[Văn 9]Điển Tích trong Truyện Kiều từ nguồn vuhuu.edu

T

trifolium

Ðêm đêm Hàn thực ngày ngày Nguyên tiêu

Mã Giám Sinh mua Kiều đem về Lâm tri, giao cho mụ Tú Bà ở lầu xanh. Mụ bắt Kiều quỳ lạy trước bàn thờ thần Mày Trắng:

"Kiều còn ngơ ngẩn biết gì
Cứ lời lạy xuống mụ thì khấn ngay:
Cửa hàng buôn bán cho may
Ðêm đêm Hàn thực ngày ngày Nguyên tiêu
Muôn nghìn người thấy cũng yêu
Xôn xao oanh yến dập dìu trúc mai"

(câu 939 đến 944)

"Hàn thực" có nghĩa là ăn thức nguội. Sau tiết Ðông chí 105 ngày là tiết Hàn thực, nhằm vào ngày mùng 3 tháng 3 Âm lịch.

Ðời Xuân Thu, công tử Trùng Nhĩ là con của Hiến công nước Tấn, tránh loạn triều đình phải lưu vong nhiều nước khác. Trên đường đi có nhiều lúc phải chịu đói khát. Một hôm Trùng Nhĩ không ăn rau cỏ được, người đói lả. Bấy giờ, trong đám tòng vong có Giới Tử Thôi bưng một bát cháo thịt dâng lên. Trùng Nhĩ cả mừng vội ăn ngay, lấy làm ngon lắm. Ăn xong, hỏi:
- Nhà ngươi tìm đâu được thế?
Thôi thưa:
- Ấy là thịt đùi của tôi. Tôi nghe rằng kẻ hiếu tử bỏ thân để thờ cha mẹ, bề tôi trung bỏ thân để thờ vua. Nay công tử không có gì ăn, vậy nên tôi phải cắt đùi tôi mà dâng công tử.
Trùng Nhĩ sa nước mắt, nói:
- Ơn này, biết bao giờ ta đền đáp được.

Sau Trùng Nhĩ phục quốc, trở về nước lên ngôi là Tấn Văn công, ban thưởng cho những người có công, chia làm ba hạng. Một là những người tòng vong (những người theo đi trốn); hai là những người tống khoản (những người giúp tiền bạc); ba là những người nghinh hàng (những người xin làm nội ứng, đón rước về làm vua). Trong ba hạng này lại tuỳ những người nào có công nhiều hay ít mà phân hơn kém. Ban thưởng công thần xong, lại yết một tờ chiếu ở cửa thành rằng: "Nếu người nào có công lao mà chưa được thưởng thì cho phép tự nói ra"

Bấy giờ có tên Hồ Thúc nói với Tấn Văn công:
- Tôi theo chúa công từ khi còn ở đất Bồ, cho đến khi lưu vong khắp nước, lúc nào tôi cũng hầu hạ bên cạnh. Nay chúa công thưởng công cho những người tòng vong mà không nghĩ đến tôi, chẳng hay tôi có tội gì?
Tấn Văn công nói:
- Trong số tòng vong, người nào lấy điều nhân nghĩa mà khuyên ta là công đầu; người nào vì ta mà bàn mưu lập kế là công thứ hai, người nào xông pha tên đạn để giữ gìn cho ta là công thứ ba. Còn những người nào chỉ có công theo hầu khó nhọc mà thôi thì lại ở dưới nữa. Vậy ta thưởng cho ba hạng trên trước rồi sẽ đến nhà ngươi.

Hồ Thúc lấy làm hổ thẹn. Tấn Văn Công truyền đem vàng lụa trong kho ban thưởng cho tất cả người theo hầu. Trong số bọn tòng vong trước có Nguỵ Thù và Ðiên Hiệt cậy mình võ dõng, thấy Triệu Thôi và Hồ Yển đều là văn thần mà lại được trọng thưởng hơn mình có ý không bằng lòng, thường kêu ca tỏ vẻ bất mãn. Tấn Văn Công biết ý nhưng nể là người có công lao nên bỏ qua.

Giới Tử Thôi tính tình điềm đạm, thấy nhiều kẻ đổ xô nhau kể công còn so bì công lớn công nhỏ, lấy làm khinh bỉ, không muốn ở lẫn với bọn này. Ðến lúc Tấn Văn Công lên ngôi, Tử Thôi chỉ vào chúc mừng một lần rồi cáo bệnh về nhà, yên phận nghèo nàn, ngày ngày khâu giày mướn nuôi mẹ già. Khi Tấn Văn Công ban thưởng công thần, không có mặt Giới Tử Thôi nên nhà vua quên lửng.

Có người láng giềng thấy Giới Tử Thôi không được ban thưởng, phải sống tình cảnh như thế nên không bằng lòng. Nhân thấy có chiếu kêu gọi người báo công yết trên cửa thành, nên vội vàng đến nhà Thôi báo tin. Thôi chỉ mỉm cười, không nói gì. Bà mẹ nghe được, bảo:
- Mày khó nhọc trong 19 năm trời, lại cắt thịt đùi làm cháo dâng chúa công ăn, sao bây giờ mày không nói ra để được thưởng? Mong được vài chung thóc, chẳng còn hơn đi khâu giày mướn hay sao?
Giới Tử Thôi thưa:
- Con của Hiến công cả thảy 9 người, chỉ có chúa công hiền hơn cả. Huệ công và Hoài công không có đức, vậy nên trời truất ngôi mà để cho chúa công. Những người theo hầu không biết ý trời, dám tự nhận là công mình, con nghĩ lấy làm xấu hổ lắm, chẳng thà đi khâu giày mà ăn còn hơn.
Bà mẹ nói:
- Con làm được người liêm sỉ, còn ta không làm được mẹ của người liêm sỉ hay sao? Vậy mẹ con ta tìm nơi rừng núi mà ẩn thân, chớ nên ở lẫn chỗ thành thị này.

Thôi rất bằng lòng, liền cùng mẹ vào Miên Thượng, một vùng núi cao rừng sâu, làm nhà trong hang mà ở.

Người láng giềng liền tìm cách báo đến Tấn Văn Công.

Tấn Văn Công bấy giờ mới nhớ ra, hết sức ân hận, cho người đi triệu thì Thôi đã dọn nhà đi mất rồi. Tấn Văn Công truyền người láng giềng của Thôi dẫn đường và đích thân đến Miên Thượng. Ðến nơi, nhà vua để xe dưới chân núi, sai người đi dò tìm khắp nơi, chỉ thấy núi non rừng rậm, nước chảy lá trôi, chim hót véo von, mây che mờ mịt mà bóng Thôi không thấy đâu cả. Tấn Văn Công có ý không bằng lòng, nói với người láng giềng:
- Sao Giới Tử Thôi giận ta quá như vậy? Ta nghe nói Giới Tử Thôi là người con chí hiếu, nếu ta đốt rừng tất Giới Tử Thôi cõng mẹ chạy ra.
Ðoạn, truyền cho quân phóng lửa đốt rừng. Lửa to gió mạnh làm cháy lan đến mấy dặm, trong ba hôm mới tắt, nhưng không thấy Giới Tử Thôi. Bấy giờ họ đi tìm thì thấy mẹ con Thôi ôm nhau chết cháy bên gốc cây liễu.

Tấn Văn Công nhìn thấy sa nước mắt, ân hận vô cùng.

Ngày đốt rừng nhằm tiết Thanh minh mùng 3 tháng 3. Người trong nước cảm thương Giới Tử Thôi vì lửa cháy chết, nên hằng năm đến ngày đó không nỡ đốt lửa, phải làm sẵn thực phẩm để dành ăn, gọi là tiết Hàn thực tức là ăn toàn độ nguội. Vào ngày này, nhà nào cũng cắm một cành liễu ở ngoài cửa nhà để chiêu hồn Giới Tử Thôi. Cũng có nhà bày cỗ bàn (đồ nguội) ra cúng tế.

"Nguyên tiêu" là đêm đầu năm và có trăng đầu năm tức rằng tháng Giêng. Tục Trung Hoa, nhứt là đời nhà Ðường (618- 907) đêm Nguyên tiêu tại Kinh đô Trường An mở hội Hoa đăng, người người rộn rịp vui chơi suốt đêm. Cách xa Trường An 10 dặm vẫn còn nghe tiếng huyên náo ồn ào vẳng lại.

"Ðêm đêm Hàn thực ngày ngày Nguyên tiêu" dùng để chỉ sự tấp nập vui vẻ từ đêm nầy sang đêm khác, ngày nầy sang ngày khác, khách làng chơi vào ra ra vào cửa hàng (lầu xanh) của mụ Tú bà. Mụ khấn vái trước thần Bạch Mi phò hộ cửa hàng của mụ được đắt khách như thế.

Tiết Hàn thực không ăn ban đêm mà ăn vào ban ngày. Ngược lại, Nguyên tiêu không tổ chức các cuộc hội hè lễ bái ban ngày mà vào ban đêm. Lẽ ra phải viết: "Ðêm đêm Nguyên tiêu, ngày ngày Hàn thực" hoặc ngược lại mới đúng. Có thể vì hạn vận, tác giả "Truyện Kiều" phải viết: Ðêm đêm Hàn thực ngày ngày Nguyên tiêu để chỉ sự náo nhiệt, tấp nập ngày và đêm mà thôi.
 
T

trifolium

Nhất tiếu thiên kim

Mã Giám Sinh nhìn thấy sắc đẹp của Kiều, hắn đã đánh giá cao:

"Ðã nên quốc sắc thiên hương
Nụ cười này hẳn nghìn vàng chẳng ngoa"

(câu 825 và 826)

"Một nụ cười nghìn vàng", chữ Hán là "nhất tiếu thiên kim". Vương Tăng Nhu vịnh nàng Sủng Cơ, có câu:

Tái cổ liên thành dịch
Nhứt tiểu thiên kim mãi

Tạm dịch

Nhìn lại nửa thành liền cũng chuyến
Một nụ cười nghìn vàng cũng mua

Lý Bạch, thi hào đời nhà Ðường cũng có câu: "Mỹ nhân nhất tiến hoán thiên kim" (nụ cười của người đẹp đổi ngàn vàng)

Nhà Châu, U Vương (781- 770 trước Dương Lịch) có Hoàng hậu tên Bao Tự (cũng có tên Bao Tỷ), người có sắc đẹp lộng lẫy, nhà Vua cực kỳ sủng ái. Có điều lạ, Bao Tự không bao giờ cười. Người đẹp mà cười tất nụ cười càng đẹp, càng duyên dáng thế nào, nên nhà Vua muốn nhìn được nụ cười ấy mới hỏi, thì nàng đáp:
- Tiện thiếp chẳng thiết gì cười. Hôm trước có người xé lụa, nghe tiếng cũng lấy làm vui
bao20tu.jpg

U Vương liền truyền lệnh cho viên quan giữ kho, mỗi ngày phải dưng vào cung 100 tấm lụa, rồi sai cung nữ đứng xé. Nhưng Bao Tự cũng chẳng cười. Vua hỏi:
- Sao trẫm không bao giờ được nhìn thấy nụ cười của ái khanh?
Bao Tự thản nhiên đáp:
- Tiện thiếp tính vốn ít cười. Tự nhiên như vậy
Nhà vua cười bảo:
- Trẫm sẽ có cách làm ái khanh cười!
Thế là Vua truyền lệnh cho các quan: ai có cách nào làm cho Hoàng hậu cười được thì sẽ trọng thưởng một nghìn lượng vàng. Bấy giờ có viên quan tên Quách Thạch Phủ bày mẹo:
- Tiên vương xưa có xây hơn hai mươi chòi canh (phong hoả đài) ở Ly Sơn, lại đặt mấy mươi cỗ trống to, phòng lúc có giặc sẽ nổi lửa trên chòi và đánh trống báo hiệu cho các chư hầu đem quân đến cứu. Ðã lâu rồi thiên hạ thái bình, không bao giờ đốt đến. Nay nhà vua muốn cho Hoàng hậu cười thì xin nhà vua hãy cùng Hoàng hậu ngự chơi Ly Sơn, rồi đến đêm nổi lửa đốt lên, bấy giờ chư hầu các nơi sẽ đem quân đổ đến. Hoàng hậu thấy chư hầu bị mắc lừa tất phải bật cười.

U Vương khen phải, rồi cùng Bao Tự đến Ly Sơn bày tiệc ăn uống trên lầu cao, đoạn truyền cho người đốt lửa và nổi trống. Lửa đỏ ngất trời, tiếng trống hiệu ầm ầm như sấm.
Các trấn chư hầu tưởng kinh đô có loạn, vội sai tướng điều quân, suốt đêm kéo về cứu giá. Không thấy giặc giã đâu cả, chỉ thấy U Vương cùng Bao Tự đương say sưa chè chén bên cạnh bọn cung nữ hát múa, nhạc trỗi vang vầy. U Vương cho người ra bảo:
- Rất may là không có giặc giã gì. Vậy chẳng dám phiền đến các chư hầu.
Quân tướng các trấn chư hầu ngơ ngác, nhìn nhau rồi truyền cuốn cờ trở về. Bao Tự ngồi trên lầu nhìn thấy quân đội trùng trùng điệp điệp tất tả kéo đến, rồi lủi thủi kéo về thì lấy làm thích chí, vỗ tay cười. Nhìn nụ cười tươi tắn của Bao Tự, U Vương cực kỳ thống khoái, kêu lên:
- Một nụ cười của ái khanh thật đủ muôn vẻ đẹp.
U Vương liền truyền đem nghìn lượng vàng thưởng cho Quách Thạch Phủ.

Nhưng sau, quân Khuyển Nhung sang đánh phá, tiến đến Kiểu kinh (kinh đô nhà Châu), U Vương đại bại truyền đốt phong hoả ở Ly Sơn để cầu cứu. Các trấn chư hầu vì bị mắc lừa lần trước, cho là nhà vua và Hoàng hậu đang yến ẩm nên không đem quân cứu viện. U Vương bị chúa Khuyển Nhung bắt giết chết. Còn Bao Tự lại sa vào tay của chúa Khuyển Nhung. Nhưng cuối cùng, các trấn chư hầu xua quân phản công. Quân Khuyển Nhung đại bại. Chúa Khuyển Nhung bỏ chạy. Bao Tự không theo kịp, tự tử.

Nụ cười tuyệt đẹp giá trị đúng nghìn vàng.

Dám tốn nghìn vàng để mua một nụ cười đẹp của người con gái đẹp.

"Truyện Kiều" đoạn diễn tả tính ăn tiêu hoang phí của Thúc Sinh, một tên đi buôn, có câu:

Thúc Sinh quen thói bốc trời
Trăm nghìn đố một trận cười như không
(câu 1303 và 1304)

Vì muốn nhìn nụ cười đẹp duyên dáng củamột giai nhân mới gây nên hậu quả tai hại, nhân đó bài hát của Lý Diên Niên, có câu:

Nhứt cố khuynh nhân thành
Tái cố khuynh nhân quốc
(Một nhìn người nghiêng thành
Nhìn lại người nghiêng nước)

Có người sau đổi lại chữ "cố" ra chữ "tiếu" là "cười":

Nhứt tiếu khuynh nhân thành
Tái tiếu khuynh nhân quốc

Ðổi như thế cũng hợp, cũng hay
 
Last edited by a moderator:
T

trifolium

Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo

Đoạn miêu tả con người và khí phách hào hùng tài ba của Từ Hải, có câu:

"Ðội trời đạp đất ở đời
Họ Từ tên Hải vốn người Việt đông
Giang hồ quen thói vẫy vùng
Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo"

(Câu 2171 đến 2174)

Và, đoạn Kiều khuyên Từ Hải ra hàng triều đình, có câu:

"Ngẫm từ việc dấy binh đao
Ðống xương vô định đã cao bằng đầu
Làm chi để tiếng về sau
Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào!"

(câu 2493 đến 2496)

"Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo" và "Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào" vốn một điển tích.

Nguyên Hoàng Sào có hai câu thơ:

Bán khiên cung kiếm bằng thiên túng
Nhất trạo giang sơn tận địa duy
(Nửa vai cung kiếm tận trời cao
Một chèo non sông xông pha khắp cõi)

Hoàng Sào là một lãnh tụ nông dân quật khởi gần cuối đời nhà Ðường (618- 907)

Nguyên nhà Ðường từ vua Ðại Tông (763- 765) đến Hy Tông (874- 888) thì thế nước càng suy. Phiên Trấn hoành bạo ở ngoài, hoạn quan chuyên chính bên trong. Phiên Trấn thì nắm quyền thưởng phạt, sinh sát nhân dân trong tay; hoạn quan thì thiện tiện phế lập vua chúa.

Chính cuộc đã nguy như thế làm cho mối loạn trong dân gian càng gia tăng. Những bần cố nông phải bỏ trốn, phiêu bạt. Một số ít có ruộng đất bị kiêm tính cũng bỏ quê quán mà thành lưu vong, hoặc làm điền nô ở các trang viên, hoặc tụ họp làm trộm cướp.

Tài chánh kiệt quệ, kho tàng nhà nước trống rỗng, triều đình phải đánh thuế nặng. Vừa tai nạn binh đao lại xảy ra lụt ngập rồi hạn hán luôn năm làm cho nhân dân càng cực kỳ khốn khổ.

Hoàng Sào tự Cự Thiên, người ở Tào Châu vốn con của một nhà bán muối, nhưng rất thông minh, văn võ đều giỏi, chỉ có vẻ ngoài quá thô xấu. Năm Càn Phủ thứ ba (876), đời vua Hy Tông, Hoàng Sào đi thi đỗ được võ cử Trạng nguyên. Nhưng vua thấy hình dung xấu xí của Hoàng Sào nên không dùng, đuổi Sào đi.

Hoàng Sào ra khỏi triều môn trở về, giữa đường ghé quán nghỉ, lòng đầy căm tức. Sào nghĩ thầm:
- Khi đăng bảng mở khoa thi thì nói chọn người có tài văn chương hay võ nghệ, chớ không thấy nói chọn người mặt mày đẹp đẽ. Nếu ta dè hôn quân lấy diện mạo chọn người thì ta có đi thi làm chi cho uổng công.

Tức khí quá, Hoàng Sào lấy bút mực, viết một bài thơ trên vách quán rồi bỏ ra đi:

Lược thao như mỗ đáng phong hầu
Mắt thịt hôn quân dễ biết đâu
Nếu được đôi ba ngàn tử đệ
Ðoạt thâu thiên hạ bốn trăm châu
(Tào châu Hoàng Sào tự Cự Thiên Ðế)

Quân tuần hành đến quán trông thấy bài thơ, liền chép lấy dâng lên vua. Nhà vua tức giận, truyền hoạ đồ hình Hoàng Sào và ra lệnh tập nã. Hoàng Sào hay tin, không dám đi đường lớn nữa, phải lặn lội trong rừng núi thẳng lên Thái Hành Sơn, chiêu binh mãi mã. Hơn một năm, Hoàng Sào chiêu mộ được trăm muôn binh, thêm một số tướng tá văn võ giỏi, thế lực rất mạnh. Sào tự xưng là Xung thiên đại tướng quân, đem hơn 10 vạn quân đoạt được nhiều Châu, và vượt qua sông Dương Tử, xuống đánh chiếm miền Giang Nam, ra phía đông đến Chiết Giang, lại đánh Phúc Châu, Kiến Ninh rồi thẳng đường XUỐNG CHIẾM LẤY QUẢNG CHÂU. Ở NHỮNG NƠI ĐÂY, HOÀNG SÀO GIẾT HẠI RẤT NHIỀU DÂN thành thị cùng 20 vạn người ngoại quốc buôn bán gồm những giáo đồ Hồi, Cơ đốc, Bái hoả, người Do Thái và người Arập.

Sau vì miền Nam có bệnh dịch, Hoàng Sào tiến quân lên Bắc. Năm 880 vây hãm Ðông Ðô rồi chiếm lấy Trường An, đánh phá và giết chóc những người quý tộc, quan lại và phú hào, số không kể xiết. Vua Hy Tông bấy giờ phải bỏ hoàng thành, chạy vào đất Thục. Hoàng Sào tự xưng là Ðại Tề Hoàng đế. Thật là thoả chí bình sinh.

Hoàng Sào trước muốn thoả lòng căm hận và muốn cứu muôn dân thoát cảnh lầm than, nhưng đến khi thực hành thì lại chẳng cứu muôn dân mà ngược lại, gây thảm hoạ tang tóc cho muôn dân. Tướng tài Châu Ôn là bộ hạ của Hoàng Sào bất mãn đầu hàng triều đình. Trong số hơn 50 vạn quân của Sào cũng chán ghét Sào, dần dần bỏ trốn theo Châu Ôn. Còn vua Hy Tông sau khi bỏ chạy vào Tứ Xuyên, nhờ người Tây Ðột Quyết (một giống dân ở phía bắc sa mạc châu á) là Lý Khắc Dụng đem quân cứu viện. Nhà Ðường được trung hưng.

Năm 884, Hoàng Sào bị Lý Khắc Dụng đánh bại, rồi bị một tên bộ hạ ám sát tại Biện Châu. Có sách chép là Hoàng Sào đánh trận bị thương nặng, trở về tư dinh đâm cổ tự tử.

Mượn ý hai câu thơ của Hoàng Sào, thêm chữ "đàn" tác giả gói lại làm một "gươm đàn nửa gánh non sông một chèo" để nói về Từ Hải, con người thích thú giang hồ, thích tự do phóng khoáng, vẫy vùng. Ðời chỉ cần một thanh gươm, một cây đàn với một mái chèo. Và, Từ Hải không chỉ là một nhà võ mà còn là một nghệ sĩ, một tài tử phong lưu. Từ không phải là một phàm phu tục tử, chỉ là một hạng võ biền mà ngoài việc múa kiếm, Từ còn biết đánh đàn. Cũng do đó, Từ mới tìm đến Kiều là người nổi danh tài sắc...

