[vật lí 8] Nhìn tranh đoán tên nhà bác học

B

boy_100

tiếp nè
6652975_1035655768.jpg
 
V

vinhthanh1998


Maria Goeppert-Mayer (28/6/1906 - 20/2/1972) là nhà vật lý lý thuyết người Mỹ gốc Đức, đoạt giải Nobel Vật lý cho việc đề xuất các mô hình lớp hạt nhân của hạt nhân nguyên tử. Bà là người phụ nữ thứ hai đoạt giải Nobel vật lý, sau Marie Curie.
 
Last edited by a moderator:
L

langtham_98

Là Maria Goeppert-Mayer:

Maria Goeppert-Mayer
Aka Maria Göppert

Sinh: 28-Jun - 1906
Nơi sinh: Kattowitz, Ba Lan tử: 20-Feb - 1972 của sự chết: San Diego, CA Nguyên nhân của cái chết: Heart Failure Remains: Chôn, El Camino Memorial Park, San Diego, CA





Giới tính: Nữ Chủng tộc hoặc Dân tộc: trắng tình dục định hướng: Straight Nghề Nghiệp: vật lý



Quốc tịch: Hoa Kỳ điều hành tóm tắt: Shell hạt nhân mô hình

Maria Goeppert-Mayer đã được sinh ra trong Kattowitz, Đức (tại Katowice, Ba Lan), nơi cha cô là một bác sĩ nhi khoa tiến bộ, những người tin rằng cô gái và con trai xứng đáng với cơ hội bình đẳng. Trong thời thơ ấu, gia đình cô chuyển đến Göttingen, nơi trẻ Maria đã được gửi đến trường học ngữ pháp một cô gái hoạt động bằng cách đòi quyền bầu cử. Nhà trường đã bị phá sản sau khi năm học cơ sở của cô, nhưng cô đã thông qua một kỳ thi đại học mà không có một bằng tốt nghiệp trung học và lấy bằng tiến sĩ theo Max Sinh ra tại Đại học Göttingen.

Phụ nữ vào thời điểm đó không được hoan nghênh rộng rãi trong các lĩnh vực trên của các học viện, và mặc dù tiến sĩ trong nhiều năm, cô được giới hạn trong các công tác chưa thanh toán và không chính thức trong các phòng thí nghiệm trường đại học, sự hiện diện của cô chỉ được chấp nhận bởi vì chồng cô - Joseph Edward Mayer, một nhà hóa học có uy tín người đã phát triển mở rộng Mayer trong lý thuyết trường thống kê - là giảng viên. Tuy nhiên, bà đã viết rất nhiều bài báo về các chủ đề khác nhau, từ màu sắc của các phân tử hữu cơ phân rã beta ray để hành vi của các đồng vị uranium.

Khi chồng cô mất bài viết của một giáo sư tại Đại học Columbia, cô được tham gia làm giảng viên cho một lớp học duy nhất trong hóa học giới thiệu. Trong bộ phận đó, cô đã bị lôi cuốn vào vòng tròn của các nhà khoa học nghiên cứu phản ứng phân hạch hạt nhân theo Enrico Fermi . Một đồng nghiệp tại Columbia, Harold C. Urey , yêu cầu cô để làm việc với nhóm của ông đã tách uranium-235 từ các đồng vị uranium-238, như là một phần của Mỹ "Manhattan Project" nỗ lực để xây dựng một quả bom nguyên tử. Do tính chất phân loại của tác phẩm này, cô không thể nói với chồng về các chi tiết cụ thể của nghiên cứu của bà cho đến sau khi các quả bom được thả xuống Nhật Bản. Sau đó cô nói rằng vũ khí tàn phá đã khiến cô ấy vui vì vai diễn trong dự án đã được tối thiểu.

Năm 1946, chồng cô một bài tại Đại học Chicago, nơi cô một lần nữa giới hạn công việc chưa thanh toán trong phòng thí nghiệm và là một giảng viên. Trong vòng một vài tháng đến cô, tuy nhiên, Phòng thí nghiệm quốc gia Argonne được thành lập gần khuôn viên của trường đại học, với Fermi, Urey, và Edward Teller , và Goeppert-Mayer đã ngay lập tức thuê như vật lý cấp cao. Đối với lần đầu tiên trong sự nghiệp của mình, cô đã được làm việc và trả tiền ở một mức độ tương xứng với đào tạo và chuyên môn. Hai năm sau, cô đã thực hiện bước đột phá đưa tên của mình trong những tôn trọng nhất trong lĩnh vực của mình.

