Tổng hợp các bài, đoạn văn hay, tham khảo để thi vào cấp 3 ngon lành

  • Thread starter lililovely
  • Ngày gửi
  • Replies 75
  • Views 18,542

L

lililovely

#1
cùng đề
Phân tích bài Sang thu của Hữu Thỉnh
Mùa thu là một đề tài muôn thuở của các thi nhân Việt Nam. Nếu như Nguyễn Khuyến có chùm thơ thu với ba bài : « Thu vịnh », « Thu điếu », « Thu ẩm » ; Xuân Diệu có « Đây mùa thu tới » ; Lưu Trọng Lư có « Tiếng thu », tất cả đều là những bài thơ rất nổi tiếng, thì Hữu Thỉnh cũng có một chớm « Thu sang » rất nhẹ nhàng êm dịu. Trong đó có hai khổ thơ rất hay ghi lại cảm xúc của nhà thơ trước cảnh sang thu ở một miền quê nhỏ :

« Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.

Sông được nước dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Mùa thu của Hữu Thỉnh được mở ra không phải với sắc vàng tươi của hoa cúc, cũng không phải với vị thơm ngon của cốm làng Vòng, mà là với hương ổi thơm giòn ngọt phả vào trong gió thu. Dường như cái hương thơm dịu ấy chỉ thoang thoảng quanh quất đâu đây. Nó không mang cái mùi thơm hăng hắc như hoa sữa, cũng không quá nhẹ để người ta dễ lãng quên. Hương thơm ấy nhẹ nhàng thoảng qua theo gió, đề người ta chợt xốn xang trong lòng. Làn gió se se lạnh của mùa thu cũng rất khác với cái gió tê tái của mùa đông. Nó chỉ khiến ta hơi co người lại một chút và để rồi thảnh thơi đón nhận cả một lưồng khí thu mát rượt trong lòng. Có lẽ, sẽ chẳng ở đâu có cái gió se lạnh ấy ngoài mùa thu của đất Bắc – cái gió se mà từ lâu vẫn được coi là hồn thu Bắc Bộ. Một hương thơm thu một làn heo may thu đã làm nên cái mở độc đáo cho bài thơ, thậm chí dường như còn độc đáo đến bất ngờ cho cả nhà thơ : “Bỗng nhận ra hương ổi”. Thu đến chẳng hề báo trước! Thu sang từ bao giờ Hữu Thỉnh cũng không biết nữa! Ông chỉ nhận ra một sự bất ngờ mà như đã đợi từ lâu lắm. Thu sang mang theo hơi thửo của mình và mang theo cả cái vẻ thu mơ màng mờ ảo:

“Sương chùng chình qua ngõ”

Sương thu cũng có cái nét đặc biệt riêng của nó. Nó không tan nhanh như sương mùa hạ, cũng chẳng dầy đặc như sương mùa đông. Sương thu là những làn khói mong manh bay vờn nhẹ trên những nãi nhà, ngoài vườn. Sương thu không vô cảm, nó cũng mang hồn người . Sương đang đợi ai, sương đang chờ ai mà sao lưu luyến thế? Từ láy “chùng chình” tạo cho ta cảm giác “dùng dằng nửa ở nửa về”. Đến sương lúc này cũng là sương thu mà Hữu Thỉnh vẫn còn ngẩn ngơ mãi:

“Hình như thu đã về”

Ông thờ ơ quá chăng hay bởi lòng ông đang bối rỗi? Thu về tự bao giờ? Từ hương ổi hay từ làn gió heo may? Thu làm lòng người xao xuyến quá chừng để đến nỗi không biết thu đến thực hay mơ!

Sau một thoáng bỡ ngỡ, nhà thơ như chợt bừng tỉnh- thu đã về thật rồi! Khép lại những hoài nghi, Hữ Thỉnh chẳng còn nghĩ gì ngoài cảm xúc đang dâng trào:

“Sông được nước dềnh dàng,
Chim bắt đầu vội vã”.

