[VĂN 11]-Tổng hợp chương trình thi ĐH

  • Thread starter tomcangxanh
  • Ngày gửi
  • Replies 24
  • Views 19,463

T

tomcangxanh

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Ở đây Tom sẽ post các bài phân tích chi tiết của chương trình thi ĐH có trong lớp 11, bắt đầu từ văn học hiện đại.

Ngoài ra sẽ có các bài viết liên quan đến tác phẩm, tác giả và các đề thường gặp.

Hy vọng giúp ích được cho mọi người.

I. Hai đứa trẻ

~>Tư tưởng nghệ thuật của Thạch Lam

~>Ánh sáng và bóng tối trong truyện ngắn hai đứa trẻ của Thạch Lam

~>Hai đứa trẻ của Thạch Lam (1)

Hai đứa trẻ của Thạch Lam (2)

~>Chất hiện thực và lãng mạn trong Hai đứa trẻ

~>Tâm trạng thức đợi tàu của chị em Liên

~>Bức tranh đời sống của phố huyện nghèo lúc chiều tối trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam


II.Chữ người tử tù

~> Tác giả Nguyễn Tuân (Cuộc đời- Sự nghiệp)

Tác giả Nguyễn Tuân (Phong cách nghệ thuật)

~>Hình tượng nhân vật Huân Cao

~>Nhân vật viên quản ngục

~>Cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù

III. Chí Phèo

~>Bài văn Đh 10 điểm: Nam Cao-Chí Phèo

~>Phân tích nhân vật Chí Phèo

~>Ý nghĩa bát cháo hành Thị Nở

~>PHÂN TÍCH TẤN BI KỊCH BỊ CỰ TUYỆT QUYỀN LÀM NGƯỜI CỦA NHÂN VẬT CHÍ PHÈO (GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO CỦA TP CHÍ PHÈO)

IV. Vội vàng

~> Tác giả Xuân Diệu (Cuộc đời)

Tác giả Xuân Diệu (Sự nghiệp văn học-trước CM tháng 8)

Tác giả Xuân Diệu (Sự nghiệp văn học-sau CM tháng 8)


 
Last edited by a moderator:
T

tomcangxanh

Tư tưởng nghệ thuật của Thạch Lam

Mọi cái rồi sẽ trôi đi, riêng sự thật còn lại "Qua bao biến thiên lịch sử, qua bao chính kiến nghệ thuật tả hữu ... dọc con đường từ 45, văn chương và tư tưởng về văn chương của Thạch Lam vẫn là một trong những giá trị còn lại".

1 - Văn chương của Thạch Lam là những trang đẹp. Cho đến nay, nó càng làm lôi cuốn tâm hồn những con người đương đại, những con người đã trải qua hai cuộc chiến có máu và lửa thảm khốc. Thoát ra khỏi không gian và thời gian "Vầng trăng và quầng lửa", con người hôm nay tìm về Thạch Lam như nhu cầu tìm về một cõi hiền hoà, yên tĩnh, dịu dàng ...; về một cõi mình có thể lắng nghe mình - về thời gian của "Gió đầu mùa", không gian của "Nắng trong vườn", hương vị của "Hà nội 36 phố phường" ...

2 - Văn chương của Thạch Lam là những trang hiện thực thoáng qua, những dấu ấn còn lại trong cảm nhận của ta sau một cơn gió nhẹ ... dấu ấn trong miên man. Đó là chủ nghĩa hiện thực không tả thực, một chủ nghĩa hiện thực mỹ thuật (réolisme pitoresque). ở đây không có rùng rợn và bão tố, không có sần sùi, gồ ghề kịch tính ... Tất cả chỉ là đẹp và tinh tế; những "Dưới bóng hoàng lan, Đứa con đầu lòng" ... đi nhẹ vào tâm thức ta.

3 - Cũng có khi văn chương của Thạch Lam đưa mỗi chúng ta vào một tự vấn về nhân cách, nhân phẩm, lương tâm, danh dự ... nghĩa là những tự vấn ở vùng đạo lý, đạo đức tiên thiên; những "Sợi tóc, Đứa con trở về " ... mang hình câu hỏi tra vấn nhẹ nhàng.

4 - Từ thẩm mỹ cho đến tư tưởng, văn chương Thạch Lam xu hướng vế cái đẹp của chất người, và chúng ta hiểu, vì sao Thạch Lam để lại nhiều giá trị hơn cả so với những giá trị khác trong Tự lực văn đoàn. Thạch Lam cảm hứng trên hằng số của tinh thần, cho nên văn chương của ông cũng trở thành một hằng số giá trị trong văn học Việt Nam.

Thời văn học Việt Nam những thập kỷ 30-40, các tư tưởng về nghệ thuật, dẫu đứng phía nào, ở nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh, ở chủ nghĩa hiện thực hay chủ nghĩa lãng mạn ... cũng đều ở trình độ giản đơn, nếu không nói là thô sơ. Các nhà tư tưởng nghệ thuật thưở ấy mang cấu trúc tư duy tam đoạn luận. Chưa thấy có sự xác lập nhiều tiền đề trong mạch lý giải, biện luận. Do vậy, tính biện chứng bị vắng bóng. Họ chưa thấy được nghệ thuật và văn chương là những hoạt động nhiều chiều và có khi là chúng ngược nhau, đan dệt ngang dọc. Họ tuyệt đối hoá một tiền đề để đi tới một hợp đề duy nhất. Cho nên các cuộc tranh luận như là rơi vào tình trạng bất đồng ngôn ngữ, không có giao lưu, thắng bại.

Trong bối cảnh và tình cảnh tư tưởng ấy, Thạch Lam xuất hiện trong một tư tưởng về sứ mệnh của văn chương (nghệ thuật). Thạch Lam đang đặt văn chương đối diện với một sứ mệnh toàn vẹn. Trong lời tựa tập "Gió đầu mùa", ông viết:

"Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự quên; trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới đầy giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn ..." So với thời đại của mình, tư tưởng nghệ thuật này tỏ ra hiểu văn chương hơm cả.

Có thể tìm thấy trong những lời phát biểu ấy những nội dung như sau:

1 - Thạch Lam lắc đầu với loại văn chương đem đến cho người đọc thái độ thoát ly, quên lãng thực trạng cuôc sống.

Thạch Lam đang sống và làm việc với những người bạn chí thân trong Tự lực văn đòan, những Thế Lữ (Tôi chỉ là người bộ hành phiêu lãng, Đường trần gian xuôi ngược thú vui chơi ..), những Xuân Diệu (Tôi là con chim, đến từ núi lạ, ngửa cổ hót chơi ...), thế mà ông vẫn cứ lắc đầu!

Phải công bằng - một công bằng mang tính lịch sử, mà nói rằng, văn chương thời ấy có một loại (mà chúng ta hay mệnh danh là văn học lãng mạn), bên cạnh những tư tưởng nghệ thuật rất quý giá, vẫn đã rơi vào cái hạn chế mà Thạch Lam vừa đề cập tới (đem đến cho người đọc sự thoát ly, sự quên).

Trong một cảm nhận thú vị và khâm phục Thơ Mới, chính nhà phê bình Hoài Thanh (trước 45) đã viết:

"Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử-Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ ... ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận ..."
(Thi nhân Việt Nam)

Thoát ly và quên lãng, xét đến cùng, cũng là một thái độ phản kháng thực tại. Nhưng nó không nhập cuộc. Thạch Lam muốn có một cái thế nhập cuộc của văn chương.

2 - Văn chương với Thạch Lam phải là một thứ khí giới. Con người sinh ra văn chương, mong muốn nó trờ thành một công cụ chiến đấu cho hạnh phúc của con người. Đó là một sứ mệnh xét từ góc độ sinh thành chủng loại văn chương - nghệ thuật. Đó là quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh. Nhưng khi văn chương phát triển thì cũng phải nhìn nó từ góc độ sinh thành cá thể. Từ góc độ này, có thể chấp nhận thái độ nghệ thuật vị nghệ thuật. Bình diện nhân sinh nằm nơi sâu của tiềm tàng, bình diện nghệ thuật sẽ bay lên như một cõi riêng từ cái nền tiềm tàng đó.

Muốn vị nhân sinh hay vị nghệ thuật thì nghệ thuật vẫn là tiếng nói của trái tim con người, vẫn là cuộc giao lưu giữa trái tim và những trái tim. Tự nó, văn chương đã mang cái véc-tơ hướng vào con người, vào cuộc đời.

Văn chương, với Thạch Lam, là một thứ khí giới. Nhưng nó không mang tính vật chất thô thiển, nó là thứ khí giới thanh cao. Nó đến với nơi thanh cao của tinh thần con người.

Viết đến đây, tôi tự nhiên liên tưởng tới thơ Sóng Hồng:

Dùng cán bút làm đòn xoay chế độ
Mỗi vần thơ - bom đạn phá cường quyền ...

3 - Sứ mệnh đầu tiên của văn chương, theo Thạch Lam, là tố cáo và thay đổi cái thế giới giả dối và tàn ác.

Văn chương có thể nào khác như thế được khi con người đang bị chìm trôi trong bao bi kịch bởi sự tàn ác và giả dối. Đưa sự mệnh tố cáo lên hàng đầu, Thạch Lam muốn văn chương phải mang được một chủ nghĩa nhân đạo hiện thực (Nhà Mẹ Lê)

Nhưng khi ngôi nhà của cơ chế cũ đã nát vụn dưới buá tạ của văn chương phê phán, khi thói tàn bạo và giả dối đã bị phơi ra dưới ánh nắng mặt trời ... thì văn chương cũng phải cảm nhận được một mạch sống đang chảy về đâu. Văn chương phải góp phần cho cuôc thay đổi. Sinh thành cá thể phải nằm trong sinh thành chủng loại của nó.

4 - Sứ mệnh đích thực của thứ khí giới thanh cao này là làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn.

Văn chương tắn gội tâm hồncon người. Sống trong những điều kiện hiện thực, con người vướng nhiều bụi bặm. Bên những tinh chất, con người cũng mang những tạp chất. Con người dễ rơi vào tiền tài, danh vọng ... rơi vào chốn phù du ...Văn chương có tác dụng "thanh lọc" (Katharsis - chữ dùng của Pythagore) tinh thần con người.

Lại nữa, tưởng tượng nếu không có văn chương - nghệ thuật thì tâm hồn con người sẽ nghèo đi biết bao nhiêu. Văn chương là một trường thể nghiệm những rung động thẩm mỹ mãnh liệt và sâu lắng. Nó đến với hồn ta. Nó nhân đôi mỗi trái tim chúng ta.

Tôi đã vẽ chân dung Thạch Lam với những nét đơn sơ nhưng đầy lòng cảm mến.
 
Last edited by a moderator:
T

tomcangxanh

Ánh sáng và bóng tối trong truyện ngắn hai đứa trẻ của Thạch Lam​

Ánh sáng và bóng tối vốn là hai phương diện quan trọng của cuộc sống, luôn luôn tồn tại bên cạnh nhau, bổ sung cho nhau. Trong hội họa, ánh sáng và bóng tối là một thủ pháp cơ bản được dùng để khắc họa con người và sự vật trong cuộc sống.

Trong văn chương, ánh sáng và bóng tối cũng được sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật nhằm tạo tình huống truyện, chuyển tải nội dung tư tưởng, chủ đề của tác phẩm. Với Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân và Hai đứa trẻ của Thạch Lam, ánh sáng và bóng tối được sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật nòng cốt "biểu hiện cách khai thác hình tượng đối với cuộc sống, như thủ pháp thuyết phục và thu hút độc giả"(1) của tác giả. Nguyễn Tuân và Thạch Lam tuy cùng thuộc dòng văn học lãng mạn nhưng mỗi người có một cách sử dụng các thủ pháp nghệ thuật hoàn toàn khác nhau, tạo nên những thế giới nghệ thuật riêng biệt và độc đáo, mang đậm phong cách cá nhân của tác giả.

Miệt mài trong hành trình kiếm tìm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, Nguyễn Tuân và Thạch Lam, trong Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ, ánh sáng và bóng tối được sử dụng không chỉ như một nguyên tắc tạo tình huống truyện mà còn vươn đến ý nghĩa biểu tượng về cái đẹp trong cuộc đời. Nguyễn Tuân viết Chữ người tử tù từ cảm hứng về một thú chơi tao nhã của người xưa, trong một tình huống đặc biệt mà người viết chữ và người chơi chữ là người tử tù và người quản ngục. Hai nhân vật này xuất hiện trong tác phẩm như một kiểu song trùng của sự tồn tại không thể thiếu nhau giữa hai khách thể đối cực, như ánh sáng và bóng tối, thậm chí là đối thủ trong một hoàn cảnh đặc biệt. Song chính vì là đối cực như ánh sáng với bóng tối nên bản thân sự khác nhau này cũng đã hàm chứa một sự tương liên, bổ sung cho nhau, thậm chí chuyển hóa từ tối ra sáng như một quy luật tất yếu.

“Chữ” hiểu theo nghĩa của tác phẩm chính là Thư pháp, một “nghệ thuật thể hiện chữ viết và là phương tiện để biểu lộ tâm thức của con người... Thư pháp gắn với tính cách, tâm tư, tình cảm, quan niệm triết học, nhân sinh quan của người viết”(2). Từ nét chữ, người ta có thể đọc được tính tình, nhân cách, khí phách người viết, nó thể hiện thế giới nội tâm của người viết chữ. Vì vậy người xưa coi việc chơi chữ như một cách di dưỡng tính tình, hun đúc tinh thần. Viên quản ngục yêu chữ của Huấn Cao là yêu nhân cách, khí phách, tài hoa của người viết chữ, yêu cái đẹp tỏa ra từ thế giới nội tâm của con người này.

Về truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam có thể nói đây là một truyện ngắn "phi cốt truyện". Đó là điểm đặc biệt đồng thời cũng là một trong những nét làm nên phong cách riêng trong nghệ thuật viết truyện của Thạch Lam.

Ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ được sử dụng như một thủ pháp chính trong nghệ thuật dựng truyện của Thạch Lam. Sở dĩ nói như vậy bởi ánh sáng và bóng tối được tác giả sử dụng trong cách xây dựng bối cảnh tác phẩm, nhân vật lẫn trong các chi tiết nhỏ nhằm biểu đạt chủ đề của tác phẩm.

Bối cảnh của Hai đứa trẻ là không gian phố huyện buồn tẻ - một không gian nghệ thuật đặc trưng xuất hỉện khá nhiều trong truyện ngắn của ông. Đó là một không gian đan xen giữa làng quê và thành thị. Thời gian là một buổi chiều “êm ả như ru” đang sắp nhường chỗ cho bóng đêm, "dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời"(5). Khung cảnh phố huyện trong bóng tối gợi không khí buồn buồn, hiu hắt, chậm chậm, đơn điệu của cuộc sống nơi đây. Bóng tối ngập đầy trong đôi mắt của Liên. Số phận của lũ trẻ bới rác và những người lao động nghèo ở đây cũng nhạt nhòa trong bóng tối. Bối cảnh phố huyện và tâm trạng nhân vật được tác giả xây dựng vào những thời điểm khác nhau: lúc hoàng hôn, khi đêm về và lúc đêm đã khuya. Trong ánh sáng của ngọn đèn leo lét trên chõng hàng chị Tý, trên bếp lửa của bác Siêu và những hột sáng lọt qua phên nứa từ ngọn đèn của chị em Liên, con người hiện lên như những cái bóng vật vờ không số phận, không tính cách. Ngoài cuộc sống mò cua bắt ốc ban ngày ra, tối đến họ tập trung ở đây như để bắt đầu một cuộc sống thứ hai trong bóng tối, nhưng là để hướng đến ánh sáng. Tất cả cùng chờ đợi một điều gì đó mới mẻ, khác lạ so với cảnh đời buồn tẻ, quẩn quanh, tù hãm của cái "ao đời bằng phẳng" hàng ngày họ nếm trải.

Hình tượng ánh sáng ở đây được xây dựng như một hình tượng nghệ thuật độc đáo, gây nhiều ám ảnh. Những hột sáng ít ỏi, nhỏ nhoi lọt thỏm giữa không gian phố huyện ngập tràn bóng tối tăng thêm độ mênh mông tối tăm, không khí buồn lặng của khung cảnh phố huyện vào đêm. Nỗi buồn chán của hai đứa trẻ và những người dân phố huyện nếu khi chớm đêm mới chỉ ở mức độ mơ hồ thì càng về khuya nó càng rõ nét. Bầu trời đầy sao và vũ trụ bao la như tương phản, đối lập gay gắt với cuộc sống tù đọng đơn điệu ở phố huyện, hé mở tâm hồn khao khát hạnh phúc của chị em Liên. Lúc này nỗi buồn không còn nhòa nhạt mơ hồ nữa mà đã sắc nét, rõ rệt hơn khi cô nhớ về Hà Nội, một thứ "siêu cảm giác" bởi cô đang hồi tưởng về quá khứ, cảm thấy bằng tâm hồn về một thời khác với thời hiện tại Liên đang sống - "một vùng sáng rực và lấp lánh"(6).

Ánh sáng từ đoàn tàu thì đã tới, nhưng ánh sáng thực sự, hạnh phúc thực sự của những con người nơi đây thì mãi vẫn tồn tại trong tâm tưởng mà không biết khi nào mới thành hiện thực. Hình tượng ánh sáng và bóng tối ở Hai đứa trẻ khi đặt vào diễn biến nội tâm tinh tế, phức tạp của Liên trong cảm nhận độ dày của bóng tối từ chiều đến đêm khuya mới thấy rõ giá trị của nó, thấy được độ "khát thèm được chiếu sáng và được đổi thay"(7) của hai đứa trẻ và những người dân nơi đây. Giá trị nghệ thuật và giá trị tư tưởng của tác phẩm vì vậy được nâng lên một tầm khác hẳn khiến Hai đứa trẻ của Thạch Lam trở thành một trong những truyện ngắn hay, đặc sắc của văn học Việt Nam.

Nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối như một thủ pháp trong Chữ người tử tù và Hai đứa trẻvừa có điểm giống nhau lẫn khác nhau. Cả hai tác giả đều sử dụng ánh sáng và bóng tối như một nguyên tắc đối lập, một thủ pháp nghệ thuật trong xây dựng tình huống truyện. Nhưng với Nguyễn Tuân ánh sáng và bóng tối vừa đối lập, vừa bổ sung, nâng đỡ nhau, đồng thời có sự chuyển hóa từ bóng tối ra ánh sáng. Nhân vật viên quản ngục khi được Huấn Cao “khai tâm” đã nghẹn ngào “xin bái lĩnh”, là một minh chứng cho sự chuyển hóa này. Ánh sáng và bóng tối ở đây từ nghĩa thực đã chuyển thành nghĩa tượng trưng.Đều hướng tới mục đích ngợi ca cái đẹp, nhưng cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân là cái đẹp thiêng liêng, sang trọng đã ổn định và có giá trị như một bảo vật văn hóa của dân tộc, như một kiểu chơi đẹp, thú uống trà, chơi chữ, một kiểu sống đẹp, một nhân cách đẹp... Chính vì vậy ánh sáng trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là ánh sáng của chân lý, của cái đẹp trong tài hoa, nhân cách, nên tác phẩm cũng được kết thúc đẹp bằng sự chiến thắng của ánh sáng với bóng tối, của thiên lương con người với cái xấu cái ác. Bóng tối ở đây vừa là cuộc sống tù đọng, quẩn quanh mòn mỏi âm u - là nét giống với bóng tối trong Hai đứa trẻ - nhưng nó cũng vừa đại diện cho cái xấu cái ác trong cuộc sống cũng như trong bản chất con người, điểm khác với truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam.

Với Thạch Lam, bóng tối vừa mang nghĩa biểu trưng cho cuộc sống tù đọng, quẩn quanh nơi phố huyện vừa được sử dụng như phông nền chính nhằm làm nổi bật ba loại ánh sáng: a) Ánh sáng nơi phố huyện - những quầng sáng giới hạn, nhỏ nhoi, leo lét, những hột sáng... tượng trưng cho số phận mòn mỏi của những con ngưòi nơi đây; b) Ánh sáng đô thị - vừa là quá khứ, vừa là tương lai, là miền mơ ước của hai đứa trẻ; c) Ánh sáng con tàu - ánh sáng thức tỉnh đời sống tỉnh lẻ, như một cầu nối từ hiện tại (ánh sáng phố huyện) về quá khứ (ánh sáng đô thị), rồi hướng tới tương lai (ánh sáng đô thị). Từ đây ánh sáng, bóng tối không còn mang nghĩa thực nữa mà mang nghĩa biểu tượng, biểu tượng của ước mơ, của khát khao hạnh phúc và những điều tốt đẹp trong cuộc sống.
Còn với Nguyễn Tuân, cảm hứng thẩm mỹ của ông bắt nguồn từ cái đẹp lớn lao, cái cao cả, bi hùng hoặc mô tả những nhân cách lớn... nên thủ pháp nghệ thuật cũng xây dựng dựa trên sự đối lập gay gắt, ánh sámg và bóng tối cũng được sử dụng nhằm miêu tả những tương phản mạnh mẽ, những chuyển biến bất ngờ, đột ngột. Đó vừa là một thủ pháp trong xây dựng tình huống truyện, vừa là sự dẫn dắt đi đến kết thúc của sự chiến thắng giữa chân lý, cái đẹp với cái xấu, cái ác. Thạch Lam do chỉ chú ý đến những cái bình thường, giản dị, nhỏ nhoi trong cuộc sống nên ánh sáng và bóng tối trong tác phẩm của ông không có sự chuyển biến dữ dội, bất ngờ.