Riêng về điển tích, Hoàng Sào trước là một anh hùng, nhưng sự nghiệp không bền vì hiếu sát, làm mất lòng dân và tướng sĩ, từ anh hùng trở thành giặc loạn, nên Kiều khuyên Từ "nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào!".

Muốn cho Từ Hải hàng triều đình, Kiều hết sức lý luận, mượn đống xương "Vô Ðịnh", nhất là tướng giặc Hoàng Sào để dẫn chứng làm mạnh lập luận của mình (đây là tác dụng của cách sử dụng điển cố), nhưng ở đoạn này, ta thấy Kiều dùng cách so sánh một cách quá đáng với con người Từ Hải. Trước kia, khi buổi sơ ngộ, Kiều đã tha thiết đề cao Từ:

Thưa rằng: "Lượng cả bao dung
Tấn Dương được thấy mây rồng có phen"
(câu 2195 và 2196)

Và, Kiều được Từ coi là kẻ tri kỷ. Vì Kiều biết được chí khí của một anh hùng chưa tạo được thời cơ để dựng nghiệp lớn; và như vậy Kiều, vô hình trung chấp nhận cuộc quật khởi của Từ. Thế khi "huyện thành đạp đổ năm toà cõi Nam" và "triều đình riêng một góc trời/ gồm hai văn võ rạch đôi san hà", thì bây giờ Kiều cho Từ là một tướng giặc giết chóc, tàn sát gây nhiều tội ác! Sao Kiều có tư tưởng bất nhất? Tác giả Truyện Kiều có dụng ý chăng? Dụng ý này phải chăng vì tư tưởng bị hạn chế, hay làm một việc khởi dẫn khéo léo để Kiều có những ray rứt, hối hận mới trầm mình dưới sông Tiền Ðường sau nầy?

Tuy nhiên, đoạn kế tiếp, tác giả chuyển vội quá:

Nghe lời nàng nói mặn mà
Thế công Từ mới chuyển ra thế hàng
(câu 2499 và 2500)

"Mặn mà" làm sao được khi kẻ được gọi là tri kỷ kia so sánh Từ như một Hoàng Sào? Người đọc hẳn thấy có chỗ quá gượng gạo. Phải chăng văn chương phản ánh trung thực tâm trạng của tác giả "hàng thần lơ láo phận mình ra đâu!"
 
T

trifolium

Bây giờ gương vỡ lại lành

Sau 15 năm lưu lạc, Kiều được sum họp gia đình. Thuý Vân trước đã nhận lời thay Kiều làm vợ Kim Trọng và cũng được cha mẹ chấp nhận. Nhưng trong buổi tiệc đoàn viên, Vân đứng lên khuyên Kiều và Kim Trọng nối lại duyên xưa. Có câu:

"Những là ràng ước mai ao
Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình
Bây giờ gương vỡ lại lành
Khuôn thiêng lừa lọc đã dành có nơi
Còn duyên nay lại còn người
Còn vầng trăng bạc còn lời nguyền xưa"

(câu 3069 đến 3074)

"Tình sử" Trung Hoa chép:

Nước Trần đời Xuân Thu có chàng nho sĩ tên Từ Ðức Ngôn theo hầu cận Thái tử có tình với công chúa Nhạc Xương. Cả hai tha thiết yêu nhau vừa được kết duyên chồng vợ.

Gặp lúc nước Tần có loạn, giặc đánh vào kinh thành, tình thế nguy ngập. Công chúa bảo Từ:
- Thế ta yếu, chạy loạn có thể vợ chồng ta có lúc phải xa nhau. Nếu tình duyên chưa dứt tất có ngày tái hợp. Ðể lấy làm tin, chàng giữ một mảnh gương này. Cứ ngày rằm tháng giêng, chàng sẽ đem ra chợ Trường An bán để làm tin gặp nhau.

Ðoạn, công chúa cầm lấy chiếc gương của vợ chồng hằng ngày thường soi mặt, đập vỡ làm hai, chia nhau mỗi người giữ một mảnh.

Giặc đột nhập kinh thành. Từ chạy thoát. Công chúa thất lạc, bị tướng giặc là Việt Công cưỡng bách làm vợ. Công chúa đau khổ vô cùng, muốn tự tử. Nhưng Việt Công cho người canh giữ nghiêm nhặt. Vả lại, Công chúa còn đặt hy vọng tìm cách báo tin cho chồng biết, hay chờ tin chồng sống chết thế nào trước khi nàng chết.

Từ Ðức Ngôn từ khi chạy loạn, lưu lạc khắp nơi, không biết vợ ở chốn nào, nhưng nhớ lại lời dặn của vợ, nên đến rằm tháng giêng, đem mảnh gương ra chợ Trường An bán để tìm nhau. Người đi chợ thấy Từ bán mảnh gương vỡ thì ai cũng bật cười, cho là người mất trí.

Ở TRONG CUNG CẤM, CÔNG CHÚA NHỚ LỜI DẶN TRƯỚC NÊN ĐẾN NGÀY RẰM tháng Giêng, nhờ đứa hầu thân tín đem nửa mảnh ra chợ, xem người nào có bán nửa mảnh gương, đem so vào hợp thành một cái gương lành thì bảo người ấy cho nàng biết tin tức ra sao.

Thế là Từ biết vợ còn sống, hiện giờ làm vợ tướng giặc nên vô cùng đau đớn. Từ liền viết vào hai mảnh gương một bài thơ, nhờ đứa hầu trở về trao lại cho vợ:

Người đi gương cũng đi
Gương về người chưa về
Hằng Nga đâu chẳng thấy
Chỉ thấy trăng sáng thôi!

Nguyên văn:

Cảnh dữ nhân câu khứ
Cảnh quy nhân vị quy
Vô phục Hằng Nga ảnh
Không lưu minh nguyệt luỵ!

Tiếp được gương và thơ, Công chúa biết chồng còn sống, lòng đau như cắt, úp mặt vào gương khóc lóc bi thiết. Việt Công lấy làm lạ hỏi. Công chúa kể lại sự tình, và quyết chết để trọn tình chồng vợ mà thôi. Việt Công xem bài thơ, biết mình không giữ được Công chúa nên thả Công chúa trở lại cùng chồng.

"Gương vỡ lại lành" (phá cảnh trùng viên) có ý nghĩa là sau khi ly tán được sum họp lại.

Dùng điển cố rất sát ý.

Lời nói thực chân tình của một con người trung thực, mộc mạc. "Khuôn thiêng lừa lọc đã đành có nơi", trời đã chọn lọc, quyết định cho cả hai (tức Kiều và Kim Trọng) kết thành chồng vợ với nhau rồi; vả lại hai người trước đã có lời thề nguyền với nhau thì cần phải giữ, cần phải thực hiện khi được gặp nhau, vì trước "gương kia đã vỡ nay gắn lại cho lành" là lẽ tất nhiên.

Vân nói gọn gàng, vắn tắt.

Vâng lời chị chung thân với Kim Trọng, Vân có buồn tủi thân phận chăng? Nay chị trở về, trả chồng lại cho chị tất chịu thân phận mình làm thứ thiếp, Vân có ganh tị, ghen tuông, hờn mát mà nói "lẫy" không?

Vân, con người trầm lặng, khô khan, khó hiểu.

Bút pháp của tác giả "Truyện Kiều" diễn tả tâm lý, tình cảm của nhân vật trong truyện rất điêu luyện, nhưng đối với Thuý Vân- được coi là nhân vật phụ nên tác giả diễn tả ở phần đầu đơn sơ quá. Phải chăng vì Vân là nhân vật phụ với bản tính mộc mạc, trầm lặng, một nhân vật tầm thường, không cần thiết nên không cần phải lưu ý?

Ca dao ta có câu:

ỚT NÀO LÀ ỚT CHẲNG CAY
Gái nào là gái chẳng hay ghen chồng
Vôi nào là vôi không nồng
Gái nào là gái có chồng không ghen

Hay là:

Có thương nên mới có ghen
Không thương ai ở bạc đen mặc lòng

Hoạn Thư, nhân vật của truyện qua bút pháp của tác giả- đã trở thành một nhân vật điển hình của một người vợ ghen sâu hiểm, có tri thức, có "tầm cở". Nàng bảo thẳng trước mặt Kiều:

Lòng riêng riêng những kính yêu
Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai
(câu 2369 và 2370)

Cho nên đối với tình địch:

Làm cho nhìn chẳng được nhau
Làm cho đày đoạ cất đầu chẳng lên
Làm cho trông thấy nhãn tiền
Cho người thăm ván bán thuyền biết tay
(câu 1549 đến 1552)

và:

Làm cho cho mệt cho mê
Làm cho đau đớn ê chề cho coi
Trước cho bõ ghét những người
Sau cho để một trò cười về sau
(câu 1617 đến 1620)

Dùng một loạt điệp từ "cho", ta có thể tưởng tượng một người đàn bà ghen đương đưa tay xỉa xói, vừa nghiến răng trèo trẹo hét vào mặt tình địch với một giọng đanh đá "cho mày chết, cho mày chết"!

Tâm lý, tình cảm chung của đàn bà. Tất cả đều có máu ghen. Nhiều hay ít. Có trí thức hay vụng về. Có nghệ thuật ghen hay không mà thôi.

Ngược lại- cũng qua bút pháp của tác giả- Vân với Hoạn Thư là hai thái cực. Vân không biết ghen là gì chăng? Vân biết an phận tuỳ duyên "hồng nhan bạc phận" hay Vân là một người đần độn?

"Trai năm thê bảy thiếp..." là một lẽ thường. Có chồng chung với chị hay chị chết thay chị làm vợ... cũng chả có sao. Phong kiến Trung Hoa đã chấp nhận, khuyến khích. Nhưng chế độ tàn khốc đối với nữ giới đó làm sao thống trị được tình cảm, tâm lý hay tiếng đập của con tim. Một nhà văn lãng mạn Pháp cũng đã bảo: "Trái tim có những lý lẽ mà lý trí không biết được" (Le coeur a ses raisons que la raison ne connait pas)

Nếu đi sâu vào bản chất con người và sự việc, ta có thể nhận thấy Vân là một vai trò phụ, nhưng có lúc nàng trở nên một nhân vật chính yếu có tính cách quan trọng trong cuộc đời tình ái giữa Kim Trọng và Thuý Kiều.

Kiều đã tuyệt vọng vì lỡ làng duyên tơ tóc với Kim Trọng nên xin Vân thay mình làm vợ Kim Trọng "gọi là trả chút nghĩa người", nhưng dẫu sao người đọc có thể nghĩ rằng: Kiều cũng có ý không muốn để mất Kim Trọng vào tay của một phụ nữ xa lạ nào khác. Vân đã làm tròn được vai trò này. Ví phỏng không có Vân thì tình tiết dẫn đến đoạn Kiều được sum họp với gia đình và đối với Kim Trọng sẽ ra sao một khi hoàn cảnh đã thay đổi khác: Kim Trọng kết hôn với một người phụ nữ không phải là Vân.

Tuy ở một chế độ gia trưởng, nhưng kẻ làm cha mẹ có ai dám can đảm đứng ra tuyên bố rứt Kim Trọng trong tay Vân để trả lại cho Kiều? Tự Kim Trọng đương nhiên dám mở lời xin Kiều tái hợp duyên xưa với câu hết sức tán tụng Kiều "hoa tàn mà lại thêm tươi; trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa", để rồi "hai thân thì cũng quyết theo một bài"?

Ai? Chỉ có Vân.

"Gương vỡ lại lành", Vân là một nhân vật "mở gút" tuyệt đẹp, một nhân vật cần thiết, hy sinh tình cảm uẩn khúc của mình, thà mang tiếng mà nhà thơ nữ Hồ Xuân Hương đã nguyền rủa một cách căm hờn cay đắng:

Chém cha cái kiếp lấy chồng chung

Và:

Thân này ví biết dường này nhỉ
Thà trước thôi đành ở vậy xong!

Chửi cái kiếp lấy chồng chung, phải chăng nữ sĩ họ Hồ có ngụ ý chửi cả chế độ.

Vân đem lại cho người đọc nhiều cảm tình. Tác giả Truyện Kiều diễn tả đơn giản quá, chỉ cho người một khái niệm: Vân mộc mạc, chất phác, con người chỉ sống bình lặng, hưởng thụ... đến độ xem như ngô nghê, ngốc nghếch không xa lắm... nhưng đó chỉ là ở giai đoạn đầu. Nay đến giai đoạn cuối, vai trò này lại nổi bật lên một cách bất ngờ, không giống các nhân vật khác mà tác giả đã diễn tả.

Ðể nhân vật (Vân) dùng lời nói rất văn chương bóng bẩy theo ý định cương quyết (chịu làm phận lẻ mọn) được cho là nhiều nhất trong đoạn đời nàng, có thể để người đọc nhận xét, đánh giá một con người chất phác gần như ngô nghê đó vẫn chan chứa một tâm lý uẩn khúc, một trí thức biết người biết mình và một tình cảm rất đẹp... dành cho gia đình: cho cha mẹ, cho chị, cho chồng.

Trong "Tam quốc diễn nghĩa", tác giả La Quán Trung diễn tả hành động của Ðiêu Thuyền, thực hiện "Liên hoàn kê" thành công, giết được tên ác bạo khát máu Ðổng Trác, về ở với Lữ Bố. Nhưng sau thất bại trận Hạ Bì, Lữ Bố bị Tào Tháo bắt giết chết đâu còn thấy bóng dáng Ðiêu Thuyền ở chỗ nào? Nhà phê bình Thánh Thán có lời cho rằng: "Nàng chính là con Rồng thiêng, chỉ lộ cái đầu, cái mình với đời mà không cho đời sau biết cái đuôi mình ẩn ở đâu hết. Có thể danh tiếng mới không bị tổn thương".

Ở ĐÂY, TÁC GIẢ TRUYỆN KIỀU CÓ KHÁC. BẰNG VÀI NÉT CHẤM PHÁ ĐƠN giản cái đầu Rồng dẫn đến thân Rồng, cuối cùng cái đuôi Rồng rất sung mãn, làm tăng vẻ uy nghiêm cho toàn bộ con Rồng.

Thuý Vân tất nhiên không phải là Ðiêu Thuyền đóng vai trò "con Rồng" đời Tam quốc, nhưng muốn nói đến tính cách diễn tả vai trò Vân qua bút pháp của tác giả Truyện Kiều. Vì giấu đuôi để "có thể danh tiếng mới không bị tổn thương" là một điều hay. Nhưng để lộ đuôi mà làm tăng danh tiếng mới là tuyệt diệu?

Tất cả 14 câu. Trong truyện, đến bây giờ mới được nghe Vân nói nhiều nhất.
 
T

trifolium

Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang

Ðoạn diễn tả Kim Trọng mong nhớ Kiều, đi tìm chỗ ở của Kiều, có câu:

"Bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người
Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi
Một vùng cỏ mọc xanh rì
Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu
Gío chiều như giục cơn sầu
Vi lô hiu hắt như màu khẩy trêu
Nỗi riêng nhớ ít tưởng nhiều
Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang"

(câu 259 đến 266)

Và, khi Kiều sang tiếp xúc với Kim Trọng, có câu:

"Sinh rằng: Gío mát trăng trong
Bấy lâu nay một chút lòng chưa cam
Chày sương chưa nện cầu Lam
Sợ lần khân quá ra sàm sỡ chăng?"
(Câu 455 đến 458)

"Lam Kiều" là một cái cầu bắc trên sông Lam thuộc huyện Lam Ðiền, tỉnh Thiểm Tây.

Ðời nhà Ðường, triều Mục Tông (821- 825) có một chàng nho sĩ tên Bùi Hàng, lều chõng đi thi mấy lần đều hỏng. Buồn cho thân thế sự nghiệp, Bùi rày đây mai đó ngao du danh lam thắng cảnh. Một hôm, Bùi thuê đò đi Tương Hán, định sang ghé Ngọc Kinh để xem phong cảnh. Cùng đáp một chuyến đò có một mỹ nhân tên Vân Kiều, người đẹp lại đoan trang, thuỳ mị. Bùi sinh cảm mến, lòng tha thiết mong được kết duyên, mới mượn thơ thay lời, bạo dạn nhờ nữ tỳ của giai nhân đưa giúp:

"Ðồng vi Hồ Việt do hoài tưởng
Huống hồ thiên tiên cách cẩm bình
Thảng nhược Ngọc Kinh triều hội khứ
Nguyện tuỳ loan hạc nhập thanh vân"

Phan Như Xuyên dịch:

"Kẻ Hồ người Việt còn thương nhớ
Huống cách người tiên chỉ bức mành
Ví được Ngọc Kinh cùng nối gót
Xin theo loan hạc đến mây xanh"

Vân Kiều xem thơ, vui vẻ mĩm cười.

Nhưng thơ gởi đi mà thơ hồi âm chẳng có. Bùi Hàng lòng áy náy, băn khoăn. Khi đò sắp ghé bến chia tay, Bùi bỗng tiếp được thơ do nữ tỳ của giai nhân đưa đến:

"Nhứt ẩm Quỳnh tương bách cảnh sinh
Huyền sương đáo tận kiến Vân Anh
Lam kiều tự hữu thần tiên quật
Hà tất khi khu thượng Ngọc Kinh"

Phan Như Xuyên dịch:

"Uống rượu quỳnh tương trăm cảnh sinh
Huyền sương giã thuốc thấy Vân Anh
Lam Kiều vốn thực nơi tiên ở
Hà tất nhọc nhằn đến Ngọc Kinh"

Bùi không hiểu ý nghĩa ra sao, định hỏi. Nhưng thuyền vừa ghé bến thì Vân Kiều và nữ tỳ thoáng mất. Bùi bồi hồi lại nghiền ngẫm hai câu thơ cuối, Bùi không đến Ngọc Kinh mà hỏi dò người đến Lam Kiều.

Trời trưa nắng gắt, Bùi mệt lả người liền ghé vào một hàng nước nghỉ chân, hỏi nước uống. Bà lão gọi người con gái bưng nước ra. Nàng rất đẹp, trông dáng tựa vẻ Vân Kiều. Bùi bạo dạn hỏi, thì ra nàng là em của Vân Kiều tên Vân Anh. Bùi mừng rỡ cho là gặp duyên trời định, mới thuật lại chuyện bài thơ cho bà lão nghe. Bà cười bảo:
- Hẳn là con Vân Kiều muốn xe duyên cho cậu đấy
Bùi nghe nói nỗi mừng biết lấy chi cân. Nhưng bà cho biết là hiện bà có cái cối mà còn thiếu chiếc chày ngọc để giã thuốc Huyền sương, nếu Bùi tìm được chày này thì bà mới bằng lòng cho hai đàng kết duyên tơ tóc. Bùi ưng chịu. Nhưng tìm mãi mà không nơi đâu có chày ngọc. Lòng buồn tha thiết nhưng vẫn không nản chí. Tưởng đã thất vọng, một hôm may mắn Bùi gặp một cụ già bán ngọc mách rằng: tại phố hàng thuốc bắc ở Quắc Châu có một nhà muốn bán một cái chày ngọc, giá đến 200 lượng vàng, nếu cần mua cụ sẽ viết thư giới thiệu. Bùi Hàng mừng rỡ, trở về quê nhà bán tất cả tài sản được 200 lượng vàng, rồi sang Quắc Châu mua được chày ngọc. Lại đem đến Lam Kiều dưng cho bà lão. Bà vô cùng khen ngợi.
Vân Anh lại bảo:
- Ðã có chày ngọc nhưng phải ra công giã thuốc Huyền sương một trăm ngày cho thuốc trường sinh được nhuyễn, thì mới làm lễ thành hôn.
Bùi Hàng vâng theo. Kết quả, Bùi Hàng và Vân Anh nên vợ chồng. Sau cả hai đều thành tiên.

"Chày sương" là chày ngọc dùng để giã thuốc trường sinh "Huyền sương". "Lam Kiều" chỉ chỗ tiên ở hay người đẹp ở, hoặc chỉ duyên tốt đẹp như gặp duyên với... Tiên.

Trước kia, tác giả "Truyện Kiều" diễn tả Kiều sang chỗ ở của Kim Trọng:

"Xắn tay mở khoá động Ðào
Rẽ mây trông tỏ lối vào Thiên thai"

Như vậy, Kiều cho chỗ ở của Kim Trọng như một cảnh tiên. Còn Kim Trọng đối với chỗ ở của Kiều như thế nào?

"Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang"

Như vậy, chỗ ở của Kiều cũng là cảnh tiên nữa.

Mối tình đầu của đôi trai tài gái sắc tuyệt đẹp. Họ rất giàu tình cảm, tưởng tượng khá phong phú: tình phối hợp cảnh, cảnh phối hợp tình. Dùng lối thậm xưng, tác giả "Truyện Kiều" diễn tả cảnh và tình của đôi trai gái rất chung nhứt.

Nhà thơ Xuân Diệu đã có câu:

"Từ lúc yêu nhau hoa nở mãi
Trong vườn thơm ngát cả hồn tôi"

Ðương lúc tha thiết yêu đương tất cả đều đẹp, đều là ... tiên một cõi.
 