Nhịp thơ nhanh và gấp cũng như hơi thở của mùa thu đã bắt đầu đập mạnh. Sông vào mùa này chẳng có mưa to gió lớn nên nước cứ “dềnh dàng”. Con sông tràn trề nước mà hình như cứ không chịu chảy, cứ cố nán lại để đợi chờ ai. Sông chờ nước mùa thu chăng? Một hình ảnh thơ thật thi vị và lãng mạn. Nhưng đàn chim thì không thể dềnh dàng được nữa, chúng phải vội vã bay về phương Nam tránh rét. Tất cả đều đang chuyển mình, đang thay đổi. Thậm chí ngay cả đám mây mùa hạ cũng thấy sốt ruột, phải “Vắt nửa mình sang thu”. Phải chăng đám mây kia có hai nửa thì một nửa nằm bên mùa hạ, nửa kia thuộc về mùa thu. Không biết ở đây là mùa thu lưu luyến mùa thạ hay nhà thơ đang mong chờ mùa hạ mà vẫn lưu luyến mùa thu đây? Điêu này thì Hữu Thỉnh thật khác với các nhà thơ khác. Cũng viết về mùa thu, Nguyễn Khuyến viết: “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” – có nghĩa là thu của Nguyễn Khuyến đã thực là thu, nó không còn vương vấn chút gì của mùa hè rực lửa. Còn Hữu Thỉnh, ông viết mùa thu nhưng lại là vào lúc giao mùa. Chắc hản phải yêu mùa thu lắm Hữu Thỉnh mới vẽ ra được một bức tranh thu nồng đượm hơi ấm đất trời, nồng đượm hơi ấm quê nhà như thế.

Trong làng thơ dân tộc, đã và sẽ có nhiều bài thơ thu hay. Nhưng có lẽ sẽ chẳng ai biết mà lại quên được một chớm “Thu sang” của Hữu Thỉnh - một mùa thu nhẹ nhàng, nữ tính, trông qua như một cô thôn nữ mộc mạc mà sao lại đằm thắm khó quên đến thế!
 
L

lililovely

phần đặc biệt ^^

Sang Thu
Bổng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Tác giả cảm nhận hương thơm của mùa ổi chín, đan lẩn vào cái gió se lạnh đầu thu...
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Giọt sương như chậm lại, nấn ná không muốn bỏ đi, tác giả đưa ra câu hỏi, rồi dùng nó khẳng định làm câu trả lời luôn. thu đã về
Sông có lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Dòng sông như lười trôi hơn, con chim thì tất bật hơn, tác giả cảm nhận tinh tế từng chi tiết nhỏ giao thời lúc sang thu
Có đám mây mùa hạ
Vắt nữa mình sang thu
Trước mắt tác giả như hiện ra làn ranh giới giữa mùa hạ và thu, vô tình đám mây của mùa hạ bay ngang qua nên nữa mình mây là còn của mùa hạ, nữa kia đã sang thu
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Lên hàng cây đứng tuổi
Mùa thu là mùa bầu trời quang đãng rất đẹp, trời trong xanh mây tạnh...cái nắng mùa hạ vẫn còn quanh quẩn đâu đây, mưa rào mùa hạ vừa dứt không lâu, sấm chớp thưa đi, nó cũng không làm giật mình hàng cây già đang đứng.
 
L

lililovely

#2

"Sang Thu" mang cảm xúc bâng khuâng, vấn vương trước đất trời trong trẻo đang biến chuyển nhẹ nhàng. "Sang thu" bắt đầu bằng những cảm nhận của nhà thơ trước tín hiệu giao mùa.

Nếu như thu trong thơ Xuân Diệu bắt đầu với "sắc mơ phai" dệt giữa muôn ngàn cây.
Đây mùa thu tới, mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng
(Đây mùa thu tới)
Thì với Hữu Thỉnh, đó là:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Bất ngờ, ngỡ ngàng biết bao khi nhà thơ phát hiện ra hương vị thơm đượm, nồng nàn giữa cái nhẹ nhàng, se se lạnh của cơn gió heo may đương thưở non tơ. Cái hương vị ấy của vườn mẹ cứ ngào ngạt phả vào không gian, cuốn vào khứu giác thi nhân, thấm đến tâm hồn người đọc mà gieo vào lòng đọc giả và nhà thơ những cảm xúc riêng, mới lạ và độc đáo. Nếu như "Thu điếu" của Nguyễn Khuyến đương thú vị ở các "điệu xanh" thì bỗng buông môt điệu vàng của chiếc lá thu rơi; "Tiếng thu" của Lưu Trọng Lư long lanh với sắc thu vàng trầm buồn trong thơ mới; và cả tác phẩm häi họa "Mùa thu vàng" nôi? tiếng của Lêvitan cũng lấp lánh 1 sắc vàng rực rỡ; thì "Sang thu" mới hơn, lạ hơn. Bởi Hữu Thỉnh ko chấm lên đó 1 mảng màu vàng nhưng trong cái vị nông` nàn thơm đượm của hương ôi?, ta vẫn cảm nhận được cái vàng ươm thi vị ấy. Sương chậm rãi, dềnh dàng, giăng mắc nơi đầu thôn, ngõ xóm như chào đón thu về. Những cảm nhận tinh tế của nhà thơ cứ thế cuồn cuộn chảy trên trang giấy.