Chính từ tính quy phạm của ánh sáng và bóng tối trong hội họa, vào văn chương nó đã vừa kế tục vừa phá vỡ tạo ra hiệu quả thẩm mỹ mới, góp phần đắc lực cho xây dựng tình huống truyện, được sử dụng như một tình tiết nghệ thuật đặc sắc. So sánh hai tác phẩm để thấy sự giống nhau và khác nhau trong nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối, lý giải nó từ quan niệm nghệ thuật, vốn văn hóa của tác giả để thấy tài năng của nhà văn và giá trị nghệ thuật to lớn của tác phẩm. Từ đó có thể khắc họa rõ hơn diện mạo của tác giả, tác phẩm, xác lập một cách thức tiếp cận văn bản không phải chỉ từ chính nó mà bằng liên văn bản. Điều này không nằm ngoài mục đích khám phá các vẻ đẹp tiềm ẩn của tác phẩm văn chương khiến nó luôn mới mẻ, lấp lánh nhiều giá trị.

Chú thích:
(1) M.B. Khrapchenco: Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học. Nxb. Tác phẩm mới, H, 1978, tr.152.
2) Nguyễn Hiếu Tín: Thư pháp là gì. Nxb. Văn nghệ, Tp HCM, 2007, tr.51.
(3), (4) SGK Văn 11. Nxb. Giáo dục, H, 2000, tr.170.
(5) SGK Văn 11. Sđd, tr.154.
(6) SGK Văn 11. Sđd, tr.158.
(7) Nguyễn Thành Thi: Phong cách văn xuôi nghệ thuật Thạch Lam. Nxb. KHXH Tp.HCM, tr.170.



 
T

tomcangxanh


Hai đứa trẻ của Thạch Lam

Trên văn đàn văn học Việt Nam trước cách mạng tháng tám, Thạch Lam chưa được xếp ở vị trí số một nhưng cũng là một tên tuổi rất đáng coi trọng và khẳng định, Thạch Lam tuy có viết truyện dài nhưng sở trường của ông là truyện ngắn, bởi ở đó tài năng nghệ thuật được bộc lộ một cách trọn vẹn, tài hoa. Nguyễn Tuân viết : “Nói đến Thạch Lam người ta vẫn nhớ đến truyện ngắn nhiều hơn là truyện dài”. Đóng góp của Thạch Lam không chỉ ở nghệ thuật mà nó còn giúp ta thanh lọc tâm hồn : “ Mỗi truyện là một bài thơ trữ tình đầy xót thương” . Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam cũng là “một bài thơ trữ tình đầy xót thương” như thế . Thạch Lam tuy có chân trong Tự lực Văn đoàn nhưng tư tưởng thẩm mĩ lại theo một hướng riêng. Ông xây dựng cho mình một thế giới nhân vật khác. Ông lặng lẽ hướng ngòi bút của mình về phía những người nghèo khổ với tấm lòng trắc ẩn chân thành? ( Phong Lê ). Thế giới nhân vật là những lớp người nghèo khổ cơ cực bế tắc nói chung, những nhân vật của Thạch Lam thật nhỏ bé và tội nghiệp: Họ thường nép mình trong bóng tối của một không gian hẹp thường là nơi phố huyện tiêu điều, xơ xác hoặc những xóm nghèo ngoại ô Hà Nội. Nhân vật của ông chủ yếu là con người thân phận, họ thường tìm kiếm nơi ẩn nấu trong gia đình, giữa bốn bức tường hoặc trong sân vườn, có nghĩa là tách khỏi cuộc đời, nơi xã hội đầy bất trắc bên ngoài. Có lẽ như thế con người mới cảm nhận hết về mình và về cuộc sống xung quanh. Dường như họ thu mình trước thực tại để xót mình và thương người, để bâng khuâng man mác khi hồi tưởng về quá khứ? Không dám nhìn về tương lai, mang nặng một mặc cảm mờ mịt trong lòng khi nghĩ về mai sau.

Cảm quan trong truyện của Thạch Lam có thể gói gọn trong ba chữ đó là niềm xót thương. Những con người nhỏ bé ấy bao giờ cũng được nhà văn học trong một không khí trữ tình đầy mến thương toả ra một cách dịu dàng từ tấm lòng tác giả...Truyện của Thạch Lam không có cốt truyện đặc biệt, giọng điệu và ngôn ngữ nhiều chất trữ tình: Mỗi truyện ngắn của Thạch Lam có cấu từ và giọng điệu như một bài thơ trữ tình, gợi sự thương xót trước số phận của những con người nhỏ bé bất hạnh. Một giọng văn bình dị mà tinh tế. Âm điệu man mác bao trùm hầu hết truyện ngắn và thiên nhiên cũng trữ tình. Văn cứ mềm mại, uyển chuyển, giàu hình ảnh, nhạc điệu . Đó chính là chất thơ trong truyện ngắn Thạch Lam, “có cái dịu ngọt chăng tơ ở đâu đây” khiến ta vương phải.

“ Hai đứa trẻ” là đặc trưng của hồn văn Thạch Lam. Nó là “một bài thơ trữ tình đầy xót thương”. Truyện “ Hai đứa trẻ” của Thạch Lam là một mẩu chuyện sinh hoạt kéo dài của hai chị em đứa trẻ thay mẹ trông nom một gian hàng vặt ở một phố huyện gần một cái ga xép. Đêm đêm những bóng người bình thường cũng lù mù đi qua trước gian hàng. Những bóng người ấy cũng lù mù như nhiều chấp lửa ở những nguồn sáng quanh quất nơi phố huyện. Trong cái bốn bề chìm chìm nhạt nhạt, bỗng có tiếng động mạnh và những luồng sáng mạnh của một chuyến xe lửa kéo qua hàng ngày. Hai chị em ngày nào cũng chờ một chuyến tàu đêm kéo qua ra mới chịu đóng cửa hàng. Nguyễn Tuân đã tóm tắt truyện như thế. Đúng vậy, truyện này tưởng như không có cốt truyện, không có biến cố. Nó chỉ là biến diễn của một thời gian ngắn, từ khoảng năm giờ chiều khi “phương tây đỏ rực như lửa cháy” đến chín giờ tối “đêm tối bao bọc chung quang”; nó chỉ là biến diễn bên trong “tâm hồn ngay thơ của hai chị em Liên, An trong một buổi tối của các thường ngày tưởng như “ tẻ nhạt”, “không có gì” … Song vượt lên trên các thường ngày, Thạch Lam bằng con đường nghệ thuật riêng với thế giới nghệ thuật riêng, một thời gian riêng, không gian riêng, nhân vật riêng, ngôn ngữ riêng đã tạo nên khí vị nhẹ nhàng, buồn man mác, đậm đà hương vị đồng quê; nhiều bóng tối mà chói sáng mối tình thương yêu hiền hoà, nhân hậu, xót thương chân thành, phảng phất thơ toả lên từ quê hương. Truyện không có cốt truyện như chất chứa biết bao cảnh đời, bao tâm trạng, tâm cảnh sâu lắng tinh tế.
Diện mao phố huyện được Thạch Lam tái hiện là một khung cảnh buồn, là cảnh chiều tàn đi dần vào đêm khuya. Hàng ngà, những cái ồn ào của buổi sáng làm không khí bị nhoè đi trong nắng như đến chiều thì cái bộ mặt thật của phố huyện hiện ra với tất cả những cái tiêu điều, xác xơ, tàn lụi. “Chiều chiều rồi” như là một lời thảng thốt, bàng hoàng như một tiếng thơ dài. Thế là một buổi chiều nữa lại đến, chiều là buồn. Ấn tượng về buổi chiều khá sâu đậm. Thạch Lam đã chọn một phiên chợ tàn để nói lên được tất cả bộ mặt của phố huyện. Chợ là nơi biểu hiện sức sống của một làng quê, biểu hiện thuần phong mĩ tục của làng quê. Người ở nông thôn thường trông chờ vào ngày chợ phiên đông vui tấp nập. Thạch Lam đã chọn ngày chợ phiên để nói cái xác xơ tiêu điều của phố huyện. Mặc dù không tả buổi chợ phiên nhưng ông đã tả những phế phẩm còn lại của buổi chợ, đó cũng là cách biểu hiện sức sống đầy hay vơi của phố huyện. Tả những con người cuối cùng trao đổI với nhaurồi bước vào các ngỏ tối. Rác chỉ là những thứ phế thảI vớ vẫn “rác rưởi, vỏ bưởI, vỏ thị, lá nhãn và bã mía, những thanh nứa thanh tre…Lũ trẻ vẫn còn ra bòn mót, nhặt nhạnh. Ngày chợ phiên như thế thì sức sống đã kém lắm, đã yếu lắm rồi. Người bán trông vào người mua và ngược lại nhưng chỉ là sự vô vọng, lẩn quẩn, trông chờ vào sự vô vọng. Mùi vị toả ra trong không gian này là một thứ mùi đặc trưng để nói tớI sự nghèo nàn. Đó là mùi bã mía, vỏ bưởI, vỏ thị, đất ẩm, mùi khói, mùi cỏ, mùi phân trâu nồng nồng ngai ngái… Cái mùi vị ấy cũng góp phần làm cho khung cảnh thêm phần tàn tạn héo úa, lụi dần.

Có thể thấy xung đột giữa bóng tối và ánh sáng khá mạnh mẽ. Ánh sáng và bóng tối đang giao tranh nhau. Ánh sáng yếu dần ban đầu là “ bầu trời đỏ rực như lửa cháy, mây ánh hồng như hòn than sắp tàn” sau đó là bóng tối hiện dần ở bóng xẩm trên ngọn tre và cuối cùng bao trùm lên khu phố huyện là cái bóng tối mênh mông của nó, tín hiệu là ngọn đèn Hoa Kỳ của chị Tí. Ở đây ánh sáng và bóng tối còn mang ý nghĩa tượng trưng, ánh sáng là ước mơ , bóng tối là nghèo nàn và cô đơn; mở đầu chuyện ánh sáng tắt dần, bóng tối chiếm lĩnh. Chính cái ánh sáng cuối cùng ấy báo hiệu rõ màn đêm- màn đêm vừa sâu vừa dày sẽ diễn ra tiếp đó. Ánh sáng càng ngày càng thu nhỏ phạm vi hoặc ở xa manh mảnh, li ti như ánh sáng của ngôi sao trên bầu trời hoặc yếu ớt ảm đạm lọt qua khe cửa khép hờ hoặc toả trên cái bóng tre của chị Tí. Ánh sáng ấy biểu hiện một sự tàn lụi ở cường độ thấp và khả năng thu hẹp của nó. Tiếng trống thu không rời rạc, chậm, lẽ tẻ và cứ tắt lịm dần. Nhưng âm thanh nhỏ nhất như tiếng muỗi vo ve gợi cảm giác về sự ngưng đọng. Nó rơi tỏm vào trong không gian đang chết lặng. Đó là những âm thanh không có hồi âm, nó chỉ nhấn mạnh thêm cái buồn tẻ đến rợn người của phố huyện lúc chiều tối. Tất cả hô ứng, qui tụ để cho người đọc thấy rõ được khung cảnh thật của phố huyện một ngày tàn. Thạch Lam miêu tả nhận xét một cách tinh tế, sâu xa bước đi thời gian của nơi phố nghèo. Người đọc dường như thấy được bước chuyển biến của thời gian rung lên bằng ngôn ngữ riêng. Sức rung động của câu văn có khả năng đánh thức con người hãy cảm nhận thật tinh tế khung cảnh phố huyện và tâm sự của Thạch Lam.
Trên cái nền ấy, những cảnh đời, những con người, đúng hơn là những phiến cảnh về cuộc đời, về con người bé mọn, hoàn toàn không có ước vọng, khát khao được khắc hoạ rõ nét. Họ nói chuyện với nhau nhưng dường như chẳng có nội dung. Họ có đi lại, ăn nói với nhau nhưng chỉ thấy họ vừa lòng thoả mãnvới cảnh chật hẹp. Mua chịu nửa bánh xà phòng, bán đong hơn một ngấn rượu trong chiếc cút bé nhỏ …Chị Tí là điển hình cho người dân phố huyện với nhịp sống quẩn quanh : ban ngày mò cua bắt tép, ban tối chị mới mở cái hàng bán nước. Cái đáng sợ là vẫn biết bán không được gì “sớm muộn mà có ăn thua gì?” mà vẫn cứ ra. Đây không phải là sự sống thực sự mà là sự sống cầm chừng cầm cự với cuộc sống, giao tranh, tranh giành với cái đói,cái chết trông chờ vào những người trên tàu là qua bấp bênh có khác gì trông chờ vào những người khách ấy để sống. Cách chị Tí trả lời câu hỏi của Liên: không trực tiếp trả lời ngay mà còn làm thêm để chõng xuống đất, bày biện các bát uống nước mãi rồi mới chép miệng trả lời : “ỐI chao, sớm muộn mà có ăn thua gì”. Câu văn cho ta thấy nhịp sống chập chạp, lẩn quẩn của nhân vật. Bác phở Siêu có vẻ khá hơn nhưng nhưng nguy cơ lại lớn hơn vì thứ mà bác bán là thứ quà xa xỉ mà ngay cả chị em Liên cũng không dám ăn. Bác Xẩm góp tiếng đàn run bần bật trong đêm tối, mà không hề có tiếng động nào của một đồng xu. Bà cụ là một con người bị tàn lụi, héo úa và cho ta cảm giác rợn người, kinh hoàng. Bà là kiếp người đáng sợ ở chi tiết vừa đi vào bóng tối vừa cười khanh khách. Cách xưng hô với Liên “chị” đã kéo xa khoảng cách tình giữa con người với con gnườI vốn nó rất cần trong hoàn cảnh cầm chứng này. Cụ Thi điên là một nạn nhân đầy đủ nhất của kiếp người, như một cái cây đã tàn lụi quá nhiều - kiếp người héo hắt – tàn lụi. Cụ Thi xuất hiện chỉ trong mấy dòng truyện ít ỏi nhưng đã ám ảnh người đọc, thức dậy trong ta lòng trắc ẩn chân thành.
Ở vị trí tiền cảnh của bức tranh đời buồn thảm, héo tàn, mờ mờ lay động bóng hai chị em nhỏ tuổi cũng âm thầm không kém với cái “cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu” mà khách hàng là những người khốn khổ có khi không đủ tiền mua nổi nửa bánh xà phòng hoặc chỉ đủ tiền cho cút rượu nhỏ “uống một hơi cạn sạch”. Liên xót xa cho những kiếp người lay lắt nhưng cuộc sống của Liên cũng cầm chừng không kém. Nỗi khổ của Liên có lẽ còn cao hơn nỗi khổ vật chất của những người khác, đó là bi kịch tinh thần bởi họ khổ mà không biết mình khổ còn Liên đã thực sự thấm thía cảnh sống tẻ nhạt tù hãm và đơn độc hết ngày này sang ngày khác. Biện pháp duy nhất để khuây khoả nỗi hắt hiu, đơn điệu chỉ là đêm nào cũng mỏi mắt cố gắng chờ đợi một chuyến tàu đi qua : “đó là hoạt động cuối cùng của đêm khuya”.

Ánh sáng của đoàn tàu là mảng ánh sáng rực rở, mạnh mẻ song ở ánh sáng này cũng chỉ vụt loé lên nhanh như một vì sao băng dể rồi vĩnh viễn tắt lịm trong màn đêm khiến ta phải ngơ ngác, bàng hoàng. Dường như “Hai đứa trẻ” là truyện của những nguồn ánh sáng, hồi tưởng của Liên cũng là hồi tưởng về ánh sáng. Lần đầu tiên Liên “nhớ lại” Hà Nội, một kí ức không rõ rệt, Hà Nội là một vừng sáng rực lấp lánh “và” Hà Nội nhiều đèn quá. Lần thứ hai, Liên mơ tưởng “Hà Nội xa xăm” , “Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo” . Cái cảnh tượngcủa quá khứ đẹp đẽ ấy tương phản gay gắt với cái tối mịt mù dưới gốc bàng của hiện tại đang diễn ra. Quá khứ và hiện tại, ánh sáng và bóng tối, lãng mạng và hiện thực, giấc mơ nghèo và sự thật nghèo khổ, tất cả tạo nên biến động sâu kín trong tâm hồn Liên. Ánh sáng của đoàn tàu là ánh sángcủa mơ ước, nó chỉ thoáng qua, tắt lịm và để rồi tất cả lại chìm trong bóng tối mênh mông, buồn tẻ. Tất cả các nhân vật đó đã hiện ra dưới cái nhìn xót thương của người tái hiện. Và nỗi thương cảm của Liên đối với mấ đứa trẻ đi nhặt rác, với chị Tí, với bác Siêu, với cụ Thi điên cũng là cảm xúc của chính Thạch Lam. Thạch Lam đã hoá thân vào nhân vật để nói cái cảm quan xót thưong của mình. Đoàn tàu với thoáng sáng vụt qua rất nhanh rồi tắt lịm đã thay đổI một chút ít không khí của thế giới hiện tại, phải chăng đó là khát vọng thoát khỏi cuộc sống tù đọng dù chỉ trong chốc lát của Thạch Lam. Nhà văn day dứt về một kiếp sống tàn lụi, héo úa, đơn điệu, hư vô chứ không chỉ có xót thương thông thường. Chính vì vậy mà ông trình bày hiện thực của phố huyện mang ý nghĩa khái quát lớn của xã hội Việt Nam về sự trì trệ. Nếu đặt trong dòng thời sự văn học buổi ấy, ta thấy Thạch Lam phản ánh khá rõ nét một hoàn cảnh, tâm lí thời đại mã Nam Cao đã phải từng thốt lên : “Cuộc đời đang cùn đi, gỉ đi, nổi váng lên”…



 
T

tomcangxanh

“Hai đứa trẻ” là một truyện ngắn như một bài thơ trữ tình bởi cấu từ, giọng điệu, ngôn ngữ của nó, giống như một bài thơ. Cấu từ của truyện là cấu từ vòng tròn xoay quanh hình ảnh bóng tối được lặp đi lặp lại nhiều lần (không dưới ba mươi lần). Khi miêu tả cảnh trời phố huyện cũng như cảnh đời những con người phố huyện, tác giả đặc biệt có ý sử dụng một cách công phu yếu tố nghệ thuật :hình ảnh bóng tối bao trùm cảnh vật và con người mà tác giả dụng công miêu tả từ nhiều thời điểm, từ nhiều góc nhìn, từ nhiều tâm cảnh khác nhau. Bóng tối như một ám ảnh, như một sự hăm doạ, như một quái vật đè nặng lên cảnh vật và con người. Tác giả nhắc đến bóng tối nhiều lần dưới những cách nói hình ảnh từ ngữ tuy có khác nhau : “buổi chiều hòn than sắp tàn”, “mặt đen lại”, “chiều, chiều rồ” , “bóng tối ngập đầy” , “bước của buổi chiều” , “ngày tàn” . Tác giả miêu tả rất nhiều trạng thái khác nhau của bóng tối đến với tiếng trống thu không tư trên chòi cao, bóng tối sắp đến với những đám mây hồng như hòn than sắp tàn, bóng tối đến với dãy tre làng đen lại, bóng tối đến với cánh muỗi vo vo, bóng tối đến với những viên đá nhỏ trên con đường mấp mô, bóng tối trùm lên đường phố và các ngõ huyện… Nói tóm lại, bóng tối được lặp đi lặ lại đầu và cuối huyện. Bóng tối như một cái gì hãi hùng đang hoạt động, đang thâm nhập, đang len lỏi, luồn lách, bám sát vào mọi cảnh vật, mọi trạng thái hoạt động âm thâm của mọi sinh vật. Nó như cái nền không gian nghệ thuật của tác phẩmvà không gian xã hội của con người. Bởi tối là lúc chị Tí xuất hiện “tối đến chị mới dọn cái hàng dưới gốc cây bàng”; về đêm bác phở Siêu mới xuất hiện như một chấm lửa nhỏ và vàng lơ lửng đi trong đêm tối, mất đi rồi lại hiện ra … bóng tối là nơi cụ Thi mang đến và mang đi “một tiếng cười khanh khách nhỏ dần” , một cụ Thi cuộc đời không rõ ràng nhưng rõ ràng là đang chứa ẩn một nỗi lòng u uất cứ chìm trong bóng tối; vợ chồng bác Xẩm thu gọn trên manh chiếu chật hẹp, với chị em Liên, tác giả kể tỉ mỉ hơn nhưng tâm trạng, những suy nghĩ của hai đứa trong đêm tối: đêm tối ngập đầy đôi mắt của Liên, Liên thích ngồi yên lặng ngắm nhìn trong đêm tối, về khuya, Liên ngồi yên lặng trong đêm chờ đón đoàn tàu, khi tàu vụt qua, Liên nhập dần vào giấc ngủ yên tĩnh như đêm ở trong phố tịch mịch và đầy bóng tối…

Lặp đi lặp lại gián tiếp hay trực tiếp hình tượng bóng tối cũng chính là cách để tác giác bộc lộ chủ đề tác phẩm qua cảm quan xót thương và tạo cho truyện có âm hưởng, cấu từ như một bài thơ trữ tình.

