1. Kinh tế xã hội nông nghiệp truyền thống là nền kinh tế xã hội có tính cộng đồng, tính tự quản và tương đối biệt lập
Nền kinh tế xã hội nông nghiệp truyền thống đã hình thành và phát triển từ xa xưa, cùng với lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước của dân tộc. Nó gắn liền với quá trình khai hoang lập ấp, phát triển sản xuất, mở mang văn hóa, xã hội và đấu tranh sinh tồn với thiên nhiên của các cộng đồng dân cư, từ những làng Việt cổ xưa, những công xã nông thôn đến các làng tiểu nông trong thời kỳ phong kiến. Trong suốt tiến trình phát triển lâu dài ấy, tính cộng đồng luôn được bảo lưu và duy trì mạnh mẽ, trở thành một trong những đặc trưng cơ bản, có tính phổ quát và bao trùm trong sản xuất và đời sống xã hội ở nông thôn.
Nói đến kinh tế xã hội nông nghiệp truyền thống, trước hết, là nói đến sự cố kết và tính cộng đồng về mặt dân cư và lãnh thổ của các làng, xã nông thôn. Sự cố kết này được hình thành dựa trên quan hệ láng giềng, quan hệ huyết tộc hoặc dòng họ. Đó là một tập hợp dân cư, hay cộng đồng dân cư cùng nhau tụ cư, sinh sống trên một khu vực lãnh thổ nhất định, bao gồm cả khu đất làm nhà ở, vườn tược của các hộ gia đình lẫn đất đai canh tác, đồng cỏ, đồi rừng, ao hồ, đầm bãi và tài nguyên thiên nhiên do các thành viên trong làng cùng khai phá, chiếm đoạt hay do các thế hệ cha ông họ để lại. Toàn bộ đất đai, tài nguyên và lãnh thổ ấy đều là tài sản chung của mọi thành viên trong làng, thuộc sở hữu chung của mỗi làng, do làng kiểm soát, quản lý và chi phối. Mọi thành viên trong làng đều được sử dụng đất đai, khai thác tài nguyên theo những quy định của làng, đồng thời có trách nhiệm và nghĩa vụ chung trong việc gìn giữ, bảo vệ, khai thác và sử dụng chúng. Khi dân cư tăng dần, đất ở và đất đai canh tác của làng trở nên chật hẹp, hoa lợi giảm sút hay sản vật tự nhiên cạn dần thì dân làng lại cùng nhau khai phá thêm những khu đất lân cận để mở rộng lãnh thổ, hoặc tổ chức khai hoang lập ra các làng trại mới, hoặc du canh, du cư đến các vùng đất khác.
Cho đến thời kỳ phong kiến, quan hệ cộng đồng dân cư – lãnh thổ của làng, xã vẫn tồn tại bền chặt. Một mặt, các Nhà nước phong kiến vẫn duy trì cấu trúc dân cư – lãnh thổ của làng, xã, lấy đó làm đơn vị hành chính cơ sở để quản lý xã hội. Nhưng mặt khác, các Nhà nước phong kiến cũng thường không kiểm soát được đất đai, tài nguyên và dân cư các làng xã. Do vậy, mặc dù đất đai, tài nguyên đều thuộc sở hữu tối cao của Nhà nước, song thực chất, lại thuộc quyền kiểm soát, chi phối của các làng. Từ cuối đời Trần (thế kỷ XIII) trở đi, cấu trúc dân cư – lãnh thổ của phần lớn các làng ở đồng bằng lúc bấy giờ đã cơ bản định hình. Nhiều làng đã lập ra các hương ước, khế ước xác định rõ địa giới lãnh thổ, đất đai và khẳng định “chủ quyền” của làng trên toàn bộ địa giới ấy. Và để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của làng, nhiều nơi đã quy định cụ thể về sử dụng đất đai, nguồn nước, đốn cây, phát rẫy, khai thác nguồn lợi tự nhiên, về canh phòng, chống xâm lấn, trộm cướp,… Đất đai trong lãnh thổ của làng, ngay cả ruộng đất tư cũng không được bán, đổi, sang nhượng cho người làng khác. Dân từ nơi khác đến ở được coi là dân ngụ cư phải có sự đồng ý của làng và thường phải 2 -3 đời sau mới được chính thức gia nhập cộng đồng làng xã, trở thành thành viên của làng.