T

trifolium

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em

Kiều bán mình chuộc tội cho cha, sắp phải theo Mã Giám Sinh, lìa gia đình xa quê hương, nghĩ đến mối tình thề nguyền cùng Kim Trọng phải dang dở, nàng tha thiết nhắn nhủ em là Thuý Vân, xin thay mình mà kết duyên với Kim Trọng. Có câu:

Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em

(câu 723 đến 726)

"Keo loan" do chữ "loan giao" là một thứ keo chế bằng máu chim loan (phượng máu)

Sách "Hán Võ ngoại truyện" có chép: đời nhà Hán, triều Hán Võ Ðế (140- 86 trước DL), dây cung đem ra căng bắn thường bị đứt. Bấy giờ miền Tây Hải có đem sang cống một thứ keo chế bằng máu chim loan gọi là loan giao, có tác dụng nối chắc dây lại. Nhờ đó mà bắn được suốt ngày. Võ Ðế mừng lắm, đặt tên thứ keo đó là "Tục huyền giao" tức là keo nối dây cung.

"Hán thư" cũng có chép chuyện.

Vua Võ Ðế truyền phu nhân Câu Pha đánh đàn. Nàng vặn trục so dây, tiếng đàn trỗi lên lảnh lót... Nhưng giữa chừng dây bỗng đứt. Nàng khóc, nói:
- Giữa lúc đàn đương ngon tiếng mà dây đứt ắt điềm gở
Nhà vua an ủi:
- Dây đứt nhưng có thể nối lại được, có gì mà gở

Ðoạn sai người lấy keo loan chắp lại.

Ðời nhà Tống (950- 1275), Ðào Cốc vâng lệnh vua đi sứ Giang Nam, gặp một thiếu nữ tên Tần Nhước Lan. Trai tài gái sắc thanh khí lẽ thường. Hai người cảm mến yêu nhau. Nhưng chỉ trong một đêm, rồi vì sứ mạng khẩn cấp, Ðào phải gấp rút trở về triều phục lệnh.

Giữa đường hạnh ngộ, mới gặp gỡ lại chia phôi, một đêm ân ái, tình thắm duyên nồng, mối ân tình càng chứa chan trong lòng biết bao niềm cảm xúc, Ðào về có làm một bài từ gởi cho người yêu. Trong có câu: "Tỳ bà bất tận tương tư điệu, tri âm thiếu: đãi đắc loan giao tục đoạn huyền, thị hà niên?" (Ðàn tỳ bà đã gảy hết khúc tương tư mà tri âm ít có; đợi được keo loan chắp nối dây đàn đứt, biết đến năm nào?)

Tác giả "Truyện Kiều" mượn dây đàn (tơ đàn) đứt vì mối tình đứt (đứt gánh tương tư); và mượn sự chắp dây đàn để nói chắp mối tơ tình (Keo loan chắp mối). Nhưng Kiều nhờ cậy em thay mình kết duyên với Kim Trọng, sao lại bảo: "Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa" có vẻ trịnh trọng như thế và hết sức khéo léo. "Lạy rồi sẽ thưa", có thể để người được- hay bị yêu cầu không thể từ chối được điều yêu cầu của mình. Hành động này khiến ta liên tưởng đến hành động của quan Tư đồ Vương Doãn, buộc con gái nuôi là nàng Ðiêu Thuyền "ngồi lên ghế cho ông lạy", để ông nhờ nàng thực hiện "kế liên hoàn", mưu giết Ðổng Trác trong truyện "Tam quốc chí diễn nghĩa" của nhà văn Trung Hoa, La Quán Trung.

Hành động của Vương Doãn là vì nước nhà.

Hành động của Kiều là vì tình riêng tư.

Tuy hai sự việc khác nhau, nhưng mỗi việc đều có tính cách quan trọng riêng của mỗi việc.

Trao việc cho Vân thay mình để làm vợ Kim Trọng, quả thực một việc khó khăn, Vân có lòng tự trọng hay mặc cảm vì Kim Trọng đã yêu Kiều rồi chăng? Và Kim Trọng có bằng lòng lấy Vân làm vợ- để gọi là thay Kiều chăng? Vì phỏng nếu chàng Kim từ chối vì lý do nào đó, thì nỗi tủi thẹn đau đớn của Vân đến mức nào? Ngược lại, chàng Kim bằng lòng vì lời căn dặn- coi như một lời trối nhắn của người yêu xưa, vì tình yêu giữa Kim Trọng với Vân, nhất là Kim Trọng đối với Vân sẽ ra sao? Hay là Vân chỉ là một người "vợ hờ", vì giữa vợ chồng cần có một tình yêu chân thực tức là có nghĩa có tình.

"Lạy rồi sẽ thưa" là đúng, là khéo.

Giá trị của cái lạy cũng như giá trị của sự việc giao phó.

Mặc dầu qua bút pháp diễn tả của tác giả "Truyện Kiều"- ở bước đầu này- nàng Vân là một gái đẹp "trang trọng khác vời; khuôn trăng đầy đặn; hoa cười ngọc thốt; mây thua nước tóc; tuyết nhường màu da"... nhưng tính tình mộc mạc, chơn chất, tình cảm khô khan...

Tuy nhiên về mặt tâm lý, Kiều là một người thông minh nhất là ở địa vị một người chị tất Kiều không thể lợi dụng tính tình mộc mạc của em, để thực hiện một việc làm có tính cách quan trọng thuộc về tình cảm, có ý nghĩa cho suốt cả cuộc đời của một người con gái.

Tác giả cho Kiều "lạy" là tuyệt.

Nhưng rồi tại sao lại "chắp mối tơ thừa mặc em"?

"Chắp mối tơ" tức là tơ tình bị đứt chắp lại. Tơ tình của mình đứt lẽ ra tự mình chắp, nay mình không chắp được nên gọi là tơ thừa thế mà bảo người khác chắp giúp. Thực sự "thừa" có phải là "thừa thãi" là dư, khiến người đọc khó hiểu hay cho là không được nhã... Ngược lại với ý nghĩa "lạy" rồi sẽ thưa? Hợp lý, hợp tình hay không, tưởng một vấn đề còn bàn.
 
T

trifolium

Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan

Cũng đoạn than thở, Kiều có câu càng chan chứa nỗi ẩn ức não nuột:

Nợ tình chưa trả cho ai
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan
(Câu 709 và 710)

Nói về tình, người ta thường dùng "tơ tình" (tơ tình đứt ruột lửa phiền cháy gan), "mối tình" (nỗi riêng còn mắc mối tình chi đây)... Những tơ, mối này kết tụ lại làm một, cô đọng thành khối tức "khối tình", thường để chỉ tình chung thuỷ giữa trai gái. Dùng tơ, mối có thể hình dung được cái tính chất của ái tình có sức mạnh giăng mắc, vướng víu.... như một ngó sen đã gãy mà tơ còn dính (ngẫu đoạn ty liên), và khi chúng kết tụ, cô đọng thành khối thì chất lượng càng cao, càng cứng càng nặng.

Người xưa lấy vật gì làm hình dung cho "khối tình" này?

Tại vùng Trúc Giang xưa ở Trung Hoa có một chàng lái buôn tên Quan Diệp Nhược yêu một thôn nữ tên Tần Thuý Hải. Cả hai yêu nhau tha thiết. Họ chờ ngày làm lễ thành hôn.

Quan Nhiệp Nhược phải đi buôn xa... Mỗi chuyến đi có cả hàng tháng. Và, mỗi chuyến đi như thế, chàng đều có hẹn ngày về. Ðúng ngày, nàng ra bến đón người yêu, thì lần nào chàng cũng đúng hẹn cả.

Thời gian xa nhau không lâu nhưng cả hai cảm thấy dài dằng dẳng, nỗi nhớ mong vẫn canh cánh bên lòng. Nhưng vì sự nghiệp để xây dựng gia đình được hạnh phúc, họ đành chịu đựng và cầu mong ngày sum họp nên duyên chồng vợ.

Mùa thu năm ấy, ngô đồng vừa rụng lá, Quan Diệp Nhược lại phải từ giã tạm chia tay cùng người yêu, lên đường sang Hồ Bắc buôn châu bán hợp với mấy người bạn. Cũng như thường lệ, nàng Tần ra tiễn. Chàng hẹn ngày này tháng sau trở về. Và, lần trở về này sẽ làm lễ thành hôn, đã có chút vốn liếng làm ăn ở địa phương, không phải đi xa nữa.

Nhưng chuyến này lại khác.

Ðến ngày hẹn, nàng Tần trang điểm, lòng hớn hở như nở hoa ra đón người yêu. Nàng mỏi mắt trông chờ suốt ngày đêm mà không thấy dạng chiếc thuyền buôn cũ đưa chàng trở về. Rồi ngày này sang ngày khác, mấy lần thu qua đông đến, nàng mỏi mòn mong ngóng đợi chờ nhưng bóng người yêu xưa chẳng thấy, tin tức cũng vắng bặt. Hay là chàng đã bỏ thân nơi đất khách quê người? Nàng đau đớn sống trong nỗi sầu thương mong nhớ. Rồi một ngày đông lạnh lẽo, tuyết rơi phủ trắng đầy trời, nàng Tần trút hơi thở trên giường bệnh.

Theo tục ở địa phương, những gái tiết trinh chết được hoả táng thi hài. Lửa đã đốt cháy thân xác nàng Tần thành tro, nhưng khi người ta bới đống tro tàn lạnh lẽo ấy, bắt gặp một quả tim đóng thành một khối long lanh như ngọc. Mọi người đều lấy làm lạ, cho nàng có một mối tình ẩn ức chi đây nên mới kết đọng thành khối.

Nhưng rồi, một hôm Quan Nhiệp Dược trở về. Sở dĩ chàng sai lời hẹn ước vì gặp phải tai nạn bất ngờ. Ngày về giữa đường, chàng bị bọn cướp chận đón cướp cả tiền bạc, thuyền bè. Một người bạn bị chúng giết, mấy gã chèo thuyền bỏ chạy tán loạn. Thế là chàng phải lênh đênh phiêu bạt, lại lâm trọng bệnh phải nương náu ở một ngôi chùa, tưởng phải bỏ xương nơi đất khách.

Cảm thương người yêu vì quá thương nhớ, lo sợ cho anh mà chết, Quan Diệp Nhược lấy làm đau đớn vô cùng. Chàng cầm lấy quả tim thành ngọc của người yêu mà khóc nức nở. Lạ thay, nước mắt của chàng rỏ xuống trên viên ngọc thì ngọc lại dần dần tan ra hoà theo giọt nước mắt của chàng.

Cổ tích Việt Nam cũng có chuyện:

Trương Chi là một chàng chèo đò.

Trương có giọng hát hay, có lúc thâm trầm, có lúc lảnh lót... với một tâm hồn nghệ sĩ. Những khi hoàng hôn vừa tắt sau dãy đồi xa, bóng đêm bao phủ không gian, lửa chài le lói trên mặt nước sông, thì trên con đò bồng bềnh trôi xuôi theo dòng, Trương lơi mái chèo, mơ màng cất tiếng hát. Giọng chàng trong trẻo, thánh thót... như giọng hót của chim sơn ca vào buổi bình minh.

Tiếng hát của Trương Chi đồng vọng rót vào lầu tây của một quan Tể tướng, làm động lòng của nàng trinh nữ Mỵ Nương. Rồi, mỗi đêm, nàng đứng tựa bên song cửa lầu, lắng nghe tiếng hát của chàng từ xa vẳng lại. Tiếng hát có mãnh lực quyến rũ, làm say sưa lòng xuân phơi phới của nàng. Một mối tình thầm kín, sâu xa bắt đầu nảy nở của một tiểu thư đài các đối với chàng chèo đò nghệ sĩ ngày càng thắm thiết.

Có đêm vắng tiếng hát của Trương Chi, Mỵ Nương bàng hoàng, cảm thấy một nỗi nhớ nhung đè nặng trong tâm tư. Nàng mang một mối tình câm lặng. Nàng mắc phải bệnh, ngày càng trầm trọng, thuốc thang không chữa được. Chỉ mỗi lần có tiếng hát ngoài sông văng vẳng vọng vào thì bệnh nàng đỡ được đôi phần.

Biết con gái cưng say mê tiếng hát của chàng chèo đò, quan Tể tướng bất đắc dĩ phải dời Trương Chi đến, vì chỉ có chàng mới chữa được bệnh của con.

Trước, với giọng hát trong trẻo, thánh thót làm rung động lòng người, Mỵ Nương tưởng tượng người hát phải là một trang tuấn tú. Vì chỉ có người như thế mới có giọng hát như thế. Nhưng khốn thay tạo vật đố toàn, cho được cái này thì rút mất cái khác, Trương Chi không phải là một con người như Mỵ Nương tưởng tượng qua giọng hát thánh thót, trong trẻo, thâm trầm.

Chàng nghệ sĩ chèo đò Trương Chi vai u thịt bắp, nước da đen đúa... Chàng xấu người quá. Mỵ Nương trông thấy chán nản, thất vọng nhưng bệnh dần lại khỏi hẳn.

Tưởng rằng đòi đến sẽ được thành duyên cùng người ngọc, lòng như mở cờ, không ngờ chán chường nỗi tủi nhục, Trương cực kỳ đau đớn, uất ức thành bịnh nặng. Cuối cùng, Trương chết.

Ba năm cải táng, da thịt của Trương đều tan rã. Chỉ còn quả tim đọng cứng lại thành viên ngọc rất đẹp. Có người đem dâng viên ngọc quả tim đó cho quan Tể tướng. Thấy viên ngọc to và đẹp, Tể tướng cho tiện thành chén uống trà.

Mỵ Nương lấy chén ngọc rót nước uống. Vừa nâng chén lên thì trong nước thấp thoáng có bóng hình người, vả lại có tiếng hát văng vẳng đâu đây. Mỵ Nương nhìn kỹ quả là hình bóng của Trương Chi, chàng chèo đò giàu tính nghệ sĩ, nàng đau đớn quá, ôm chén ngọc, nức nở. Nước mắt của nàng rỏ xuống chén ngọc làm chén ngọc dần dần vỡ tan theo giọt nước mắt của nàng.

"Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan" vì khi còn sống, "nợ tình chưa trả" được thì khi đến chết, tình kia vẫn còn canh cánh bên lòng (tình đã đặc thành khối) không tan mất được. Kiều đã cùng Kim Trọng thề nguyền "tóc mây một món dao vàng chia đôi", coi như một món nợ giữa nhau; nay Kiều vì gia biến, nàng không giữ vẹn được lời thề để thành nên đôi vợ chồng tức là nàng chưa trả được nợ. Như vậy thân dầu có chết đi, nhưng món nợ tình ấy vẫn còn đeo đẳng, không bao giờ tan.

Tản Ðà Nguyễn Khắc Hiếu cũng có câu:

Hay là thuở trước bậc tài danh
Ðôi đôi, lứa lứa cũng linh tinh
Giận duyên tủi phận, hờn ân ái
Ðất khách nhờ chôn một khối tình
(Thăm mả cũ bên đường)
 
T

trifolium

Khách qua đường để hững hờ chàng Tiêu

Kiều, vì mình nghĩ đã 15 năm lưu lạc, phấn thải hương thừa không xứng đáng với người yêu nữa, nên quyết liệt từ chối sự tái hợp thành duyên chồng vợ với Kim Trọng, nhưng Kim Trọng vẫn quyết liệt, tha thiết... có câu:

"Xưa nay trong đạo đàn bà
Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường
Có khi biến có khi thường
Có quyền nào phải một đường chấp kinh
Như nàng lấy hiếu làm trinh
Bụi nào cho đục được mình ấy vay?
Trời còn để có hôm nay
Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời
Hoa tàn mà lại thêm tươi
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa
Có điều chi nữa mà ngờ
Khách qua đường để hững hờ chàng Tiêu?"

(câu 3115 đến 3126)

Chàng Tiêu (Tiêu Lang), người đời nhà Ðường, có người vợ rất đẹp tên Lục Châu. Nhà nghèo nên Lục Châu bị người bắt đem dâng cho Quách Tử Nghi, một trọng thần đương triều. Lục Châu trở thành một nàng hầu sủng ái của Quách Tử Nghi. Lòng thương nhớ vợ không nguôi, nhưng từ đó, chàng Tiêu trông thấy vợ lấy làm tủi thẹn cho phận mình rồi, cứ dửng dưng như khách qua đường.

Có chàng tên Thôi Giao học giỏi, thơ phú rất hay. Nhà nghèo nhưng Thôi cũng hào phóng phong lưu rất mực. Trong vùng có nàng họ Lương tên Bích Nga, sắc đẹp lộng lẫy, duyên dáng mặn mà. Cha mẹ mất sớm, nàng ở với người cô ruột. Trai tài gái sắc, Thôi Giao và Bích Nga gặp nhau rồi tha thiết yêu nhau, nhưng vì nghèo nên định một thời gian sẽ lo lắng xây dựng gia đình.

Nhưng thảm thay, mộng đẹp với một cuộc hôn nhân đơn giản chưa thành, mà nhà cô ngày càng sa sút. Cuối cùng, người cô phải bán Bích Nga làm nàng hầu cho một quan Liên soái là Vu Ðịch. Ðược một giai nhân trong vòng tay họ Vu rất mực yêu thương. Vu xuất 40 vạn đồng tiền và xây dựng một lầu đài cho người cô ở.

Thế lực và tiền tài đã chiếm mất người yêu, Thôi đau xót, từ đó như kẻ mất hồn. Suốt ngày, chàng ngơ ngẩn, đứng tựa bên cội cây ngoài dinh quan Liên soái, ngóng trông hình bóng người yêu xưa cho đỡ nhớ thương. Trên lầu, nàng họ Lương nhìn qua cửa sổ, thấy chàng Thôi buồn bã thẫn thờ mà ruột lòng như đứt đoạn.

Gặp tiết Hàn thực, nàng Lương có dịp ra ngoài dinh. Thấy chàng Thôi đứng bên cội liễu, hình vóc võ gầy, nàng Lương càng cảm động, ngồi trên kiệu mà khóc nức nở. Gặp nhau, nhìn nhau nhưng cả hai không dám mở lời, bốn mắt lã chã dòng châu. Thôi đau đớn làm 4 câu thơ:

Theo chân bao kẻ ngóp mùi hương
Tầm tã khăn the lệ mấy hàng
Một tới cửa hầu sâu tựa biển
Chàng Tiêu từ đó khách qua đường

Có kẻ ghét Thôi bắt được bài thơ ấy, muốn hại Thôi nên lòn bài thơ đặt trên bàn quan Liên soái. Họ Vu xem thấy lời đã hay ý lại nhã, đẫm vẻ ai oán não nùng, nên điều tra biết được, có chiều cảm động, liền cho lính tìm đòi chàng Thôi đến. Thôi hoảng sợ quá. Có người thương, xúi chàng đi trốn kẻo bị tai vạ. Nhưng Thôi không biết trốn đâu, đành phải đánh liều vào hầu, có chết đi âu cũng cam phận số.

Vừa gặp Thôi vào, Vu Ðịch liền cầm lấy tay chàng, nói:
- Câu "Một tới cửa hầu sâu tựa biển; chàng Tiêu từ đó khách qua đường", hẳn tiên sinh đau khổ lắm. Bốn mươi vạn đồng với một ngôi lầu kia có là bao mà tiên sinh nỡ tiếc lời thơ không sớm viết cho tôi biết. Kẻ này có hẹp hòi gì mà chẳng cho châu về Hợp phố.

Ðoạn, Vu Ðịch cho người đánh xe đưa nàng Bích Nga về với Thôi Giao để cùng vợ chồng sum họp. Vu Ðịch còn đem tặng nàng Lương tất cả những nữ trang đắt tiền đã sắm trước kia cho nàng.

Câu:

Một tới cửa hầu sâu tựa biển
Chàng Tiêu từ đó khách qua đường

nguyên Hán văn:

Hầu môn nhứt thập thâm như hải
Tùng thử Tiêu lang thị lộ nhân

Thôi Giao đã dùng điển Tiêu Lang (chàng Tiêu) trong bài thơ của mình.. khiến quan Liên soái Vu Ðịch động lòng.

Tchya (bút hiệu của Ðái Ðức Tuấn), một nhà thơ trữ tình của ta cũng có câu:

Ðỡ ly ân ái qua môi thắm
Uống chẳng vơi cho mới bẽ bàng
Khổ nhục mạnh thân vì bát gạo
Ðường tình kìa lại số Tiêu Lang

"Khách qua đường để hững hờ chàng Tiêu", ý của Kim Trọng muốn nói Kiều từ chối kết thành chồng vợ với chàng, tức Kiều cố ý bắt buộc chàng phải hờ hững không nhận nàng nữa. Hay nói một cách khác, tại sao Kiều lại cố ý làm cho chàng phải coi nàng như chàng Tiêu nhìn vợ cũ quá hững hờ. Phải chăng như một nhà thơ đã nói:

Yêu ai lại phải hững hờ vì ai?

Xuất phát từ điển tích chàng Tiêu với nàng Lục Châu, lại tiếp qua truyện nàng Bích Nga với câu thơ của Thôi Giao "Tùng thử Tiêu lang thị lộ nhân" để chuyển thành câu "khách qua đường để hững hờ chàng Tiêu", tác giả Truyện Kiều kết hai (tích và thơ) làm một để ý thêm mạnh bằng một câu thơ Nôm súc tích, ý nhị.
 
T

trifolium

Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương

Ðoạn diễn tả về sắc và tài của Kiều, ngoài sắc đẹp "một hai nghiêng nước nghiêng thành", Kiều còn:

"Thông minh vốn sẵn tư trời
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bực ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên Bạc mạng lại càng não nhân"

(câu 29 đến 34)

"Hồ Cầm" là một thứ đàn giống đàn nhị của ta, kéo bằng cung căng mã vĩ. Kiểu giống đàn tỳ bà, gọi là Nguyệt cầm (đàn nguyệt). Ðàn này do ở Tây vực du nhập Trung Hoa nên gọi là Hồ cầm.