Mặt khác, việc miêu tả những cảm giác thiên nhiên rất hiếm trong hiện thực phê phán nhưng trong “Hai đứa trẻ” , Thạch Lam luôn luôn miêu tả khi có cơ hội. Thiên nhiên bao bọc truyện với nhiều trạng thái phong phú. Tác giả còn chú ý khắc hoạ được cảm giác mơ hồ về giờ khắccủa ngày tàn và về vũ trụ thăm thẳm bao la rất gần gũi mang sắc thái dân tộc, cũng chính vì vậy mà nhân vật chính của câu chuyện là Liên cứ mang theo vẻ hồn man mác. Chất thơ còn được thể hiện ở ngữ điệu nhỏ nhẹ, man mác thú vị ở lời văn, ở những cảm xúc tinh tế của một tâm hồn dể rung động. Truyện cứ trảI dài ra như một bài thơ, lắng sâu thanh lọc hồn ta. Chất nhạc thấm trong từng câu văn thấm thía. Một giọng văn bình dị mà tinh tế, đầy ưu ái. Có thể nói “ hai đứa trẻ” là một bài thơ trữ tình trọn vẹn của Thạch Lam.
Khi nói “mỗi truyện là một bài thơ trữ tình đầy xót thương” thì người nói muốn nhấn mạnh cả về nội dung lẫn hình thức của truyện. Nội dung thể hiện hình thức và ngược lại. Nó là sự gắn bó hoài hoà để tạo nên tác phẩm. Văn phong của Thạch Lam được thể hiện đặc trưng trong “Hai đứa trẻ”, và tôi muốn kết thúc bài viết này bằng ý kiến của Nguyễn Tuân: “Ngày này đọc lại Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ cái dư vị và cái nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học”


 
T

tomcangxanh

Chất hiện thực và lãng mạn trong Hai đứa trẻ

“ Văn học là nhân học” ( M.Gorki). Trong văn học, do vậy, vẻ đẹp nhân bản của con người luôn luôn là một phương tiện thẩm mĩ mà ở đó chất thơ và chất hiện thực hoà quyện với nhau. Để làm rõ điều vừa nói, “hai đứa trẻ” của Thạch Lam sẽ là một dẫn chứng.
“ Hai đứa trẻ” vừa là bức tranh hiện thực phố huyện nghèo, vừa như một bài thơ trữ tình đặc sắc. Tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn bâng khuâng day dứt về đời sống con người.
Bức tranh hiện thực nơi phố huyện nghèo xơ xác và lại càng xơ xác, tiêu điều hơn từ cái nhìn của nhà văn. Đó là lúc hoàng hôn của một ngày tàn nơi miền quê “mặt trời đã lấp sau rặng tre, nhìn lên chỉ thấy khóm tre màu đen kịt trên nền trời phớt hồng” dàn nhạc của ếch nhái bắt đầu văng vẳng kêu ngòi đồng, thế cũng đủ làm thành cái buổi chiều êm như ru như bao chiều khác.
Như một mô típ nghệ thuật, cái phố huyện hẻo lánh lại hiện ra trong khung cảnh chợ vãn của buổi chiều chỉ còn lèo tèo vài ba người bán hàng đang thu dọn gánh, vài đứa trẻ đi thu lượm các thứ lặt vặt… Cái bức tranh ấy đã một lần hiện lên trong “gió lạnh đầu mùa” nhưng sao nó vẫn nhuốm một nỗi buồn khó tả vào cái giờ khắc của ngày tàn trong “Hai đứa trẻ”.
Song bức trang phố huyện ấy không chỉ là cảnh vật mà là bức tranh cuộc sống của con người. Một hiện thực nơi miền quê hẻo lánh, một chút của chốn kinh thành được mang tới từ con tàu đêm đêm. Cuộc sống phố huyện có gì? Đó là hoạt động kiếm sống của những người mang trong mắt Liên dường như quá quen thuộc, mỗi người đã có một thói quen. Như bác phở Siêu. chị Tí, bố con nhà hát sẩm, cụ Thi điên và ngay cả Liên. Việc chủ yếu cũng chỉ là nghe tiếng trống thu không thì đóng cửa quán mà đợi chờ. Hiện thực không làm ta ngỡ ngàng đó là một phố huyện nghèo với những người cần cù lao động một cách lầm lũi đáng thương.
Nhưng tất cả những hiện thực như thế đều đặt trong con mắt quan sát chất chứa trong chấ văn lãng mạn.Thời gian đi vào cuộc sống của phố huyện “ rõ ràng” không vụt nhanh hoặc tan vào đêm tối. Thời gian cứ chậm rãi đi từng bước phát triển của nội tâm. Từ “tiếng trống thu không” đến một câu văn nhẹ nhàng : “Chiều, chiều rồi” cất lên trong lòng, rồi trời nhá nhem tối đến không gian đã khuya không còn những “tạp âm”, của ban ngày chỉ còn “vòm trời với ngàn ngôi sao xanh ganh nhau lấp lánh”. Mỗi thời điểm lại có một cái nhìn cảnh vật khác nhau nhưng đều có phần thi vị hoá nhờ những câu văn tươi mát, uyển chuyển.
Có buổi chiều nào êm như ru trong cách nhìn của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng? Chỉ cón tâm hồn lãng mạn Thạch Lam mới có cái mượt mà đượm chất thơ như thế.
Sự tài tình chính là ở chổ nhà văn vừa hoà nhập hai tâm hồn quan sát là một. Hiểu là nhà văn quan sát cũng đúng mà hiểu cảnh vật diễn ra trong mắt của nhân vật Liên cũng chẳng sai. Ta thấy rõ điều đó qua cái giật mình của nhân vật. “Liên mãi ngồi quên mất! Bây giờ Liên vộI vàng vào thắp đèn xếp những quả sơn đen lại”.
“Trời bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng gió mát”. Nhưng câu văn như vậy có rất nhiều và được dùng một cách chính xác đạt đến mẫu mực. Phải chăng cảm nhận ấy xuất phát từ tâm hồn nhà văn hay chính là từ tâm hồn của Liên khi phố huyện đã chìm trong im lìm của vắng lặng. Trong con mắt “Dõi theo những bóng người về muộn từ từ trong đêm”.
Nếu như đầu tối phố huyện còn được “trang hoàng” bằng những ánh đèn hắt ra từ những quán bên đường thì bây giờ chỉ còn là bóng đêm. Một vài tia sáng le lói từ kẻ cửa thành từng vệt. Con mắt thơ mộng đâu chỉ dừng ở những ánh sáng rất thực mà tìm đến cái mong manh của thứ đom đóm lập loè trong kẽ lá bàng lại càng gợi buồn khó tả. Ánh sáng hiếm hoi của thiên nhiên được nhà văn “ chớp” nhanh trong cái nhìn lãng mạn. Chất thơ chính là ở đó. Vừa có vài hiện thực vừa có sự bay bổng của người bút phác lên và đằm lại trên trang văn. Nhưng tất cả vẫn là cái thường nhật diễn ra trong cảnh sống vốn quẩn quanh lầm lũi.
Ánh đèn của chị Tí đủ soi một khoảnh nhỏ. Nếu quan sát từ xa, ta sẽ thấy một bức tranh khá hoàn chỉnh về mặt nghệ thuật với hai “gam màu” sáng tối. Khuônmặt người phụ nữ chân quê chất phát đã trảI qua một ngày bươn bải với cuộc sống để kiếm cái ăn, manh áo. Cuộc sống gia đình bận rộn tối tăm. Nhưng tối nào chị cũng góp một ánh đèn như thế. Tuy để làm thêm thu nhập, nhưng hình như họ chỉ bán cho lấy lệ.
Vậy thì cái gì đã làm cho họ ra đây? Phải chăng đó là nếp sống. Và phố huyện ban đêm là nơi để họ sống…Âm thanh của cuộc sống phát ra từ những lờI đốI thoại, những hoạt động của con người nơi đây. Mỗi người đều góp một thứ ánh sáng, một chút hương vị, âm thanh. Tất cả tạo nên một bức tranh phố nghèo.
Chẳng có một nét chấm phá nào trong bức tranh nhưng tất cả những con người có mặt đã làm nên tổng thể của cảnh vật cuộc sống.
Nếu như ở Nam Cao là những cảnh sống hiện thực khốn khổ với nước mắt của đói, miếng ăn và áp bức thì cuộc sống hiện thực trong văn Thạch Lam được “đo bằng” một đơn vị “lãng mạn” nhất định. Nét bút của ông đã phát hoạ một cách rất nhẹ nhàng uyển chuyển. Phố huyện nghèo và cũng có rất nhiều lý do để người dân phải lao vào cuộc bon chen giành dật sự sinh tồn. Nhưng ở đây là một không khí chan hoà thực sự, ấm áp tình người và mỗi người khi ra về chắc chắn vẫn giữ được sự ấm áp quen thân dù rất buồn.
Sự hài hoà giữa hiện thực và lãng mạn đã giúp Thạch Lam có được chất văn nhẹ nhàng thanh thoát, ẩn hiện nhân cách tyệt vờI của ông.
Trở lại với cảnh sinh hoạt ban đêm nơi phố huyện, chất lãng mạn không dừng lại ở cảnh bao quát mà đắm lại ở những trang viết về chị em Liên. Đây chính lả điểm nhà văn đã tập trung khắc hoạ. Liên gây ấn tượng bởi nội tâm sâu sắc, xuất phát từ một con người đa cảm. Khi màn đêm đã bắt đầu buông xuống cũng chính là lúc Liên thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn. Cảm giác buồn ấy gợi lên từ cảnh phố huyện xơ xác buồn trong tiếng trống thu không vang vọng như hút hồn người. Bất giác, một cảnh tượng làm chị không khỏi chạnh niềm thương: đó là những chú bé nheo nhóc nhớn nhác giữa chợ đã vãng từ lâu để nhặt những mẫu que kem và những gì còn có ích cho chúng. Ấn tượng đầu tiên là Liên có một tấm lòng chẳng trẻ con chút nào. Tư thế của một người chị còn bé hơn thế nữa, nỗi lòng buồn báo hiệu một sự “trưởng thành” về tâm sinh lí.
Bức tranh phồ huyện nghèo hẻo lánh, ẩn khuất trong bóng tối hư vô của phố huyện. Cuộc sống phố huyện đã ăn sâu trong tâm trí Liên. Tưởng như nếu có thiếu một thứ gì của cảnh ngoài kìa, Liên đã thốt lên rồi. Nhưng tất cả vẫn thế, ngay cả tiếng cụ Thi đôi lúc làm cho Liên sợ. Nhưng cảm giác thân thuộc vẫn thấy cụ đáng yêu và đáng thương. Từng cảnh đời, cảnh sống của mỗi người lần lượt đi qua tâm hồn tưởng như non nớt của Liên.
Cuộc sống của từng người đã góp nên thành cuộc sống của cả một quần thể người dân quê nghèo khó. Từ những mảnh đời cũng giống như Liên cùng chung môi trường sống , ta thấy một điểm chung rất rõ, đó là sự quanh quẩn chật hẹp của môi trường xã hội. Ngày lại ngày vẫn chỉ là cái chợ tiêu điều, vài dãy hàng quán với những khoảnh đất trống “Lá đa lác đác trước lều” và những “con người ấy” mà thôi.
Nhưng ở Liên lại có một sự khác lạ mà trong số trên chẳng có ai. Một hành động tưởng như quái gở và vô nghĩa, đó là “đợi tàu”. Nếu mẹ Liên ở đó chắc không cho cô thức. Nhưng đó mới chính là chiều sâu của tác phẩm khi tác giả khắc hoạ hình ảnh Liên cùng em đợi tàu với một niềm háo hức rất trẻ con.
Và con tàu đã đến đúng như sự mong mởi, đợi chờ, như một thoáng niềm vui cũng chợt tắt. Tàu hôm nay không đông khách, ánh sáng của toa tàu cũng kém đi. Điều đó càng làm lòng Liên có một mỗi buồn vô hình xâm lấn. Con tàu vô cảm lầm lũi mang đến niềm vui duy nhất nhưng lại chợt gợi thêm nỗi buồn khó tả. Tiếng rầm rầm của tàu đã lẩn khuất sau màn đêm dáy đặc, không gian của phố huyện thoáng giao động rồi lại trở về như xưa. Tâm trạng của Liên bây giờ chẳng biết nên vui hay nên buồn. Vui có lẽ đúng hơn vì hàng ngày chuýên tàu vẫn là niềm mong mởi của chị. Có người nói “chờ đợi là một điều khủng khiếp”; song, không có gì để chờ đợi lại càng khủng khiếp hơn. Với Liên điều khủng khiếp chính là niềm vui mà chị có thể tự tạo cho mình. Chất lãng mạn ngay trong cảnh đợi tàu. Cảnh đợi tàu ở đây tuy có khác với cảnh đợi tàu trên sân ga nhưng lại vẫn chung một nỗi niềm mong mởi. Điều đáng nói hơn là duy chỉ một cô bé Liên đợi. Cuộc sống bon chen đã không làm chị chìm trong cảnh đời lầm lũi, thầm lặng. Vượt xa hơn là một tâm hồn khát khao niềm vui của cuộc sống. Tuy cuộc sống buồn nhưng vẫn tạo được nhiềm vui để mình sống có ý nghĩa hơn trong cõi đời. quả thực, tâm hồn Liên là một bài thơ có cấu tứ khá hoàn chỉnh; nhưng đó là một sự thật hiển nhiên mà Thạch Lam đem lại. Cho đến nay, chị vẫn sống với một niềm vui của chuyến tàu đem lại. “Liên” là mảng màu chủ đạo tạo nên chất hiện thực và chất lãng mạn trong thiên truyện. tạo nên bằng một cuộc đời. tạo nên như là người dẫn chuyện.
Thành công của thạch Lam chính là sự kết hợp hài hoà giữa bút pháp lãng mạn với xu hướng hiện thực, nhân đạo. Tạo cho mỗi tác phẩm của ông một sức sống trường tồn cùng lòng người. Tình người của nhà văn với nhân vật đã đưa ý nghĩa truyện lên một tầng cao mới. Ai đó đã định nghĩa về thơ : “Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời còn là thơ nữa” thì truyện ngắn “Hai đứa trẻ” và nhiều thiên truyện khác nữa của thạch lam có đầy đủ những yếu tố mang phong vị của một bài thơ trữ tình đặc sắc mà lại “cuộc đời” thật nhiều sâu sắc.

Nguồn: vanmau
 
Last edited by a moderator:
T

tomcangxanh

Tâm trạng thức đợi tàu của chị em Liên

Trong các nhà văn lãng mạn nổi tiếng (1930-1945), Thạch Lam có phong cách riêng biệt không lẫn với bất kì nhà văn nào. Đang khi các nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng thiên về tần lớp trên của xã hội thì Thạch Lam lại viết về những con người bé nhỏ, nghèo khổ , sống trong bóng tối. Văn Thạch Lam nhẹ nhàng với lối quan sát độc đáo và phân tích tâm lí tinh tế. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” tiêu biểu cho văn phong Thạch Lam cho lí tưởng xã hội và quan điểm thẩm mĩ của Thạch Lam.

Thạch Lam có lối viết truyện ngắn không có cốt truyện. Ông không kích thích người đọc bằng cốt truyện li kì và tình tiết éo le. Ông hấp dẫn người đọc bằng chất liệu bên trong của đời sống, bằng lí tưởng xã hội tiến bộ của nhà văn, bằng phân tích tâm lí tinh tế và bằng tinh thần lãng mạn của ông. Thạch Lam dồn nén các nhân vật, các sự kiện và diễn biến của con người, của hành động trong một thời gian ngắn và không gian nhỏ. Nó cũng thích hợp với những nhân vật nhỏ bé của ông. Truyện của Thạch Lam có chiều sâu hun hút, chiều sâu của cuộc sống, chiều sâu của lòng người và chiều sâu của mộng mơ, ước vọng.

Liên và An là hai đứa trẻ từng sống ở Hà Nội, rồi gia đình bị sa cơ thất thế nên đã trở về quê, một phố huyện hẻo lánh. Hai chị em trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu. “Một gian hàng bé thuê lại của bà lão móm, ngăn ra bằng một tấm phên nứa dán giấy nhật trình”. Buổi tối hai chị em cùng ngủ ở đây để trông hàng. “Đêm nào Liên và em cũng phải ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc cây bàng với cái tối của quang cảnh phố chung quanh”, thế giới chung quanh hai đứa trẻ là những con người bé nhỏ đang thương, sống lẩn lút trong bóng tối. Đó là chị Tí ngày thì mò cua bắt ốc, tối đến dọn cái hàng nước dưới gốc cây bàng với ngọn đèn Hoa Kỳ leo lét. Đó là cụ Thi, bà lão hơi điên, tối tối đến cửa hàng Liên nốc một cút rượu rồi lẫn vào bóng tối với giọng cười khanh khách. Đó là bác phở Siêu gánh gánh phở, món quà xa xỉ của phố huyện, có chấm than hồng như ma trơi. Đó là vợ chồng bác Xẩm góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bật lên trong yên lặng. Đó là mấy đứa trẻ con nhà nghèo đi nhặt thanh nứa thanh tre hoặc bất cứ cái gì có thể dùng được. Từ cảnh thiên nhiên đến số phận con người đều có một cái gì tàn lụi, không tương lai, leo lét một cách tội nghiệp, trong nghèo đói, buồn chán và tăm tối.

“Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ của họ”. Thạch Lam đã hiểu sâu sắc những con người bé nhỏ trong bóng tối này với những ước vọng đáng thương của họ.

Sống trong bóng tối, trong yên lặng, trong buồn chán, đêm đêm chị em Liên cố thức để được nhìn chuyến tàu đi qua “tàu đến chị đánh thức em dậy nhé!”. Nghe lời dặn của bé An ta cảm thấy hai đứa trẻ tha thiết với chuyến tàu đêm đến biết chừng nào. Rồi đèn ghi ra. Rồi tiếng còi xe lửa ở đâu vọng lại trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi. Và chỉ cần nghe chị Liên gọi: “Dậy đi An! Tàu đến rồi!” là Anh nhổm dậy dụi mắt và tỉnh hẳn. Rồi tiếng còi rít lên, đoàn tàu rầm rộ đi tới. Liên quan sát rất kĩ đoàn tàu, thèm khát như được nhìn một thế giới xa lạ “Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh và các cửa kính sáng”. Rồi chiếc tàu đi vào đêm tối, để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt. Chuyến tàu đã xáo trộn cả cõi yên tĩnh của phố huyện. Chuyến tàu gợi cho Liên mơ tưởng: “Họ ở Hà nội về! Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo”.

Rõ ràng là Liên và An đợi tàu không phải để bán ít quà vặt cho khách đi đường mà là một nhu cầu bức xúc về tinh thần của hai đứa trẻ, muốn trong chốc lát được thoát ra khỏi cuộc sống buồn chán tối tăm này. “Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn, đối với Liên khác hẳn các vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu”. Dưới mắt hai đứa trẻ, chiếc tàu là hình ảnh của một thế giới văn minh, giàu sang, nhộn nhịp, huyên nào và đầy ánh sáng.

Qua tâm trạng đợi tàu của hai đứa trẻ, tác phẩm thể hiện một niền xót thương vô hạn đối với những kiếp người nhỏ bé vô danh không bao giờ được biết ánh sáng và hạnh phúc. Cuộc sống mãi mãi bị chôn vùi trong tăm tối nghèo đói, buồn chán nơi phố huyện và nói rộng ra trên đất nước còn chìm đắm trong cảnh nô lệ và đói nghèo. Qua tâm trạng Liên, tác giả đồng thời cũng muốn thức tỉnh tâm hồn uể oải đang lụi tắt ngọn lửa lòng khao khát được sống một cuộc sống có ý nghĩa hơn, khao khát thoát khỏi cuộc đời tăm tối đang chôn vùi họ.
 