Trong cộng đồng dân cư – lãnh thổ của làng còn có những cộng đồng theo địa bàn cư trú hẹp hơn như thôn, xóm, ấp, trại,… Những cộng đồng này gắn bó với nhau trên quan hệ láng giềng gần gũi, thân cận và thường cũng có những quy ước riêng về nơi cư trú, sinh sống của họ, bên cạnh những quy ước chung của làng. Ngoài ra, trong các làng, xóm, ấp còn có các quan hệ cộng đồng theo tộc người, theo huyết tộc hay tín ngưỡng, tôn giáo, phe giáp, phường hội,… Tất cả các mối quan hệ ấy đều đan xen, hòa quyện lẫn nhau, tạo ra sự gắn kết bền chặt trong các cộng đồng làng, xã nông thôn.
Làng không chỉ là một cộng đồng về dân cư - lãnh thổ, mà còn là một cộng đồng kinh tế, một thực thể kinh tế của nền kinh tế xã hội nông thôn truyền thống. Cộng đồng kinh tế này, trước hết, và cơ bản được hình thành trên cơ sở của chế độ sở hữu chung về đất đai, tài nguyên thiên nhiên và các điều kiện sản xuất khác trong lãnh thổ của làng. Trong các làng Việt cổ xưa hay trong các làng thị tộc, để có thể tồn tại, mọi hoạt động kinh tế nói chung (như canh tác nông nghiệp, đánh bắt thủy sản, hay săn bắt, hái lượm, khai thác sản vật tự nhiên,…) đều là những hoạt động mang tính cộng đồng. Toàn bộ sản phẩm, hoa lợi thu được đều là sản phẩm chung, do làng quản lý và được đem phân phối dần cho tất cả các thành viên. Không một thành viên nào có thể tiến hành sản xuất hay sinh sống độc lập, tách biệt với hoạt động kinh tế chung của làng. Ở những thời kỳ lịch sử tiếp sau, khi chế độ quân chủ nhà nước đã hình thành, các công xã thị tộc dần dần giải thể chuyển thành công xã nông thôn, chế độ tư hữu ngày càng trở nên phổ biến hơn, song phương thức sản xuất và sinh sống cộng đồng vẫn tồn tại dai dẳng trong nhiều làng xã, ở những hình thái và mức độ khác nhau. Phần lớn đất đai, tài nguyên và các nguồn lực tự nhiên của sản xuất vẫn thuộc quyền quản lý và chi phối của làng. Hơn nữa, do trình độ sản xuất thấp kém, lệ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, nên các hộ dân cư trong làng cũng thường xuyên phải cố kết với nhau trong sản xuất cũng như trong việc phòng chống thiên tai để bảo vệ nơi cư trú và mùa màng.
Từ thế kỷ XIV, XV trở đi, mặc dù xuất hiện ngày càng nhiều các làng công xã dựa trên chế độ sở hữu ruộng đất bán công bán tư và các làng tiểu nông chủ yếu dựa trên chế độ tư hữu, tuy ruộng đất công và các cơ sở kinh tế chung của làng ngày càng bị thu hẹp, nhưng nó vẫn tồn tại dai dẳng và phổ biến ở hầu khắp các vùng nông thôn. Hơn nữa, việc dựa vào kinh tế làng xã và lấy làng, xã làm cơ sở kinh tế xã hội của các triều đại phong kiến cũng làm cho tính cộng đồng về mặt kinh tế của các làng tiếp tục được duy trì. Làng là người đại diện cho dân cư thực hiện các nghĩa vụ kinh tế đối với Nhà nước (như thu nộp thuế, huy động nhân công đắp đê, chống lụt…). Và mỗi làng đều có tài sản, công quỹ và các khoản thu đóng góp cho các hoạt động chung của làng.