Sách "Uyên giám" cho rằng: người Hồ lấy gỗ ngô đồng chế ra đàn Tỳ bà. Ðàn có bốn dây. Ðầu cung có khắc đầu chim Phượng hoặc đầu con Rồng uốn vào nhau rất mỹ thuật. Cổ đàn dài, mặt phẳng, lưng tròn, thùng rộng và dẹt. Trong thùng đàn có buộc một sợi dây đồng. Khi gảy sợi tơ bên ngoài phát âm, đàn rung thì sợi dây đồng bên trong cũng rung theo, phụ hoạ thành một âm thanh tuyệt diệu. Trên mặt đàn có bốn phím bằng ngà là phím thấp, chín phím bằng trúc là phím cao. Tất cả là 13 phím ở vào một vị trí nhất định. Cung đàn có thước tấc quy định rõ rệt để làm tiết độ cho âm thanh khi trong, khi đục, khi réo rắt, khi trầm buồn, khi hùng tráng, khi thánh thót, lửng lơ...

Năm 33 trước Dương lịch, triều Hán Nguyên đế, Vương Tường tức Vương Chiêu Quân lúc xa lìa tổ quốc sang cống chúa nước Hồ đến ải Nhạn môn, nàng dùng đàn này gảy một khúc đàn có 24 câu rất ai oán. Ngày xưa, gảy đàn Tỳ bà- cũng gọi là đánh đàn- tức là dùng gỗ tròn để buông bắt tiếng rung trên phím đàn như cách đánh đàn Hạ- uy- di (guitare Harwaiene) ngày nay. Về sau, đến đời nhà Ðường (618- 904), triều Ðường Thái Tông (627- 650) có người nhạc trưởng tên Bùi Ngọc Nhi tìm cách bỏ gỗ dùng tay mà vuốt, nắm lấy phím rung vừa nhẹ vừa thanh hơn.

Trong bài "Vịnh Minh phi thôn" của thi hào Ðỗ Phủ đời nhà Ðường, khi đi ngang qua thôn Minh Phi, quê hương của Chiêu Quân, có câu (câu 7 và 8):

Thiên tải Tỳ bà tác Hồ ngữ
Phân minh oán hận khúc trung lôn"

Bùi Khánh Ðản dịch:

Muôn thuở tiếng Hồ trong khúc nhạc
Ðàn Tỳ oán hận vẳng dư thanh

Bạch Cư Dị (772- 846)- một thi hào danh tiếng thời Thịnh Ðường làm Hàn lâm học sĩ bị Vua nghe lời gièm pha biếm làm Tư mã đất Giang Châu. Một đêm khuya mùa thu vắng lạnh, trên bến Tầm Dương, Bạch tiễn chân người bạn ra bến nước, bỗng nghe tiếng tỳ bà văng vẳng trên sông. Vốn sẵn tâm hồn nghệ sĩ, ông liền tìm đến. Nghe tiếng động, tiếng Tỳ bà dứt. Người đánh đàn trên thuyền là một phụ nữ. Trước, nàng là một ca kỹ "nổi danh tài sắc một thời" nhưng thời vàng son trôi qua nhanh chóng, ngày càng nhạt phấn tàn hương, kiếp hoa xuân sớm tàn, rồi khách du cũng dần thưa vắng... Gia đình nàng lại gặp nhiều biến cố: dì chết, em đi lính xa xôi...

Bấy giờ, nàng phải gởi thân cho khách buôn trà. Nhưng cuộc sống quá ghẻ lạnh. Chồng mãi đeo đuổi lợi lộc, bỏ nàng chiếc bóng thui thủi với chiếc thuyền không giữa dòng sông nước mênh mông. Rồi đêm đêm, chạnh nghĩ đến thời quá khứ vàng son trẻ đẹp mà nhìn về tương lai lại mịt mù, nàng chỉ còn biết mượn tiếng tơ đồng của đàn Tỳ bà, để gởi mối sầu cô quạnh chan chứa ở lòng mình!

Bạch Cư Dị nghe tâm sự của nàng ca kỹ mà bắt nao lòng. Nghĩ tâm sự của nàng với tâm sự của mình có điểm tương đồng, vì:

Ðồng thị thiên nhai luân lạc nhân
Tương phùng hà tất tằng tương thức

Phan Huy Vịnh dịch:

Cùng một lứa bên trời lận đận
Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau

Nhân đó, Bạch Cư Dị viết thành bài "Tỳ bà hành":

Kim dạ văn quân Từ bà ngữ
Như thỉnh tiên nhạc nhĩ tạm minh
Mạc từ cánh toạ đàn nhứt khúc
Vị quân phiên tác Tỳ bà hành

Võ Danh dịch:

Ðêm nay nghe được Tỳ bà khúc
Nư nghe tiên nhạc mở thông minh
Chớ từ gảy lại cho nghe nữa
Vì mình ta làm Tỳ bà hành...

Kiều có tài về âm nhạc. "Cung thương làu bực ngũ âm". Ngũ âm tức là năm cung, năm bực trong âm giai: cung, thương, giốc, truỷ, vũ. Cung là tiếng to, nặng, rất thấp, rất đục, chậm. Thương là tiếng hơi đục, hơi thấy, mau lẹ. Giốc là tiếng lơ lửng, không cao, không thấp, không trong, không đục, tiếng tròn và kéo dài. Truỷ là tiếng hơi cao, hơi trong như tiếng chim hót. Vũ là tiếng rất cao, rất trong như tiếng chim vỗ cánh. "Làu bực ngũ âm" tức là sành (rành) âm nhạc. Và, Kiều chuyên sử dụng đàn Hồ rất tuyệt vời, không ai bằng được (nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương). Lại chính tay Kiều soạn lấy bản nhạc và lời (khúc nhà tay lựa nên chương) đều sầu thảm, nhứt là bài "Bạc mạng" càng làm cho người nghe thêm não lòng.

Mở đầu truyện, tác giả "Truyện Kiều" chú trọng giới thiệu Kiều- nhân vật chính- về sắc và tài với số phận của nàng..

Sắc "một hai nghiêng nước nghiêng thành", tài "thi hoạ ca ngâm". Ðặc biệt là âm nhạc. Bản nhạc buồn thảm, lời nhạc ảo não với "thiên Bạc mạng". Hồ cầm, bắt người nhớ đến Chiêu Quân gảy đàn Tỳ bà khi phải sang cống Hồ, lại liên tưởng đến nàng ca kỹ bến Tầm dương... qua bài "Tỳ bà hành" của Bạch Cư Dị.

Từ cách dùng điển cố, dùng vật, dùng từ... mới xem cho là những chi tiết tầm thường, nhưng vốn có mối liên hệ chặt chẽ nhau có tính nhứt quán, trở nên quan trọng để báo hiệu cho cuộc đời của một con người theo chủ thuyết "Tài mạng tương đố", "Tạo vật đố hồng nhan", "Nhứt phiến tài tình thiên cổ luỵ"!.
 
T

trifolium

Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi, Trương

Kiều vẫn dùng lời đoan chính khuyên Kim Trọng, có câu:

Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay
Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi, Trương
Mây mưa đánh đổ đá vàng
Quá chiều nên đã chán chường yến oanh
Trong khi chắp cánh liền cành
Mà lòng rẻ rúng đã dành một bên
Mái Tây để lạnh hương nguyên
Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng
Gieo thoi trước chẳng giữ giàng
Ðế sau nên thẹn cùng chàng bởi ai?
Vội chi ép liễu hoa nài
Còn thân ắt lại đền bồi có khi

(Câu 511 đến 522)

Lý luận đanh thép nhưng vẫn chan chứa tình cảm trước lập luận dẫn chứng "Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi, Trương"

"Thôi, Trương" tức là nàng Thôi Oanh Oanh và chàng Trương Cung tức Trương Quân Thuỵ

"Tây sương ký" (Mái Tây) của Vương Thạch Phủ đời nhà Nguyên có chép:

Ðời Trinh nguyên (785- 805) có chàng Trương Cung tự Quân Thuỵ, người mỹ mạo tuấn tú, tính tình nho nhã. Một hôm sang chơi đất Bồ vào trọ chùa Phổ Cứu. Trong khi đó có người vợ goá họ Thôi sắp về Trường An (kinh đô nhà Ðường), đường đi qua đất Bồ, cũng vào trọ ở đây. Bà vợ của họ Thôi là họ Trịnh, Trương Cung là cháu ngoại họ Trịnh. Kể họ thì bà là dì họ của Trương.

Năm ấy, tướng Hồn Hàm mất tại đất Bồ, viên hoạn quan Ðinh văn Nhã thay thế, không đủ tài điều khiển, nên quân sĩ quấy nhiễu, cướp phá dân chúng. Nhà họ Thôi của cải rất nhiều, tôi tớ cũng lắm, nay ở chốn quê người, không biết nương tựa ai, lấy làm lo sợ. May mắn, Trương Cung nguyên trước có quen thân với tướng ở Bồ, liền xin nhờ bảo hộ. Nhờ đó, gia đình họ Thôi mới thoát nạn. Nửa tháng sau, nhà vua sai người đem cờ thống nhung ra lệnh nghiêm cho quân lính, bấy giờ cuộc loạn mới yên.

Bà họ Trịnh cám ơn Trương lắm, bày tiệc nhà trên đãi Trương, nói:
- Dì chẳng may goá bụa, phải đùm bọc lũ con côi, rủi gặp lúc hỗn quân hỗn quan chắc gì giữ được thân mạng. Hai đứa con thơ yếu của dì sống được là nhờ cháu, ơn này đâu phải tầm thường. Nay xin cho chúng nó ra chào anh để biết mặt, mong có ngày đền báo.
Bà liền cho gọi đứa con trai là Hoan Lang, tuổi mới lên mười ra chào, mặt mày thuỳ mị. Kế gọi người con gái tên Oanh Oanh, tuổi lên 17 ra chào. Nàng lấy cớ trong mình không mạnh, từ chối. Bà mẹ nổi giận, bảo:
- Anh Trương mày cứu được mạng mày. Không có anh, giặc nó lôi mày rồi. Còn gì mà giữ kẽ nữa.
Bấy giờ nàng Thôi mới chịu ra. Nàng trang phục tầm thường, vẻ mặt bơ phờ, không trang điểm gì cả. Mái tóc lơi, đôi mày nhạt, chỉ đôi má ửng hồng. Thế mà nhan sắc đẹp lạ, vẻ lộng lẫy choáng người. Trương giật mình đáp lễ, rồi dần dà đưa lời khơi chuyện, nhưng nàng vẫn không đáp, im lặng mãi đến tan tiệc mà thôi.

Từ đó, Trương say đắm nàng, muốn bày tỏ tâm tình nhưng không biết làm thế nào được. Nhân có con hầu thân tín của Thôi Oanh Oanh là cô Hồng, Trương lén ngỏ ý mình, nhờ cô đưa tin. Hồng bảo:
- Lời cậu nói, con chẳng dám nói mà cũng không dám để lộ. Vả, dòng họ Thôi thì cậu đã rõ. Sao không nhân chuyện có ơn mà nhờ người mối mai?
Trương thở dài:
- Tôi từ tấm bé, không ưa thích chuyện trai gái. Có khi ngồi bên bạn lượt là cũng chẳng để ý nhìn ai. Không ngờ nay lại có người làm say mê lòng mình, đến đỗi suốt mấy hôm, không còn tha thiết đến ăn đến ngủ, sợ ngày một ngày hai là không sống được nữa. Nếu nhờ người mai mối, nào hỏi nào cưới ít ra cũng vài ba tháng một năm, bấy giờ tôi chết đã xanh đám cỏ!

Hồng nghe cảm động, bày Trương viết ít thơ tình sẽ trao cho Thôi. Trương cả mừng, nghĩ ngay hai bài thơ xuân nhờ Hồng làm cánh chim xanh trao cho người đẹp. Chiều hôm ấy, Trương được Hồng cầm một tờ hoa tiên đưa đến bảo là của nàng Thôi. Mở ra xem thấy có bài thơ 4 câu, đầu đề là "Trăng sáng đêm rằm":

Cửa hé theo luồng gió
Trăng chờ dưới Mái Tây
Chạm tường hoa động bóng
Người ngọc đến đâu đây

Trương hơi hiểu ý thơ.

Tường phía đông chỗ ở của họ Thôi có gốc cây hạnh, Trương nhân trèo lên bước qua tường, lần đến mái phía Tây thì thấy cửa hé mở. Hồng đưa Thôi Oanh Oanh đến. Nàng y phục chỉnh tề, vẻ mặt nghiêm nghị, đanh thép bảo:
- Anh cứu sống nhà tôi, ơn ấy to lắm, nên mẹ tôi mới đem trai thơ gái dại mà uỷ thác cho anh. Nhưng sao anh lại nhờ đứa hầu những lời nhảm nhí? Ban đầu thì lấy việc cứu người làm tốt, rốt lại nhân việc người ta khỏi nạn mà đòi hỏi chuyện nọ kia... Lấy loạn thay loạn, anh có hơn bọn giặc là mấy. Muốn nhờ con hầu chuyển lời thì sợ không nói gì hết chân tình, nên tạm mảnh hoa tiên tìm lời bày tỏ. Nhưng ngại anh sinh lòng khó dễ nên phải dùng lời lẳng lơ để anh thế nào cũng sang. Việc làm trái lễ sao khỏi thẹn lòng. Chỉ xin anh lấy lễ giữ mình, chớ nhúng mình vào chuyện không đẹp.

Nói xong, nàng ngoe nguẩy đi vào.

Trương ngồi ngẩn người, một lúc vượt tường trở ra, lấy làm tuyệt vọng!

Vài hôm sau, Trương đương ngủ ngoài hiên, chợt có người đánh thức. Chàng giật mình ngồi dậy thì thấy Hồng bảo: có cô Thôi đến. Trương bàng hoàng, tưởng mình chiêm bao nhưng vẫn thành tâm chờ đợi. Một lúc Hồng đưa Thôi Oanh Oanh đến. Nàng e thẹn, ngượng ngùng, nũng nịu... Không có vẻ nghiêm khắc như trước. Trương phơi phới lòng xuân, tưởng như mình được làm bạn với tiên, nhân gian đâu có con người như thế.

Chuông chùa đổ, trời sắp sáng, Hồng đến giục nàng Thôi về. Nàng rấm rứt khóc, suốt đêm không nói lời nào. Sáng dậy, Trương nửa tin nửa ngờ, cho là chiêm bao chăng? Nhưng sáng rõ ra thấy cánh tay mình còn vấy chút phấn son, áo còn phảng phất mùi hương, mấy giọt nước mắt của nàng còn đọng trên gối .....

Từ đó, cả hai hẹn gặp nhau âu yếm tại mái Tây, thời gian có trót tháng, Trương tối lén vào, sáng lén ra.

Nhưng rồi mộng công hầu, Trương từ giã lên Trường An ứng thí. Thế là có cuộc chia ly. Và, cuộc chia ly nào lại chẳng não lòng đối với đôi bạn tình trai gái. Nhưng Trương đi vẫn không một lời hứa hẹn gì. Buổi tiễn đưa Trương, Thôi có đọc mấy câu thơ:

Rẻ rúng thôi đành phận
Van lơn nhớ buổi đầu
Xin đem lòng lúc trước
Thương lấy kẻ về sau

Năm sau Trương thi không đỗ, ở lại kinh đô, viết thư về an ủi Thôi Oanh Oanh. Thôi có thư phúc đáp. Thư khá dài bày tỏ lòng ân hận chua xót của nàng.

Sau đó, Trương Quân Thuỵ lấy vợ. Thôi Oanh Oanh lấy chồng. Duyên tình Thôi, Trương bẽ bàng như thế, vì Trương đã "mây mưa đánh đổ đá vàng" mà nàng Thôi lại "quá chiều nên đã chán chường yến oanh", dẫn đến hậu quả "để duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng"

Dẫn điển tích "Thôi, Trương" Kiều lại cũng dẫn điển tích để nhấn mạnh thêm ý trên theo thế tương phản:

Gieo thoi trước chẳng giữ giàng
Ðể sau nên thẹn cùng chàng bởi ai?

"Gieo thoi" là cầm cái thoi diệt cửi ném. "Tấm thư" là chép người tên Tạ Côn tỏ vẻ bỡn cợt, trêu ghẹo một cô gái láng giềng. Cô đương ngồi dệt cửi nổi giận, cầm cái thoi ném vào mặt Tạ Côn làm gãy hai cái răng cửa. "Gieo thoa" nguyên ngữ là "Ðầu thoa chi cự" nghĩa là gieo thoi để cự tuyệt, tức là chống cự một cách quyết liệt đối với người con trai lả lơi, trây trưa. Không kháng cự quyết liệt để giữ gìn mình đối với chàng trai nào- kể cả ý trung nhân- tất bị người khinh là người con gái không trinh thục, đoan chính.

"Thẹn cùng chàng", tuy Kiều nói mình sẽ bị hổ thẹn, nhưng cũng gián tiếp nói Kim Trọng cũng bị hổ thẹn. Mà bị hổ thẹn này "bởi ai"? Bởi Kiều hay bởi Kim Trọng hay bởi cả hai. Nhưng chắc chắn ý Kiều muốn nói là bởi Kim Trọng, đổ lỗi cho anh chàng này. Mà sự thực là chàng có lỗi. Như vậy biết lỗi thì phải chừa. Dùng hai tiếng "bởi ai" ở cuối câu rất khéo, dùng thế tấn công quyết liệt nhưng hết sức đậm đà, thú vị... Cho nên chàng Kim phải chịu bó tay quy hàng:

Thấy lời đoan chính dễ nghe
Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân
(câu 523 và 524)

Gặp phải một gái đẹp như thế, một tay có bản lĩnh như thế thì không thêm nể, thêm vì hoàn toàn sao được. Kiều dám mở cuộc chiến vẻ vang có nhiều thử thách, tất Kiều phải biết vượt qua để kết thúc cuộc chiến cũng phải vẻ vang

Giá phỏng ở hoàn cảnh này, Kiều chiều theo ý muốn của Kim Trọng diễn lại cảnh "Thôi, Trương" Mái tây thì sau khi Kim Trọng về Liêu Dương hộ tang chú, rồi trở lại vườn Thuý tìm lại Kiều, biết Kiều đã bán mình rồi thì chàng Kim đâu phải quá nặng tình đau đớn, vừa mến vừa tiếc đến nỗi

Thẫn thờ lúc tỉnh lúc mê
Máu theo nước mắt hồn lìa chiêm bao!
(câu 2835 và 2836)

Vừa giáo dục đạo lý, vừa giáo dục tâm lý ái tình giữa trai gái tiếp xúc nhau để dẫn đến một sự việc cụ thể: Kim Trọng phải theo đuổi mãi đến 15 năm sau mới:

Ba sinh đã phỉ mười nguyền
Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy

Phải chăng tác giả Truyện Kiều khéo sắp xếp.
 
N

neu_em_khong_phai_giac_mo01

Trước hết cám ơn trifolium vì những bài viết sưu tầm tư liệu mà tôi cho là rất hữu ích (không chỉ bài viết này mà cả những bài ở các box khác, môn khác). Mong bạn tiếp tục phát huy để diễn đàn xứng đáng với bản chất của nó là nơi chia sẻ tài nguyên học tập.
Tuy nhiên, khi post các tư liệu tham khảo (không phải do bạn tự viết), thiết nghĩ, bạn nên/cần ghi rõ nguồn gốc tài liệu hoặc nguồn trích dẫn để người quan tâm có thể đối chiếu, so sánh và tìm hiểu. Điều đó cũng thể hiện sự trân trọng với tác giả cũng như cách làm việc khoa học, chu đáo. Đồng ý chứ.
 
T

trifolium

Trước hết cám ơn trifolium vì những bài viết sưu tầm tư liệu mà tôi cho là rất hữu ích (không chỉ bài viết này mà cả những bài ở các box khác, môn khác). Mong bạn tiếp tục phát huy để diễn đàn xứng đáng với bản chất của nó là nơi chia sẻ tài nguyên học tập.
Tuy nhiên, khi post các tư liệu tham khảo (không phải do bạn tự viết), thiết nghĩ, bạn nên/cần ghi rõ nguồn gốc tài liệu hoặc nguồn trích dẫn để người quan tâm có thể đối chiếu, so sánh và tìm hiểu. Điều đó cũng thể hiện sự trân trọng với tác giả cũng như cách làm việc khoa học, chu đáo. Đồng ý chứ.

phải đồng ý vs bạn thôi:khi (122):, một phần mình nghĩ có nhiều bài trên mạng không ít trang đăng nên đối chiếu chẳng khó j` :D một phần do mình lười, sry :D. Nhưng vì cái bản tính đó vốn khó dời nên mình sẽ ghi luôn nguồn vào tiêu đề =)).