T

tomcangxanh

Bức tranh đời sống của phố huyện nghèo lúc chiều tối trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam

Trong Tự Lực văn đoàn, nhà văn Thạch Lam đứng thành một dòng riêng biệt. Giọng điệu của Thạch Lam nhỏ nhẹ, điềm tĩnh, sâu lắng, nhiều dư vị, có sức truyền cảm đặc biệt. “Hai đứa trẻ”(in trong tập Nắng trong vườn, 1938) là truyện ngắn tiêu biểu cho văn phong Thạch Lam, cho khuynh hướng tư tưởng của Thạch Lam, hướng về cuộc đời, hướng về cái Thiện, cái Mĩ.

Trong “Hai đứa trẻ”, chất lãng mạn và hiện thực hòa quyện với nhau hiện ra trong bức tranh thiên nhiên và đời sống của một vùng quê vào một buổi chiều yên ả. Rồi màn đêm dần dần buông xuống “Một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát...” thiên nhiên thì cao rộng và thơ mộng. “Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”. Nhưng làng quê thì đầy bóng tối, thảm hại. “Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve”. “Đôi mắt Liên, bóng tối ngập đầy dần”. “Chị thấy lòng buồn man mác trước giờ khắc của ngày tàn”. Chính bức tranh đời sống rất mực chân thật vừa thấm đượm cảm xúc chữ tình này đã gây nên cảm giác buồn thương day dứt cho người đọc. Ý nghĩa tư tưởng của truyện chủ yếu toát ra từ bức tranh đời sống phố huyện nghèo.
Dưới mắt của hai đứa trẻ, cảnh phố huyện hiện lên thật là cụ thể, sinh động, gợi cảm. Đó là cảnh bãi chợ trống trải, vắng vẻ khi buổi chợ đã vãn từ lâu. “Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất”. Cảnh chợ tàn phơi bày sự nghèo nàn, xơ xác của đời sống phố huyện. Ống kính cần mẫn của nhà văn lia qua phố huyện: trên đất chỉ còn “rác rưởi, bỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Cảnh còn được miêu tả bởi khứu giác tinh tế của nhà văn “một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Bức tranh phố huyện trong “Hai đứa trẻ” đầy sức ám ảnh là vì những màu sắc và hương vị như thế.
Trong khung cảnh tiêu điều, buồn bã đó, trên cái nền mờ xám của bức tranh phố huyện, hình ảnh những con người nghèo khổ, lam lũ, nhếch nhác hiện dần ra. Họ như những cái bóng nhờ nhờ, cử động lay lắt, đơn điệu, châm chạp. Những đứa trẻ đi nhặt nhạnh những thứ rơi vãi ở bãi chợ. Mẹ con chị Tí lễ mễ đội chõng xách điếu đóm ra dọn hàng, “ngày, chị đi mò cua bắt tép; tối đến chị mới dọn cái hàng nước này...”. Gia đình bác Xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt trắng để ở trước mặt”. Thằng con bò ra đất nghịch nhặt rác bẩn bên đường. Và hai chị em Liên với cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu mẹ Liên dọn ngay từ khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê vì thầy Liên mất việc. Bà cụ Thi điên điên tàng tàng mua rượu uống và cười “khanh khách” lảo đảo đi vào bóng tối. Tất cả đều là những kiếp sống lầm than, cực khổ, tàn tạ. Qua con mắt của bé Liên, tất cả cuộc sống chìm trong đêm tối mênh mông, chỉ còn ngọn đèn của chị Tí, cái bếp lửa của bác Siêu, ngọn đèn Hoa Kỳ vặn nhỏ của Liên... tức chỉ là mấy đốm sáng tù mù được gọi là ánh sáng. Nhưng những đốm lửa nhỏ nhoi ấy chẳng làm cho phố huyện sáng sủa mà chỉ càng khiến cho đêm tối mịt mù dầy đặc mà thôi. “Tất cả phố xá trong huyện bây giờ thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí”. Hình ảnh ngọn đèn con nơi hàng nước của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ ấy trở đi trở lại tới nhiều lần trong huyện là hình ảnh đầy ám ảnh và có sức gợi rất nhiều về những kiếp sống nhỏ nhoi, lay lắt, mù tối trong đêm đen mênh mông của cuộc đời.
Cảnh phố huyện lúc chiều tối như một khúc nhạc buồn mà điệp khúc cứ lặp lại. Chiều tối nào mẹ con chị Tí cũng lễ mễ dọn hàng, chị em Liên lại kiểm hàng rồi tính tiền, rồi ngồi trên chõng tre ngắm cảnh. Bác phở Siêu lại gánh hàng và thổi lửa, bác Xẩm lại trải chiếu, đặt thau. Điệp khúc ấy cứ lặp đi lặp lại đơn điệu, buồn tẻ. Họ cũng lóe lên một chút hi vọng. Hi vọng là liều thuốc an thần cho những con người khốn khổ ấy. Nhất Linh cũng từng nói những người dân quê rất nghèo khổ tiền bạc nhưng rất giàu hi vọng hão “chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”.
Hai đứa trẻ làm sao ý thức rõ rệt được cảnh tù đọng, buồn chán, bế tắc mà chúng đang sống cũng như về những khát vọng tinh thần mơ hồ của mình. Song với tâm hồn ngây thơ, nhạy cảm, cô bé Liên cảm nhận thấm thía tuy chỉ là vô thức hiện thực đó, khát vọng đó. Chính vì khao khát được thoát khỏi cảnh tù đọng mù tối ấy mà chị em Liên đêm đêm cố thức đợi chuyến tàu đi qua. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua, một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng của ngọn đèn chị Tí và ánh lửa bác Siêu. Được sống dù chỉ là trong giây phút ngắn ngủi thôi khi đoàn tàu bừng sáng đi qua, đối với họ là khoảnh khắc hạnh phúc loé lên trong chuỗi dài năm tháng cơ cực, buồn tẻ của cuộc đời.
“Hai đứa trẻ” của Thạch Lam không đi sâu miêu tả những xung đột xã hội, xung đột giai cấp. Ông cũng không để tâm miêu tả những bộ mặt gớm ghiếc của những kẻ bóc lột và khuôn mặt bi thảm của những kẻ bị áp bức, vì nói cho cùng Thạch Lam là một nhà văn lãng mạn. Ông phác họa bức tranh phố huyện nghèo, chân thật trong từng chi tiết và trong chiều sâu tinh thần của nó. Bức tranh làng quê mù xám với những con người nhỏ nhoi đáng thương ấy thấm đẫm niềm cảm thương chân thành của tác giả đối với những người lao động nghèo khổ sống quẩn quanh bế tắc, tối tăm. Qua bức tranh ảm đạm của phố huyện và qua hình ảnh của những con người bé nhỏ với chút hi vọng le lói, ta thấy được mơ ước lớn của nhà văn là muốn thay đổi cuộc sống ngột ngạt đó cho những con người lao động nghèo khổ.

Nguyễn Duy Xuân
 
T

tomcangxanh

Hình tượng nhân vật Huấn Cao

Huấn Cao là một con người đại diện cho cái đẹp, từ cái tài viết chữ của một nho sĩ đến cái cốt cách ngạo nghễ phi thường của một bậc trượng phu đến tấm long trong sang của một người biết quý trọng cái tài, cái đẹp.
Huấn Cao với tư cách là người nho sĩ viết chữ đẹp thể hiện ở cái tài viết chữ. Chữ viết không chỉ là kí hiệu ngôn ngữ mà còn thể hiện tính cách của con người. Chữ của Huấn Cao “vuông lắm” cho thấy ông có khí phách hiên ngang, tung hoành bốn bể. Cái tài viết chữ của ông được thể hiện qua đoạn đối thoại giữa viên quản ngục và thầy thơ lại. Chữ Huấn Cao đẹp và quý đến nỗi viên quản ngục ao ước suốt đời. Viên quản ngục đến “mất ăn mất ngủ”; không nề hà tính mạng của mình để có được chữ của Huấn Cao, “một báu vật trên đời”. Chữ là vật báu trên đời thì chắc chắn là chủ nhân của nó phải là một người tài năng xuất chúng có một không hai, là kết tinh mọi tinh hoa, khí thiêng của trời đất hun đúc lại mà thành. Chữ của Huấn Cao đẹp đến như vậy thì nhân cách của Huấn Cao cũng chẳng kém gì. Ông là con người tài tâm vẹn toàn.
Huấn Cao trong cốt cách ngạo nghễ, phi thường của một bậc trượng phu. Ông theo học đạo nho thì đáng lẽ phải thể hiện lòng trung quân một cách mù quáng. Nhưng ông đã không trung quân mà còn chống lại triều đình để giờ đây khép vào tội “đại nghịch”, chịu án tử hình. Bởi vì Huấn Cao có tấm lòng nhân ái bao la; ông thương cho nhân dân vô tội nghèo khổ, lầm than bị áp bức bóc lột bởi giai cấp thống trị tàn bạo thối nát. Huấn Cao rất căm ghét bọn thống trị và thấu hiểu nỗi thống khổ của người dân “thấp cổ bé họng”. Nếu như Huấn Cao phục tùng cho bọn phong kiến kia thì ông sẽ được hưởng vinh hoa phú quý. Nhưng không, ông Huấn đã lựa chọn con đường khác : con đường đấu tranh giành quyền sống cho người dân vô tội. Cuộc đấu tranh không thành công ông bị bọn chúng bắt. Giờ đây phải sống trong cảnh ngục tối chờ ngày xử chém. Trước khi bị bắt vào ngục, viên quản ngục đã nghe tiếng đồn Huấn Cao rất giỏi võ, ông có tài “bẻ khoá, vượt ngục” chứng tỏ Huấn Cao là một người văn võ toàn tài, quả là một con người hiếm có trên đời.
Tác giả miêu tả sâu sắc trạng thái tâm lí của Huấn Cao trong những ngày chờ thi hành án. Trong lúc này đây, khi mà người anh hùng “sa cơ lỡ vận” nhưng Huấn Cao vẫn giữ được khí phách hiên ngang,kiên cường. Tuy bị giam cầm về thể xác nhưng ông Huấn vẫn hoàn toàn tự do bằng hành động “dỡ cái gông nặng tám tạ xuống nền đá tảng đánh thuỵch một cái” và “lãnh đạm” khong thèm chấp sự đe doạ của tên lính áp giải. Dưới mắt ông, bọn kia chỉ là “một lũ tiểu nhân thị oai”. Cho nên, mặc dù chịu sự giam giữ của bọn chúng nhưng ông vẫn tỏ ra “khinh bạc”. Ông đứng đầu goong, ông vẫn mang hình dáng của một vị chủ soái, một vị lãnh đạo. Người anh hùng ấy dùng cho thất thế nhưng vẫn giữ được thế lực, uy quyền của mình. Thật đáng khâm phục !
Mặc dù ở trong tù, ông vẫn thản nhiên “ăn thịt, uống rượu như một việc vẫn làm trong hứng bình sinh”. Huấn Cao hoàn toàn tự do về tinh thần. Khi viên cai ngục hỏi Huấn Cao cần gì thì ông trả lời:
“Người hỏi ta cần gì à? Ta chỉ muốn một điều là ngươi đừng bước chân vào đây nữa thôi”
Cách trả lời ngang tàn, ngạo mạn đầy trịch thượng như vậy là bởi vì Huấn Cao vốn hiên ngang, kiên cường; “đến cái chết chém cũng còn chẳng sợ nữa là...” Ông không thèm đếm xỉa đến sự trả thù của kẻ đã bị mình xúc phạm. Huấn Cao rất có ý thức được vị trí của mình trong xã hội, ông biết đặt vị trí của mình lên trên những loại dơ bẩn “cặn bã” của xã hội.
“Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Nhân cách của Huấn Cao quả là trong sáng như pha lê, không hề có một chút trầy xước nào. Theo ông, chỉ có “thiên lương” , bản chất tốt đẹp của con người mới là đáng quý.
Thế nhưng khi biết được nỗi lòng viên quản ngục, Húan Cao không nhữg vui vẻ nhận lời cho chữ mà còn thốt ra rằng :
“Ta cảm tấm lòng biệt nhãn liên tài của các ngươi. Ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có sở thích cao quý đến như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”.
Huấn Cao cho chữ là một việc rất hiếm bởi vì “tính ông vốn khoảnh. Ta không vì vàng bạc hay quyền uy mà ép cho chữ bao giờ”.
Hành động cho chữ viên quản ngụ chứng tỏ Huấn Cao là một con người biết quý trọng cái tài, cái đẹp, biết nâng niu những kẻ tầm thường lên ngang tàng với mình.
Quay cảnh “cho chữ” diễn ra thật lạ, quả là cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”. Kẻ tử từ “cổ đeo gông, chân vướng xích” đang “đậm tô từng nét chữ trên vuông lụa bạch trắng tinh” với tư thế ung dung tự tại, Huấn Cao đang dồn hết tinh hoa vào từng nét chữ. Đó là những nét chữ cuối cùng của con người tài hoa ấy. Những nét chữ chứa chan tấm lòng của Huấn Cao và thấm đẫm nước mắt thương cảm của người đọc. Con người tài hoa vô tội kia chỉ mới cho chữ ba lần trong đời đã vội vã ra đi, để lại biết bao tiếc nuối cho người đọc. Qua đó, tác giả Nguyễn Tuân cũng gián tiếp lên án xã hội đương thời đã vùi dập tài hoa của con người.
Và người tù kia bỗng trở nên có quyền uy trước những người đang chịu trách nhiệm giam giữ mình. Ông Huấn đã khuyên viên quản ngục như một người ca khuyên bảo con:
“Tôi bảo thực thầy quản nên về quê ở đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ được thiên lương cho lành lắm rồi cũng có ngày nhem nhuốc mất cái đời lương thiện”.
Theo Huấn Cao, cái đẹp không thể nào ở chung với cái xấu được. Con người chỉ thưởng thức cái đẹp khi có bản chất trong sáng, nhân cách cao thượng mà thôi.
Những nét chữ cuối cùng đã cho rồi, những lời nói cuối cùng đã nói rồi’ Huấn Cao , người anh hùng tài hoa kia dù đã ra đi mãi mãi nhưng để lại ấn tượng sâu sắc cho những ai đã thấy, đã nghe, đã từng được thưởng thức nét chữ của ông. Sống trên cõi đời này, Huấn Cao đã đứng lên đấu tranh vì lẽ phải; đã xoá tan bóng tối hắc ám của cuộc đời này. Chính vì vậy, hình tượng Huấn Cao đã trở nên bất tử. Huấn Cao sẽ không chết mà bước sang một cõi khác để xua tan bóng tối nơi đó, đem lại hạnh phúc cho mọi người ở mọi nơi.
Ở Huấn Cao ánh lên vẻ đẹp của cái “tài” và cái “tâm”. Trong cái “tài” có cái “tâm” và cái “tâm” ở đây chính là nhân cách cao thượng sáng ngời của một con người tài hoa. Cái đẹp luôn song song “tâm” và “tài” thì cái đẹp đó mới trở nên có ý nghĩa thực sự. Xây dựng hình tượng nhân vật Huấn Cao, nhà văn Nguyễn Tuân đã thành công trong việc xây dựng nên chân dung nghệ thuật điển hình lí tưởng trong văn học thẩm mĩ. Dù cho Huấn Cao đã đi đến cõi nào chăng nữa thì ông vẫn sẽ mãi trong lòng người đọc thế hệ hôm nay và mai sau.
Nếu Huấn Cao như một giả định về cái Đẹp và sức mạnh hướng thiện của nó, thì quản ngục mới là nhân vật được xây dựng để hiện thực hoá sức mạn giả định ấy. Nói cách khác , có viên quản ngục, ý đồ nghệ thuật của nhà văn ( chủ đề tư tưởng của tác phẩm) mới được thực hiện. Có điều vai trò ấy của nhân vật quản ngục không dễ nhận ra, bởi nhân vật này dường như được Nguyễn Tuân giấu kín, ẩn xuống hàng hai, sau nhân vật Huấn Cao. Song chính vì vậy, khi được “phát hiện”, nhân vật sẽ mang lại nhiều khoái cảm thẩm mĩ hơn. Trái lại, ở viên quản ngục có sự vận động của tính cách ông ta: ông ta từng là người tử tế, biết yêu cái đẹp, nhưng ra vào chỗ tối tăm, đã bị hoen ố đi nhiều. Giờ đây gặp được ông Huấn người mà viên quản ngục khát khao được gặp, lòng yêu cái đẹp sống dậy, mãnh liệt đến bất chấp cả tính mạng. Và ta tin, sau khi trang sách gấp lại, viên quản ngục sẽ quay về con đường của “thiên lương”. Tác phẩm có sức ngân, chủ yếu là ở đấy. Nói khác đi, vận mệnh nghệ thuật của tính cách Huấn Cao đã hoàn kết cùng với sự kết thúc của truyện trong khi vận mệnh đó vẫn tiếp tục ở nhân vật viên quản ngục.
 
T

tomcangxanh

Nhân vật viên quản ngục

Sống giữa buổi giao thời của hai thời đại , con người ta như có một sự chuyển biến thật khác lạ . Con người bị giằng xé bở hai xã hội Tây – Tàu lẫn lộn nhố nhăng , họ cảm thấy phẫn uất với xã hội đương thời . Là một con người khác với mọi người , Nguyễn Tuân đam mê chủ nghĩa xê dịch , ông thích đi khắp nơi và tìm cảm hứng mới cho nghiệp văn chương của mình.Và Nguyễn Tuân , với ngòi bút sắc sảo của một nhà văn , đã thể hiện thật sâu sắc những điều ông muốn bày tỏ với xã hội đương thời thông qua tác phẩm “ Chữ người tử tù “ . Thông qua hai hình tượng , viên quản ngục và người nghệ sĩ tài hoa Huấn Cao , nhà văn đã phác hoạ lên ở “ Chữ người tử tù “ về chân dung của những con người lương thiện bị chà đạp trong cuộc sống hiện tại, về vẻ đẹp của một trang anh hùng nghĩa sĩ tài hoa nghệ sĩ .

