khối lượng của neutrino, nhưng chắc chắn là nó nhỏ hơn nhiều khối lượng của electron. Còn đối với photon, nó không có khối lượng. Xứ mù anh chột làm vua mà!
 
4

40phamkinhvy

Chạy trên mặt nước


Loài giông Jesus Christ Từ xưa tới nay, con người luôn có một khao khát được bước đi tự do trên mặt nước. Mặc dù có không ít người có thể chạy trên mặt nước trên thế giới, xong nguyên nhân và cách thức để chuyển động trên mặt nước quả thật vẫn còn khá bí ấn và còn nhiều điều lý thú chưa được biết. Câu lạc bộ Vật Lý & Tuổi Trẻ của trường Hà Nội - Amsterdam xin gửi tới các bạn nghiên cứu về chuyển động trên mặt nước của một loài giông" nổi tiếng" - loài giông Jesus Christ và các biểu thức toán học liên quan để mô tả cách thức di chuyển của nó.
1.jpg






2.jpg

3.jpg

4.jpg

5.jpg
 
4

40phamkinhvy

Bong bóng mưa


Trong cơn mưa, khi những giọt mưa rơi xuống và chạm mặt hồ, chúng ta thường thấy có những bong bóng nhỏ xuất hiện trên mặt nước. Làm thế nào để xác định kích thước của những bong bóng đó? Bài viết về bong bóng mưa của bạn Phan Văn Trung, học sinh lớp 11L1 trường THPT chuyên Hà Nội – Amsterdam sẽ giải đáp cho chúng ta câu hỏi đó



0002.jpg





0003.jpg





0004.jpg
 
4

40phamkinhvy

Chuyên đề: Sự va chạm của vật rắn
17/11/2008
Các bài toán về va chạm của vật rắn thường hay xuất hiện trong các đề thi HSG, thông thường các bài tập dạng này rất hay và cũng nhiều bài khó. Sau đây tôi xin giới thiệu với các bạn bài viết chuyên đề của thày giáo Tô Giang, một người có nhiều năm kinh nghiệm tập huấn các đội tuyển HSG, về vấn đề va chạm của vật rắn này.
untitled-3.jpg

2-2.jpg

3-1.jpg

4-1.jpg

5.jpg
 
4

40phamkinhvy

danh nhân vật lý

Robert Oppenheimer - Cha đẻ của bom A

1,Thời kỳ khảo cứu Nguyên Tử.

Từ thập niên 1920, các lý thuyết mới về Quang Tử (Quantum) và Thuyết Tương Đối (Relativity Theories) đã gây chú ý trong giới Khoa Học nên các khảo cứu ban đầu của ông Robert Oppenheimer là về các hạt hạ nguyên tử (subatomic particles), gồm cả các âm điện tử (electrons), dương điện tử (positrons) và các tia vũ trụ (cosmic rays). Ngoài ra, ông còn huấn luyện một thế hệ mới các nhà vật lý Hoa Kỳ và những khoa học gia này chịu ảnh hưởng của Robert Oppenheimer cả về tinh thần độc lập lẫn tài lãnh đạo.

Từ năm 1933, sự việc Adolf Hitler lên nắm quyền tại nước Đức đã khiến cho ông Robert Oppenheimer quan tâm tới chính trị. Vào năm 1936, ông Oppenheimer đứng về phe các người cộng hòa trong cuộc Nội Chiến Tây Ban Nha đồng thời ông cũng có cơ hội làm quen với các người Cộng Sản. Nhưng các thảm cảnh mà Joseph Stalin gây ra đối với các nhà Khoa Học Nga đã khiến cho ông Oppenheimer không còn giao du với đảng Cộng Sản nữa mà chỉ là một người theo lý thuyết dân chủ cấp tiến (liberal democratic philosophy).

Năm 1943, Thế Chiến Thứ Hai đang ở vào thời kỳ khốc liệt. Các gián điệp của Hoa Kỳ báo tin rằng các nhà bác học Đức đã tìm ra Nguyên Tử và đang tìm cách áp dụng kỹ thuật này vào khí giới chiến tranh. Vì vậy Hoa Kỳ phải quyết định mở một cuộc chạy đua kỹ thuật nguyên tử và Lục Quân Hoa Kỳ được giao cho trách nhiệm tổ chức các nhà khoa học người Anh và người Mỹ để tìm ra một phương pháp chế ngự năng lượng nguyên tử dùng cho các mục đích quân sự. Theo đề nghị của Tướng Leslie Groves, Tổng Thống Franklin D. Roosevelt đã mời ông Robert Oppenheimer giữ chức Giám Đốc Trung Tâm Khảo Cứu Nguyên Tử Lực của Hoa Kỳ và Trung Tâm này có mục đích chế tạo ra bom nguyên tử.