Tiếp nào:
Ðem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ

Cũng trong bữa tiệc đoàn viên, tiếp theo lời của Vân, Kim Trọng xin Kiều được kết duyên vợ chồng để bù lại mối tình xưa đã thề nguyền vì gia biến bị dang dở. Kiều từ chối, có câu:
Nghĩ rằng trong đạo vợ chồng
Hoa thơm phong nhị trăng vòng tròn gương
Chữ trinh đáng giá nghìn vàng
Ðiếu hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa
Thiếp từ ngộ biến đến giờ
Ong hoa bướm lại đã thừa xấu xa
Bầy chầy gió táp mưa sa
Mấy trăng cũng khuyến mấy hoa cũng tàn
Còn chi là cái hồng nhan
Ðã xong thân thế còn toan nỗi nào?
Nghĩ mình chẳng hổ mình sao
Dám đem trần cấu dự vào bố kinh!
Ðã hay chàng nặng vì tình
Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru!
Từ rày khép cửa phòng thu
Chẳng tu thì cũng như tu mới là
Chàng dù nghĩ đến tình xa
Ðem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ
Nói chi kết tóc xe tơ
Ðã buồn cả ruột lại dơ cả đời

(câu 3093 đến 3112)
Từ chối lời yêu cầu của Kim Trọng, Kiều cho rằng trong đạo vợ chồng, người phụ nữ lấy chồng phải như là "đoá hoa thơm còn phong kín nhị" hay phải như "vầng trăng tròn rực rỡ" tức có ý chỉ phải còn trinh, đây là một vật quý báu. "Giá đáng nghìn vàng" không phải là một lượng số chỉ định (một nghìn, hai nghìn, ba nghìn...). Nếu hiểu rằng bằng lượng số chỉ định thì tên Mã Giám Sinh mua Kiều bốn trăm lượng ngoài vàng (giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm), như vậy chỉ còn thiếu năm trăm lượng ngoài vàng nữa là mua được cái trinh của Kiều hay sao? Ðối với bọn mua bán dâm hẳn hiểu như vậy. Phong tục tập quán ngày xưa đối với phụ nữ thì không có nghĩa như thế. "Nghìn" (ngàn) ở đây là phiếm chỉ chỉ định từ, chỉ quá số không thể ước định được. Cũng như chữ trinh quý như vàng quá số không đếm được.
Và, như thế trong đêm tân hôn, dưới ánh đuốc hoa (hoa chúc), Kiều chẳng thấy thẹn với Kim Trọng, vì ngày xưa (mai xưa), Kiều còn trinh, còn "tuyết sạch giá trong". Vàng là vật quý nhất của kim loại, trinh là vật quý nhất của người con gái được quý trọng coi như vàng.... Người con gái cần "gìn vàng giữ ngọc", "chọn mặt gửi vàng, chọn người giữ ngọc", vậy người con gái gởi vàng trao ngọc cho ai? Phải chăng để trao gởi cho chàng!
Trái lại, ngày nay đã khác xa rồi.
Vì ngộ biến, 15 năm đoạ đày trong kiếp phong trần luân lạc, trải qua bao nhiêu ong bướm dập vùi như cảnh hoa tàn trăng khuyết... đâu dám đem thân làm một người vợ không xứng đáng với chồng. Và, nếu Kim Trọng có nặng tình với Kiều, muốn lấy Kiều làm vợ thì đêm tân hôn đổi bóng dưới ánh sáng của đuối hoa (hoa đèn), Kiều há chẳng hổ thẹn lắm ru!
"Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm...". "Hoa đèn" có người chú giải: là cái khối khói kết lại trong ngọn đèn dầu, có sắc đỏ và đen, hình giống cái hoa. Nhưng "hoa đèn" ở câu này (câu 3106) không phải là hoa đèn ấy mà là chỉ cái ngọn đèn toả ánh sáng giống như hoa. Lại có người giải thích: "Hoa đèn" là thứ hoa không bị nhơ bẩn, mà Kiều thì như đoá hoa bị vấy bẩn nên càng hổ thẹn với hoa đèn". Hay là "hoa đèn không có ong bướm nào lui tới, còn Kiều thì như đoá hoa "ong qua bướm lại" đã thừa xấu xa, nên nàng thẹn với hoa đèn".
Chắc không phải vậy. Tuy có hay.
"Hoa đèn" hay "đuốc hoa"... ở đây cũng chỉ là một. Tức là đèn nến thắp trong phòng của chàng rể và nàng dâu đêm tân hôn, theo từ Hán là "hoa chúc". Và, hai câu:
Ðuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa
Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru!

Tuy cùng một đuốc hoa hay đèn, nhưng có hai ý nghĩa khác nhau do hai ý của đoạn văn.
Trong đạo vợ chồng, đêm động phòng hoa chúc, nếu nàng còn trinh tiết tất nhìn ngọn đèn mà chẳng hổ thẹn với chàng, vì ngày xưa nàng gìn giữ tặng chàng trong đêm hôm nay. Cũng trong đạo vợ chồng, đêm động phòng, nếu nàng- trước kia đã mất trinh rồi- nhìn hoa đèn hẳn hổ thẹn lấy lòng mình.
Cả hai câu trên đều có dùng chữ "chẳng thẹn". Câu trên "chẳng thẹn" là thực sự chẳng thẹn; câu dưới "chẳng thẹn" mà ngược lại là thẹn. Tác giả dùng lối tương phản trong lập luận của hai chủ đề trái ngược nhau: còn trinh (chẳng thẹn), mất trinh (thẹn) tuy cùng dùng "chẳng thẹn".
Nhưng sao không nói thẹn với chàng như lập luận trên?
Tuy không nói mà đã nói.
Vì rằng: còn trinh tiết thì không hổ thẹn với chàng. Trái lại, mất trinh tiết thì hổ thẹn với chàng là lẽ tất nhiên. Cho nên lập luận dưới, Kiều cho rằng nàng hổ thẹn ở lòng mình mà còn có cả lẫn hổ thẹn với chàng (đó là lẽ đương nhiên). Vả lại, trông hoa đèn (vật vô tri) mà nàng còn thấy thẹn mình, huống chi trông chàng, người yêu với mối tình đầu nay chung chăn gối thì sao chẳng thẹn? Cần gì nói nữa.
Có ý kiến cho rằng: "Thủy chung Kiều chỉ sợ thẹn nên từ chối. Nếu làm cho nàng hết thẹn thì việc xong ngay".
LÀM SAO CHO NÀNG HẾT THẸN? Ý KIẾN TRÊN CHỈ ĐẶT VẤN ĐỀ MÀ KHÔNG CÓ NÊU LÊN biện pháp giải quyết.
Trong việc yêu cầu kết thành chồng vợ này, Kim Trọng rất tha thiết nhưng khá nguỵ biện, lắm lý luận để Kiều đừng thẹn, để chàng đạt được nguyện vọng. Nhưng Kiều vẫn thẹn, còn thẹn. Vì Kiều sống trong tập tục. Lễ giáo phong kiến đã tạo cho nàng có một tính tự trọng về sự trinh tiết của người con gái- điều này cũng tốt đẹp. Nhưng ngược lại, cũng tính tự trọng này lại bị sức mạnh ràng buộc của lễ giáo, tập tục thành khuôn mẫu nhất định nên làm cho nàng có mặc cảm tự ti, coi mình như vi phạm một cách nghiêm trọng.
Hơn nữa, về mặt tâm lý ái tình hay tình dục, qua 15 năm lưu lạc làm khách bán phấn buôn son, Kiều thông minh đã thừa hiểu qua tâm lý người đàn ông trong cuộc thì nay đến với Kim Trọng, một ý trung nhân, một người chồng... tất khó tránh được trong cuộc ái ân phát sinh nhiều ám ảnh hay mặc cảm. Kim Trọng dầu sao cũng là... một đàn ông, nhất là một người chồng!
Nhưng điều này làm cho mặc cảm càng nặng. Do đó, Kiều yêu cầu bằng một câu khẳng định:
Ðem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ
Hẳn cũng có lý.
Vậy cần có thời gian dài. Và chỉ có thời gian với sự đối xử của chàng Kim "trường kỳ bồi dưỡng ái tình" làm lại từ cái bắt đầu của cái bắt đầu. Ðể chuyển từ tình cầm cờ (tình bạn) và tình cầm sắt (vợ chồng), có thể như câu thơ của Vương Nhung đời Nam Tề:
Thoả hiệp kim lan hảo
Phương du cầm sắt tình

Tức là: vừa hợp nhau tình bạn tốt mới vui tình vợ chồng.
"Cầm sắt" là đàn cầm và đàn sắt. Hai thứ đàn thường đánh hoà âm với nhau, chỉ cảnh vợ chồng đầm ấm. Duyên cầm sắt là duyên vợ chồng. Kinh Thi có câu:
Sâm si hạnh thái
Tả hữu thỉ chi
Yểu điệu thục nữ
Cầm sắt vĩ chi

Có nghĩa là: "Ngọn rau hạnh dài ngắn không đều nhau, hái cả bên mặt bên trái; người con gái tươi đẹp dịu dàng tìm được, ta gảy đàn cầm đàn sắt cho nghe để tỏ tình thân yêu". Thơ cổ cũng có câu: "Thê tử hảo hợp như cổ sắt cầm" (vợ con hoà hợp như đàn cầm đàn sắt). Truyện "Lục Vân Tiên" của Nguyễn Ðình Chiểu cũng có câu:
Mừng duyên cầm sắt mối tơ đăng liền
 
T

trifolium

Một nền Ðồng tước khoá xuân hai Kiều

Sau khi dự hội Ðạp thanh, ba chị em Thuý Kiều, Thuý Vân và Vương Quan trên đường trở về, gặp Kim Trọng:

Chung quanh vẫn đất nước nhà
Với Vương Quan trước vốn là đồng thân
Trộm nghe thơm nức hương lân
Một nền Ðồng tước khoá xuân hai Kiều
(câu 153 đến 156)


Ðời Tam Quốc (220- 280), Chúa Nguỵ là Tào Tháo có xây một đài bên sông Chương (huyện Lâm Chương, tỉnh Hà Nam), đặt tên là Ðồng Tước. Ðài cực kỳ tráng lệ, trang hoàng lộng lẫy. Tháo lại tuyển gái đẹp khắp vùng cho chứa vào trong. Vậy mà Tháo còn tham ....

Nhân một dịp du thuyền trên sông Trường Giang, rượu ngà say, Tháo cao hứng nói với các quan:
- Ta năm nay đã 54 tuổi. Nếu chiếm xong Giang Nam, ta cũng được chút vui mừng riêng. Số là trước kia, ta có quen thân cụ Kiều công, được biết cụ có hai cô gái đều là trang quốc sắc. Không ngờ về sau Tôn Sách và Châu Du cưới mất. Nay ta xây đài Ðồng Tước bên sông Chương, nếu hạ được Giang Nam, ta sẽ đem hai nàng họ Kiều về đó ở để vui thú năm tháng về già. Thế là ta mãn nguyện.

Nguyên Tào Tháo có đứa con nhỏ tên Tào Thực tự Tử Kiến có tài hạ bút thành văn. Khi xây xong đài Ðồng Tước, Tháo sai con làm bài phú "Ðồng Tước đài" để ca tụng công nghiệp của nhà họ Tào. Bài phú rất đặc sắc.

Ðể khích Châu Du là Ðô đốc nhà Ðông Ngô đánh Tào Tháo, chúa nhà Bắc Nguỵ, Quân sư nhà Tây Thục là Gia Cát Lượng (Khổng Minh) sửa đổi câu thứ bảy của bài phú. Nguyên văn là:

Liên nhị Kiều vu đông tây hề, nhược trường không chi đế đống

Nghĩa là:

Bắc hai cây cầu tây đông nối lại, như cầu vồng sáng chói không gian

Nhưng Khổng Minh lại đổi ra:

Lãm nhị Kiều vu đông nam hề, lạc triêu tịch chi dữ cộng

Nghĩa là:

Tìm hai Kiều Nam phương về sống, vui cùng nhau giấc mộng hồi xuân

Khổng Minh đem chữ "Kiều" là "cầu" đổi ra chữ "Kiều" là nàng họ Kiều; và đổi cả toàn vế sau để cố ý chỉ vào Tào Tháo muốn bắt hai nàng Kiều: Ðại Kiều (vợ của Tôn Sách) và Tiểu Kiều (vợ của Châu Du) về làm thiếp cho ở đài Ðồng Tước. Nhưng vì cuộc liên minh giữa Ðông Ngô và Tây Thục, lại nhờ Khổng Minh cầu gió Ðông lúc trái mùa, nên Châu Du- Ðô đốc của Ngô- dùng hoả công đốt phá 83 vạn quân của chúa Nguỵ Tào Tháo tại trận Xích Bích. Nguỵ thua to. Mộng chiếm đất Giang Nam để đoạt lấy hai nàng Kiều xinh đẹp làm thiếp của chúa Nguỵ Tào Tháo hoàn toàn tan vỡ.

Nhân đó, nhà thơ Ðỗ Mục đời nhà Ðường có bài "Xích Bích hoài cổ":

Chiết kích trầm sa thiết vị tiêu
Tự tương ma tẩy nhận tiền triều
Ðông phong bất dữ Châu lang tiện
Ðồng tước xuân thâm toả nhị Kiều

Tạm dịch:

Kích gãy cát chìm sắt chửa tiêu
Rửa mài nhận thấy dấu tiền triều
Gío Ðông chẳng giống chàng Chân thắng
Ðồng tước đài xuân nhốt hai Kiều

Cũng đoạn hai bên gặp nhau này giữa chị em Kiều với Kim Trọng, có câu:

Hài văn lần bước dặm xanh
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao
Chàng Vương quen mặt ra chào
Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa
(câu 143 đến 146)

Và, đến đoạn diễn tả khi Kiều trở về nhà, đêm lại trằn trọc mộng thấy Ðạm Tiên:

Thoắt đâu thấy một Tiểu Kiều
Có chiều phong vận có chiều thanh tân
Sương in mặt tuyết pha thân
Sen vàng lững thững như gần như xa
(Câu 187 đến 190)

"Kiều" này là từ chung, chỉ người gái đẹp (viết không hoa). "Hai Kiều" tức là Thuý Kiều và Thuý Vân, vì cả hai đều có sắc đẹp; "tiểu kiều" tức là Ðạm Tiên, một ca nhi nổi danh tài sắc một thời.

"Một nền Ðồng tước khoá xuân hai Kiều", Kiều này là tên "Kiều" đi đôi với nền "Ðồng tước". Ðây là từ riêng chỉ nhân vật (viết hoa), tức là hai nàng Ðại Kiều và Tiểu Kiều con của Kiều quốc lão (kiều công) ở đất Ngô đời Tam quốc. Hai nàng đều tuyệt sắc giai nhân. Ngay cả hai đã có chồng rồi mà chúa Nguỵ Tào Tháo- tuy đã tuyển được nhiều gái đẹp để ở đài Ðồng Tước- nhưng vẫn mơ tưởng ước ao, mong được "mãn nguyện, để vui thú năm tháng về già"!...

Tác giả lấy cái riêng (nhị Kiều) bằng điển tích để dẫn đến cái chung (hai Kiều), chẳng những ý nói nhà họ Vương có hai người gái đẹp kín cổng cao tường (khoá xuân), vừa đề cao cái đẹp của cả hai xứng đáng là tuyệt thế giai nhân.
 
T

trifolium

Quả mai ba bảy đường vừa

Cũng lời khuyên của Vân xin Kim Trọng và Thuý Kiều tái hợp kết duyên xưa, có câu:

Còn duyên này lại còn người
Còn vầng trăng bạn còn lời nguyền xưa
Quả mai ba bảy đường vừa
Ðào non sớm liệu xe tơ kịp thì

(câu 3073 đến 3076)

"Quả mai ba bảy đường vừa" nguyên lấy chữ thơ "Phiếu mai" "Mai rụng" trong Kinh Thi, gồm có 3 chương:

1. Phiếu hữu mai
Kỳ thực nhất hề
Cầu ngã thứ sĩ
Ðãi kỳ cát hề

2. Phiếu hữu mai
Kỳ thực tam hề
Cầu ngã thứ sĩ
Ðãi kỳ kim hề

3. Phiếu hữu mai
Khuynh khuông kỳ chi
Cầu ngã thứ sĩ
Ðại kỳ vị chi

Lược dịch:

1. Quả mơ rụng
Mười phần còn bảy
Ai cầu ta
Hãy kíp chọn ngày

2. Quả mơ rụng
Mười phần còn ba
Ai cầu ta
Kíp rước ngay về

3. Quả mơ rụng
Nghiêng sọt lượm mơ
Ai cầu ta
Kíp ngỏ lời ra
(Bản dịch của Lê văn Hoè)

"Quả mơ rụng, mười phần còn bảy, mười phần còn ba..." chẳng những để nói tiết cuối xuân còn chỉ cái quá thì dần dần của người con gái: mai (MƠ) RỤNG, XUÂN TÀN, HƯƠNG SẮC NHẠT DẦN. Ý NGHĨA TOÀN BÀI ĐƯỢC tác giả "Truyện Kiều" gói lại chỉ trong một câu "Quả mai ba bảy đường vừa", để nói về Kiều xuân quá lứa như mai về tiết cuối xuân... nhưng vẫn còn bảy, còn ba như vậy lấy chồng chưa muộn lắm đâu. Và, theo ý của Vân, Kiều nên "sớm liệu xe tơ kịp thì..." nếu không sẽ lỡ thì luôn (mai rụng).

"Ðào non sớm liệu xe tơ kịp thì", nhưng tại sao Vân- hay tác giả- dùng chữ "đào non" vốn chỉ người con gái đương tuổi dậy thì như sen ngó đào tơ mơn mởn đối với một người như Kiều đã một thời "biết bao bướm lả ong lơi... sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh"?

Hai câu trên có người bàn. Cho rằng:

"Ý CỦA CÂU DƯỚI VÀ Ý CỦA CÂU TRÊN MÂU THUẪN NHAU. TRÊN NÓI "Quả mai ba bảy đường vừa" là nói tuổi xuân quá lứa như mơ về tiết cuối xuân. Dưới nói "đào non" là nói tuổi trẻ đẹp của người con gái dậy thì như cây đào non đương xanh tươi mơn mởn. Như vậy là trên nói quá lứa, dưới nói tuổi dậy thì, trên dưới đều dùng chữ sách để nói bóng gió hai ý trái ngược hẳn nhau. Câu trên ví Kiều như cây mơ (mai), câu dưới lại ví Kiều như cây đào. Văn tứ như vậy là thiếu nhất trí.

"Ðối với Kiều thì chỉ câu "quả mai ba bảy" là đắt thôi, dùng câu "đào non... không đắt" (Lê văn Hoè- Truyện Kiều chú giải).

Và:

"Câu này ngẫm thật buồn cười, như cô Kiều lúc đó còn có thể nói "đào non", thời tác giả thật cũng tài tình vậy! " (Tản Ðà Nguyễn Khắc Hiếu- Vương Thuý Kiều chú giải tân truyện")

Tác giả "Truyện Kiều" có phải sơ suất trong việc dùng điển sách (quả mai, đào non) hay thiên vị Kiều (cho Kiều còn vào tuổi dậy thì như đào non) theo những phê phán trên?

Ở đây, trước nhất, chúng ta có nhận biết đây không phải là lời của tác giả nói mà là lời của Vân- nhân vật trong truyện nói. Nàng nói theo trình độ tri thức hay tình cảm của nàng. Truyện có nhiều nhân vật thuộc nhiều hạng người khác nhau, văn ký thuật tất ghi lại cái khác nhau đó.

Hơn nữa, thiết tưởng chúng ta cần chú ý đoạn đối thoại giữa ba nhân vật trong truyện: Vân, Kiều, Kim Trọng- nhất là hai người sau. Vân mở lời trước khuyên chị nên tái hợp với Kim Trọng. Kiều từ chối. Kim Trọng van vỉ Kiều xin thực hiện như ý Vân đã định.

Vân cho Kiều vừa là quả mai vừa là đào non.

Kiều từ chối vì "xét mình dãi gió dầu mưa đã nhiều", gạt hẳn lời yêu cầu của Vân.

Kim Trọng thì tha thiết với Kiều "dẫu rằng vật đổi sao dời; tử sinh cũng giữ lấy lời tử sinh".

Bấy giờ chỉ còn có Kiều và Kim Trọng đối đáp nhau. Kiều cho rằng: "Dám đem trầu cấu dự vào bố kinh", định "đem cầm sắt đổi ra cầm cờ". Kim Trọng bác hẳn luận điệu này, bảo:

Như nàng lấy hiếu làm trinh
Bụi nào cho đục được mình ấy vay?
Trời còn để có hôm nay
Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời
Hoa tàn mà lại thêm tươi
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa
(câu 3119 đến 3124)

Ðoạn đối thoại giữa nhau là lời nói và ý kiến của mỗi người được thuật qua bút pháp bóng bẩy, trau chuốt của tác giả. Vân không xen vào câu nào.

Tuy nhiên, chính Vân là người "chủ trì" cuộc họp mặt này để giải quyết vấn đề gia đình nói chung, nói riêng là vấn đề tình duyên giữa Thuý Kiều và Kim Trọng... Chủ đề của Vân đã sẵn phần kết luận, để cho hai đối tượng được tự do bàn thảo, cuối cùng mọi người đều tán thành quyết định theo phần kết luận của chủ đề "hai thân cũng quyết theo một bài". Thế là tuyệt quá!

Nhưng sao Vân lại ví Kiều như "đào non", để nhà thơ Tản Ðà "ngẫm thật buồn cười" lại còn ngụ ý chê trách Nguyễn Du bằng cách chơi chữ "thời tác giả cũng tài tình vậy!"?

Cần hỏi rằng: Kiều là một đào non với ai đây hay của ai đây?