Với Teller, cô đã tiến hành tìm hiểu về nguồn gốc của các yếu tố, và nhận thấy sự tái phát của bảy "số ma thuật", cô gọi họ - 2, 8, 20, 28, 50, 82, và 126. Các yếu tố với một số "ma thuật" của các proton hoặc neutron đáng tin cậy hơn ổn định hơn so với các phần tử với số lượng khác của các proton hoặc neutron. Ngoại suy từ điều này, cô đề xuất vào bên trong hạt nhân, proton và neutron được sắp xếp trong một loạt các lớp nucleon, giống như các lớp của củ hành, neutron và proton đang quay xung quanh nhau ở mỗi cấp. Tại cùng một thời điểm nhưng làm việc độc lập, nhà vật lý Đức J. Hans D. Jensen đi đến kết luận tương tự. Đối với công việc của họ làm sáng tỏ cấu trúc của hạt nhân nguyên tử, Goeppert-Mayer và Jensen chia sẻ giải Nobel Vật lý 1963 với Eugene Wigner .

Cô là người phụ nữ đầu tiên giành chiến thắng danh dự Nobel về vật lý, và cô ấy là cùng tên của giải thưởng Maria Goeppert Mayer, trình bày hàng năm của Hội Vật lý Mỹ cho một nhà vật lý người phụ nữ xuất sắc trong những năm đầu của sự nghiệp của mình. Luận án tiến sĩ của cô dự đoán hấp thụ nhiều photon, các quá trình trong đó hai hoặc nhiều photon được hấp thụ bởi một nguyên tử cùng một lúc, và kể từ khi khái niệm này đã được chứng minh trong những năm 1960 các mặt cắt hấp thụ hai photon đã được đo lường Goeppert-Mayer (GM) đơn vị. Cô bị điếc một bên tai, và cánh tay trái của cô đã bị tê liệt bởi một cơn đột quỵ vào năm 1959.

Cha: Friedrich Goeppert (giáo sư khoa nhi, d năm 1927) Mẹ: Maria Wolff (piano giáo viên) Chồng: Joseph Edward Mayer (vật lý hóa học, b 1904, m 1930, d năm 1983..) Con gái: Maria Ann Wentzel (nhà thiên văn học, " Marianna ") Sơn: Peter Conrad (kinh tế)
 
L

linh234

James Watt cha đẻ của máy hơi nước
ames Watt sinh ngày 19 tháng 1 năm 1736 tại một thị trấn ven biển Greenock ở Scotland của nước Anh. Ông nội là Thomas Watt, giáo sư dạy trắc lượng học và hàng hải học. Do sinh truởng trong một gia đình có học thức nên ngay từ nhỏ cậu bé James Watt đã được dạy dỗ kỹ càng.
James Watt thường được mọi nguời gọi là nhà phát minh ra máy hơi nước. Ông là một trong những nhân vật then chốt của cuộc cách mạng công nghiệp. Thật ra, Watt không phải là người chế tạo ra máy hơi nước đầu tiên. Năm 1698, Thomas Savory đã được trao bằng sáng chế máy bơm nước chạy bằng hơi nước. Năm 1712, Thomas Newcomen cũng đã được trao bằng sáng chế cải tiến máy hơi nước. Năm 1761, khi tiến hành sửa chữa một máy hơi nước kiểu Newcomen, Jame Watt đã cải tạo máy hơi nước kiểu này và tạo ra một ý nghĩa cực kỳ quan trọng đến nỗi mọi người phải công nhận ông là người đầu tiên phát minh ra máy hơi nước.

Năm 1763-1764, tại Trường Đại học Glassgow, Watt bắt đầu đặc biệt chú ý tới máy hơi nước. Watt xác định việc nghiên cứu nguyên lý và kết cấu của máy hơi nước là phương hướng chủ yếu của mình.

Năm 1769, Watt đã được nhận bằng độc quyền về cải tiến máy hơi nước, một thành qủa rất vĩ đại. Watt đã cải tiến máy hơi nước một bộ phận có thể phân ly để làm lạnh và cách ly xy-lanh của nó. Năm 1782, ông đã phát minh ra máy hơi nước kiểu song động. Sau khi kết hợp các phát minh đó lại, ông đã làm cho hiệu suất của máy hơi nước nâng lên gấp ba lần.