Làng cũng là một cộng đồng về văn hóa, xã hội với các thiết chế, phong tục, tập quán chặt chẽ, các giá trị và chuẩn mực chung về sinh hoạt, lối sống, tâm lý, tư tưởng; đạo đức, phương thức ứng xử trong gia đình, cộng đồng cũng như phương thức ứng xử với tự nhiên, môi trường sinh sống,… Mỗi làng đều thờ chung một vị thần linh biểu trưng cho sự thống nhất về nguồn gốc, về cuộc sống và “sự thống nhất vận mệnh” của cả cộng đồng, thờ chung một thần Thành hoàng cai quản và bảo vệ cho cuộc sống của tất cả mọi thành viên trong làng. Các làng cũng thường có những phong tục, tập quán, lễ hội và những sinh hoạt văn hóa cộng đồng khác nhau. Tư tưởng làng xã cũng là tư tưởng cộng đồng, ý thức cộng đồng, là tư tưởng cố kết, nương tựa và hỗ trợ lẫn nhau, là tư tưởng tự hào, tự tôn của mỗi làng xã.
Tuy nhiên, cùng với những biến đổi của nền kinh tế xã hội, văn hóa cộng đồng làng cũng có nhiều thay đổi; đặc biệt là từ khi có chế độ tư hữu và sự phân hóa giai cấp. Tư tưởng tư hữu, tập quán và lối sống tiểu nông hay sự phân biệt về địa vị xã hội, địa vị trong các mối quan hệ cộng đồng hay trong gia đình,… cũng xuất hiện và ngày càng ngấm sâu vào đời sống của người dân thôn quê. Nhiều lễ giáo, tập tục, phong tục đã bị phong kiến hóa, trở thành lực cản vô hình, trói buộc và kìm hãm tư tưởng, tình cảm và khát vọng của họ trong hoạt động sản xuất cũng như trong đời sống văn hóa, tinh thần.
Là một cộng đồng về dân cư – lãnh thổ, về kinh tế và văn hóa, làng cũng đồng thời là một tổ chức có tính hành chính và tự quản. Mỗi làng đều có một bộ máy quản lý có tính tự quản, với những thiết chế và luật lệ nhất định. Đến thời phong kiến tập quyền, các chính quyền nhà nước trung ương ngày càng can thiệp vào bộ máy quản lý của làng, lấy làng, xã làm cấp cai trị về hành chính. Tuy vậy, bên cạnh các chức vụ đứng đầu do làng, xã cử ra và được Nhà nước phong kiến quyết định, thì trong bộ máy quản lý làng, xã còn có các tiên, thứ chỉ, hội đồng bô lão (hay hội đồng kỳ hào, kỳ mục), các chức dịch, hương chức,… Và về thực chất, quyền hành cao nhất trong các làng, xã vẫn thuộc về các tiên chỉ, thứ chỉ và hội đồng kỳ hào, kỳ mục. Do đó, bộ máy quản lý làng, xã vẫn cơ bản mang tính tự quản. Nó chi phối đến mọi công việc của làng và hầu hết các hoạt động của thành viên trong làng. Và để thực hiện quyền tự quản của mình, bộ máy quản lý của làng không ngừng đặt ra các thiết chế, luật lệ, phép tắc riêng và áp đặt các thiết chế, luật lệ ấy vào đời sống làng, xã. Từ thế kỷ XIII, XIV trở đi, nhiều thiết chế, luật lệ của các làng đã được văn bản hóa thành những hương ước, khoán ước (Bùi Xuân Đính, 1985) và thực sự trở thành công cụ của bộ máy quản lý của các làng, xã ở nông thôn. Điều đó vừa duy trì tính cộng đồng vừa làm tăng sự ràng buộc và sự lệ thuộc của người dân nông thôn vào các thiết chế của cộng đồng làng, xã.