Sương chùng chình qua ngõ

Sương "chùng chình" qua ngõ, đủng đỉnh, rề rà như đợi chờ hè qua. Là làn sương mỏng manh như tơ liễu buông mành, mát mẻ và đậm chất thu. Sự vật sang thu đậm tình cảm cảm xúc, để thi nhân bất chợt cất lên tiếng reo khe khẽ:
Hình như thu đã về
Một cảm giác mơ hồ, hoài nghi thấp thoáng trong cảm nhận của nhà thơ nhưng lại gợi được sự mong đợi, chào đón thu; một cảm nhận sâu lắng nhẹ nhàng đọng trong lòng thi nhân. Nhẹ thế mà thu-đang-về.
Trong "Th­ương nhớ 12" Vũ Băng viết: "Đẹp quá đi, mùa xuân ơi-mùa xuân của Hà Nôi thân yêu, của Bắc Việt thương mến..." Phải là một con người yêu cuôc sông', gắn bó tha thiết với quê hương và yêu quê hương nồng nàn thì Vũ Bằng và Hữu Thỉnh mới có những vần thơ rung động lòng người đến vậy!
Khổ thơ thứ hai tiếp tục trong cái mạch cảm xúc mênh mang ấy của nhà thơ
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.
Dòng nước thu êm ả trôi, chầm chậm, nhè nhẹ, dịu dàng như chính chất thu mới đang lan tỏa trong không gian. Không còn là dòng nước xoáy hay dòng sông mùa hạ vùn vụt lao đầu về phía trước, mà đó là dềnh dàng, là từ tôn'. Nhưng khác hẳn với sự từ tốn đáng yêu ấy là những cánh chim thu bắt đầu vôi. vã bay về phương nam tránh rét. Sự đôi' lập giữa hai hình ảnh tạo nên một nét thu chân thực, sinh đông. Những cảm nhận của nhà thơ về thu bắt đầu rõ nét hơn, tinh tế hơn, tràn ra, hòa vào không gian thu.
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

Nhà thơ thấy đám mây ấy, sự vật ấy với những nét cựa quậy chuyển mình sang thu. Tưởng chừng không gian chính là một bức mành mỏng manh, trong suốt, một sự ngăn cách vô hình, chia đám mây làm đôi, một nửa rực nắng mùa hạ, nửa kia dịu mát sắc thu. Những rung cảm tinh tế đến từng chi tiết nhỏ nhất. Cảm nhận sắc nét ấy còn là những hình ảnh thực, những cảm nhận dần đi vào lí trí.
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi?

Vẫn còn mưa đấy, nắng đấy, sấm vẫn còn ầm ì trên các ngọn cây, vẫn còn dấu ấn của hạ nắng. Nhưng tất cả đã giảm về sô' lượng. Nắng ấy, mưa ấy, sấm ấy có lẽ chính là những mưa, những nắng, những sấm, những giông bão, vất vả lo toan của của cuộc đời mà nhà thơ đã cảm nhận được.
Hai dòng kết chính là thể hiện bàn tay tài hoa của tác giả.
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi
Phải chăng với những con người từng trải với mưa nắng cuộc đời thì họ đón nhận những thử thách ấy một cách vững vàng, bình tĩnh. Hai dòng thơ vẫn tả cái bước đi êm nhẹ của thiên nhiên, nhưng lại gợi suy nghĩ về con người.
sang%20thu.jpg

Đó là một khúc sang thu vừa thơ mông, vừa bâng khuâng gợi vẻ triết lí....
 