Tháng 6 năm 1775, giữa Boulton và Watt đã ký kết một hợp đồng có giá trị 25 năm, thành lập công ty Boulton-Watt chuyên sản xuất và tiêu thụ loại máy hơi nước mới. Đây chính là tiền đề để cho Watt sáng tạo ra những cỗ máy hơi nước ngày càng tân tiến hơn. Trong hai mươi lăm năm sau đó, công ty của Watt và Boulton đã sản xuất một số lượng lớn máy hơi nước cung cấp cho thị trường.

Năm 1781, Watt còn phát minh ra một bộ phận bánh xe răng để giúp máy hơi nước chuyển động xoay tròn làm cho máy hơi nước mở rộng phạm vi sử dụng. Ông còn phát minh ra bộ phận ly tâm điều chỉnh tốc độ, thông qua đó máy hơi nước có thể tự động khống chế. Năm 1790, ông đã phát minh ra đồng hồ áp lực, đồng hồ chỉ thị, van tiết lưu và nhiều cải tiến có giá trị khác.

Năm 1782, cỗ máy hơi nước chuyển động song hướng do Watt nghiên cứu và chế tạo ra đời và được cấp bằng sáng chế độc quyền. Năm 1784, loại máy hơi nước nằm cũng được xác nhận quyền sáng chế. Máy hơi nước ngày càng có tính thực dụng và được dùng rộng rãi được gọi là “máy hơi nước vạn năng”.

Bốn năm sau, Watt phát minh ra bộ phận ly tâm điều chỉnh tốc độ và bộ phận điều tiết hơi. Năm 1790, Watt chế tạo thành công bộ phận biểu thị công năng của xy-lanh đầu tiên. Lúc này thì Watt đã hoàn thành toàn bộ quá trình phát minh ra máy hơi nước của mình. Đây là một bước đại nhảy vọt trong kỹ thuật sản xuất của loài người. Đây có thể được gọi là bản tuyên ngôn của nhân loại đã bắt đầu tiến vào “Thời đại máy hơi nước”.

Từ khi máy hơi nước xuất hiện đã có một tác dụng to lớn trong cuộc cách mạng công nghiệp. Trước khi có máy hơi nước, mặc dù một số địa phương nào đó đã biết sử dụng sức gió và sức nước nhưng động lực chủ yếu vẫn là sức lực của con người. Từ khi có máy hơi nước thì loài người đã thoát ra khỏi sự hạn chế đó.

Ngoài việc dùng làm nguồn năng lượng cho các công xưởng, máy hơi nước còn được ứng dụng trong giao thông vận tải. Sự ứng dụng rộng rãi máy hơi nước đã ảnh hưởng đến cuộc cách mạng phương tiện giao thông của nước Anh. Năm 1814, công trình sư người Anh George Stephenson chế tạo thành công xe lửa chạy bằng máy hơi nước. Stephenson đã được suy tôn là “Cha đẻ của đầu máy xe lửa”.

Sự cải tiến giao thông đường thuỷ là đóng những chiếc tàu có thể lắp được máy hơi nước làm động lực. Ngày 19 tháng 8 năm 1807, một nhà phát minh người Mỹ là Fulton đã thiết kế một chiếc tàu chở khách chạy bằng máy hơi nước chạy thử thành công trên sông Hudson, đồng thời đã mở ra những chuyến chạy định kỳ từ New York đến An-ba-ni.

Cuộc cách mạng công nghiệp xảy ra gần như cùng một lúc với cuộc cách mạng ở Mỹ và ở Pháp. Ngày nay, chúng ta có thể thấy được tác động to lớn của cuộc cách mạng công nghiệp đối với đời sống thường ngày của nhân loại. Do vậy, James Watt chính là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất trong lịch sử loài người.

James Watt là một nhà bác học vĩ đại. Mọi người đều xem ông là một “Anh hùng dân tộc” và hết sức kính phục ông. Ông là thành viên của “Hội Mặt trăng”, còn được gọi là “Học hội Thái âm”. Năm 1785, ông được bầu làm hội viên của Học viện Hoàng gia Luân-đôn. Năm 1806, Trường Đại học Glasgow đã cấp cho ông bằng Tiến sĩ luật danh dự. Năm 1814, Viện Khoa học Pháp đã công nhận ông là Viện sĩ người nước ngoài của Viện.