Thực ra, việc bổ nhiệm này cũng hơi lạ lùng. Tuy Robert Oppenheimer nổi tiếng về ngành chuyên môn của mình tức là ngành Vật Lý Nguyên Tử, nhưng ông chỉ giỏi về mặt lý thuyết, suốt ngày sống giữa tấm bảng đen và những con số mà chưa hề sáng chế về máy móc hay điều khiển một trung tâm khảo cứu nào. Vào thời kỳ đó, tại Hoa Kỳ không thiếu gì các nhà bác học lừng danh từ châu Âu chạy sang tị nạn như Albert Einstein, Niels Bohr, Enrico Fermi. . . và ngay cả trong ngành Nguyên Tử cũng không thiếu gì các Giáo Sư tài ba, nhiều tuổi hơn Robert Oppenheimer, uy tín cao hơn để xứng đáng giữ trọng trách điều khiển Trung Tâm. Việc chế tạo bom nguyên tử là một công trình vĩ đại, nó đòi hỏi ở người chỉ huy những đức tính mà chưa chắc gì một Giáo Sư Đại Học đã có đủ, và còn cần tới một tài năng không những thuộc về địa hạt Khoa Học mà còn thuộc cả về địa hạt Kỹ Nghệ và Quản Trị nữa. Dự Án Manhattan, tên riêng của dự án chế tạo bom nguyên tử, được Tướng Leslie Groves thi hành. Ông này đã tín nhiệm Robert Oppenheimer hơn là các nhà bác học đương thời danh tiếng khác.

Từ giã Đại Học Đường, Robert Oppenheimer với tuổi 38, đã tỏ ra là một nhân vật xứng đáng giữ trọng trách đó. Ông đã thu được cảm tình của hầu hết các nhà bác học tài ba dưới quyền cũng như đối với các chuyên viên. Trung tâm nghiên cứu nguyên tử lực đầu tiên của Hoa Kỳ được đặt tại Los Alamos, gần thành phố Santa Fe trong tiểu bang New Mexico, nơi mà trước kia, ông Oppenheimer đã từng lang thang trên yên ngựa, đã biết từng đồi cát tới các con đường mòn. Nhà máy nguyên tử này thật là lạ lùng: nó vừa là nhà máy vì gồm có các cơ xưởng lớn, vừa giống như một tu viện vì mọi người làm việc quần quật suốt ngày, lại giống một trại lính vì đóng ở giữa sa mạc, chung quanh có hàng rào kẽm gai bao bọc và được canh phòng cẩn mật.

Trung tâm nguyên tử này có số vốn ban đầu là 60 triệu mỹ kim, lúc đầu chỉ gồm 400 người nhưng chẳng bao lâu tăng lên tới 4,500 công nhân. Người ta cố gắng làm việc nhưng vào thời kỳ đó, chưa ai có thể tiên đoán được sức phá nổ của nguyên tử vì từ trước tới giờ, lý thuyết nguyên tử vẫn còn nằm trong vòng giả thuyết. Tại trung tâm nghiên cứu, ông Robert Oppenheimer bắt đầu tìm kiếm một phương pháp tách chất Uranium - 235 ra khỏi Uranium thiên nhiên và xác định khối lượng tới hạn (critical mass) của Uranium là chất để làm ra quả bom. Trong giai đoạn nghiên cứu này, ông Robert Oppenheimer đã làm việc hơn 20 giờ mỗi ngày, người gầy dộc đi đến nỗi chỉ còn nặng 52 kilô, trọng lượng này thật là quá ít đối với một người cao 1,82 mét.

Ngày 16 tháng 7 năm 1945 là ngày quả bom nguyên tử đầu tiên được cho phát nổ thử tại sa mạc Alamogordo trong tiểu bang New Mexico. Một làn chớp sáng lòa rồi tiếp sau là một tiếng nổ long trời, làm cho mọi người tưởng chừng như được chứng kiến một trận động đất dữ dội vậy. Sau đó, khói đen bốc lên cao ngất trời theo hình một chiếc nấm vĩ đại. Trước cảnh tàn phá của thứ khí giới mới khủng khiếp này, ông Robert Oppenheimer mới nhớ tới một câu trong quyển Kinh Ấn Độ Bhagavad-Ghita : "Ta đã trở nên Tử Thần và làm cho nhiều Thế Giới run sợ, hãi hùng".

Sau khi 2 quả bom nguyên tử A thả xuống đất Nhật và chấm dứt chiến tranh, mọi người đều gọi ông Robert Oppenheimer là cha đẻ ra thứ bom A đó. Nhưng riêng Giáo Sư Robert Oppenheimer lại bắt đầu ngờ vực thứ võ khí khủng khiếp mà ông đã dày công chế tạo. Võ khí nguyên tử không những ảnh hưởng đặc biệt tới quân sự mà còn trở nên vấn đề liên quan tới nền Đạo Đức nữa. Sự tàn phá của bom nguyên tử lúc phát nổ rồi ảnh hưởng của bụi phóng xạ khi chất này tỏa rộng, lẫn vào trong không khí mà rơi xuống đại dương, theo gió mà bay tới các lục địa xa xôi, khiến cho mọi người e ngại về sự tồn vong của Nhân Loại.