Vô tình hay cố ý, tiếng "đào non" đã làm điểm khởi dẫn cho lập luận của Kim Trọng để bác hẳn lập luận của Kiều đã cho là "mấy trăng cũng khuyết, mấy hoa cũng tàn" bằng hai câu:

Hoa tàn mà lại thêm tươi
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa

Ta biết rằng Kim Trọng say mê Kiều tột độ. Ngay khi lấy Vân làm vợ rồi, tuy "càng âu duyên mới càng dào tình xưa", riêng đối với Kiều:

Nỗi nàng nhớ đến bao giờ
Tuôn châu đòi trận vò tơ trăm vòng
(câu 2847 và 2848)

Và:

Dường như trên nóc bên thềm
Tiếng Kiều đồng vọng bóng xiêm mơ màng
Bởi lòng tạc đá ghi vàng
Tưởng nàng nên lại thấy nàng về đây
(câu 2853 đến 2856)

Như vậy, quả là "đồng sàng dị mộng"!

Có những người đàn bà nào, người vợ nào gặp phải người chồng như thế mới cảm thông được nỗi uẩn khúc trớ trêu, bẽ bàng của Vân trong phòng the gối chung chăn lạnh!

Ðối với Kim Trọng, Vân cho Kiều là một "đào non" của Kim Trọng không phải là không hợp lý. Chế độ phong kiến đã chấp nhận người đàn ông có quyền lấy nhiều vợ lẽ, lấy cả hai chị em. Vân tuy là một người phụ nữ đẹp, chơn chất nhưng dù sao cũng có tình cảm về tình ân ái, yêu đương đối xử giữa vợ chồng.

Vân là một "đào non" nhưng không phải là một đào non của Kim Trọng... mà chính là Kiều. Ta có thể diễn đạt lời nói của Vân một cách nôm na: "Chị tuy đã quá thì còn lấy chồng được, chưa muộn lắm đâu (quả mai ba bảy đường vừa); vả, đối với anh (Kim Trọng) thì chị là một gái đương thì mơn mởn (đào non), vậy nên sớm kết duyên (xe tơ kịp thì) đấy!".

"Quả mai ba bảy đường vừa", xác định chung cho người con gái theo định luật. "Ðào non sớm liệu xe tơ kịp thời" được xem như xác định riêng cho Kiều theo tình cảm của Kim Trọng. Như vậy, ta thấy hai câu thơ với hai ý trên "quả non" và "đào non" không mâu thuẫn nhau, ngược lại hàm súc ý nghĩa tế nhị, liên hệ và xúc đối nhau. Tác giả Truyện Kiều trao lời cho Vân để diễn tả nỗi say mê say mệt của Kim Trọng, và cũng nhân đó để chàng Kim "tròn miệng" ca tụng Kiều "hoa tàn mà lại thêm tươi...", tuy giàu tưởng tượng, quá đáng, nhưng đối với chàng Kim là một thực tế. Dùng hư tả thực, dùng thực tả hư.

Nhất quán và phong phú hoá điển sách là ở chỗ này.
 
T

trifolium

Tam thập lục kế

Thừa cơ lẻn bước ra đi,
Ba mươi sáu chước chước gì là hơn.


Chắc ai ai cũng từng nghe qua cụm từ 36 kế của người xưa rồi nhỉ?. Đó không chỉ là kế dùng trên chiến trường mà còn có thể áp dụng vào thương trường, chính trường nữa. Tuy mưa kế của con ng` là thiên biến vạn hóa nhưng người Trung Hoa đã chọn ra con số 36 mang nặng tinh thần triết lí phương Đông.


1.Dương Đông, Kích Tây (Đánh lạc hướng đối phương)

Kế "Dương đông kích tây" là reo hò giả vờ như thật sự đánh vào phía đông, nhưng chủ yếu lại đánh vào phía tâỵ Trong tất cả mọi vấn đề của xã hội, từ chiến trường, thương trường, chính trường cho đến tình trường; nếu muốn điều này nhưng lại giả làm điều kia, nói điều này mà làm điều nọ, ấy là "Dương đông kích tây" vậỵ Kế này mờ ảo vô song. Nó rất khó biết, khó đoán, bị đánh bất ngờ. Kế này nhằm chuyển mục tiêu để lừa dối đối phương, khiến cho địch sơ ý, lừa lúc bất ý tấn công kẻ không chuẩn bị. Có nhiều cách thức để thực hiện kế này, như: - Tạo tin đồn. - Làm rối tai rối mắt địch. - Buộc đối phương lo nhiều mặt. - Mê hoặc ý chí của địch. - Nghi binh. - Làm phân tán lực lượng đối phương. - Làm yếu lực lượng đối phương, lực lượng phòng vệ địch. Nguyên tắc của " Dương đông kích tây" là bí mật và chủ động. Bị động coi như phải chịu sự khống chế của địch. Điều kỵ khi dùng kế " Dương đông kích tây" là để lộ cơ. Lộ cơ là mất hết khả năng phòng bị, chuẩn bị. Dù là trên chiến trường, thương trường hay chính trường cũng đều phải giữ bí mật và nắm được thế chủ động.

2. Điệu hổ ly sơn (Dụ hổ ra khỏi rừng)

Kế "Điệu hổ ly sơn" là nhử, dụ hay khuấy động làm cho con hổ ra khỏi rừng. Kế "Điệu hổ ly sơn" có hai lối: Một là nhử hổ ra khỏi rừng để dễ dàng giết hổ. Hai là đuổi hổ đi để dễ bắt giết những loại hồ ly vẫn dựa oai hổ mà hoành hành.

3. Nhất tiễn hạ song điêu (Một mũi tên hạ hai con chim)


Kế "Nhất tiễn song điêu" là dùng một mũi tên bắn chết hai con chim. Ý của mưu kế này là dùng sức lực tối thiểu để đạt đến hiệu quả tối đa.

4.Minh tri cố muội (Biết rõ mà làm như không biết)


Kế "Minh tri cố muội" là biết thật rõ chuyện đấy, nhưng làm ra vẻ không biết gì. Với người xưa, đây là một triết lý xử thế rất cao, mục đích lại ẩn trốn tất cả những tiếng thị phi nghi hoặc, nhưng theo nghĩa mưu kế, nó là một thái độ thâm sâu. Cái đức của người quân tử không thể không cho thiên hạ biết, nhưng cái mưu kế của trượng phu không thể không giấu thiên hạ. Tóm lại, biết rất nhiều mà tỏ ra không biết một là kế "Minh tri cố muội" vậy.

5. Du long chuyển phượng (Biến rồng thành phượng)

Kế "Du long chuyển phượng" là biến cái này thành cái kia, bên trong là hình rồng đó, nhưng làm cho nó trở thành phượng. Cái kế này rất phổ biến, trong dân gian ta gọi là "Treo đầu dê, bán thịt chó".

6.Mỹ nhân kế (Kế dùng gái đẹp)

"Mỹ nhân kế" là dùng gái đẹp để làm xoay chuyển, thay đổi tình thế mà những cái khác không thể thực hiện được. Giai nhân từ ngàn xưa đến nay bao giờ cũng là đề tài chính. Tuy là phái yếu, không thể vác gươm đao mà đánh giặc, nhưng các nàng có thể thắng được bằng đôi mắt biếc và nụ cười xinh đẹp. Có những bức thành kiên cố cả mười vạn quân không hạ nổi, nhưng nó có thể bị sụp đổ bởi ánh mắt mỹ nhân. Sức mạnh của mỹ nhân đặc biệt là có ảnh hưởng đối với người anh hùng, người có quyền thế.



7. Sấn hỏa đả kiết (Theo lửa mà hành động)

Kế "Sấn hỏa đả kiết" là lợi dụng lúc loạn để thao túng, lúc tình hình rối ren mà sắp xếp theo ý muốn. Có hai loại "Sấn hỏa đả kiết": Một là theo lửa để mà đánh cướp. Hai là chính ta phóng hỏa mà đánh cướp. Theo lửa tức là thừa lúc người ở trong cơn nguy biến mà ta quấy hỗn loạn thêm. Phóng hỏa tức là chính ta gây ra sự hỗn loạn mà thực hiện theo ý muốn của ta. Theo lửa hay phóng hỏa cùng đi chung vào một mục đích là đánh địch và đoạt của địch để tạo cơ hội cho ta. Theo lửa thì dựa vào thời cơ sẵn có. Phóng hỏa thì tự ta tạo ra thời cơ. Không thể phê phán theo lửa hay phóng hỏa, cái nào hay, cái nào dở, cái nào tốt, cái nào xấu, vì cả hai giống như một sự biến ảo giữa không khí và nước. Trong sử sách, người ta thấy tay phóng hỏa giỏi là Trương Nghi. Một mình Trương Nghi đã phá tan thế hợp tung bằng cách dối Tề, lừa Triệu, dọa Ngụy, thuyết Yên, bịp Sở. Trương Nghi thật là con người có cái lưỡi bằng lửa thiêu đốt cả sáu nước, dựng thành cơ nghiệp thống nhất cho nhà Tần. Khổng Minh tuy là một nhà chính trị lỗi lạc tài tình, nhưng cái thế của ông ngay từ đầu chỉ là cái thế phải theo lửa để gây vốn: Lưu Bị bị Tào Tháo đánh chạy đến cùng đường, Khổng Minh đành tính kế nương nhờ Tôn Quyền rồi ăn theo cuộc chiến tranh Nam - Bắc, ăn theo trận Xích Bích để cướp Kinh Châu. "Sấn hỏa đả kiết" đòi hỏi một khả năng hành động mau lẹ như con ó bắt mồi.

8. Vô trung sinh hữu (Không có mà làm thành có)

Kế "Vô trung sinh hữu" là từ không mà tạo thành có. Thiên hạ không loạn, trật tự không rối thì làm gì có anh hào xuất lộ! Bởi lẽ đó, những anh hào thường được gọi là kẻ "chọc trời khuấy nước". Mục đích của khuấy nước là làm rối beng sự việc lên để dễ bề thao túng. Thủ đoạn của khuấy nước là gây tiếng tăm, tung tiếng đồn, gây xáo trộn rồi dựa vào đó mà thủ lợi. Kế "Vô trung sinh hữu" hình dung là tu hú đẻ nhờ, tổ thì chim khác làm, nhưng con tu hú cứ đến đặt trứng của nó vào đó, rồi lại nhờ loài chim khác ấp trứng luôn, khi trứng nở thành chim, tu hú con bay về với bầy tu hú.

9. Tiên phát chế nhân (Ra tay trước để chế phục đối phương)

"Tiên phát chế nhân" là ra tay trước để dành chiếm ưu thế, để đoạt lợi, để bắt lấy sự chiến thắng. Kế "Tiên phát chế nhân" là không nói quá xa, viễn vông, mà phải nhìn vào thực tế gần nhất. Các vụ xảy ra trong lịch sử như: Lý Thế Dân tại Huyền Vũ Môn, Võ Tắc Thiên phế lập Lư Lăng Vương, Ung Chính cướp Bảo Tòa, Từ Hi độc sát Quang Tự, Gia Cát Lượng lấy đất Quang Trung... Tất cả đều là áp dụng thủ đoạn "chớp nhoáng" không cho địch kịp trở tay, không cho dư luận phản ứng kịp. Vẫn có câu "Tiên hạ thủ vi cường" là vậy.

10. Đả thảo kinh xà (Đập cỏ làm cho rắn sợ/Đánh rắn động cỏ)

Kế "Đả thảo kinh xà" là đập vào cỏ, làm động cho rắn sợ. Tần Thủy Hoàng xưa kia chinh phục các nước chư hầu, ngoài chia để trị còn sử dụng kế này. Nước nào chống Tần Vương thì không chỉ bị thôn tính mà sẽ bị nhấn luôn trong bể máu. Tức là giết sạch tất cả, từ trẻ con cho đến người già không chừa ai. Khiến cho các nước khác run sợ lần lượt bị khuất phục. Thực tế việc tàn ác này không tốn nhiều công sức vì khi quân giặc đã khoanh tay chịu trói thì việc giết hay không chỉ là một cái gật đầu (ví như việc đập tay xuống cỏ), tuy nhiền lại vô cùng hiệu quả trong việc răn đe, gây lo ngại cho những kẻ chưa bị chạm đến (Ví như con rắn đang lẫn khuất đâu đó)

11. Tá đao sát nhân (Mượn đao để giết người)

Kế "Tá đao sát nhân" là mượn dao để giết người, mượn tay người khác để giết kẻ thù của mình. Ngạn ngữ Trung Quốc có câu: “Sát nhân bất kiến huyết, kiến huyết phi anh hùng”. (Giết người không thấy máu, thấy máu không anh hùng). Trên đời dĩ nhiên chưa có kẻ nào chỉ giết người mà thành anh hùng, nhưng cũng hiếm có tay anh hùng nào không giết người. Điểm khác nhau không ở có hay không, mà ở chỗ thông minh hay ngu xuẩn. Tào Tháo mượn Lưu Biểu giết Nễ Hành, mượn lòng quân giết Dương Tu rồi lại được làm cái việc mèo già khóc chuột, thật đáng kể là một tay thông minh, gian hùng.

12. Di thể giá họa (Dùng vật gì để vu khống người ta)

Kế "Di thể giá họa" là đem xác chết hay đồ vật gì bỏ vào nhà người khác để giá họa. Kế này thường được dùng bởi khối óc quỷ quyệt thông minh, tự mình không ra mặt mà làm cho đối phương bị hại. Như vậy gọi là "giết người không thấy máu".

13. Khích tướng kế (Kế chọc giận tướng giặc)


"Khích tướng kế" là kế chọc giận tướng giặc, làm tướng giặc nổi giận. Nổi giận sẽ mất sáng suốt, thiếu suy nghĩ, không tự chủ được con người mình. Mạnh Tử nói: "Nhất nộ nhi an thiên hạ". Trong đời có nhiều sự việc được thành tựu bằng một cơn giận và cũng có nhiều việc thất bại bởi một cơn giận. Bởi vậy cái kế khích tướng cũng là một trong những diệu kế, nếu đạt ra thì kiến thiên hạ, cùng thì mang họa vào thân. Khích tướng còn là khơi dậy cái hùng khí của người khác để người ấy làm việc cho ta. Đối tượng tốt nhất của kế khích tướng là những người có tính tình bạo tháo hay sẵn sàng phẫn nộ. Tuân Tử bảo rằng: “Lời nói khéo êm như lụa, lời nói ác nhọn như giáo mác”. Thuyết là tiến dẫn lời nói, cái nghĩa căn bản của thuyết làm cho người ta nghe theo. Hiệu quả của thuyết rất lớn. Bởi thế mới có câu: "Thiên hạ tĩnh, nhất ngôn sử chi động. Thiên hạ động, nhất ngôn sử chi tĩnh". (Thiên hạ đang yên lặng, một lời nói làm náo loạn. Thiên hạ đang náo loạn, một lời nói làm lắng dịu). Căn bản mưu thuật của thuyết, theo Tuân Tử có bốn điều: Cơ, dũng, trí, biến. - Cơ: Là xem thời độ thế, nhân lợi thuận tiện. - Dũng: Là quyết đoán nói những điều không ai dám nói. - Trí: Là biết rõ sự tình, tâm lý, giải quyết được thắc mắc, chế phục được người. - Biến: Là biến hóa, trong các trường hợp bất trắc.

Mục đích của thuyết có năm điều: - Làm cho người hiểu rõ. - Làm cho người tin tưởng. - Làm cho người đồng tình. - Làm cho người phục. - Làm cho người theo.

Đạt được năm mục đích trên thì kể như nắm chắc phần thắng trong tay.

14. Mạn thiên quá hải-Dấu trời qua biển (Lợi dụng sương mù để lẩn trốn)


Kế "Mạn thiên quá hải" là lợi dụng lúc trời sương mù mà lẩn trốn, vượt qua hay hành động ngay trong lúc sương mù. Mạn thiên, trời u ám không phải hoàn cảnh hoàn toàn bất lợi như một quẻ trong Dịch lý đã nói. Mạn thiên, không thể ngồi đợi nó tới như sương mù do thời tiết thiên nhiên, mà phải tạo ra nó. Kế "Mạn thiên" đem áp dụng thực hiện được cả hai mặt: tiêu cực lẫn tích cực. Tích cực là đem ánh sáng đến cho một tình thế mờ mịt. Tiêu cực là lẩn tránh một tai họa, là lợi dụng cơ hội sơ hở của địch để thoát bí. Ở trận Xích Bích, Khổng Minh đã giải quyết vấn đề thiếu tên bắn cho các cung thủ bằng cách lấy mười chiếc thuyền lớn chất đầy rơm, đợi lúc trời sương mù, âm thầm đến trại Tào Tháo nổi trống la hét làm như tấn công. Tào sợ ngụy kế, không dám xông ra, chỉ bắn tên như mưa vào các thuyền rơm. Bằng một đêm đánh trống reo hò, không chết một người, Khổng Minh đã lấy được của Tào Tháo cả trăm ngàn mũi tên.

15. Ám độ Trần thương (Đi con đường mà không ai nghĩ đến)

Kế "Ám độ Trần thương" là bí mật đưa quân qua con đường mà không ai nghĩ rằng ta sẽ đi qua. Kế này áp dụng giữa lúc hai bên đang đấu tranh, chiến đấu với nhau. Mỗi bên đều ra sức giấu mục tiêu thật của mình rồi đưa ra mục tiêu giả mà lừa đối phương. Đây là công việc rất phức tạp, có một quá trình khúc triết. Như "Tôn Tử Binh Pháp" viết: “Việc binh là trá ngụy, có thể mà làm ra vẻ không có thể, dùng đấy mà tỏ ra không dùng, gần giả làm như xa, xa giả làm như gần. Lấy lợi mà dụ, gây rối mà đuổi, thấy khỏe thì tránh. Đầu tiên là làm mọi cách giảm nhược lực đối phương, sau rồi mới tiến hành dự định. Muốn dụng kế này phải là người có tầm nhìn xa hiểu rộng và một khối óc tuyệt vời.
 
T

trifolium

16. Phản khách vi chủ (Đổi vị khách thành vị chủ)

Kế "Phản khách vi chủ" là đổi địa vị khách thành địa vị chủ. "Phản khách vi chủ" là trong đấu tranh đang ở vào thế bị động nên phải tìm kế hoạch đến chủ động, khách vốn là địa vị bị chi phối, mọi việc đều do chủ đặt định sắp xếp. "Phản khách vi chủ" là nguyên tắc thường dùng trong đấu tranh. Có chủ động mới khống chế được cục diện. Không có chủ động, không thể thắng lợi.

17. Kim thiền thoát xác (Ve sầu vàng lột xác)

"Kim thiền thoát xác” là con ve sầu vàng lột xác. Kế này dùng cho lúc nguy cấp, tính chuyện ngụy trang một hình tượng để lừa dối, che mắt đối phương, đặng đào tẩu chờ một cơ hội khác. Kế "Kim thiền thoát xác" có một phạm vi rất rộng rãi và phổ biến, bất cứ ai ở hoàn cảnh nào cũng có thể sử dụng được.

18. Không thành kế (Kế bỏ trống cửa thành)

"Không thành kế" là kế bỏ thành trống, thành bỏ ngỏ. Kế này có hai loại: - Một là lúc tình thế cực khẩn cấp, nguy hiểm như treo trên sợi tóc, buộc phải dùng nghi binh để lừa dối đối phương mà dựa vào đó để trốn thoát. - Hai là rút lui với đầy đủ kế hoạch dụ cho địch quân xâm nhập rồi mới bao vây tiêu diệt. "Không thành kế" thực ra là một cách tạo nghi âm cho đối phương, mục đích là không cho đối phương sớm có một quyết định.

19. Cầm tặc cầm vương (Dẹp giặc phải bắt tướng giặc)

"Cầm tặc cầm vương" là dẹp giặc phải bắt chúa giặc. Phương pháp bắt chúa giặc thật thiên biến vạn hóa, không cứ bằng sức mạnh hay bằng trí khôn. Các kế khác như "Điệu hổ ly sơn", "Mỹ nhân kế" hay "Man thiên quá hải" đều có thể dùng cho kế "Cầm tặc cầm vương". Để đối phó với một nhân vật anh hùng, thì dù một quả đạn mà giết hay dùng mỹ nhân kế mà nhử thì cũng như nhau. Nhưng đa số âm mưu cầm vương được hiệu quả bằng kích thích anh hùng và mỹ nhân kế. "Tự cổ anh hùng đa hiếu sắc" là vậy. Việt Vương thua trận rồi, mà chỉ dùng một nàng Tây Thi đã đủ giam cầm Phù Sai. Lý Viên muốn đoạt quyền của Xuân Thân Quân, nên đã cho cô em là Lý Yên sang làm tì thiếp. Đó là những cách gián tiếp để cầm vương.

20. Ban chư ngật hổ (Giả làm con heo để ăn thịt con hổ)

Kế "Ban chư ngật hổ" là giả làm con heo để ăn thịt con hổ. Lão Tử nói: “Người cực khôn khéo mà làm ra vụng về”, cũng như câu "đại trí nhược ngu". Người đi săn thường học tiếng heo kêu rồi tự giả làm heo để nhử con hổ. Đối với kẻ thù, ta hãy giả ngu như một con heo, trên bề mặt cái gì cũng thuận chịu, lúc nào cũng cười, lúc nào cũng cung kính để cho địch mất hết nghi âm. Chờ thời cơ chín, tìm thấy chỗ nhược của kẻ thù mà đập đòn sấm sét. - Dùng việc không gì quan trọng bằng bí mật. - Hành động không gì quan trọng bằng thừa lúc bất ý. - Dò xét không gì quan trọng bằng làm cho địch không hay biết. - Bên ngoài ra vẻ loạn mà bên trong rất có cơ ngũ. - Tỏ ra đói mệt nhưng thật là no khỏe. - Làm ra ngu xuẩn nhưng rất tinh tường. Những câu trên đây chính là căn bản lý luận của kế "Ban chư ngật hổ" vậy.