Ngày 25 tháng 8 năm 1819, Watt từ trần tại biệt thự riêng của ông ở Heathfield, thọ 85 tuổi. Thi hài ông được an táng tại nhà thờ Handsworth. Chính phủ Hoàng gia Anh đã coi ông như một vị công thần và đã cho dựng tượng tại nhà thờ Westminster.

Để ghi nhớ công ơn to lớn của ông đối với loài người, tên ông đã được đặt cho một đơn vị đo lường. Đây chính là một tượng đài vĩ đại không bao giờ thay đổi của nhân loại để ghi nhớ công lao của một vĩ nhân đã góp phần thúc đẩy phát triển tiến trình hiện đại hoá lịch sử phát triển xã hội.
 
L

linh234



Jane Goodall

Nhà khoa học người Anh (sinh ngày 3-4-1934), tên đầy đủ của bà là Valerie Jane Morris Goodall, nổi tiếng trong lĩnh vực nhân chủng học, phong tục học, chuyên gia về linh trưởng và là sứ giả hòa bình của Liên Hợp quốc. Người sáng lập ra Viện Jane Goodall, bà có tới 45 năm nghiên cứu về các vấn đề tương tác xã hội và gia đình của loài tinh tinh, đặc biệt là tập quán của loài động vật này, có công lớn trong việc nghiên cứu bảo vệ loài tinh tinh trên quy mô toàn cầu. Trung bình mỗi năm bà bỏ ra khoảng 300 ngày đến nhiều nơi trên thế giới để "trao cho họ hy vọng và kiến thức, giúp mọi người hiểu sâu hơn, sống có trách nhiệm hơn đối với thiên nhiên" như bà hằng tâm niệm.
 
V

vinhthanh1998

Cô là người phụ nữ đầu tiên giành chiến thắng danh dự Nobel về vật lý

Tại sao lại là người đầu tiên??????:-?:-?:-?:-?
Marie Curie mới là người phụ nữ đầu tiên nhận giải này mà
Maria Goeppert-Mayer là người phụ nữ thứ hai sau Marie Curie
 
Last edited by a moderator:
M

minhtuyb

James Prescott Joule, là một nhà vật lí người Anh (đồng thời làm nghề ủ rượu), được sinh ra ngày 24/12/1818 ở Salford, Lancashire, mất ngày 11/10/1889.
Là con trai của Benjamin Joule (1784–1858), một người thợ ủ rược giàu có, Joule được dạy kèm tại nhà cho đến năm 1834, ông cùng anh trai Benjamin của mình được gửi vào học với John Dalton tại Hội Văn chương và Tríêt học Manchester . Cả hai anh em chỉ được đào tạo đại số và hình học trong vỏn vẹn hai nămtrước khi Dalton bị buộc phải nghỉ hưu vì một cơn đột khuỵ. Tuy nhiên, những ảnh hưởng của Dalton đã tạo nên một ấn tượng lâu bền cũng giống như cộng sự của ông, nhà hoá học William Henry and hai kĩ sư của Manchester Peter Ewart và Eaton Hodgkinson đã làm. Về sau cùng, Joule nhận sự dẫn dắt của John Davies. Joule bị cuốn hút vào khái niệm “dòng điện”. Ông và anh trai đã thử làm thí nghiệm nhiều lần bằng cách kích điện vào nhau và vào những người làm trong gia đình.
Joule trở thành chủ xưởng rượu và giữ vai trò chủ chốt cho đến khi ông bán toàn bộ doanh nghiệp của mình năm 1854. Khoa học là một sở thích nhưng ông sớm bắt tay vào xem xét tính khả thi của việc thay thế máy hơi nứơc trong xưởng rượu bằng động cơ điện mà ông mới sáng chế. Năm 1838, bản phác thảo đầu tiên của ông được trình lên tờ Annals of Electricity, một tập san khoa học mà cha đẻ của nó chính là những đồng nghiệp của Davies William Sturgeon.
Ông tìm ra định luật Joule năm 1840 và mong mỏi sẽ gây được ấn tượng đối với Hội đồng Hoàng Gia nhưng cuối cùng ông nhận ra rằng ông đã bị xem thường và đánh giá thấp như kẻ tài tử quê mùa. Khi Sturgeon chuyển đến Manchester năm 1840, Joule và Sturgeon đã trở thành nhân vật trung tâm trong giới trí thức thành phố. Cặp đôi này đã chia sẻ những quan điểm tương đồng rằng khoa học và thuyết thần học có thể và nên được kết hợp với nhau. Joule tiếp tục việc thuyết giảng tại Viện bảo tàng Hoàng gia Victoria về Khoa học ứng dụng do Sturgeon quản lí.
 