Trong khi ông Robert Oppenheimer hối hận vì phát minh của mình thì vài nhà bác học khác lại nghĩ tới việc chế tạo một thứ bom khủng khiếp gấp ngàn lần: bom khinh khí H. Người ủng hộ dự án này một cách nhiệt liệt nhất là nhà bác học Edward Teller, người Mỹ gốc Hungary. Vì vậy tại Hoa Kỳ vào thời bấy giờ, có hai phe, người ủng hộ dự án chế tạo bom H, kẻ phản đối thứ khí giới quá khốc liệt đó. Trong khi chính quyền Hoa Kỳ còn đang phân vân thì thình lình, người ta báo tin rằng Liên Xô đã cho nổ thử một trái bom nguyên tử. Tin sét đánh này làm cho nhiều người sửng sốt, phe ủng hộ dự án chế tạo bom H đã thắng và Tổng Thống Harry Truman hạ lệnh chế tạo bom H đó. Được biết tin như vậy, ông Robert Oppenheimer liền bước ra khỏi phòng khảo cứu và tuyên bố dứt khoát: "Tôi không phải là một lái súng, tôi chỉ là một nhà bác học". Ông Robert Oppenheimer từ chức Giám Đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Nguyên Tử vào tháng 8 năm 1945.

Từ năm 1947 tới năm 1953, ông Robert Oppenheimer là Giám Đốc của Viện Nghiên Cứu Cao Cấp thuộc trường Đại Học Princeton (the Institute for Advanced Study at Princeton University) và cũng là Chủ Tịch của Ủy Ban Cố Vấn của Ủy Ban Năng Lượng Nguyên Tử Hoa Kỳ (the U.S. Atomic Energy Commission = AEC). Ông cũng là vị cố vấn cho Bộ Quốc Phòng Mỹ và giúp công vào việc soạn thảo bản đề nghị đầu tiên của Hoa Kỳ về việc kiểm soát quốc tế năng lượng nguyên tử.

Năm 1953, một số tài liệu nguyên tử của Hoa Kỳ bị mất cắp. Phong trào chống Cộng Sản tại Mỹ đang lên bồng bột. Các nhà bác học nguyên tử là những người bị nghi ngờ. Ông Robert Oppenheimer cũng ở trong số đó. Hơn nữa, ông có giao du với một số phần tử Cộng Sản. Sở phản gián đã gom góp được nhiều tài liệu để kết tội ông. Các địch thủ của ông hùa nhau vào để hạ ông. Cũng có nhiều người đứng ra bào chữa cho ông như nhà Đại Bác Học Albert Einstein và Phó Tổng Thống Richard Nixon. Vào tháng 4 năm 1954, ông Robert Oppenheimer bị lôi ra trước một ủy ban điều tra của Ủy Ban Năng Lượng Nguyên Tử nhưng Tổng Hội Các Nhà Khoa Học Mỹ (the Federation of American Scientists) đã lên tiếng bảo vệ ông Oppenheimer trước tòa án. Vụ xét xử về an ninh này đã công bố rằng ông Robert Oppenheimer không phạm tội phản bội nhưng ông không được phép tiếp xúc với các bí mật quân sự. Kết quả là chức vụ cố vấn cho Ủy Ban Nguyên Tử Lực Hoa Kỳ của ông bị hủy bỏ. Sự lên án này đã làm sôi nổi dư luận tại Hoa Kỳ và tại châu Âu. Ông Robert Oppenheimer là một biểu tượng quốc tế của các nhà Khoa Học cố gắng giải quyết các vấn đề đạo đức (moral problems) sinh ra trong công cuộc khám phá Khoa Học và ông cũng trở nên một nạn nhân của công cuộc săn tìm phù thủy (a witch-hunt). Tuy đã bị mất chức, nhưng từ năm 1947 tới năm 1966, ông Robert Oppenheimer vẫn còn là Giám Đốc của Viện Nghiên Cứu Khoa Học Cao Cấp tại Princeton thuộc tiểu bang New Jersey. Tại Viện Khảo Cứu của tư nhân này, các nhà bác học lỗi lạc được tự do tìm tòi, làm sao cho thiên tài của họ được phát triển tối đa.