21. Quá kiều trừu bản (Qua cầu rồi phá cầu/Qua cầu rút ván)


"Quá kiều trừu bản" là qua cầu rồi thì phá cầu, ý nói một người sau khi đã thành công, muốn hưởng thụ một mình nên giết hại hoặc xa lánh những người bạn đã đồng lao cộng khổ với mình. Kế "Quá kiều trừu bản" thường trái ngược với kế "Ban chư ngật hổ". Qua cầu cất nhịp là lúc đắc thời đắc thế đem thuộc hạ ra mà khai đạo. Còn giả tiếng heo là kế áp dụng giữa lúc ở vào thế kẹt. Đứng trên lập trường đạo lý thì cất nhịp cầu là một hành động vong ân bội nghĩa. Lưu Bang nổi danh là người qua cầu cất nhịp lớn nhất trong lịch sử. Lúc Lưu Bang hàn vi còn đi ăn cắp gà, thôi thì Bang nói đủ các điều ngon ngọt dễ nghe để tựu chúng lập đảng. Đến khi nên cơ nghiệp rồi, lo việc củng cố quyền thế, Lưu Bang chẳng ngại gì hết, đổi lại thái độ, nghi ghét triều thần. Người thứ nhất mà Lưu Bang lôi chém là Hàn Tín, rồi đến Bành Việt, Anh Bố, bỏ tù Tiêu Hà, Trần Hi, Phàn Khoái. Trương Lương thấy họa chẳng chóng thì chày cũng đến với mình, nên bỏ trốn lên rừng học đạo tu tiên.

22. Liên hoàn kế (Kế móc nối nhau)

"Liên hoàn kế" là nối liền với nhau thành một dây xích. "Liên hoàn kế" còn là vận dụng một quyền thuật để tạo phản ứng dây chuyền cho đối phương hoặc gây thành phản ứng nhiều mặt. Mỹ nhân kế là vũ khí phổ biến nhất cần thiết cho việc dùng "Liên hoàn kế". Vì người đẹp ví như nước, anh hùng ví như bùn, nước làm cho bùn nhão ra. Từ ngàn xưa, đa số anh hùng đã vì thương hoa tiếc ngọc nên bỏ lãng nhiệm vụ. Tuy vậy, vẫn phải phân biệt "Mỹ nhân kế" với "Liên hoàn kế". Liên hoàn kế là một hình ảnh của thực tiễn, bất cứ việc gì xảy ra cũng gây thành phản ứng dây chuyền. Việc xảy ra hôm nay cũng không tự dưng mọc ra, nó phải là kết quả dây chuyền từ những sự việc trước.

23. Dĩ dật đãi lao (Lấy khỏe để đối phó với mệt)

Kế "Dĩ dật đãi lao" là lấy sự thanh thản để đối phó với hấp tấp, nhọc nhằn; dưỡng sức mà đợi kẻ phí sức. Kế này viết ở trong thiên "Quân Tranh" của bộ "Tôn Tử Binh Pháp": "Lấy gần đợi xa, lấy nhàn đợi mệt" nghĩa là trên chiến thuật phải tìm nắm trước địa vị chủ động để ứng phó với mọi tấn công của địch. Cũng có ý nói nên chuẩn bị chu đáo, dễ dàng lấy cái thế bình tĩnh xem xét tình hình biến hóa mà quyết định chiến lược, chiến thuật. Đợi địch mỏi mệt, tỏa chiết bớt nhuệ khí rồi mới thừa cơ xuất kích. Tôn Tử gọi thế là: "Ẩn sâu dưới chín từng đất, hành động trên chín từng trời". Sử dụng sách lược này đòi hỏi thái độ tuyệt đối trầm tĩnh ứng biến, đo được ý kẻ thù, hoàn cảnh kẻ thù, thực lực kẻ thù. Nếu thời cơ chưa chín thì đứng yên như trái núi. Khi cơ hội vừa tới thì lập tức lấp sông, chuyển bể. Tư Mã Ý ngăn Gia Cát Lượng ở Kỳ Sơn. Chu Du phóng hỏa tại Xích Bích. Tào Tháo đại phá Viên Thiệu nơi Quan Độ. Tạ Huyền đuổi Bồ Kiên ở Phi Thủy. Tất cả đều lấy ít đánh nhiều, thế kém vượt thế khỏe. Tất cả đều là kết quả sử dụng tài tình sách lược "Dĩ dật đãi lao".
 
T

trifolium

24. Chỉ tang mạ hòe (Chỉ vào gốc dâu mà mắng cây hòe)

"Chỉ tang mạ hòe" là chỉ vào gốc dâu mà mắng cây hòe. Ý nói vì không tiện mắng thẳng mặt nên mượn một sự kiện khác để tỏ thái độ.

25. Lạc tỉnh hạ thạch (Ném đá vào người dưới giếng)


"Lạc tỉnh hạ thạch" là ném đá vào đầu kẻ đã rơi xuống giếng. Rơi xuống giếng lại còn ném đá vào đầu nạn nhân. Nếu đứng trên quan điểm đạo đức Khổng - Mạnh thì phải là hành động không chính nhân quân tử, nhưng nếu coi là một mưu kế thì hành động này lại là một hành động sáng suốt. Căn bản triết lý của "Lạc tỉnh hạ thạch" là chi phối được thì mới chiếm đoạt được, và nhân từ với kẻ thù tức là tàn nhẫn với chính ta. Lưu Bị lúc nào hé miệng cũng nói những điều nhân từ, lúc nào cũng chảy nước mắt, nhưng ông lại là người cũng giỏi thủ đoạn "Lạc tỉnh hạ thạch" nhất. Chẳng vậy mà khi Lã Bố vốn là người làm nhiều ân huệ đối với Lưu Bị, nào việc bắn kích ở Viên Môn, nào việc cho Lưu Bị nương tựa ở căn cứ mình... Đến lúc Lã Bố bị bắt sau khi thất trận Từ Châu, Tào Tháo trong lòng còn đôi chút thương mến muốn dụ dỗ Lã Bố, Lưu Bị ngại Tào Tháo có thêm một mãnh tướng nữa nên đã ghé tai Tào Tháo mà nhắc khéo: “Ông không nhớ chuyện Đinh Nguyên và Đổng Trác hay sao?” (Đinh Nguyên và Đổng Trác đều nhận Lã Bố làm con nuôi, nhưng đều bị chết vì tay Lã Bố. Lưu Bị đã không kể đến ơn nghĩa, lại còn đưa đòn độc "Lạc tỉnh hạ thạch" hạ Lã Bố. Như vậy, Lã Bố làm sao khỏi chết!

26. Hư trương thanh thế (Thổi phồng thanh thế)


"Hư trương thanh thế" là thổi phồng thanh thế để cho người ta chóa mắt, nể sợ. Đời Tam Quốc, Tào Tháo tiến xuống Giang Định, rầm rộ cả trăm vạn hùng quân. Tháo định dùng ưu thế tuyệt đối để buộc Tôn Quyền phải hàng phục. Nhưng Khổng Minh trông thấy âm mưu này nên chỉ ba vạn quân với một số mưu kế và trận gió đông đã đánh bại quân Tào. Khi sử dụng kế này, trước hết phải xem mục đích và giá trị của nó thế nào đã, rồi mới định cỡ to nhỏ.

27. Phủ để trừu tân (Bớt lửa dưới nồi)


Kế "Phủ để trừu tân" là bớt lửa dưới nồi, ý nghĩa là giải quyết trên căn bản một vấn đề, chủ ý không cho nó phát ra (bớt lửa cho nước khỏi trào). Khi có một việc đã bùng nổ ra rồi thì tìm cách làm cho nó dịu đi, không để nó tiếp tục ác liệt. Chỗ diệu dụng kế "Phủ để trừu tân" là không nghe thấy tiếng, không nhìn thấy hình, vô cùng như trời đất, khó hiểu như âm dương, khiến cho kẻ thù rơi vào kế của mình mà họ không biết. Không kể tình trường, chiến trường hay thương trường, kế "Phủ để trừu tân" lúc nào cũng là kế rất âm độc, lớn mang hiệu quả lớn, nhỏ có hiệu quả nhỏ. Ở tình trường, anh chàng kém vế thường o bế song thân hoặc anh em của đào, hơn là tấn công chính nàng! Ở chiến trường, kế "Phủ để trừu tân" lại càng dày đặc, giăng mắc như mạng nhện.

28. Sát kê hách hầu (Giết gà cho khỉ sợ)

"Sát kê hách hầu" nghĩa đen là giết con gà cho con khỉ sợ. Theo truyền thuyết dân gian, con khỉ rất sợ trông thấy máu, cho nên khi người ta muốn dạy khỉ, trước hết họ giết một con gà, bắt con khỉ nhìn thấy đống máu bê bết rồi mới bắt đầu giáo hóa. Lúc bắt khỉ cũng thế, người ta vặn cổ con gà cho nó kêu lên những tiếng ghê rợn, khiến cho khỉ bủn rủn chân tay thì đến bắt. "Sát kê hách hầu" có tác dụng lớn, làm cho các vụ mới nở ra trong trứng nước bị rơi vào cảnh bối rối, sợ sệt.

29. Phản gián kế (Dùng kế của đối phương để quật lại)


"Phản gián kế" là dùng người của đối phương lừa dối đối phương, dùng kế địch lừa địch. Tôn Tử nói: “Biết mình là biết thực lực và nhiệm vụ của mình. Biết người là biết thực lực và ý đồ của địch. Biết mình thì tương đối dễ hơn biết người. Cho nên muốn biết người thì phải dùng gián điệp”.

30. Lý đại đào cương (Đưa cây lý chết thay cây đào)


"Lý đại đào cương" là đưa cây lý chết thay cho cây đào. Người lớn làm họa, bắt người bé chịu tội thay. Có rất nhiều kẻ tác gian phạm tội lại bắt người khác thế thân.

31. Thuận thủ khiên dương (Thuận tay dắt con dê về)


"Thuận thủ khiên dương" theo nghĩa đen là thuận tay dắt con dê về. Sự việc trên đời, thiên biến vạn hóa rất kỳ diệu. Phải biết nắm lấy bất cứ cơ hội nào vụt hiện đến trước mắt, đó là những thâu hoạch, những cái lợi bất ngờ.

32. Dục cầm cố tung (Muốn bắt mà lại thả ra)

"Dục cầm cố tung" theo nghĩa đen là muốn bắt cho nên thả ra. Muốn thực hành kế này, phải có một nhãn quan sâu rộng, một tấm lòng nhẫn nại vô song. Những kẻ cấp công cận lợi không bao giờ có đủ tài trí để thi hành nó. Kế "Dục cầm cố tung" không thi hành theo cái nghĩa đen của nó. Kế này nói lên sự mềm dẻo cho mọi chính sách, thứ nhất là chính sách thu phục lòng người, giữ người.

33. Khổ nhục kế (Hành hạ thân xác mình để người ta tin)

"Khổ nhục kế" là hành hạ mình, rồi đem cái thân xác bị hành hạ ấy để làm bằng chứng mà tiếp cận với địch để hoàn thành một âm mưu nào đó.

34. Phao bác dẫn ngọc (Ném hòn ngói để thu về hòn ngọc)

"Phao bác dẫn ngọc" nghĩa đen là ném hòn ngói để thu về hòn ngọc. Tức là dùng tiểu vật để đoạt một đại vật, như người đi câu vậy. Dân gian thường nói "thả con tép bắt con tôm" cũng là kế này.

35. Tá thi hoàn hồn (Mượn xác để hồn về)

"Tá thi hoàn hồn" nghĩa là mượn xác để hồn về. Ý kế này chỉ rằng: Sau khi đã thất bại, buộc phải lợi dụng một lực lượng nào đó để khởi lên thi hành trở lại chủ trương của mình. Tuy nhiên, dùng kế này rất dễ đi vào con đường nguy hiểm, nếu sơ xuất thì tỷ như rước voi về giày mả tổ. Nếu mượn xác mà mượn ẩu thì chẳng khác gì vác xác chết về nhà.

36. Tẩu kế (Chạy, lùi, thoát thân)

"Tẩu kế" nghĩa là chạy, lùi, thoát thân. Tại sao kế sau chót cổ nhân lại đặt là "kế chạy"? Lại có câu: "Tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách". (Ba mươi sáu chước, chạy là hơn hết!) Bởi vậy kế này liên quan nhiều đến sự thành bại của một công việc lớn. Bất luận là đánh nhau bằng văn hay bằng võ, không ai là có thể thắng hoài. Trong quá trình chiến đấu bao gồm nhiều kiểu thắng, nhiều kiểu bại, lúc ẩn lúc hiện, trong chớp mắt dồn dập cả trăm ngàn biến chuyển. Nếu không ứng phó mau lẹ để tránh những cảnh bất lợi, để nắm mau lợi thế mà tiến tới thắng lợi, thì không phải là nhân tài. Chạy có nhiều phương thức. Bỏ giáp, bỏ vũ khí mà chạy, bỏ đường nhỏ mà chạy tới đường lớn, bỏ đường bộ mà chạy sang đường thủy... Các phương thức tuy không giống nhau nhưng cùng hướng chung đến mục đích là tránh tai họa để bảo đảm an toàn, để bảo toàn lực lượng. "Tẩu kế" không phải là chạy dài. Chạy chỉ là một giải pháp để mà sẽ quay lại. Tinh hoa của kế chạy là giành thời gian, bảo tồn sức khỏe, lực lượng. Rút chạy đến một vị trí mới, cho tư thế vững mạnh hơn, tập trung nỗ lực và củng cố tinh thần, chọn một cơ hội thuận tiện để quật lại, ấy mới thực là "Tẩu kế". Sau hết phải lo đến điểm nguy của kế chạy: Khi chạy, sẽ mất tinh thần, sự việc hoàn toàn lỏng lẻo, mất sự tin tưởng ở xung quanh. Nếu không giải quyết cho chính xác những vấn đề trên thì "tẩu" không còn là một kế hoạch nữa, mà là một sự tan rã vậy!
Đây là bài mà mình lấy ra từ Wikibooks vì vuhuu ko có :((
 
T

trifolium

Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên quân

Cùng ở đoạn tả cảnh Từ Hải đến gặp Kiều ở lầu xanh, cả hai cùng đối đáp nhau. Qua lời Từ Hải ngỏ ý khen Kiều thì nàng đáp lại:

Nàng rằng: "Người dạy quá lời
Thân này còn dám xem ai làm thường
Chút riêng chọn đá thử vàng
Biết đâu mà gởi can trường vào đâu?
Còn như vào trước ra sau
Ai cho kén chọn vàng thau tại mình"
Từ rằng: "Lời nói hữu tình,
Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên quân
Lại đây xem lại cho gần
Phỏng tin được một vài phần hay không?"

(câu 2185 đến 2194)

Bình Nguyên quân tên Triệu Thắng, người nước Triệu đời Chiến quốc (479- 220 trước DL), được vua Huệ Vương phong làm Tướng quốc, phong cho đất Bình Nguyên nên gọi là Bình Nguyên quân.

Cũng như Mạnh Thường quân (tướng nước Tề), Tín Lăng quân (tướng nước Nguỵ), Bình Nguyên quân người rất hiếu khách. Trong nhà lúc nào cũng có thực khách đến ngàn người. Khi quân nước Tần vây kinh đô nước Triệu là Hàm Ðan, vua nước Triệu phải sai Bình Nguyên quân sang nước Sở cầu cứu bằng cách liên minh. Bình Nguyên quân định chọn trong số thực khách 20 người có đủ sức khỏe và mưu mẹo cùng đi. Nhưng chỉ chọn được 19 người. Một thực khách tên Mao Toại bước ra, tình nguyện đi cho đủ số. Bình Nguyên quân hỏi:
- Thầy ở nhà nầy được bao lâu?
- Ðã được ba năm
Bình Nguyên quân nói:
- Phàm bực hiền sĩ ở đời chẳng khác gì cái dùi trong một cái túi, bao giờ mũi nhọn cũng thò ra ngoài. Thầy ở đây đã đến ba năm mà tôi chưa từng được nghe người chung quanh khen ngợi điều gì, thế là thầy không có đặc tài, vậy xin mời thầy ở lại nhà.
Mao Toại thản nhiên, cười nói:
- Chính ngày nay tôi mới xin làm cái dùi trong túi đó. Nếu tôi sớm được như cái dùi trong túi thì chẳng những chỉ thò mũi nhọn ra, mà lại còn nhảy tuột cả ra ngoài nữa.

Nghe lời đáp có ý nhị lạ lùng, Bình Nguyên quân bằng lòng cho đi. Mười chín thực khách kia nhìn nhau cười thầm, có vẻ khinh thường.

Ðến nước Sở, Bình Nguyên quân cùng vua Sở bàn việc liên minh, giải bày lợi hại từ sáng sớm đến trưa mà vẫn chưa ngã ngũ ra sao. Mười chín thực khách kia bèn bảo Mao Toại:
- Xin mời tiên sinh lên đi.
Mao Tạo cầm kiếm bước lên thềm, nói với Bình Nguyên quân:
- Việc liên minh lợi hại thế nào chỉ nói vài lời cũng quyết định được. Thế mà bàn bạc từ sáng đến trưa vẫn chưa ra bề nào là cớ làm sao?
Vua Sở hỏi ai. Bình Nguyên quân cho biết đó là người nhà. Vua Sở quát:
- Sao không lui xuống? Ta đương nói chuyện với chủ nhà ngươi, lên đây làm gì?
Mao Toại vẫn cầm kiếm tiến lên, đĩnh đạc nói:
- Nhà vua sở dĩ quát tháo mắng tôi vì cậy nước Sở đất rộng người nhiều. Nhưng từ chỗ nhà vua đến chỗ tôi đứng chỉ trong mười bước, thế là tính mạng nhà vua ở trong tay tôi, vậy cậy thế nào được đất rộng người nhiều? Hiện có chủ tôi ngồi mà nhà vua quát tháo tôi thì còn lễ độ gì? Vả, tôi có nghe rằng: vua Thang chỉ nhờ khoảnh đất 70 dặm mà làm vua thiên hạ; vua Văn chỉ nhờ một vùng 100 dặm mà khuất phục được chư hầu, có phải đâu do nhiều sĩ tốt? Nay nước Sở muốn giữ được thế, chấn được uy thì sẵn đất vuông 5 ngàn dặm, dưới cờ kể có trăm vạn quân đủ sức để làm bá vương đó. Nhưng sức mạnh như thế, đáng lẽ thiên hạ không sao địch nổi, thế mà thằng nhãi Bạch Khởi, tướng của nước Tần, chỉ đem có vài vạn quân đánh nhau với Sở, trận đầu đã chiếm mất của Sở đất Yên Sinh, trận thứ hai đoạt lấy Di Lăng, trận thứ ba xâm phạm đến lăng tẩm của tiên vương nước Sở. Ðó là mối thù đến muôn đời. Ngay nước Triệu chúng tôi còn hỗ thẹn thay, thế mà nhà vua không biết căm giận. Vậy ngày nay, liên minh chính là vì nước Sở chớ không phải vì nước Triệu. Chủ tôi ngồi đó, nhà vua quát tháo tôi nghĩa là làm sao? Vua Sở nghe thấm thía, gật đầu bảo:
- Phải, phải! Công việc nước tôi, đúng như lời nhà thầy nói. Vậy tôi xin đem cả nước để liên minh.

Ðoạn, tất cả tôi chúa đôi bên đều uống máu ăn thề

Mao Toại cười nói với bọn 19 người:
- Ðối với sự thành công này, các ông chỉ là theo đuôi, uống máu ăn phần đó thôi!

Thực hiện được cuộc liên minh với Sở để chống Tần, Bình Nguyên quân trở về nước Triệu, nói:
- Thôi, ta không dám xét đoán người nữa. Xưa nay ta đã từng xét đoán thiên hạ, kể số nhiều thì đến hàng ngàn người, mà ít thì cũng hàng trăm, vẫn tự hào chưa hề sai lầm ai cả. Thế mà đến nay, tự biết mình trước kia đã không nhận rõ đặc tài của Mao tiên sinh. Khi sang nước Sở, Mao tiên sinh đã làm cho nước Triệu được tôn kính. Mới biết tiên sinh đã khéo dùng ba tấc lưỡi mạnh hơn trăm vạn quân. Thôi, từ đây ta không dám xét đoán người nữa.

Bình Nguyên quân liền cất Mao Toại lên hàng thượng khách.

Tuy dùng người mà ông vẫn tự nhận để thiếu sót trong việc biết người. Lời nói đó thật tri kỷ tri bỉ.

- Biết đâu mà gởi can trường vào đâu
- Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên quân

Lời lẽ và ý tứ hai câu vốn mượn ý và lời ở hai câu liền nhau trong bài "Hàm an thiếu niên hành" của Cao Tử đời nhà Ðường: "Bất tri can đảm hướng thuỳ thị; lính nhân khước ức Bình Nguyên quân". (Biết ai gan ruột như mình; khiến người lại nhớ đến Bình Nguyên quân).

Kiều lấy ý câu trên tha thiết nói với Từ Hải:

"Biết đâu mà gởi can trường vào đâu?"
(tức "Bất tri can đảm hướng thuỳ thị?")

Nhưng Kiều lại bỏ lửng ý câu sau... Phải kể là một cái hay. Từ Hải lại tiếp nối:

"Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên quân"
(tức "Linh nhân khước ức Bình Nguyên quân")

Lại thêm một cái hay.