L

linh234



Rachel Louise Carson (27 tháng 5 năm 1907 – 14 tháng 4 năm 1964) là nhà động vật học và sinh học biển sinh tại Pittsburgh, Hoa Kỳ. Tác phẩm nổi tiếng của bà, Mùa xuân thầm lặng (Silent Spring), được ghi nhận là đã làm xuất phát điểm cho phong trào bảo vệ môi trường trên toàn cầu. Mùa xuân thầm lặng tạo ra một ảnh hưởng sâu rộng tại Hoa Kỳ và làm thay đổi chính sách quốc gia về thuốc trừ sâu. Rachel Carson được truy tặng huân chương tổng thống về tự do (Presidential Medal of Freedom).
 
P

padawan1997

dunno.jpg

Ai đây :-?
Ông này viết sách hay à nha, trước trấn lột đc của ông thầy 1 quyển ông này viết này đến giờ vẫn chưa trả lại:khi (38):
 
Last edited by a moderator:
L

linh234

dunno.jpg

Ai đây :-?
Ông này viết sách hay à nha, trước trấn lột đc của ông thầy 1 quyển ông này viết này đến giờ vẫn chưa trả lại:khi (38):

Lev Davidovich Landau (tiếng Nga: Лев Давидович Ландау) (22/1/1908 – 1/4/1968), một nhà vật lý Liên Xô nổi tiếng với những đóng góp trong vật lý lý thuyết. Ví dụ : phương pháp ma trận mật độ ứng dụng trong cơ học lượng tử, lý thuyết lượng tử về nghịch từ, lý thuyết về hiện tượng siêu chảy, lý thuyết về chuyển pha bậc 2, lý thuyết Ginzburg-Landau về siêu dẫn, lý thuyết chất lỏng Fermi, sự tắt dần Landau trong vật lý plasma, điểm cực Landau trong điện động lực học lượng tử,... Ông đoạt giải Nôbel Vật lý năm 1962 cho đóng góp trong Lý thuyết toán của Sự siêu chảy.
 
P

padawan1997

^
Bổ sung: Ông không chỉ nổi tiếng về những thuyết " trên trời" mà còn bởi vì phương pháp của ông là dùng toán THCS để chứng minh những định luật, bài toán cực khó :|
 
Last edited by a moderator:
H

haoanh_98

Rita Levi-Montalcini (sinh ngày 22.4.1909[1]), được trao Huân chương Cavaliere di Gran Croce, OMRI[2] là một nhà thần kinh học người Ý, cùng với đồng nghiệp Stanley Cohen, đã đoạt Giải Nobel Sinh lý và Y khoa năm 1986 cho công trình phát hiện ra Nhân tố tăng trưởng thần kinh (Nerve Growth Factor, NGF). Từ năm 2001, bà cũng là thượng nghị sĩ suốt đời ở Thượng nghị viện Ý.

Hiện nay, bà là người đoạt giải Nobel lớn tuổi nhất còn sống và cũng là người đầu tiên đoạt giải Nobel sống tới 100 tuổi[3]. Ngày 22.4.2009 bà đã ăn mừng sinh nhật thứ 100 của mình tại tòa thị sảnh Rome.[4]
 
V

vinhthanh1998

Marie Mayer (1906-1972): Nhà vật lý học gốc Đức, từng đoạt giải Nobel về vật lý năm 1963 cùng với J. Hans Jensen của Đức và Eugene Paul Wigner của Hoa Kỳ. Mayer và Jensen đã nghiên cứu riêng lẻ nhưng hoàn tất luận án tương tự về cấu trúc của hạch nhân. Họ tìm thấy rằng hạch nhân có nhiều tầng ngoài tương tự như những tầng điện tử của các nguyên tố. Những tầng này chứa số lượng khác biệt proton và nơtron, vốn là quy trình sắp đặt của nhân nguyên tử tùy theo tính chất của nó
 
Last edited by a moderator:
Top Bottom