Vào năm 1963, Ủy Ban Năng Lượng Nguyên Tử Hoa Kỳ đã trao tặng ông Robert Oppenheimer phần thưởng Enrico Fermi. Đây là danh dự cao quý nhất để khen thưởng các đóng góp của ông vào nền Vật Lý Lý Thuyết. Nhiều người cho rằng công việc này là một cố gắng của Chính Phủ Hoa Kỳ để sửa chữa lỗi lầm khi trước. Ông Robert Oppenheimer về hưu năm 1966 và qua đời vào ngày 18 tháng 2 năm 1967 tại thành phố Princeton vì bệnh ung thư cổ.
 
4

40phamkinhvy

Marie Curie - nữ bác học đầu tiên nổi tiếng Thế giới.

Marie Curie Marie Curie (1867 – 1934) là nhà nữ bác học lừng danh đầu tiên của thế giới khoa học được nhận 2 giải thưởng Nobel, người đi tiên phong nghiên cứu về chất phóng xạ. Nghiên cứu của bà trở thành một phát minh khoa học hết sức lớn lao, ảnh hưởng tới các nhà vật lý nguyên tử sau này. Việc khám phá ra neutron của Sir James Chadwick và tính phóng xạ nhân tạo của Irene và Frederic Jolio Curie đều bắt nguồn từ công trình khảo cứu của bà.


Marie Curie sinh ngày 7 tháng 11 năm 1867 ở một thị trấn nhỏ gần thủ đô Varsovie nước Ba Lan, là cô con gái út của vợ chồng giáo sư khoa học Wladislaw Sklodowski (lúc đó bà được đặt tên là Marya Sklodowski). Sinh gia trong một gia đình trí thức nhưng tuổi thơ của bà sớm gặp nhiều nỗi gian truân.Mặc dù vậy cô bé Marya(Marie Ruire ) nổi tiếng học giỏi từ thuở nhỏ. Luôn luôn kém các bạn từ 2 tới 3 tuổi nhưng với môn học nào cô cũng đứng đầu lớp: Từ các môn học chính như toán học, lịch sử, văn chương đến những môn phụ như tiếng Pháp, tiếng Đức và cả Thánh Kinh nữ.

Năm 1902, kết quả của công trình khám phá ra chất Radium được công bố.Sau khi chất Radium được khám phá, danh tiếng ông bà Curie đã vượt ra khỏi nước Pháp. Đây cũng là thời điểm đánh dấu thành công khoa học bước đầu của bà.


Năm 1903, bà Curie được Đại Học Sorbonne trao văn bằng Tiến Sĩ Khoa Học, hạng tối ưu với lời khen ngợi của Hội Đồng Giám Khảo về luận án "Khảo cứu về các chất phóng xạ" và cũng vào năm này, Hội Khoa Học Hoàng Gia Anh gửi thư mời hai nhà bác học Curie sang diễn thuyết bên nước Anh. Sau đó không lâu, nước Thụy Điển đã biểu quyết chia Giải thưởng Nobel 1903 về Vật lý, một nửa dành cho ông Henri Becquerel, một nửa tặng ông bà Curie vì công trình khám phá ra chất phóng xạ.

Năm 1904, ông Pierre Curie qua đời do một tai nạn giao thông. Bà Marie Curie trở thành Giáo sư thực thụ của Trường Đại học Sorbonne vào năm 1908. Cũng vào năm này, bà cho xuất bản cuốn sách nhan đề là "Các Công Trình của Pierre Curie". Năm 1910, tác phẩm "Khảo cứu về tính phóng xạ" (Traité de Radioactivité) dày 960 trang của bà Marie Curie đã là công trình chứa đựng những kiến thức khoa học mới mẻ nhất của thời kỳ đó về ngành học phóng xạ. Danh tiếng của bà Marie Curie vang lừng. Rất nhiều trường Đại học ở ngoại quốc gửi tặng bà các văn bằng Tiến Sỹ Danh dự. Lại một lần nữa, tháng 12 năm 1911, bà Marie Curie được tặng thêm một giải thưởng Nobel về Hóa học vì công trình tìm ra chất Radium. Bà Curie là người duy nhất đã lãnh hai lần giải Nobel, hơn hẳn các nhà bác học xưa và nay, kể cả nam lẫn nữ.

Tóm lại bà Marie Curie là nhà nữ bác học lừng danh đầu tiên của thế giới khoa học, người đi tiên phong trong công cuộc khảo cứu chất phóng xạ. Ngoài việc phụng sự Khoa học, bà Marie Curie còn là một nữ công dân có lòng ái quốc.
 
4

40phamkinhvy

Hiện tượng tự cảm trong các mạch điện



Trong chương trình vật lý đại cương thì hiện tượng tự cảm trong mạch điện hay còn gọi là mạch dao động luôn là bài tập khá thú vị đối với học sinh phổ thông. Sau đây chúng ta sẽ cùng nhau nghiên cứu một bài viết về chuyên đề này.
 
Top Bottom