Bình Nguyên quân là người có danh tiếng biết xét đoán người (chỉ lầm Mao Toại) ở đây được dùng chỉ cả hai: Kiều là người biết xét đoán con người Từ Hải, thì Từ Hải cũng là người biết xét đoán con người Kiều. Cũng ở ý này còn có một chi tiết đáng chú ý là tài năng của Từ Hải, chẳng những có tài thao lược mà còn am hiểu văn chương, rất nhớ chữ sách... qua bút pháp tài tình của tác giả "Truyện Kiều" trong cách sử dụng điển cố.
 
T

trifolium

Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh

Tưởng nhớ Thuý Kiều, Kim Trọng thẫn thờ đi tìm chỗ ở của Kiều. Nhìn cảnh vật, bóng người đâu chẳng thấy, lòng mang một thất vọng nặng nề:

"Thẳm nghiêm kín cổng cao tường
Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh"

(Câu 267 đến 268)

Và, khi Kim Trọng may mắn gặp Kiều tại vườn hoa, chàng tỏ tình thương nhớ, yêu đương thì Kiều:

"Ngần ngừ nàng mới thưa rằng:
Thói nhà băng tuyết chất hằng phỉ phong
Dầu khi lá thắm chỉ hồng
Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha
Nặng lòng xót liễu vì hoa
Trẻ thơ đã biết đâu mà dám thưa"

(Câu 331 đến 336)

"Lá thắm" là lá đỏ, do chữ "hồng diệp"

Ngày xưa, triều vua nào cũng vậy, nhiều giai nhân tuyệt sắc trong nước bị tuyển vào cung làm cung hầu vua. Họ có đi mà chẳng có về, suốt đời chịu cảnh lạnh lùng, buồn duyên tủi phận gối lẻ chiếc bóng trong thâm cung. Chỉ có khi nào bị sa thải vì hết đẹp, vì già...

Ðời Ðường (618- 907), triều Hy tông, có nàng cung nữ tên Hàn Thuý Tần cũng như bao cung nữ khác sống cô lạnh trong thâm cung. Buồn tủi cho số kiếp của mình, nàng thường nhặt những chiếc lá đỏ rồi đề thơ trên lá, thả xuống ngòi nước như mong nước trôi xuôi cuốn đi nỗi tâm sự u uất của mình:

"Lưu thuỷ hà thái cấp
Cung trung tân nhiệt nhân
Ân cần tạ hồng diệp
Hảo khư đảo nhân gian"

Tạm dịch:

"Nước chảy sao mà vội
Cung sâu suốt buổi nhàn
Ân cần nhờ lá thắm
Trôi đến tận nhân gian"

Chiếc lá chở bài thơ theo dòng nước chảy xuôi ra ngoài vòng cấm luỹ. Lúc bấy giờ có người môn khách của quan Tể tướng Hàn Vinh tên Vu Hựu vốn người phong lưu tài tử, thơ hay chữ tốt, chỉ hiềm nỗi vận chưa đạt nên đành chịu sống nhờ nơi quan Tể tướng họ Hàn. Ðương thơ thẩn ngắm dòng nước chảy, Vu Hựu bỗng nhìn thấy chiếc lá có bài thơ, lấy làm lạ liền vớt lên xem. Cảm tình chan chứa với người gởi thơ lạ mặt, chàng cũng nhặt một chiếc lá, viết một bài thơ vào đấy, đợi dòng nước xuôi mới thả lá xuống cho trôi trở vào cung:

"Sầu kiến oanh đề liễu nhứ phi
Thượng đương cung nữ đoạn trường thì
Tư quân bất cấm đông lưu thuỷ
Diệp thượng đề thi ký giữ thuỳ"

Phan Như Xuyên dịch:

"Nghe oanh thấy liễu chạnh lòng thương
Thương kẻ trong cung lúc đoạn trường
Chiếc lá đề thơ trôi mặt nước
Gởi cho ai đó nói không tường"

Nàng cung nữ họ Hàn thường ngồi thơ thẩn nhìn dòng nước chảy, bỗng bắt được chiếc lá chở bài thơ của người không quen biết, vừa mừng, vừa lấy làm lạ, liền đem cất vào rương son phấn.

Non mười năm sau, vua mới lên ngôi, sa thải một số cung nữ cũ, trong đó có Hàn Thuý Tần. Nàng đến ở tạm dinh quan Tể tướng họ Hàn là chú họ của nàng, để chờ chuyến thuyền trở về quê nhà. Gặp Vu Hựu, cả hai trò chuyện hợp ý tâm đầu. Tể tướng họ Hàn thấy cả hai xứng lứa vừa đôi nên làm mối cho kết thành duyên giai ngẫu.

Ðêm tân hôn, Hựu chợt mở rương son phấn của vợ, thấy chiếc lá của mình ngày xưa, chàng cũng đem chiếc lá của mình vớt được, đem cho vợ xem. Cả hai lấy làm lạ, đoạn nhìn nhau âu yếm mĩm cười. Thì ra cả hai giữ hai chiếc lá của nhau, cho là duyên trời định.

Cảm xúc cảm tình, cổ thi có bài- nhưng có sách lại cho bài sau này do Hàn Thuý Tần làm ra:

"Nhứt liên giai cú tuỳ lưu thuỷ
Thập tải ưu tư mãn tố hoài
Kim nhựt khước thành loan phượng lữ
Phương tri hồng diệp thị lương môi"

Nghĩa:

"Một đôi thi cú theo dòng nước
Mười mấy năm qua nhớ dẫy đầy
Mừng bấy ngày nay loan sánh phượng
Cũng nhờ lá thắm khéo làm mai"
(Bản dịch của Vô Danh)

"Chim xanh" tức là chim báo tin.

Nguyên vua Võ Ðế đời nhà Hán đương ngự chơi ở vườn Thượng uyển, bỗng thấy có hai con chim xanh bay đến. Ðông Phương Sóc hầu bên tâu rằng: đó là sứ giả của Tây vương mẫu đến trước báo tin Tây vương mẫu sắp đến. Qủa nhiên, một lúc sau, Tây vương mẫu đến thăm nhà vua.

"Chim xanh" được mượn chỉ sứ giả, người đưa tin.

"Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh" có nghĩa là không có dòng sông thả lá thắm, không có lối chim xanh bay vào, ý nói không thông tin tức được với người bên trong. Xem như tất cả nỗi chờ mong gặp gỡ hay tin tức đều hoàn toàn tuyệt vọng.

Ðoạn tả Kim Trọng có vẻ suồng sã, lả lơi với Kiều, Kiều khuyên có câu:

"Vẻ chi một đoá yêu đào
Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh"
(Câu 503 đến 504)

"Chim xanh" ở đây không còn có ý nghĩa chỉ sứ giả nữa, mà chỉ người mai mối. Kiều nói nhún mình: "Thân em là (một hoa đào) tầm thường trong vườn đào đáng giá gì mà không bằng lòng chấp nhận người mai mối (một khi chàng yêu) được chàng đưa đến... Vậy là Thuý Kiều "buộc" Kim Trọng phải thực hiện điều quan trọng đầu tiên hơn hết, rồi sau sẽ muốn gì thì muốn. "Ai lại tiếc gì với ai", chớ giờ thì "Chữ trinh đáng giá ngàn vàng"...
 
T

trifolium

Hoạ là người dưới suối vàng biết cho

Trước nấm mồ của Ðạm Tiên hoang vắng, Kiều cảm động than thở, có câu:

"Nào người phượng chạ loan chung,
Nào ai tiếc lục tham hồng là ai?
Ðã không kẻ đoái người hoài
Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương.
Gọi là gặp gỡ giữa đường,
Hoạ là người dưới suối vàng biết cho"

(Câu 89 đến 94)

Và, khi bán mình lo hối lộ quan lại để cứu cha mắc tội oan, Kiều làm thơ than thở với em là Thuý Vân nhờ thay mình để kết duyên với Kim Trọng, có câu:

"Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây"
(Câu 731 đến 734)

"Suối vàng", nguyên từ Hán Việt là "Hoàng (huỳnh) tuyền"; "Chín suối" là "Cửu tuyền" hay "Cửu nguyên" đều chỉ cõi âm phủ. Theo mê tín, đây là một cái suối màu vàng ở dưới lòng đất, người ta lúc chết chôn xuống dưới đất nên dùng chữ "suối vàng" để chỉ chỗ ở của người chết. Sách Tả truyện có câu: "Bất cập hoàng tuyền vô tương kiến giã", nghĩa là "Không đến suối vàng thì không gặp nhau được".

Nguyên đời Xuân Thu (722-749 trước D.L), Vũ công nước Trịnh có vợ là Khương Thị sinh ra con trưởng là Ngộ Sinh và con thứ là Ðoạn. Vì sinh Ngộ Sinh do sự sự đẻ ngang làm Khương Thị khổ sở nên bà không ưa. Trái lại, Ðoạn mặt mũi khôi ngô, sức mạnh hơn người lại có tài thiện xạ nên Khương Thị rất yêu chiều. Muốn cho Ðoạn sau này nối ngôi, nên trước mặt Trịnh Vũ công, bà thường khen Ðoạn là người hiền đức và tỏ ý muốn lập Ðoạn làm thế tử. Trịnh Vũ công bảo:

- Anh em có thứ bậc, không nên xáo trộn đạo lý. Hơn nữa, Ngộ Sinh không có tội lỗi gì thì sao bỏ trưởng lập thứ được?

Thế là Trịnh Vũ Công lập Ngộ Sinh làm Thế tử. Còn Ðoạn thì thì được phong cho đất Cung, gọi là Cung thúc Ðoạn, Khương Thị lấy làm bất bình. Trịnh Vũ công mất, Ngộ Sinh lên kế vị tức Trịnh Trang công, lại tiếp tục kiêm chức Khanh sĩ nhà Châu thay cha. Dương Thị thấy Ðoạn không quyền hành, lấy làm buồn bã, bảo Trịnh Trang công:

- Con nối ngôi cha làm chủ nước Trịnh, đất rộng ngoài mấy trăm dặm, thế mà nỡ cho người em ruột thịt một chỗ đất nhỏ mọn không đủ để dung thân, sao yên lòng được?

Trịnh Trang Công thưa:

- Vậy xin mẫu thân cho biết ý muốn.

- Sao không lấy đất Chế ấp mà phong cho em con.

- Chế ấp là một nơi hiểm yếu, tiên vương ngày xưa có di mạng cấm phong cho ai. Trừ đất ấy, mẫu thân mẫu thân muốn chỗ nào con cũng sẽ vâng lời.

- Nếu vậy thì phong cho nó đất Kinh thành.

Trịnh Trang công im lặng. Khương thị thấy thế nổi giận bảo:

- Nếu con không nhận như vậy thì cứ đuổi Ðoạn đi nước khác, để nó tìm cách gì làm ăn được thì nó làm.

- Con đâu thể làm thế được.

Hôm sau, Trịnh Trang công vời Ðoạn vào phong cho đất Kinh thành. Qua Ðại phu là Sái túc can, cho rằng Kinh thành là một ấp lớn, đất rộng người đông, nếu đem phong cho Cung thúc Ðoạn thì mai hậu Ðoạn sẽ cậy thế chuyên quyền. Nhưng Trang công bảo:

- Mẫu thân ta đã muốn vậy thì ta phải làm theo vậy.

Thế là Ðoạn ra ở đất Kinh thành. Trước khi đi, Ðoạn vào cáo biệt mẹ. Khương thị nói riêng với Ðoạn:

- Anh con không nghĩ đến tình ruột thịt, đãi con lắm điều tệ bạc. Nhờ ta ba lần khẩn khoản nó mới phong đất Kinh thành cho con, ấy là vị nể chưa chắc thành thật. Con về Kinh thành nên lo luyện tập binh mã, chuẩn bị sẵng sàng, nếu có cơ hội thì đem quân lại đánh, ta sẽ nội ứng mà lấy nước Trịnh. Nếu con đoạt được ngôi của Ngộ Sinh thì ta có có chết cũng đành hả dạ.

Cung thúc Ðoạn lãnh lịnh mẹ đóng ở đất Kinh thành, đổi hiệu Cung thúc ra Thái thúc. Từ đấy, Ðoạn ngày ngày đem quân vào rừng săn bắn nhưng kỳ thực là đi luyện tập, lại chiếm lấy hai ấp gần đó. Hai quan ấp tể trốn về triều kêu cứu. Trịnh Trang công không nói gì chỉ mỉm cười. Quan Thượng khanh công tử Lã kêu lên:

- Tội Thái thúc Ðoạn thực đáng giết.

Trang công hỏi có ý kiến gì không, thì Lã nói:

- Thái thúc Ðoạn ỷ lại trong có quốc mẫu yêu vì, ngoài cậy vào đất hiểm yếu của Kinh thành mà đêm ngày luyện tập binh mã, tất cố ý thoán đoạt. Xin chúa công cho tôi đem đem quân đi Kinh thành, bắt Ðoạn để trừ hậu hoạn.

Trang công bảo:

- Tội của Thúc đoạn chưa có gì rõ rệt, không nên vội.

- Ðoạn đã chiếm lấy hai ấp. Không lẽ chúa công để đất của Tiên công hao mòn mãi sao?

Trang công cười nói:

- Ðoạn là con cưng của mẫu thân ta, ta thà mất bờ cõi còn hơn mất tình anh em và để mẫu thân ta phải buồn.

- Sợ mất bờ cõi thì không nói làm gì, e có ngày mất luôn cả nước. Nay Thúc Ðoạn ngày một cường thịnh, dân tình sợ uy mà sinh hai lòng. Bây giờ chúa công còn dung sau này Thúc Ðoạn không dung, chúa công hối thì làm sao kịp nữa?

Trang công nghiêm giọng:

- Nhà ngươi không nên nói càn, để mặc ta lo nghĩ.

Công tử Lã đi ra, và nói với quan đại phu Sái Túc:

- Chúa công ta bịn rịn tình riêng mà quên việc nước. Tôi lấy làm lo lắm!

Sái Túc cười bảo:

- Chúa công là một người tài trí, há lại không biết điều ấy. Có lẽ vì chỗ đông người không tiện nói ra, vậy ông nên vào hầu riêng mà bàn chuyện, dò xem ý chúa công ra sao.

Công tử Lã cho là phải, bèn vào yết kiến Trang công, Trang công nói:

- Ta nghĩ kỹ lắm. Ðoạn dù vô đạo nhưng chưa rõ tội. Nếu ta đem quân đánh thì quốc mẫu ta ắt tìm cách ngăn cản. Người ngoài không biết lại bảo ta bất hữu và bất hiếu. Chi bằng cứ để thế, Ðoạn tất làm càn, không kiêng nể ai, lúc ấy ta sẽ kể tội trạng đem quân đi đánh thì người trong nước không ai giúp Ðoạn, mà đến mẫu thân ta cũng không oán trách gì được.

- Nếu quả vậy, chúa công cao kiến lắm, chúng tôi chưa nghĩ đến kịp. Dù vậy, tôi sợ thế lực Ðoạn ngày một to, lan ra như cỏ mọc, cắt không hết được thì mới làm sao? Chúa công nên mưu nghĩ cách gì cho Ðoạn phản nghịch nổi loạn sớm thì đánh hắn mới chắc được.

- Vậy thì ta phải làm cách nào?

Thế là sáng hôm sau, Trang công giao việc quốc chính cho quan Ðại phu Sái Túc để vào triều nhà Châu. Khương Thị nghe biết mừng lắm cho là dịp tốt đã đến, liền viết thư sai kẻ tâm phúc đem đến Kinh thành, hẹn với Thúc Ðoạn đem quân về đánh. Nhưng Công tử Lã đã cho người đón đường bắt được thư và giết ngay tên ấy, rồi đem thư dâng lên Trang công. Trang công xem thư, niêm lại rồi sai người giả làm người của Khương Thị đưa thư đến cho Ðoạn, và lấy thư trả lời đem về. Trang công được thư mừng lắm nói:

- Tờ cung chiêu của Ðoạn sẵn có đây rồi. Thế thì mẫu thân ta không bênh vực thế nào được nữa.

Trang công liền vào cáo từ Khương Thị, giả nói vào nhà Châu triều kiến, rồi đem quân theo đường tắt sang Kinh thành.

Thái thúc Ðoạn từ khi tiếp được thư của mẹ, liền sai con là Hoạt sang nước Vệ mượn binh, rồi phao tin rằng phụng mạng về triều tạm thay coi việc quốc chính, đoạn mở cửa thành tiến quân.

Công tử Lã mưu cho quân giả làm lái buôn trà trộn vào thành trước, đợi khi Ðoạn cất quân đi thì đốt lửa làm hiệu cho Lã biết đem quân đến, trong thành mở cửa ra đón. Lã vào thành rồi liền kể tội Ðoạn trước quân dân, và đem đức tính của Trang công yết cho nhân dân biết. Người trong thành cho là phải.

Thái thúc Ðoạn bắt được tin Kinh thành có biến, không dám trở lại, rút quân về Cung thành. Trịnh trang công xua quân đánh, Thúc Ðoạn nghe tin thở dài, than: "Chính mẹ ta giết chết ta rồi. ta còn mặt mũi nào nhìn thấy anh ta nữa!". Ðoạn tự tử chết.

Trang công vào thành, ôm thây Thúc Ðoạn khóc kể: "Ta đã giết chết em ta rồi. Em ta quá lo, chớ ta đâu nỡ giết em ta!". Bấy giờ Trang công thu lấy đồ đạc, tìm thấy bức thư của mẹ gởi cho Ðoạn liền lấy gói lại cùng bức thư trả lời của Ðoạn, sai Sái Túc đem về Trịnh dâng cho Khương Thị xem, lại truyền đem Khương Thị an trí sang đất Dĩnh. Trang công uất ức việc mẹ làm nên thề rằng: "Không đến suối vàng thì chẳng gặp nhau được". (Bất cập hoàng tuyền vô tương kiến giã). Riêng Khương Thị thấy hai bức thư lấy làm thẹn, tự nghĩ không còn mặt mũi nào nhìn thấy Trịnh Trang công nữa bèn dọn đồ đi ở ấp Dĩnh. Trang công trở về triều, vào cung không thấy mẹ lấy làm đau lòng: "Ta ép lòng để em ta chết, nay nỡ lòng nào để lìa mẹ nữa. Ta thật có tội!".

Quan trấn ấp Dĩnh là Ðinh Khảo Thúc vốn người chí hiếu và trung trực, thấy Trang công đem an trí mẹ thì không bằng lòng, nên có ý tìm cách khuyên can, nên một hôm bắt mấy con chim cú vào dâng cho Trang công để làm thịt. Trang công hỏi chim gi? Thúc thưa:

- Ðây là giống chim cú. Ban ngày, vật gì lớn bằng quả núi cũng không thấy, mà ban đêm vật gì nhỏ như sợi tóc dù ở xa cũng trông thấy rõ. Thật là một con vật trông được sự nhỏ mà không trông được sự lớn. Vả lại, chim nầy khi con nhỏ thì mẹ kiếm mồi cho ăn, nhưng khi lớn lên lại không biết mẹ, vậy nên bắt nó mà ăn thịt.

Trang công im lặng. Nhân lúc ấy có người dâng một con dê chín để vua nhắm rượu. Trang công sai cắt một miếng cho Ðinh Khảo Thúc ăn. Thúc liền chọn chỗ thịt ngon, tự cắt lấy một miếng gói lại trong giấy, đút vào tay áo. Trang công lấy làm lạ hỏi, thì Khảo Thúc thưa:

- Mẹ tôi đã già, nhà lại bần bạc, ngày ngày chỉ cơm rau dưa muối, chưa hề được vật nầy. Nay chúa công ban cho mà mẹ già không được hưởng thì con không sao nuốt trôi được, nên trộm đem về cho mẹ.

Trang công nói:

- Ngươi thật là một người con chí hiếu.

Trang công lại ngậm ngùi nghĩ đến việc mình, thở dài. Khảo Thúc hỏi tại sao thở dài? Trang công đáp:

- Nhà ngươi có mẹ già được phụng dưỡng để trọn đạo làm con. Còn ta làm vua mà không được bằng người.

Khảo Thúc giả vẻ ngơ ngẩn, hỏi:

- Quốc mẫu hiện đang mạnh giỏi, sao chúa công lại nói thế?

Trang công liền đem việc mưu loạn xảy ra đến việc đày mẹ và cả lời thề, nay hối lại thì đã muộn. Khảo Thúc thưa:

- Thái thúc Ðoạn đã đành mất rồi, nay chỉ còn lại quốc mẫu. Nếu chúa công còn lo nổi lời thề nặng "suối vàng", thì tôi xin hiến một cách có thể giải được. Chúa công cho người đào đất đến tận mạch nước, đặt thang, làm một cái nhà dưới hầm, rồi rước quốc mẫu đến ở đó. Thế rồi chúa công xuống dưới, kể lại tình nhớ mong mẹ bấy lâu. Tôi tin rằng chúa công nhớ mẹ bao nhiêu thì quốc mẫu cũng nhớ chúa công như thế. Cả hai gặp nhau dưới nhà hầm ấy khỏi trái với lời thề suối vàng được.

Trang công rất mừng, liền thực hiện ngay.

Khương Thị bằng lòng. Trang công theo bậc thang xuống hầm trông thấy mẹ, vội sụp lạy nói:

- Ngộ Sinh nầy bất hiếu, lâu nay thiếu phụng thờ mẹ. Mẹ tha tội cho.

Khương Thị ngậm ngùi, đỡ Trang công dậy:

- Ðó là lỗi của mẹ. Con đâu có tội gì.

Thế rồi hai mẹ con cùng khóc nức nở.

Trang công dắt mẹ lên thang, cùng ngồi xe và tự cầm cương đưa mẹ về cung.

"Suối vàng" là như vậy.
 
Top Bottom