Nguyễn Tuân đã rất thành công khi miêu tả nhân vật quản ngục , một con người dù sống trong lòng quân địch , ngày ngày tiếp mặt với chúng nhưng vẫn giữ trong tâm hồn , trong lòng mình tính lương thiện và yêu thương con người .Cũng như bao con người khác , viên quản ngục cũng có những ước mơ riêng cho bản thân mình , cũng thần tượng một người như ai . Đó là “ Huấn Cao ? Hay là người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh , rất đẹp “ . Ông vẫn thầm ngưỡng mộ con người này bởi tài năng thiên bẩm ấy của một con người . Ông hâm mộ Huấn Cao và chỉ mình Huấn Cao mà thôi . Đối với riêng Huấn Cao thì quản ngục tỏ lòng thành kính sâu sắc , bở vì theo ông , Huấn Cao là một hiện tượng có tính chất siêu phàm mà ông chỉ được quyền hâm mộ từ phía xa mà thôi . Ông thấy người ta nói với nhau rằng “ Mọi người nhắc nhỏm đến cái danh đó luôn “ . Trong lòng viên quản ngục , Huấn Cao ở một vị trí vô cùng trang trọng , vị trí cao quý nhất trong suốt cuộc đời ông . Ông tôn kính Huấn Cao , gọi Huấn Cao nhưng không dùng tên mà dùng “ danh ” . để tỏ lòng rõ sự tôn trọng của mình đối với người nghệ sĩ tài hoa ấy . Quản ngục hâm mộ một con người , dám chống lại triều đình . Những hành động “ bẻ khoá “ , “ vượt ngục “đều góp phần tô điểm thêm vào bức chân dung ngoạ hình Huấn Cao , một con người khao khát tự do , không chịu rành buộc bởi bất cứ sự khuôn phép nào cả . Điều đó càng khiến cho quản ngục thêm trân trọng Huấn Cao . Nguyễn Tuân , dùng những thủ pháp chọn lọc từ ngữ điêu luyện , lựa ra những từ ngữ mang tính tượng hình tượng trưng để làm nổi bật len tính cách và tâm trạng viên quản ngục . Những hình ảnh đó biến đổi liên tục không ngừng nghỉ , cũng như sự lo lắng , buồn vui của viên quản ngục khi nghĩ về Huấn Cao . Ngục quan là một chức vị tuy không to nhưng cũng thuộc vào hành quan ., một quan chức trong cái buổi giao thời . Sự chuyển giao từ một xã hội phong kiến lụi tàn “ như một cái đèn dễ leo lét “ sang một xã hội khác , không chắc đã tốt đẹp hơn hiện giờ . Viên quản ngục với “ khuôn mặt nghĩ ngợi “ và “ băn khoăn ngồi bóp thái dương ‘ , trầm tư suy nghĩ . Vì thế , chắc hẳn rằng , ông đã phải suy tính nhiều lắm . Nguyễn Tuân đã sử dụng hình ảnh “ khung cửa sổ có nhiều con song kẻ những nét đen thẳng lên nền trời lốm đốm tinh tú “ thật tinh tế , khéo léo . Uyển chuyển trong lời nói cũng là một nét nghệ thuật độc đáo mà ta cũng thường thấy ở Nguyễn Tuân . Chỉ bằng hình ảnh con song , nhà văn đã thể hiện sự cô đơn , tù túng như bị giam cầm trong cõi lòng viên quản ngục . Cái nhà tù đó , trói chặt những ước mơ , những hoài bão một thời của ông . Ông buồn lắm , ông cảm thấy mệt mỏi , tâm trạng chán nản , muốn trút bỏ mọi gánh nặng công việc đang đè trên đôi vai mình . Khung cảnh tối , cùng tâm trạng sầu thảm , như đã hình thành nên trong tác phẩm một khối đen , thật tối , mang chút hỗn mang và lẫn lộn . Nó khiến cho người đọc như lạc vào một thế giới quan mang nhiều gam tối , khó nhìn rõ , huyền ảo . Tâm trạng của viên quản ngục cứ thay đổi theo thời gian. Đến khi ông mường tưởng ra cảnh Huấn Cao bị hành hình như “ một ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ “thì ông cảm thấy lo lắng . Cái tâm trạng sầu não khi nào giờ đây đã không còn nữa , thế vào đó là một sự lo lắng đến tột cùng . Lúc này , “ viên quản ngục ngắn đầu , lấy que hương khêu thêm một con bấc . Ba cái tim bấc được chụm lại , cháy bùng to lên “ . Ba cái tim bấc tượng trưng cho nhiều điều . Nó tuợng trưng cho sự chán chuờng xen lẫn mệt mỏi cùng với chức vụ quản ngục . Hay phải chăng hình ảnh ba cái tim còn đại diện cho những con người , những nỗi thống khổ và những sự cả nghĩ cho một tương lai mịt mờ , u ám của xã hội nửa Tây , nửa Tàu . Hoặc rằng ba trái tim đó là trái tim của “ viên quản ngục “ , trái tim Huấn Cao , và trái tim của thầy thơ lại , những trái tim tìm thấy ở nhau một điểm chung nào đó mà chỉ có họ mới biết , mới nhận ra . Giờ đây lại ngắc đầu lên , viên quản ngục thấy lóe lên một tia hy vọng khi Huấn Cao chuẩn bị vào tù , và như thế , ông đã có thêm một người bạn . Có lẽ nhiều người sẽ cho rằng viên quản ngục là kẻ gàn dở hay bất lương , vì nếu đã coi Huấn Cao như thần tượng hay gần gũi như một người bạn thì phải muốn tốt cho bạn , chứ chẳng ai muốn bạn vào tù cả . Nhưng , mỗi thời đại mỗi khác , cuộc sống không tìm ra đường thoát chỉ biết quẩn quanh với những gì đơn giản và tẻ nhạt , viên quản ngục thực sự muốn tìm một người ban tâm giao thật sự . Vì vậy , Huấn Cao là người thích hợp nhất . Bởi vì “ khi nghĩ đến Huấn Cao , ông thấy lòng mình như dịu lại “ , thư thái hơn , thanh thản hơn , như lúc ban đầu . Ông hy vọng một điều gì đó rất cao cả , đó là việc được Huấn Cao cho chữ . Trong không gian tối tăm của viên quản ngục , Nguyễn Tuân đã bất ngờ thắp sáng lên ngọn lửa của niềm khát khao cháy bỏng của một con người bấy lâu nay bị vùi lấp dưới những điều xấu xa của xã hội . Một ánh sáng , một ngọn lửa phát ra từ chính viên quản ngục . Đó chính là tâm lòng thiện lương , nghĩ về cái tốt . Cành ở trong bóng tối thì ngọn sáng phát ra từ viên quản ngục càng rực rỡ hơn , ngọn sáng của tấm lòng lương thiện ,yêu quý cái đẹp và biết trân trọng những giá trị cao đẹp của cuộc sống . Hơn thế nữa , Nguyễn Tuân còn xây dựng nhân vật thầy thơ lại , “ một kẻ kính mến khí phách “ , một kẻ biết tiếc , biết trọng người tài bên viên quản ngục , càng làm tô đậm , rõ nét hơn những gì trong sáng , tốt đẹp nhất trong con người quản ngục . . Hay như lời của Nguyễn Tuân “ Trong hoàn cảnh đề lao , người ta sống bằng sự tàn nhẫn , bằng lừa lọc , tính cách dịu dàng à lòng biết giá người , biết trong người ngay của viên quan coi ngục này là một âm thanh trong.


Ma Long
 
T

tomcangxanh

Cảnh cho chữ trong Chữ Người Tử Tù

“Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, đã bày ra trong buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián.

Trong một không khí khói toả như cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lân hồ. Khói bốc tỏa cay mắt.

Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng phẳng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại khúm núm cắt những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực…”.

Đoạn văn miêu tả đặc sắc đầy chất tạo hình và điện ảnh trên hẳn đã góp phần làm sáng tỏ thêm nhân định : Nguyễn Tuân là một trong những bậc thầy về ngôn ngữ dân tộc ; đồng thời cũng khẳng định thêm sự phong phú, chính xác về kiến thức lịch sử, văn hoá, xã hội…., năng lực quan sát lọc lõi và trí tưởng tượng mạnh mẽ và bay bổng của tác giả Vang bóng một thời. Đoạn văn miêu tả cảnh tượng người tử tù tặng thư pháp nơi ngục thất vừa thảm đạm vừa hào hùng khiến cho cả ba nhân vật Huấn Cao, quản ngục và thơ lại bỗng thăng hoa thành những hình tượng kì vĩ phi thường – Xây dựng được cốt cách phi phàm, những “con người khổng lồ” nhưng có khi phải lặn ngụp “dưới đáy” xã hội, đó cũng là một đặc trưng nổi bật của bút pháp lãng mạn chủ nghĩa nói chung. Đoạn văn chứa đầy mơ ước thiết tha của Nguyễn sở dĩ gọi thức tâm linh người đọc, cũng bởi cả ba nhân vật, tuy ở các vị trí xã hội xa cách nhau nhưng lại có khả năng bổ sung phẩm tính cho nhau ấy, đều là những mảnh hồn của tác giả say đắm hóa thân : tam vị nhân vật, nhất thế ? Nguyễn Tuân. Bút pháp đoản thiên tiểu thuyết phong cách điêu khắc của Nguyễn dựng nên nhóm tượng đài Thiên lương – Tam vị nhất thể sáng láng này dường như muốn tạo tác một biểu hiện làm đối chứng với cái hiện thực xã hội thực dân nửa phong kiến tồi tệ hiên hữu trước mắt tác giả. Sự thực, cái xã hội nhãn tiền ấy đã được Nguyễn Tuân lịch sử hoá , “Sơn Hưng Tuyên” hóa qua bối cảnh câu chuyện ông Huấn cho chữ ; đó là một xã hội “hỗn loạn xô bồ” với những thế nhân “cặn bã”, những “lũ quay quắt” sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc : đối với kẻ sa cơ thất thế thì sẵn sàng hung hăng “phết cho mấy hèo bây giờ” – “Ở đây, khó giữ thiên lương”…Khi viết những dòng Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân đã và đang được nếm trải thấm thía cái mùi vị xã hội ấy – thạm chí, một sự nghiệm sinh khá kĩ lưỡng, tất nhiên chưa đến độ “cổ đeo gông, chân vướng xiềng lê bước dần tới nơi đoạn mệnh như ông Huấn, nhưng bất hạnh đến mức tù đày khổ nhục đắng cay (khoảng 1929 – 1930) thì cuang đã từng : “ những trái tim đó" (của các tù nhân) thỉnh thoảng có lên tiếng nhưng một cách dữ dội và tàn ác. Những cuộc xô xát giữa tù và tù giữa bữa cơm mắm nhà nước phát, thường bắt đầu từ việc tranh giành một quả ớt. Quả ớt đỏ đã nhuộm đỏ những nắm cơm đỏ bị những vần tay vấy máu mân mê. Những bữa cơm cá thối trong một bầu không khí kinh khủng như vậy…” (Một chuyến đi). Có thể nói nguyên mẫu nhân vật Huấn Cao là ông giáo thụ Cao Bá Quát dạy học đát Sơn Tây bán sơn địa sỏi đá từ trăm năm trước ; nhưng nguyên mẫu của xã hội xứ Đoài thời ông Huấn (triều đại Thuận Trị, Tự Đức) thì lại chính là hoàn cảnh xã hội Việt Nam trước mắt người đang sáng tác Vang bóng một thời. Viết truyện ngắn Chữ người tử tù để “dĩ cổ vi kim” (lấy xưa nói nay) là một dụng ý khá rõ ràngcủa tác giả. Bấc đắc chí, bất mãn, phản kháng chế độ xã hội thực dân địa đang tiếp tục nuôi dưỡng quy luật đau thương : thân phận không phải là hệ quả của bản chất – tinh thần dân tộc sâu xa của nhà văn Nguyễn Tuân yêu nước thâm trầm chủ yếu là ở chỗ đó. Một biểu hiện nữa của tinh thần dân tộc trong Chữ người tử tù là thái độ luyến tiếc của một nhã thú văn hoá cổ truyền đang lụi tàn dần trong xã hội thời Tây : thưởng ngoạn thư pháp. Do chữ Nho là thứ văn tự tượng hình, rất nhiều chữ giống như tranh hiện đại chủ nghĩa (siêu thực, trừu tượng), nét bút lông lại rất mềm mại dễ dàng bộc lộ cá tính và nhân cách…; do đó viết chữ Nho không đơn thuần là thao tác kí hiệu hóa ngôn ngữ, mà nhhiều kh trở nên một hành động nghệ thuật đích thực : sáng tạo thư pháp (thư pháp có khi đứng riêng một mình, có khi phối hợp cùng nghệ thuật tạo hình : xuất hiện trên tranh thuỷ mặc…). Người Việt Nam xưa sử dụng chữ Nho, hoà đồng cùng truyền thống văn hóa phương Đông đã say mê thư pháp, và cũng sản sinh được không ít những nét chữ vừa “Như Phượng múa rồng bay”, vừa phát tiết nhân phẩm. Một trong các danh sĩ Bắc Hàvề thư pháp chính là Cao Chu Thuần (1808 – 1855) với văn chương “vô tiên Hán” và nhân cách thì “Một đời chỉ cúi trước hoa mai” (Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”)… Xây dựng một nguc quan biết nung nấu sở nguyện : “Có được chữ ông Huấn mà treo, là có một vật báu trên đời”, lại biết giữ gìn đến cùng thái độ tôn kính rất mực trước thiên lương và thư pháp kiệt xuất của người tử tù : “Người tù viết xong một chữ, viên quan ngục lại vội khúm núm cắt những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng”…; Nguyễn Tuân như đã cất lên khúc vãn ca đối với một mảng văn hóa truyền thống mà đến thời của Nguyễn lại “vang bóng” (nhiều sinh hoạt văn hoá cổ truyền đáng quý khác cũng chung số phận). Giai điệu vãn ca ấy ngậm nghĩa oán hờn thế cục “Tây Tầu nhố nhăng” đã phạm tội đối với văn hoá Việt. Về nguyên nhân tinh thần gắn bó thiết tha của Nguyễn Tuân đối với văn hóa dân tộc ngàn xưa, có thể tìm thấy ở nguồn gốc gia đình, cũng như ở ngay đời thường của Nguyễn – một con ngưòi tài hoa và am tường và đã sống chan hoà cùng folklore Việt (nghệ thuật sân khấu dân gian : chèo, tuồng ; nghệ thuật tạo hình dân gian ; dân ca : đào nương ca, trong đó có hát ca trù…)

Cuối cùng, tính dân tộc trong truyện ngắn Chữ người tử tù còn thể hiện ở sự trân trọng, Nguyễn Tuân đã học thuộc tiếng mẹ đẻ, trong đó có lớp từ cổ đã tạo hiệu quả lợi hại cho việc tái hiện một cách rất cụ thể – lịch sử, rất hội hoạ điêu khắc và điện ảnh… những cảnh và người gần trăm năm trước.

Tất nhiên, sức mạnh của ngôn ngữ nghệ thuật không phải chỉ ở số lượng từ phong phú mà còn ở khả năng nhạy cảm về ngữ nghĩa của từ, ngữ điệu của câu…- Nhà văn Nguyễn Tuân có đầy đủ những điều kiện đó. Một ví dụ nhỏ : tác giả Chữ người tử tù đã dùng từ “ngấc”, nhưng sách phụ lục văn 12 đã in sai là : “Viên quan coi ngục ngóc đầu” ; “ngấc” và “ngóc” có phần gần gũi về ngữ âm nhưng ngữ nghĩa khá xa nhau, và về phương diện gây ngữ cảm thì càng rất khác nhau : ngóc đầu là dựng thẳng dậy, gây ngữ cảm đáng sợ (rắn ngóc đầu, bọn tội phạm ngóc đầu…), còn ngấc đầu là nhấc đầu nghiêng nghiêng, gây ngữ cảm tội nghiệp (đối với người mệt mỏi, ốm đau…). Các điều kiện thiết yếu đối với một con người cầm bút sáng tác văn chương ấy, một phần do thiên bẩm mà Nguyễn có ; phần khác do công phu học hỏi nghiêm túc xuất phát từ cõi lòng gắn bó với cộng đồng. Theo nhà văn Vũ Bằng : “… không cứ thư gửi cho vợ, bất cứ cái gì viết ra giấy,in ra chữ, Tuân đều thận trọng, ít ra cũng là thận trọng hơn so vói những nhà văn, nhà thơ khác (…) Thực tôi chưa thấy bản thảo nào sạch sẽ và viết chữ kiểu cách, nắn nót như bản thảo của Nguyễn Tuân. Trong khi đa số anh em khác viết trên những tờ giấy nham nhở, cắt xén xô bô, tờ to tờ nhỏ khác nhau, bao giờ Tuân cũng viết lên những tờ giấy trắng thượng hạng, cắt xén rất đều, kềm kệp cẩn thận và không bao giờ quên đóng ở trên đầu một cái dấu xanh in một cánh buồm “Gió đã lên”, và thường đến cuối bài lại kí một chữ bay bướm và đóng một cái dấu son đỏ trên màu cánh sen. Sau này cũng có nhiều người cũng bắt chước lối chơi lập dị đó để bây giờ cái chuyện đó cũng hoá ra thường, nhưng nếu trí nhớ của tôi không lầm thì Tuân là nhà văn trẻ đầu tiên bắt chước các cụ in nhãn hiệu và đóng dấu vào bản thảo và sách vở. Đến cái chữ viết của anh cũng cầu kì. Anh viết như nhà nho viết câu đối chữ thả, uốn éo, lên xuống tỏ rõ thái độ tôn kính của Nguyễn Tuân đối với tiếng dân tộc ; đồng thời… than ôi ! cũng chứng tỏ Nguyễn Tuân muốn noi gót, hoặc cũng muốn… xin chữ ông Huấn Cao !

Không phải ngẫu nhiên, mà chính cái tố chất tài, tình và đức của “nhà văn đặc biệt Việt Nam” Nguyễn Tuân đã hiệp đồng cùng nhau tạo Chữ người tủ tù – một trong những truyện ngắn “cổ điển” trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại.

- Bút pháp đoản thiên tiểu thuyết ở đây nghĩa là bút pháp một tác phẩm tiểu thuyết ngắn. Vấn đề là tại sao lại gọi là “tiểu thuyết ngắn”? Ta biết, tiểu thuyết thường dài về hình thức và chứa đựng sự phong phú về ý nghĩa. Những tác phẩm tự sự ngắn, nhưng có sự phong phú về ý nghĩa các vấn đề cuộc sống, các nhà phê bình thường gọi là “đoản thiên tiểu thuyết”.
- Câu “thân phận không phải là hệ quả của bản chất” cần hiểu ý nghĩa sâu xa và cần hiểu trong văn cảnh. Câu này lấy ý của Jean Paul Sartre: hiện sinh có trước bản chất. Nghĩa là phải hiểu con người sống như thế nào đã, rồi mới hiểu bản chất của nó. Nghĩa là không phải bản chất thế nào (có sẵn) thì thân phận thế ấy (hệ quả), vì con người có thể quyết định thân phận, và theo đó là bản chất của mình. Đặt câu này trong đoạn văn, ý Văn Tâm muốn nói là dân tộc Việt Nam thoát thai từ phong kiến, chịu áp bức; nhưng không có nghĩa là số phận của dân tộc này tiếp tục chịu kiếp áp bức, nô lệ như thâm ý của bọn thực dân thuộc địa.

Văn Tâm
 
T

tomcangxanh

TÁC GIẢ NGUYỄN TUÂN

CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP

Nguyễn Tuân sinh năm 1910 trong một gia đình nhà Nho. Quê ông ở làng Nhân Mục (còn gọi là làng Mọc), ngoại thành Hà Nội. Thời gian học trung học ở Nam Định, ông tham gia bãi khóa chống chính quyền thực dân Pháp, sau đó bỏ học. Nguyễn Tuân viết văn, viết báo và sớm nổi tiếng với loạt truyện ngắn đăng trên các bá “Tao đàn”, “Tiểu thuyết thứ bảy”. Ông được đánh giá là tá giả tiêu biểu cho trà lưu văn xuôi lãng mạn thời kì cuối trước Cách mạng tháng Tám. Ngoài tập truyện ngắn có giá trị “Vang bóng một thời”, những tác phẩm khác của Nguyễn Tuân giai đoạn này đều kín đáo ẩn chứa tinh thần dân tộc.

Thời kì đầu, các sáng tác của Nguyễn Tuân ghi lại những cảm nghĩ, nhân xét tài hoa, độc đáo của nhà văn trên đường “xê dịch” khắp non sông, đất nước : (“Một chuyến đi”, “Thiếu quê hương”…). Bên cạnh đó, ông tập trung viết về những thú chơi tao nhã, cầu kì, tinh tế của người xưa, thể hiện một khía cạnh của nền văn hóa cổ truyền dân tốc và về những con người nghệ sũ mà tài năng và nhân cách kết hợp với nhau đến mức tuyệt vời. ( Các truyện ngắn trong “Vang bóng một thời”, nhân vật Huấn Cao trong “Chữ người tử tù”…).

Ngoài ra, có những tác phẩm phản ánh tình trạng khủng hoảng tinh thần của tác giả trước thời cuộc rối ren lúc đó, dẫn đến lối thoát tiêu cực là tìm sự quên lãng, khuây khỏa bằng những thú vui có hại : (“Chiếc lư đồng mắt cua”…).

Văn phong độc đáo của Nguyễn Tuân thể hiện rõ từ thời kì sáng tác trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Sau Cách mạng cùng với nhiều nghệ sĩ khác, Nguyễn Tuân tham gia kháng chiến, theo chân bộ đội đi chiến dịch hoặc vào vùng địch hậu, đi thực tế Tây Bắc… Thời kì kháng chiến chống Mĩ, ông vào tận Vĩnh Linh, Quảng Trị… Nhiều tập tùy bút ra đời, tiếp nối sở trường của ông về thể loại ấy : “Đường vui” (1949), “Tùy bút kháng chiến” (1955), “Sông Đà” (1960), “Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi” (1972)…


PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT :

1) Giáo sư Nguyễn Ðăng Mạnh có nhận định : "Hạt nhân của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể gói gọn trong một chữ ngông. Cái ngông vừa có màu sắc cổ điển, kế thừa truyền thống tài hoa bất đắc chí của những Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Ðà,... và trực tiếp hơn là cụ Tú Lan, thân sinh nhà văn ; vừa mang dáng vẻ hiện đại, ảnh hưởng từ các hệ thống triết lý nổi loạn của xã hội tư sản phương Tây như triết lý siêu nhân, quan niệm về con người cao đẳng, thuyết hiện sinh...”

 
T

tomcangxanh


Ngông là biểu hiện của sự chống trả mọi thứ nền nếp, phép tắc, định kiến cứng nhắc, hẹp hòi của xã hội bằng cách làm ngược lại với thái độ ngạo đời.

Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân chơi ngông một cách cực đoan. Mọi sở thích, quan niệm riêng đều được đẩy lên thành các thứ chủ nghĩa : chủ nghĩa duy mỹ, chủ nghĩa xê dịch, chủ nghĩa hưởng lạc, chủ nghĩa ẩm thực,.... Thực ra, chủ nghĩa độc đáo trong đời sống cũng như trong nghệ thuật mà biểu hiện là thú chơi ngông của Nguyễn Tuân không chỉ đơn thuần là phản ứng tâm lý của một cá nhân trước tấn kịch xã hội. Nó còn bao hàm cái khí khái của người trí thức yêu nước không cam tâm chấp nhận chế độ thực dân, tự đặt những nghịch thuyết để tách mình ra và vượt lên trên cái xã hội của những kẻ xu thời, thỏa mãn với thân phận nô lệ. Như vậy, từ bản chất, cái ngông đó bao hàm một nội dung luân lý đạo đức truyền thống. Sau 1945, Nguyễn Tuân không còn lý do để mà gây sự, mà ném đá vào đời như trước nữa. Cái ngông tự mất đi phần cực đoan, chỉ giữ lại cái cốt cách vốn tạo nên nét độc đáo cho trang biết. Thói quen và sở thích tìm cách nói mới lạ, không giống ai khiến ngòi bút ông luôn tràn đầy sáng tạo và có sức hấp dẫn mạnh mẽ. Do đó, hoàn toàn có thể khẳng định : cái ngông tồn tại như hạt nhân, chi phối toàn bộ các phương diện khác của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân ; từ đề tài, hệ thống nhân vật cho đến thể loại, giọng điệu, ngôn ngữ.

2) Mới, lạ, không giống ai - là những đặc điểm dễ nhận thấy ở hệ thống đề tài. Mọi thứ Nguyễn Tuân bày biện đều có hương vị đặc sản, từ những nguồn "chưa ai khơi" nên thường tạo được cảm giác rất mạnh, ấn tượng rất sâu. Ðến với những trang viết của ngòi bút tài hoa ấy một mặt người đọc thấy say sưa trước cảnh, tình và tri thức phong phú các các loại được bày biện một cách đẹp đẽ ; mặt khác, khi cảm giác nhất thời qua đi, bao giờ người ta cũng thấy như quý yêu thêm một chút, tự hào thêm một chút về dân tộc mình, về thời đại mình đang sống. Hóa ra những điều tưởng chừng tủn mủn, lặt vặt kia được Nguyễn Tuân gọi về để làm sống dậy trong chúng những ý nghĩa có tính tư tưởng cao cả, chứ không nhằm thỏa mãn cảm giác hiếu kỳ, hời hợt.

Hệ thống nhân vật của Nguyễn Tuân bao giờ cũng mang dáng vẻ riêng, độc đáo và rất đẹp - vẻ đẹp của tài hoa, của nhân cách. Ở cả hai giai đoạn sáng tác, nhà văn luôn trân trọng những "đấng tài hoa" và say mê miêu tả, chiêm ngưỡng họ. Mỗi nhân vật thường sành hơn người ở một thú chơi hoặc một ngón nghề nào đó, đầy tính nghệ thuật. Ðó là cụ Kép, cụ Sáu, cụ Nghè Móm, ông Phó Sứ, ông Cử Hai,... những nghệ sĩ bậc thầy của nghệ thuật uống trà, uống rượu, chơi đèn kéo quân và đánh bạc bằng thơ (trong "Vang bóng một thời"). Là ông Thông Phu lắm tài nhiều tật, cuối cùng đã gục chết trên một ván cờ đất vì uất ức (trong "Chiếc lư đồng mắt cua"). Tài hoa, một khi đi kèm với nhân cách cao thượng thì càng đáng kính trọng. Nhân vật Huấn Cao tài hoa với khí phách, nghị lực phi thường là một tính cách tiêu biểu, được Nguyễn Tuân rất mực yêu thích.

Sự chuyển dịch của ý thức nghệ thuật theo hướng đưa văn học về với cuộc sống, phục vụ công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước đã dẫn tới việc mở rộng thế giới nhân vật của trang viết Nguyễn Tuân. Nhưng không vì thế mà nhà văn đánh mất tính độc đáo, bất biến của phong cách.Ðó là niềm say mê phát hiện và ngợi ca những vẻ đẹp của tài hoa, khí phách, của văn hóa dân tộc : "Có cái như là Hoa Kỳ vừa đánh Hà Nội, vừa thử tài sức và trí lực Hà Nội. Trong cuộc đọ súng đọ lửa với giặc Hoa Kỳ, quân và dân thủ đô càng đánh càng phát huy truyền thống chống xâm lược của dân tộc mình. Chắc tay súng, đúng tầm đạn, chiều 5 tháng 5 vừa qua, tất cả cỡ súng Hà Nội có nòng và tên lửa không nòng đã quần cho một trận tơi bời (...). Chợ Ngọc Hà không phải vỡ chợ, mà chính là xác thù đã vỡ tan trên một buổi chợ chiều : mớ rau, xóc cua đồng, mẹt tôm riu đều nhấp nhánh mảnh vụn đuy ra F.105. Cô gái trại hàng hoa vứt đó cái ô-dòa sắp tưới vườn chiều, cầm vội tay súng và theo dõi trận mưa đuy-ra đang phá vườn hoa hợp tác".

Hình ảnh người lao động mới trong "Sông Ðà (1960) cũng thật đẹp đẽ, lung linh giữa vùng hào quang của tài hoa. Chính họ, chứ không ai khác, là những kỹ sư, nghệ sĩ đang tự nguyện tự hào góp cái tài cái trí của mình để đắp xây cuộc sống mới, nền văn hóa nghệ thuật mới.

3)Tìm đến với tùy bút cũng là con đường tất yếu của cá tính và phong cách Nguyễn Tuân. Dường như ông chỉ có thể gắn bó với lối văn nào thật sự tự do và chấp nhận những cảm xúc đậm màu sắc chủ quan. Trong tay ông, thể tùy bút đã đạt đến đỉnh cao của khả năng ghi nhận và thể hiện đời sống.

- Xét đến cùng, cái duyên riêng không lẫn lộn, không ai bắt chước được của tùy bút Nguyễn Tuân chính ở sự linh hoạt, phong phú đến thần tình của giọng điệu văn chương. Có nhiều chi tiết tưởng rất bình thường nhưng bằng giọng điệu độc đáo, khả năng quan sát sắc sảo, thông minh, hóm hỉnh cộng với hệ thống lý lẽ khúc chiết, những triết lý có chiều sâu - nhà văn đã khiến nó trở nên lung linh kỳ ảo, gợi mở nhiều liên tưởng mới lạ. Giọng điệu của tùy bút Nguyễn Tuân thường là giọng kể. Người dẫn chuyện luôn đóng vai trò quan trọng, trực tiếp tham gia vào câu chuyện và có quan hệ thân mật, tin cậy với các nhân vật khác. Người ấy thường có giọng lịch lãm, đôi khi tỏ ra hoài nghi, đùa bỡn nhưng vẫn đảm bảo độ mãnh liệt của cảm xúc và tầm cao tư tưởng bằng rất nhiều từng trải.

Ðặc điểm nổi bật của giọng điệu tùy bút Nguyễn Tuân chính là sự phong phú, đa thanh, thỏa mãn đến hoàn hảo những sắc thái tình cảm tinh tế nhất. Trong mọi tình huống nhà văn luôn có cách nói phù hợp, không chung chung, tạo được không khí cần thiết cho ý đồ nghệ thuật của mình. Dường như một khi đã bắt đúng giọng thì không còn giản đơn là viết nữa, nhà văn trở thành nghệ sĩ, mặc sức vẫy vùng múa lượn trên đỉnh cao sáng tạo nghệ thuật. Như dòng sông Ðà "vừa hung bạo vừa trữ tình", mạch văn có lúc cuồn cuộn, ầm ào, gân guốc ; có lúc đằm thắm, sâu lắng, thiết tha :

"Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại, réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tung rừng lửa, rừng lửa càng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá".

" Con sông Ðà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân".


- Nguyễn Tuân có lối ví von, so sánh thật chính xác, mới lạ ; sự vật được miêu tả trong trường liên tưởng, cảm giác chuyển đổi tinh tế, bất ngờ :

"Nước bể Cô Tô sao chiều nay nó xanh quá quắt đến như vậy ? (...) Cái màu xanh luôn luôn biến đổi của nước bể chiều nay trên biển Cô Tô như là thử thách cái vốn từ vị của mỗi đứa tôi đang nổi gió trong lòng. Biển xanh như gì nhỉ ? Xanh như lá chuối non ? Xanh như lá chuối già ? Xanh như mùa thu ngả cốm làng Vòng ? Nước biển Cô Tô đang đổi từ vẻ xanh này sang vẻ xanh khác. Nó xanh như cái màu áo Kim Trọng trong tiết Thanh Minh ? Ðúng một phần thôi. Bởi vì con sóng vừa dội lên kia đã gia giảm thêm một chút gì, đã pha biến sang màu khác. Thế thì nước biển xanh như cái vạt áo nước mắt của ông quan Tư Mã nghe đàn tì bà trên con sóng Giang Châu thì có đúng không ? (...) Sóng cứ kế tiếp cái xanh muôn vẻ mới, và nắng chiều luôn luôn thay mầu cho sóng. Mà chữ thì không tài nào tuôn ra kịp với nhịp sóng".

Nhà văn như mê mẩn trong ma lực của ngôn từ và truyền được trọn vẹn đến người đọc chất men say nhiều khi kỳ quái ấy. Nguyễn Tuân có một kho từ vựng hết sức phong phú do cần cù tích lũy cả đời, với lòng yêu say mê tiếng mẹ đẻ. Không chỉ góp nhặt những từ sẵn có, ông còn luôn có ý thức sáng tạo từ và cách dùng từ mới, lạ. Rất nhiều từ ngữ tưởng như đơn nghĩa hoặc cũ mòn, nhưng khi vào tay ông, chợt trở nên dồi dào sức biểu hiện. Hãy xem cách ông dùng hai từ "góa bụa" và "lõa lồ" :

"Hiu quạnh sống trong người mình và chung quanh mình, cái gì cũng gợi đến những ý vắng, lạnh và cũ và mỏi và ngừng hết. Ngồi ăn một mình cả một mâm cơm chiều nay, tự nhiên tôi có cái cảm tưởng gở dại là mình đã trở nên một người góa bụa, hoàn toàn góa bụa. Góa vợ con, thân thích, anh em bạn, góa nhân loại, góa tất cả. Bát cơm và vào miệng, chỉ là những miếng thê lương".

"Mãi đến bây giờ về gần đến Phố, tôi mới nhớ ra trong xe còn có thêm một hành khách nữa. Ấy là một người đàn bà, một thứ đàn bà tồi. Tồi ở chỗ lõa lồ trong câu nói tiếng cười. Tồi ở cái cách phục sức rẻ tiền mà cứ gắng làm ra lộng lẫy cho kỳ được".


Vốn từ vựng ấy, có lúc Nguyễn Tuân dùng để chơi ngông với đời, hoặc để trêu ghẹo thiên hạ và xót xa cho thân mình. Ông tự nhận xét : "Ngôn ngữ của Nguyễn lủng cà lủng củng, dấm dẳn cứ như đấm vào họng. Ðọc lên nghĩa tối quá lời sấm ông trạng. Nguyễn cứ lập ngôn một cách bướng bỉnh vì đời nó ngu thế thì không bướng bỉnh sao được". Từ sau Cách mạng tháng Tám, không còn cực đoan nữa, Nguyễn Tuân dùng ngôn từ như công cụ đắc lực để cất cao lời ngợi ca tổ quốc, ngợi ca nhân dân mình và giáng những đòn thật cay độc vào bản chất tàn bạo của kẻ thù.

KẾT LUẬN

Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Tuân thật xứng đáng ở tầm cỡ nhà văn lớn. Nói đến ông, người ta nghĩ ngay đến một sự nghiệp sáng tác đồ sộ, rất mực tài hoa và độc đáo. Không thể tưởng tượng nổi sẽ lạnh lẽo và tiêu điều tới mức nào nếu đại ngàn văn chương dân tộc thiếu vắng những nghệ sĩ ngôn từ bậc thầy như nhà văn Nguyễn Tuân.

Ðặc biệt, Nguyễn Tuân "lớn" ở cả hai thời kỳ, từ cuộc đời cũ đến cuộc đời mới ; vừa là cây bút nổi bật của xu hướng văn học lãng mạn trước năm 1945 với đủ thứ "tật bệnh điển hình", vừa ở trong hàng ngũ những nhà văn thành tâm chào đón và chân thành đi theo Cách mạng đến cùng. Trong hành trình gian khổ hơn nửa thế kỷ ấy có lúc va vấp, có lúc chênh vênh, cũng có lúc phải tự "lột xác" đớn đau, nhưng nhà văn vẫn luôn giữ vẹn được nhân cách, bản ngã của mình. Cái ngông, suy đến cùng, lại như một giá trị, được đảm bảo bởi sức bền vững của tài hoa và tầm cao tư tưởng nghệ thuật. Trên đỉnh cao sáng tạo vừa chói lòa vinh quang vừa cực kỳ cheo leo hiểm trở, nhà văn phải dốc đến kỳ cùng sức lực để không trở nên nhạt nhẽo, vẫn luôn giữ được nét độc đáo của phong cách nghệ thuật.

Tinh thần tự nguyện dấn thân, bám trụ ở thành trì cái Ðẹp là biểu hiện sinh động của một nhân cách văn hóa lớn. Nhà văn Nguyễn Tuân "đặc Việt Nam" (chữ dùng của Vũ Ngọc Phan) từ quan niệm cho tới thực tế sáng tác. Chất văn hóa như sợi chỉ đỏ xuyên suốt, là cái phần cơ bản nhất làm nên giá trị vĩnh hằng cho văn nghiệp của ông.

Do đó, vẻ đẹp của trang viết Nguyễn Tuân là kết quả tất yếu từ một cách viết mang chiều sâu, bề rộng và tầm cao văn hóa. Lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, đặc biệt biểu hiện ở thái độ thành kính trân trọng tiếng mẹ đẻ và các giá trị truyền thống chính là động lực bên trong, thôi thúc nhà văn không ngừng tìm tòi, khơi nguồn vốn cũ và sáng tạo nên giá trị mới. Ông xứng đáng được mệnh danh là "chuyên viên cao cấp tiếng Việt", là "người thợ kim hoàn của chữ" (Ý của Tố Hữu). Trong lâu đài văn chương nghệ thuật dân tộc Việt Nam ở thế kỷ 20, rất dễ nhận ra phần chạm trổ tinh xảo của người nghệ sĩ ngôn từ Nguyễn Tuân.

 
T

tomcangxanh

Nam Cao- Chí Phèo

Bài Văn 10 điểm, Khối C - 2005


Nhận định về Nam Cao, sách Văn học 11 viết: “Ông có sở trường diễn tả, phân tích tâm lý con người”. (Văn học 11, tập một, NXB Giáo dục, tái bản 2004, trang 201). Qua nhân vật Hộ trong truyện ngắn Đời thừa, anh/chị hãy chứng minh nhận định trên.

Nhà văn Nam Cao (1915 - 1951) là cây bút hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam trước cách mạng và cũng là nhà văn có nhiều đóng góp cho nền văn học non trẻ những ngày đầu. Trước cách mạng, do bên cạnh việc viết về bi kịch của người nông dân với tác phẩm bất hủ “Chí Phèo” người đọc còn nhớ mãi bi kịch của người trí thức tiểu tư sản trước cách mạng trong tác phẩm “Đời thừa” mà được thể hiện rõ qua nhân vật Hộ. Nhà văn Nam Cao với tài năng xuất chúng và một tấm lòng yêu thương nhân ái bao la đã thể hiện rõ được tâm lý của người trí thức tiểu tư sản trong cảnh ngộ bi kịch ấy. Chính vì vậy nhận định về Nam Cao, sách Văn học 11 viết “Ông có sở trường về diễn tả, phân tích tâm lý con người”.

Truyện ngắn “Đời thừa” ra mắt bạn đọc lần đầu tiên trong “Trang tiểu thuyết số 7” số ra ngày 4/3/1943. Tác phẩm cùng đề tài này có “Mực mài nước mắt” của Lan Khai, “Nợ văn” của Lãng Tử, Đời thừa còn gần gũi về đề tài với một số tác phẩm của Nam Cao như “Trăng sáng”, “Nước mắt” và tiểu thuyết “Sống mòn”. Qua tác phẩm Nam Cao đã miêu tả thành công tâm trạng của một người trí thức tiểu tư sản trước cách mạng.

Hộ vốn là một nhà văn, một nhà văn mang trong mình hoài bão lớn ấy là viết được một tác phẩm “vượt qua mọi giới hạn và bờ cõi” ai đó vội cho đó là sự háo danh. Nhưng không phải vậy. Đó là ước mơ của một con người có lý tưởng, có hoài bão lớn, muốn khẳng định được tài năng của mình. Hộ còn là một nhà văn chân chính. Điều này được thể hiện qua một loạt quan niệm của anh về văn chương “văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho, văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu tìm tòi khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có” với ý nghĩ ấy Hộ đã vô cùng căm ghét sự cẩu thả trong văn chương “cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện”. Như vậy qua những quan niệm của Hộ về văn chương ta thấy đây là một nhà văn có hoài bão, một nhà văn chân chính, có lương tri của một người cầm bút chân chính ý thức được trách nhiệm của người nghệ sĩ.

Thế nhưng trước khi là một nhà văn Hộ còn là một người chồng, một người cha, hắn còn có một gánh nặng gia đình trên vai. Cuộc sống với một gia đình đông con, một người vợ thất nghiệp đã cướp đi ở hắn sự thanh thản sự thanh thản cần thiết để một tâm hồn văn chương thăng hoa, khi mà cứ hết tháng lại “tiền nhà, tiền gạo, tiền nước mắm”.

Hoài bão văn chương có thể nung nấu trong chốc lát nhưng chuyện cơm áo là chuyện phải đối mặt hàng ngày. Chả thế mà Xuân Diệu đã từng thốt lên:

“Nỗi đời cay đắng giơ nanh vuốt
Cơm áo không đùa với khách thơ”

Thế là Hộ điên lên, phải xoay tiền. Nam Cao đã thật tỉ mỉ khi miêu tả tâm trạng của Hộ trong cảnh túng quẫn ấy “đang ngồi hắn đứng phắt dậy mặt hầm hầm đi ra phố, vừa đi vừa nuốt nghẹn”. Chỉ một đoạn văn ngắn mà ông đã tái hiện lại tâm trạng của Hộ: thật bức bách. Nanh vuốt của họa cơm áo đang có nguy cơ nuốt chửng nhà văn Hộ đầy tâm huyết ngày nào.

Và thế là để có tiền thì Hộ phải viết. Nam Cao là một nhà văn hiện thực nên ông biết rằng Hộ muốn có tiền thì phải viết, viết những tác phẩm đáp ứng được nhu cầu của một đám thị dân lúc bấy giờ “những tác phẩm làm người ta quên ngay sau lúc đọc”. Hộ phải viết những tác phẩm ấy, nhưng giả dụ có ai bảo hắn viết những tác phẩm cao quý hắn cũng chẳng biết đường nào mà viết bởi tâm trạng bức bách ở trên. Thế rồi Hộ bị văng vào quỹ đạo của bi kịch.

Hắn thấy xấu hổ khi đọc những tác phẩm ấy “hắn đỏ mặt lên”. Đó là sự xấu hổ của một chút lương tri ít nhiều chưa vỡ nát trong Hộ. Hộ đau đớn, tủi cực không phải vì không được viết, mà là anh đã tự giẫm lên những nguyên tắc do mình đặt ra, còn gì đau đớn hơn khi mình lại phản bội chính mình. Nam Cao tỏ ra rất tinh tế và cảm thông trước tâm trạng của Hộ. Phải hiểu, phải cảm thông thế nào thì ông mới có thể viết lên những trang văn đầy giằng xé như vậy.

Thế là từ không thực hiện được giấc mộng văn chương và Hộ đã trở thành kẻ phản bội chính mình. Nhưng Nam Cao không dừng lại ở đó, ông muốn người đọc đi đến tận cùng sự khổ cực, bi kịch của người trí thức. Hộ lại bị đẩy ra khơi – trước từng cơn sóng dữ của cuộc đời. Nó đã quăng anh vào bi kịch nghề nghiệp nó lại quật anh vào một bi kịch khác, bi kịch không thực hiện được tình người cho trọn.

Mọi chuyện bắt đầu từ lúc hắn lấy Từ. Lấy Từ hắn đã thực hiện được nguyên tắc tình thương của mình đã cứu được ba con người. Nhưng rồi, từ đó bi kịch đã mở ra với hắn. Gánh nặng gia đình đã đè nặng lên vai khiến hắn thấy mình khổ, đáng trách hơn là hắn coi Từ là nguyên nhân khiến mình khổ. Từ đó hắn đã tìm đến rượu, có lúc hắn toan ruồng bỏ vợ con. Khi say hắn đã có những hành động vũ phu quá đáng “hắn chỉ tay vào mặt Từ” đuổi mấy mẹ con Từ ra ngoài. Nam Cao đã có một lời biện hộ yếu ớt ấy là cho hắn hành động trong lúc say. Nhưng tất cả đều đổ nhào trước nguyên tắc: nguyên tắc tình thương. Hộ thật đáng trách khi coi vợ con là nguyên nhân làm mình khổ. Thế là mọi nguyên tắc tình thương mà hắn đặt ra trước đây “kẻ mạnh là kẻ giúp đỡ người khác trên đôi vai mình” đã bị hắn đạp đổ.

Giờ đây đâu còn là một nhà văn Hộ giàu tâm huyết, giàu lòng nhân đạo nữa mà là một con người vũ phu quá đáng. Hộ thật đáng trách nhưng có lẽ đáng thương hơn là đáng trách. Thế nhưng Nam Cao đã để cho nhân vật của mình dừng lại trên con đường bị tha hóa ấy. Sau mỗi lần say, Hộ lại tỉnh và nhận rõ được sai lầm của mình xin lỗi và làm lành với vợ con. Phải là một người đầy tài năng, già tay nghệ thuật và vững tin vào con người thì Nam Cao mới có thể đặt nhân vật vào lốc xoáy cuộc đời nhưng cuối cùng tình người vẫn chiến thắng. Hộ đã khóc “Anh chỉ là một **************”. Giọt nước mắt ăn năn, hối lỗi. Câu chuyện về cuộc đời Hộ đã khép lại bằng câu hát ru đẫm nước mắt của Từ:

“Ai làm cho khói lên giời
Cho mưa xuống đất cho người biệt li”

Như vậy, qua tấn bi kịch của nhà văn Hộ, Nam Cao đã khắc hoạ một cách chân thực và sâu sắc bi kịch của người trí thức tiểu tư sản trước cách mạng. Đồng thời lên án xã hội bất công không cho con người phát triển toàn diện về tài năng và nhân cách. Qua đây ta cũng thấy được tài năng nghệ thuật về diễn tả và phân tích tâm lý bậc thầy của nhà văn Nam Cao. Nhưng dù cuộc đời có cay nghiệt, lốc xoáy có dữ dội thì nhân vật của ông vẫn hướng về chân trời của cái chân, thiện, mĩ.


[st]
 
T

tomcangxanh

Phân tích nhân vật Chí Phèo


Là một nhà văn luôn băn khoăn trăn trở về cách sống và cách viết, Nam Cao đã từng tuyên ngôn “Sống đã rồi hãy viết”.Một nhà văn muốn viết được nhân đạo trước hết phải sống cho nhân đạo bởi cuộc đời quyết định đến văn chương.Nam Cao luôn nhìn đời bằng đôi mắt của tình thương , đôi mắt của lòng nhân ái. Với cách nhìn đời này, Nam Cao bắt đầu cầm bút sáng tác. Những tác phẩm của Nam Cao trước CM tháng 8 chủ yếu nói về đề tài: Nông dân. Với mãng đề tài này, 5 cao hết sức thành công. Đặc biệt là tác phẩm Chí Phèo khi nói về nhân vật anh Chí.
Lai lịch Chí Phèo đươc mở ra trong câu chuyện là một đứa trẻ xám ngắt, được bọc trong một tấm váy đụp bên cạnh lò gạch bỏ hoang, được người thả ống lươn đem về trong một buổi sớm tinh sương.Lớn lên, Chí Phèo được cưu mang bởi những con người nghèo khổ,Chí Phèo đi ở hết nhà này cho đến nhà khác, từ bà goá mù cho đến ông Phó Cối.Quá khứ ấy không khiến Chí Phèo trở thành một đứa trẻ hư hỏng, trái lại, đến năm hai mươi tuổi, khi đi làm hắn chắn điền cho nhà lí Kiến, Chí Phèo vẫn giữ nguyên bản tính của một người nông dân thuần hậu.Cũng như biết bao người nông dân làng Vũ Đại, Chí cũng có những mơ ước nhỏ nhoi, Chí ước mơ có một gia đình đầm ấm, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, khá giả mua năm ba sào ruộng cấy.Mơ ước ấy chứng tỏ rằng hắn là một người nông dân thuần hậu, thậm chí làng Vũ Đại còn gọi hắn là người “lành như cục đất”.Ta còn thấy Chí phèo là một người trong sáng và trọng danh dự.Làm canh điền cho nhà Bá Kiến, rồi một lần bị bà Ba gọi lên bóp chân,Chí Phèo chỉ thấy nhục, thấy sợ .Trái tim của Chí Phèo hai mươi tuổi đau còn là gỗ đá, Chí Phèo đã nhận thức được đâu là tình yêu chân chính, đâu là thói dâm ô. Bị gọi “đấm bóp cho bà 3 hắn chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì”. Như vậy, rõ ràng, đến đây ta có thẻ khẳng định hắn là một người nông dân thuần hậu, là người trong sáng và trọng danh dự nhưng xã hội ấy không cho Chí Phèo sống yên ổn với bản tính nông dân thuần hậu của hắn.Chí Phèo đang sống trong cái xã hội mà “Kiếp người cơm vãi cơm rơi- Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi.”, trong cái xã hội mà cạm bẫy người giăng giăng như mắc cửi thì những người hiền lành như Chí Phèo bao giờ cũng phải chịu thiệt thòi.Vì một cơn ghen bóng gió,Chí Phèo đã bị Bá Kiến tống vào ngục tù, con người xảo quyệt này sẵn sàng chà đạp lên cuộc đời người khác không thương tiếc, không ghê tay.Bắt đầu từ đây, Chí Phèo chuyển sang một trạng thái khác, một cuộc sống khác
Sau 7-8 năm Chí trở về làng Vũ Đại. Chí Phèo cả đời khao khát lương thiện nhưng giờ đay thành kẻ bất lương mất rồi, thành con quỷ dữ mất rồi. Hình ảnh của Chí say rượu vừa đi vừa chửi hết sức buồn cười, hắn chửi trời, chửi đời, chửi làng xóm, tất cả mọi người - những kẻ không chửi lại, cả những kẻ đã đẻ ra hắn
. Trong cơn say hắn nhận ra được sự cô đơn khủng khiếp của 1 con người bị xh ruồng bỏ. “Hắn thèm được người ta chửi, chửi hắn có nghĩa là còn công nhận hắn là người”. Thế nhưng hắn cứ chửi, xung quanh hắn là sự im lặng đáng sợ, hắn chửi rồi lại nghe: “ chỉ có 3 con chó dữ với 1 thằng say rượu”. Hắn đã bị từ chối quyền làm người tuyệt đối. Bản chất của hắn đâu phải là kẻ nát rượu. Khi còn trẻ hắn đã “ao ước có 1 mái gđ nho nhỏ, chồng cày thuê cuốc mướn vợ dệt vải nuôi heo”. Mơ ước của hắn thật bình dị bằng sức lao động chân chính, cái hạnh phúc đơn sơ nhưng ấm cúng tình người tưởng chừng ai cũng có được nhưng với Chí lại quá xa vời. Giờ đây, hắn sống trong cái Làng Vũ thì hắn phải gây gổ, cướp giật, ăn vạ, muốn thế hắn phải có gan, phải mạnh, thế là hắn mượn rượu để say như hủ chìm, như thế hắn sẽ làm “bất cứ điều gì người ta muốn hắn làm”, xh đã vằm nát bộ mặt người của hắn để hắn không còn được coi là con người nữa “ai cũng tránh mỗi lần hắn đi qua”.
Trong cơn say rượu, Chí đã gặp TNở và họ đã ăn năm với nhau …. Sau khi tỉnh cơn say, hắn nhận được sự tình yêu chăm sóc của Nở làm cho tâm hồn hắn lay động, 1 tia chớp lóe sáng trong thăm tăm dài dằn dặt của hắn và hắn nhận ra được tình trạng bi thương của số phận mình. “Hắn mơ hồ thấy rằng sẽ có 1 lúc mà người ta k/thể liều lỉnh được nữa, bấy giờ mới nguy”, hắn tủi thân vì hắn nhận ra sự trơ trọi của chính mình. Đó những ân hận khi Chí hiểu ra hắn đã làm quá nhiều điều tội lỗi, khốn nổi khi gây ra những điều này Chí triền miên trong những cơn say nên nào biết gì! TY của TNở làm cho hắn “bổng thèm lương thiện”, bát cháo hành đã đưa Chí rẽ vào bước ngoặc mới. Hắn cảm động quá! cảm động vì lần đầu tiên hắn được ăn 1 thứ ngon như thế. Hơn nữa muốn có cơm ăn, rượu uống chí phải dọa, cướp giật. lần đầu tiên có người tự nguyện cho hắn ăn, đặc biệt hơn đó lại là đàn bà nên con quỹ dữ đã khóc. Cùng với những giọt nước mắt là Chí nghe được tiếng chim hót buổi sáng, tiếng gõ mái chèo của người thuyền chày đuổi cá trên sông, tiếng trò chuyện của những người đi chợ sớm. Cái đẹp của tự nhiên, c/đẹp của sự lao động chứa chan tình người, tất cả thật đ/sơ nhưng cũng thật gần gủi thân thiết, những âm thanh này ngày nào cũng có nhưng đây là lần đầu tiên chí cảm nhận được. Giọt nước mắt của chí cùng những âm thanh buổi sáng đã làm nên 1 CP khác hẳn, có nghĩa là anh canh điền l/thiện năm nào đã sống lại. Đây là lần đ/tiên Chí tỉnh và lần đ/tiên nhận thức được t/lỗi, sự ân hận muộn màng nhưng dù sao cũng đáng ghi nhận. Đó là biểu hiện của sự làm lành “hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao” Chí m/muốn được mọi người bỏ qua cho tất cả. Thị Nở sẽ giúp hắn làm lại từ đầu, niềm khát khao mới đẹp làm sao!.
TY của TNở làm cho hắn thức tỉnh và mở đường cho hắn trở lại làm người, nhưng thật trớ trêu, bà cô TNở đã đóng sầm cánh cửa lại, bà không cho cháu bà “đi lấy 1 thằng ăn vạ”. Cách nhìn của bà cũng chính là cách nhìn của Làng VĐ, linh hồn của Chí vừa trở về thì bị cự tuyệt, không ai nhận ra. K/vọng của Chí đã bị đã bị xh từ chối, điều này cũng dễ hiểu vì xh quen nhìn Chí trong bộ dạng quỹ dữ, k/thể chấp nhận một CP hiện lên với tư thế con người.
Sự từ chối của xh đầy định kiến, xh không độ lượng bao dung đón đứa con lạc loài trở về với cộng đồng, hoàn cảnh đặt Chí trước 2 con đường để l/chọn: “hoặc sống làm q/dữ hoặc chết để k/định g/trị làm người”. Thực chất Chí chỉ có 1 con đường để đi, khi g/trị làm người thức tỉnh thì chí không thể làm quỹ dữ, đó chính là bi kịch thân phận con người không được quyền làm người.
Sự từ chối của TNở đã đóng sập cánh cửa hoàn lương của Chí. Lúc này hắn đã uống rất nhiều rượu “càng uống càng tỉnh ra” để thấm thía thân phận mình “hắn ôm mặt khóc rưng rức”. Trong cơn say Hắn xách dao ra đi, hắn lãm nhãm đến nhà Tnở để đâm chém nhưng bước chân lại tìm đi tìm “kẻ gây ra tình trạng tuyệt vọng cho đời mình”. Vậy thì thực sự Chí say hay tỉnh? Nếu bảo hắn tỉnh thì k/thuyết phục vì ý thức của hắn không còn k/năng điều khiển hành vi, bảo hắn say cũng không thỏa đáng vì người say không thể biết đòi l/thiện “tao muốn làm người l/thiện” và biết rất rõ không ai cho hắn l/thiện, nghịch lý này là rượu đã làm cho thế giới t/thần hắn mụ mị đi, nhưng 1 bộ phận mà rượu k/thể làm tê liệt được là ý thức làm người, cho nên hđ đòi l/thiện là vô cùng tỉnh táo vì vậy Chí đã giết Bá Kiến và tự hủy diệt mình.
Cái kết thúc thật rùng rợn vì máu chảy nhưng cũng thật nhân bản vì tội ác đã được trừng trị và g/trị làm người được khẳng định. Một CP tỉnh đã giết chết 1 CP say . CP bằng xương , bằng thịt đã chết nhưng còn lại trong lòng người đọc là CP đòi quyền sống , đang dõng dạc đòi làm người lương thiện. Như vậy, khi ý thức nhân phẩm đã trở về , CP không bằng lòng sống như trước nữa . Và CP chết trong bi kịck đau đớn , chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống . Đây khong thể là hành động lưu mhắn mà là sự vùng lên tuyệt vọng của người nông dân khi thức tỉnh cuộc sống.
Chí Phèo - một tấn bi kịch của một người nông dân nghèo bị tha hóa trong xã hội cũ, một con người điển hình. Ở cuối tác phẩm, “đột nhiên thị thoáng thấy hiện ra một cái lò gạc cũ bỏ không, xa nhà cửa, và vắng người qua lại…”, chi tiết ấy muốn nói với chúng ta rằng, một ngày gần đây thôi,Thị Nở lại bụng mang dạ chửa vượt cạn giữa đồng không mông quạnh, giữa con mắt thờ ơ của người dân làng Vũ Đại,lai một Chí Phèo con xuất hiện. Điều này chứng tỏ rằng “Chí Phèo” không phải là bi kịch của một con người mà là bi kịch của người nông dân tồn tai trong lòng nông thôn trước Cách mạng tháng Tám. Mang đậm giá trị tố cáo rất cao, lên án giai cấp pk thống trị tha hoá, những bị kịch như vậy sẽ còn tiếp diễn

kishichi1421​
 
T

tomcangxanh

Ý nghĩa bát cháo hành của Thị Nở

Dàn ý:

* Là yếu tố có tác dụng làm chuyển biến sâu
sắc hơn nội tâm Chí Phèo?

- Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo :
+ ngạc nhiên.
+ mắt hình như ươn ướt.
+ bâng khuâng.
+ vừa vui vừa buồn.
+ một cái gì nữa giống như là ăn năn.
+ Suy nghĩ về cuộc đời.
+ Muốn làm hòa với mọi người.
+ Thèm lương thiện.
+ Hy vọng Thị Nở là cầu nối trở về với cuộc sống lương thiện

\RightarrowChí Phèo đã thức tỉnh về nhân tính.

* Bát cháo hành của Thị Nở làm nên sự chuyển biến đặc biệt
sâu sắc như vậy đối với Chí Phèo:

-Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho. Xưa nay,
nào hắn có thấy ai tự nhiên cho cái gì. Hắn vẫn phải dọa nạt hay là giật
cướp.

Nhưng tại sao mãi đến tận bây giờ hắn mới nếm vị mùi cháo … Có ai nấu cho
mà ăn đâu? … Đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi một bàn tay “đàn bà”
Hắn nhớ đến “bà ba”, cái con quỷ cái …Nó chỉ nghĩ đến thỏa nó chứ có yêu
hắn đâu…Vì thế bát cháo hành của thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều.


*Ý nghĩa của bát cháo hành :

- Bát cháo hành chính là tình thương mộc mạc, chân thành của Thị Nở Là biểu hiện của tình người.

=> Lương tâm,lương tri đã trở về trong hắn.

Bát cháo hành có ý nghĩa nhân đạo sâu sắc.
 
T

tomcangxanh

PHÂN TÍCH TẤN BI KỊCH BỊ CỰ TUYỆT QUYỀN LÀM NGƯỜI CỦA NHÂN VẬT CHÍ PHÈO (hoặc GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO CỦA TP CHÍ PHÈO)

Nhan đề tác phẩm

- Đầu tiên, Nam Cao đặt nhan đề : Cái lò gạch cũ. Sau đó – năm 1941- NXB tự ý đổi tên thành Đôi lứa xứng đôi. Năm 1946, khi in lại trong tập Luống cày, Nam Cao đã đặt lại tên là Chí Phèo - Ý nghĩa của nhan đề: Chí Phèo, vẽ nên một con người cụ thể, một số phận cụ thể, cô đơn, cô độc…

Hình tượng nhân vật Chí Phèo

a, Sự xuất hiện của hình tượng Chí Phèo

• Mở đầu truyện là một Chí Phèo say rượu và chửi bới:
+“Hắn vừa đi vừa chửi”

+ Hắn chửi tất cả : từ trời, đời ,cả làng Vũ Đại , “Chửii cha đứa nào không chửi nhau với hắn” “đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn”=> đối tượng chửi đã được xác định : xã hội thực dân nửa phong kiến đã sinh ra cái thằng Chí Phèo, đối tượng chửi qua đó cũng thu hẹp dần > chứng tỏ Chí đang rơi vào ngõ cụt của sự bế tắc.

• Cái mà Chí nhận được là : “ trời có của riêng nhà nào”,“đời là tất cả nhưng chẳng là ai” , “không ai lên tiếng cả” ,“không ai ra điều” , “nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra Chí Phèo”. Đáp lại tiếng chửi ấy trớ trêu thay lại là “ tiếng chó cắn lao xao”.

• Ý nghĩa tiếng chửi của Chí Phèo:

+ Chí chửi tức là Chí muốn giao tiếp với mọi người nhưng tất cả đều im lặng, chỉ có “ba con chó dữ với một thằng say rượu”)~> Chí đã bị đánh bât ra khỏi xã hội loài người, tiếng chửi trở nên vật vã, tuyệt vọng.

+ Tiếng chửi của Chí là tiếng nói đau thương của một con người ý thức về bi kịch của mình: sống giữa cuộc đời nhưng đã mất quyền làm người. Đó chính là sự đau xót của nhà văn đối với nhân vật của mình. Chí Phèo cô độc ngay giữa chính đồng loại, người ta không coi hắn là người, người ta tránh hắn mỗi lần hắn qua ~> Chí Phèo đã bị tước đoạt quyền làm người.

b. Sự ra đời và quá trình tha hoá của Chí Phèo.

• Khi mới sinh ra Chí bị bỏ rơi bên cạnh chiếc lò gạch cũ, được dân làng nhặt về nuôi nấng. Tuổi thơ bất hạnh, tủi cực “ hết lang thang đi ở cho nhà người này lại đi ở cho nhà người khác, năm 20 tuổi thì làm canh điền cho nhà Bá Kiến”
• Chí là một nông dân hiền lành, lương thiện:

+ Bà ba sai bóp đùi, hắn: “vừa làm vừa run” “ thấy nhục chứ yêu đương gì”

+ Chí là một con người có lòng tự trọng: khi bị bà ba sai bóp chân, Chí “thấy nhục hơn là thích” trước một việc làm mà Chí cho là “không chính đáng”.

+ Có ước mơ giản dị: “ có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc muốn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”

• Xã hội thực dân nửa phong kiến không để yên cho con người tội nghiệp ấy được sống với những ước mơ và khát vọng, Bá Kiến ngấm ngầm đẩy Chí vào tù. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho lão cáo già Bá Kiến biến Chí Phèo từ một người nông dân hiền lành lương thiện thành một kẻ lưu manh, côn đồ khét tiếng . Sau 7, 8 năm tù ra, Chí đã bị cái xã hội ấy vằm nát cả nhân hình lẫn nhân tính, trở thành một kẻ lưu manh, một con quỷ dữ.

+ Nhân hình: Bị xã hội lưu manh vằm nát bộ mặt người.

•Gương mặt: “cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”

•Trang phục: “mặc quần nái đen với cái áo tây vàng”

•Thân thể: “cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế”.

+ Nhân tính: Hành động và lời nói thể hiện tính cách của một kẻ liều lĩnh, hung hăng:

• “Hắn về hôm trước, hôm sau đã thấy ngồi uống rượu với thịt chó suốt từ trưa đến xế chiều…Rồi say khướt, hắn xách một cái vỏ chai đến cổng nhà Bá Kiến gọi tận tên tục ra mà chửi”. Chí bộc lộ tính lưu manh cùng đường: “đập cái chai vào cột cổng”, lăn lộn dưới đất…cào vào mặt”

• Nói với Bá Kiến: “Tao chỉ liều chết với bố con nhà mày đấy thôi”. Trong câu nói ấy của Chí chất chứa hận thù. Chí vẫn đang còn tỉnh táo để nhận ra kẻ thù của mình. Đó là ý thức hệ của tầng lớp bị thống trị đối với giai cấp thống trị. Thế nhưng trước một Bá Kiến cáo già với châm ngôn sống “ Thứ nhất sợ kẻ anh hùng/ Thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân”. Chí phèo đã sa vào bẫy của tên cáo già ấymột cách thật dễ dàng. Để rồi sau đó hắn trở thành tay sai của BK, đối lập với nhân dân lao động cần lao. Từ một người nông dân hiền lành lương thiện Chí trở thành thằng lưu manh  “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”. Từ đây chí sống bằng rượu và máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện: “Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện”. Hắn làm những việc ấy trong lúc say “ ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say… đập đầu, rạch mặt, giết người trong lúc say để rồi say nữa say vô tận”. Chưa bao giờ hắn tỉnh để thấy mình tồn tại trên đời bởi vì “ những cơn say của hắn từ cơn này sang cơn khác thành những cơn dài mênh mang”.

Giữa lúc Chí đang rơi vào ngõ thẳm đêm đen của tội lỗi thì Nam Cao bằng tấm lòng nhân đạo sâu sắc đã xuất hiện đúng lúc. Ông mang đến cho Chí một “thiên sứ” – Thị Nở với hi vọng cữu vãn linh hồn Chí Phèo.

c. Chí Phèo gặp Thị Nở

Cuộc gặp gỡ với Thị Nở trong một đêm trăng bên bờ suối đã thức tỉnh phần người của Chí giúp hắn trở về kiếp người. Sự quan tâm, chăm sóc của Thị Nở đã giúp Chí cởi bỏ phần “quỷ” để sống lại làm người, khát khao hoàn lương, làm người lương thiện.

- Diễn biến tâm lí, tình cảm của Chí Phèo
+ Từ tỉnh rượu đến tỉnh ngộ

• Tỉnh rượu: lần đầu tiên – từ khi mãn hạn tù – Chí hết say và cảm nhận được thời gian và âm thanh hằng ngày của cuộc sống. Âm thanh cuộc sống đang từng tiếng một gõ nhịp vận hành cùng với sự thức tỉnh của Chí Phèo. * “Ở đây (căn lều) người ta thấy chiều lúc xế trưa và gặp đêm khi bên ngoài vẫn sáng” * “Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Tiếng mấy bà đi chợ về, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông” . Những âm thanh này ngày nào mà chẳng có, nhưng đây lại là lần đầu tiên chí mới nhận ra: chao ôi là buồn!

• Tỉnh ngộ : nhận thức và nhìn lại cuộc đời mình trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai * Qúa khứ :“Hắn nao nao buồn” nhớ về một thời hắn đã từng ước mơ “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn,…” * Hiện tại: “Hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc”, “hắn “đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời”, “cơ thể đã hư hỏng nhiều” * Tương lai: đáng buồn và lo sợ vì nghĩ đến nhiều điều bất hạnh: “tuổi già”, “đói rét và ốm đau, và cô độc”. Tỉnh ngộ, Chí muốn khóc… Chí Phèo đang thức tỉnh và bắt đầu hồi sinh về kiếp người.

+ Khát khao hoàn lương và mong ước hạnh phúc

• Chí ngạc nhiên và xúc động “mắt hình như ươn ướt” khi Thị Nở mang “một nồi cháo hành còn nóng nguyên” vì đây là lần đầu tiên “hắn được một người đàn bà cho”, “đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi một bàn tay “đàn bà”. Chí lại nghĩ đến con mụ Bà Ba và lấy làm kinh tởm vì những trò dâm đãng “nó chỉ mong cho thỏa nó chứ yêu đương gì”.

• Chí “ăn năn”, “thấy lòng thành trẻ con” và “muốn làm nũng với thị như với mẹ” khi được Thị Nở chăm sóc bằng tình cảm thương yêu.

• Chí trở nên hiền lành đến khó tin: “Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó vẫn là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt đâm chém người?”, “cái bản tính của hắn, ngày thường bị lấp đi” đã trỗi dậy mạnh mẽ, Chí sống đúng với con người thật của mình, giống như anh canh điền hiền lành trước đây.

• Chí mong muốn trở lại làm người lương thiện: “Trời ơi ! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao !... Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”

• Chí khát khao hạnh phúc và có một mái ấm gia đình: “Gía cứ thế này mãi thì thích nhỉ?”, “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui.”  giống như lời cầu hôn chất phác, giản dị. Qua miêu tả tâm lí hồi sinh của nhân vật Chí Phèo, Nam Cao cho cho ta thấy được bản tính tốt của con người có ngay trong con người bị tha hoá. Bản tính ấy sẽ trỗi dậy khi có chất xúc tác. Đó là sự thương yêu, quan tâm. Từ đó nhà văn kêu gọi chúng ta cần tin vào con người, tin vào bản chất tốt đẹp của mỗi con người và cần giúp đỡ họ tìm lại những cái tốt đẹp nhất của phần “người” * Bài học nhân sinh: Con người cần phải quan tâm , chia sẻ tình thương giữa người với người. Tình thương có khả năng cảm hoá được con người.

d. Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo

- Nguyên nhân : Thị Nở đã cắt đứt với Chí Phèo vì bị bà cô cấm đoán ~> cả làng Vũ Đại, cả xã hội ko ai đón nhận linh hồn người vừa trở về của Chí. Định kiến của bà cô cũng là định kiến của cả xã hội đương thời. - Chí đau đớn và tuyệt vọng:

+ Uống rượu cho thật say nhưng “càng uống lại càng tỉnh ra. Tỉnh ra, chao ôi, buồn!”

+ “Hắn ôm mặt khóc rưng rức” càng thấm thía nỗi đau khôn cùng của thân phận. - Phẫn uất, Chí xách dao đi, định đến nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến nhà đam chết con “khọm già”, con “đĩ nở” nhưng sự thức tỉnh ý thức về thân phận và bi kịch đã đẩy chệch hướng đi của CP dẫn Chí đến thẳng nhà Bá Kiến. Hơn ai hết lúc này Chí hiểu ra rằng: kẻ đã làm cho mình phải mang lốt quỷ, kẻ đã làm mình ra nỗng nỗi khốn cùng này chính là BK.

+ Lòng căm thù đã âm ỉ bấy lâu trong con người của Chí càng thấm thía tội ác kẻ đã cướp đi quyến làm người, cướp đi cả bộ mặt và linh hồn của mình. - Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với tư cách là một nô lệ thức tỉnh, đòi quyền làm người:
+ “ Tao muốn làm người lương thiện”

+ “ Ai cho tao lương thiện?” Đó là những câu hỏi vút lên đầy cay đắng và không lời giải đáp. Câu hỏi chất chứa nỗi đau của một con người thấm thía được nỗi đau khôn cùng của bi kịch cá nhân.

• Chí giết Bá Kiến và tự sát. Cái chết của Chí Phèo là bản án tố cáo xã hội thực dân nửa phong , một cuộc sống mà trong đó, con người muốn sống lương thiện cũng không được.

Tổng kết Nghệ thuật:

- Xây dựng và điển hình hoá nhân vật.
- Miêu tả , phân tích tâm lí nhân vật.
- Trần thuật. - Ngôn ngữ sống động, gắn với lời ăn tiếng nói hằng ngày.
- Giọng điệu phong phú, có sự đan xen lẫn nhau.
- Cốt truyện hấp dẫn, kịch tính và đầy bất ngờ.
- Kết cấu truyện độc đáo.


Nguồn: onthidh
 
Last edited by a moderator:
T

tomcangxanh

Tác giả Xuân Diệu

I. Cuộc đời

1. Tiểu sử.

Xuân Diệu (2 tháng 2, 1916 - 18 tháng 12, 1985). Ông tên thật là Ngô Xuân Diệu, còn có bút danh là Trảo Nha, quê quán làng Trảo Nha, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh nhưng sinh tại Gò Bồi, thôn Tùng Giản, xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Cha là ông Ngô Xuân Thọ và mẹ là bà Nguyễn Thị Hiệp.

Nhà thơ đã từng viết về cha mẹ mình:

Cha đằng ngoài, mẹ đằng trong,
Ông đồ nho lấy cô làm nước mắm

Để nói về gốc gác bình dân của mình

Xuân Diệu lớn lên ở Qui Nhơn. Sau khi tốt nghiệp tú tài, ông đi dạy học tư và làm viên chức ở Mĩ Tho (nay là Tiền Giang), sau đó ra Hà Nội sống bằng nghề viết văn, là thành viên của Tự Lực Văn Đoàn (1938–1940). Ông tốt nghiệp cử nhân Luật 1943 và làm tham tá thương chánh ở Mỹ Tho một thời gian trước khi chuyển về ở Hà Nội. Ông bắt đầu có thơ đăng báo từ năm 1935 và nôi tiếng là "nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới"

- Ông tham gia mặt trận Việt Minh, CM tháng Tám, cđ gắn bó vs CM và nền văn học CM. Tuy nhiên đóng góp to lớn nhất của XD vs đất nc là tư cách của nhà thơ, nhà văn. Ông xứng đáng được xem là nghệ sĩ lớn, nhà văn hóa lớn.

- 1983 ông đc bầu làm Viện sĩ thông tấn viện hàn lâm nghệ thuật CHND Đức.

- 1996 ông được tặng giải thưởng HCM về văn học nghệ thuật.

2. Con người.

- Ông học được từ cha, ông đồ xứ nghệ cái đức tính cần cù, kiên nhẫn trong học tập, rèn luyện và LĐ sáng tạo NT, nhưng ở XD, đó vừa là 1 quyết tâm khắc khổi, vừa là lẽ sống, là niềm say mê lớn.

- Sinh ra, lớn lên ở quê mẹ nên ông rất hay viết về biển, những con sóng biển đc ví như sóng tình "Như hôn mãi ngàn năm ko thỏa/ Bởi yo bờ lắm lắm, em ơi!"

Ông là con vợ lẽ và phải xa mẹ từ nhỏ và thưởng bị hắt hủi, nên ông luôn khai khát tình thương và sự cảm thông của người đời.

XD là trí thức Tây học, đc ảnh hưởng, hấp thụ tư tưởng và VH Pháp 1 cách có hệ thống trên ghế nhà trường. và do xuất thân từ 1 gđ nà nho mà cha là ông Tú kép, nên ông đc tiếp thu 1 cách tự nhiên nền văn hóa truyền thống. Vì thế, ở XD có sự kết hợp 2 yếu tố: cố điển và hiện đại, đông và tây trong tư tưởng và tình cảnh thẩm mỹ, tuy nhiên văn hóa phương Tây có ảnh hưởng sâu đậm hơn.

- XD là 1 cây bút đầy tài năng: làm thơ, viết văn, nghiên cứu, dịch thuật...
 
T

tomcangxanh

II. Sự nghiệp văn học

A. Trước Cm tháng 8/1945


1. Thơ: 4 luận điểm.

a. XD là nhà thơ của khát khao, giao cảm với cuộc đời, với con người

- XD ra đời như 1 đỉnh cao của phong trào thơ mới, là tiếng nói của cái tôi cá nhân, cá thể (Individual). Các nhà thơ mới nói chung và XD nói riêng đều có nhu cầu tha thiết khẳng định cái TÔI cá nhân của mình. Cái tôi phải đc tồn tại 1 cách đầy ý nghĩa trong cuộc sống.

- Hoài Thanh nhận xét: “Tôi quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại phong phú như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lúc một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kỳ dị như Chế Lan Viên... và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu" <Một thời đại trong thi ca>

- Nhưng vs XD, ông ko đối lập vs XH, vs cđ, nhà thơ muốn khẳng định nó vs cđ, vì con ng` ấy rất sợ cô độc. Con ng ấy khai khát đến đau đớn đc sống mãi vs đời, đc giao cảm vs mọi người.

*Ông quan niệm cái tôi phải đc khẳng định 1 cách chói lọi theo kiểu

Thà 1 phút huy hoàng rồi chợt tối
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm​

Ông sợ nhất là phải hòa tan cái TÔI của mình vào giữa cái biển người vô danh mà ông gọi là mờ mờ nhân ảnh, no sống huy hoàng ntn thì ông chưa có định hướng rõ rệt.

* Ông muốn mở rộng tâm hồn m, chào mời tất cả, ông muốn mn đến vs m: "Đây là quán tha hồ muôn khách đến"

Ông muốn ôm riết cs trong đôi tay hăm hở của m:

Ta muốn ôm
Cả sự sống đã bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và giớ lượn
Ta muốn say cánh bướm vs ty​

niềm khao khát vs cs ko chỉ ở trong thơ ca mà còn trong sự nghiệp viết văn, nc vs công chúng

"Có thể nói có bao nhiêu cách để giao hòa vs cs, XD đều ko bỏ qua và khai thác 1 cách triệt để, bởi ông có 1 trái tim nóng bỏng sinh ra là để yo thương" <Ng.Đăng Mạnh>

"Làm sao sống đc mà ko yo
Ko nhớ ko thơung 1 kẻ nào"​
<bài thơ tuổi nhỏ>​

"Và hãy yo tôi 1 giờ cũng đủ
Một giây cũng cam, một chút cũng đành"​

<Lời thơ vào tập gửi hương>


b. Thơ XD thoát ra khỏi hệ thống ước lệ tượng trưng có tính phi ngã của thơ cũ

* Thơ cũ: Các nhà thơ cảm thụ và mô tả thế giới ko bằng cặp mắt và ngôn ngữ nghệ thuật của cá nhân mình mà bằng ngôn ngữ chung của cộng đồng "tao nhân mặc khách" ko biết đã đc xây dựng từ bao h trong thơ ca vs công thức ước lệ tượng trưng.

* Thơ XD: Có sự "thoát xác" đến trọng vẹn, ông nhìn cđ bằng cặp mắt "xanh non biếc rờn". Chính vì thế, thế giới thì vẫn cũ nhưng nhà thơ vẫn như nhìn thấy lần đầu, ngơ ngác và mới mẻ, và ong thấy biết bao vẻ đáng yo, đáng say đắm của con người nơi trên thế rất bình dị và gần gũi này.

VD, ông nhìn đóa hồng nhung thành cặp môi hôn, gọi là"đóa hôn", nhìn phấn thông bay vàng trong gió thành "ái tình tản mạn ôm ấp khắp ko gian"

"Xuân, nta vì ấm mà rất cần tình
Thu, nta vì lạnh đến mà rất cần đôi
Nắng hạ đốt cháy ng một cách cực lạc
Và rét đông khía vào da thịt làm dậy cả máu xương"

Vs XD, tất cả đều là "ty duy nhất", là "mùa xuân đầu", trong thơ ông chỉ quan tâm đến xuân và tình, bởi vì trong con mắt của ông, tình ko tuổi và xuân ko ngày tháng

Ông kêu gọi con người phải sống hết m, sống mãnh liệt:

"Sống toàn tin, toàn trí, sống toàn hồn
Sống toàn thân và thức nhọn mọi giác quan"

* Sự khác biệt là, nếu như thơ xưa lấy thiên nhiên làm chuẩn mực, thì XD lấy con người giữa tuổi trẻ, ty và hp làm chuẩn mực. Quan điểm thẩm mỹ học tiến bộ này đã khiến XD tạo ra nhiều h/a mới mẻ, độc đáo, khỏe khoắn và đầy sức sống.

VD, thơ xưa nói "Phù dung như diện, liễu như mi", còn XD thì ngược lại

"Nét liễu dài như 1 nét mi
Tháng giêng con như một cặp môi gần"

c. Xuân Diệu là ông hoàng của thơ tình yêu

Trong XHPK, quan niệm về ty đã sớm có tiếng nói trong thơ của Phạm Thái, Hồ Xuân Hương, Ng. Du, còn XD quan niệm ty vừa trần tục, vừa lý tưởng. Ty vừa nhất mực trần thế, vừa hết sức cao thượng, vì ty luôn đòi hỏi sự vô biến, vĩnh viễn và khát khao sự tuyệt đích.

Nhưng thực tế trong XH thị dân "tiền trao cháo muc", 1 XH đầy lạnh lùng của đồng tiền, thì nhà thơ thấy ty của mình chỉ như "Nước đổ lá khoai":

Lòng ta là một cơn mưa lũ
Đã gặp lòng em là lá khoai.
Mưa biếc tha hồ rơi giọt ngọc,
Lá xanh không ướt đến da ngoài.

Càng yo, ông càng cảm thấy "dại khờ"


Người ta khổ vì thương không phải cách,
Yêu sai duyên và mến chẳng nhằm người.
Có kho vàng nhưng tặng chẳng tuỳ nơi
Người ta khổ vì xin không phải chỗ.

Cho nên con ng khao khát ty ấy luôn cảm thấy cô độc, bởi vì

Yêu là chết ở trong lòng một ít.
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu .
Cho rất nhiều song nhận chẳng bao nhiêu ;
Người ta phụ, hoặc thờ ơ, chẳng biết .

Trong thế giới nghệ thuật của XD, mùa xuân, bình minh đi liền vs chiều thu tàn và đêm trăng lạnh, sự nồng nàng đi liền vs cảm giác bơ vơ. Ông phát hiện ra ty là 1 quá trình phấn đấu, dằn vặt, đau đớn đến khôn cùng

"Ty chót vót chon von,
Anh xấy, xây mãi chưa tròn ty"

d. Ảnh hưởng sâu sắc của trường thơ tượng trưng Pháp

Trường thơ tượng trưng của Pháp cho rằng "bản thể thế giới là vô hình vs con mắt của ng thường, chỉ có những nhà thơ có năng lực trực giác đặc biệt mới cảm nhận và diễn đạt đc." Trường thơ này đã phát huy cao độ các giác quan, đề cao tính nhạc trong thơ. Các nhà thơ theo trường phái này có khả năng diễn tả những biến thái mong manh, tinh vi, huyền diệu của thiên nhiên và loài người.

Về XD, kinh nghiệm giữa truyền thống và hiện đại, Đông và Tây, kết tinh ở 1 tâm hồn nghệ sĩ, giao cảm vs đời và khiến ông viết đc những vần thơ ít lời, nhiều ý, súc tích nhưng đọng lại bao nhiêu tinh hoa.

 
Last edited by a moderator:
T

tomcangxanh

2. Về văn xuôi

- XD ko chỉ làm thơ mà còn viết nhiều thể loại khác vs 2 tập "phấn thông vàng" (1939) và "trường ca" (1945). XD đã để lại nhiều trang viết đáng gọi là kiệt tác. Phấn thông vàng là tập bút kí, truyện ngắn, ông gọi là loại "truyện ý tưởng". Trường ca là 1 tập tùy bút,,

Văn xuôi XD giàu chất trữ tình, cảm hứng lãng mạn là chủ đạo tuy nhiên cũng có trang viết nghiêng về cảm hứng hiện thực.

B. Sau Cách Mạng tháng 8-1945

- Vs niềm khát khao giao cảm vs đời, hồn thơ XD dễ dàng bắt vào phong trào CM để hòa nhập vs cuộc sống rộng lớn, sôi động của Nhân dân.

- Trước biển đời bao la ấy thì những chuyện tâm tình của cái tôi tiểu tư sản trở nên nhỏ bé và nghèo nàn. XD đã muốn mở rộng hồn thơ để ôm lấy tất cả, ông say sưa viết về tổ quốc, ND, Đảng, Bác Hồ, về cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ và cả xd XHCN vs 1 tinh thần lạc quan, sôi nổi. Năm 1960, tập thơ "Riêng Chung" ra đời, đánh dấu 1 sự chuyển biến sâu sắc trong tư tưởng của XD.

- Thơ tình của XD sau CM thì đc gia công hơn, no ko còn cái tôi sục sôi, đắm say của tuổi trẻ. Nếu trc CM, ông hay nói đến cái xa cách và cô đơn thì nay ông nói nhiều về cái ấm áp của sự sum vầy và tình chung thủy. Ông đã đóng góp cho nền văn học VN một khói lượng tp đồ sộ: 13 tập thơ, 5 tập bút kí, 6 tp dịch thơ nước ngoài.

- Sau CM, tài năng của ông đặc biệt pt mạnh về nghiên cứu, phê bìn vs 16 tập phê bình, nghiên cứu về đủ loại đối tượng như là các nhà thơ cổ điển nG.Trãi, Ng Du, HXH, Ng. Đình Chiểu, Ng Khuyến, Tú Xương, ... đến các nhà thơ hiện đại như HCM, Tố Hữ, Huy Cận, Chế Lan Viên, Phạm Tiến Duật, Hoàng Nhuận Cầm....XD muốn phát hiện giá trụ nhân văn, nhân bản của các nhà thơ này, ông muốn các độc giả đời sau vẫn đọc ông và giao cảm vs ông khi tìm hiểu những thiên tài bất tử của dân tộc.

"XD đc mệnh danh và nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới" <Hoài Thanh>, tuy có lúc ông ngạo nghễ coi mình là đỉnh Hy Mã Lạp Sơn:

Ta là một, là riêng, là thứ nhất
Không có chi bè bạn nổi cùng ta​

nhưng thực chất là 1 tâm hồn luôn rộng mở vs cuộc đời bởi ông đã từng tự ví

Ta là một cây kim bé nhỏ
Và vạn vật là muôn đá nam châm​

Trong lòng độc giả đã in đậm hình ảnh XD- nhà thơ của mùa xuân, tuổi trẻ, luôn luôn sôi nổi ty và dào dạt tình đời.
 
Top Bottom