L

lililovely

#3


Nếu như Xuân Diệu trong bài " Đây mùa thu tới" cố gắng miêu tả một cách sinh động trạng thái chuyển mùa của sự vật thì " Sang Thu"của Hữu Thỉnh bằng những bước chuyển mình đầy tinh tế và nhạy cảm của vạn vật trước thời khắc giao mùa. Mở đầu bài thơ, tác giả đã bất ngờ trước khung cảnh thiên nhiên:

Bổng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió khe

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về


Cụm từ "bỗng nhận ra" là một trạng thái chưa hề chuẩn bị như là một sự bất ngờ nhưng thật sự đó chỉ là cái cớ để nhà thơ có thể quan sát sự xuất hiện của mùa thu trong đất trời bằng tất cả các giác quan của tâm hồn nhạy cảm. Cũng chẳng phải bắt nguồn từ hương cốm mới của mùa thu cũng không phải từ mùi hoa cau rụng mà mùa thu của Hữu Thỉnh chợt hiện diện là mọtt làn gió đặc biệt nó đem mà thơm của hương ổi đến. Cùng với động từ " phả vào" gợi ra sự bất ngờ trong cảm nhận vừa gợi ra cái thực thể của hương ổi vừa gợi ra sự vận động nhẹ nhàng của gió. Bước vào thời khắc giao mùa lại có thêm sương nên mùa thu lại càng dễ nhận ra:" Sương chùng chình qua ngõ". Từ láy "chùng chình" gợi lên nét tư lự của lòng người và có một chút gì man mác trong không giang mùa thu cứ như thế thu đến từ lúc nào. Từ tình thái"hình như" thể hiện một trạng thái chưa chắc chắn có một chút nghi hoặc một chút bâng khuân không rõ ràng.


Tải miễn phí bài phân tích về điện thoại




Đúng vào thời điểm ấy, thời điểm chuyển giao và cảm xúc ấy tiếp tục lan tỏa mở ra trong cái nhìn xa hơn rộng hơn:


Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu


Cái nhìn tinh tế của Hữu Thỉnh đã phát hiện ra bao điều mới lạ của sự vật: sông, chim, đám mây,…Tất cả đều là trong trạng thái ngập ngừng. Đó là vẻ dềnh dàng của dòng sông, đó là cái bắt đầu vội vả của cánh chim và thật đặc biệt khi đám mây mang trên mình cả hai mùa.Tất cả đang hòa cùng trong một liên khúc biến tấu giao mùa. Không có cái gì hiện rõ ràng ra nét cả. Ngay cả đám mây mùa hạ cũng vắt nữa mình sang hạ và thu. Tất cả cùng nói với chúng ta rằng không phải vẻ đẹp của mùa thu nhưng cũng không phải là vẻ đẹp của mùa thu mà đây chính là vẻ đẹp của sự chuyển mùa. Vẻ đẹp của con người cũng đang rộng mở đẻ cùng giao cảm với thiên nhiên. Bức tranh chuyển mùa thật đẹp nhưng cũng có sự nuối tiếc

Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi


Nắng thì vẫn còn , mưa thì vơi dần đó cũng là dấu hiệu của sự chuyển mùa. Từ " vẫn" làm cho ta thấy được sự luyến tiếc khi mùa hạ gần trôi qua. Mới đọc ta tưởng rằng đây là bức tranh tả cảnh nhưng tác giả đã kín đáo bộc lộ cảm xúc giao mùa đó là những rung động ngọt ngào của lòng người trong mối lưu luyến thâm quyện với thiên nhiên. Bài thơ khép lại với hai câu thơ vừa có ý nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa biểu tượng . Sấm cũng bất ngờ trên hàng cây đứng tuổi. Thời tiết giao mùa, những cơn mưa xối xả cũng vơi đi thì sấm cũng bớt bất ngờ và dữ dội với hàng cây. Từ hình ảnh thực đó gợi trong làng ta bao nhiêu liên tưởng: Sấm chính là tác động của thiên nhiên và hàng cây đứng tuổi chính là con người từng trải. Con người từng ném trải bao nhiêu biến động của cuộc đời thì tác động ngoại cảnh không dễ gì làm họ bị bất ngờ . Từ đó ta có thể hiểu rằng sang thu không chỉ là sự chuyển giao của trời đất mà còn là sự chuyẩn giao của cuộc đời mỗi con người.

Sang thu của Hữu Thỉnh là một bài thơ hay, bài thơ giúp ta cảm nhận được những chuyển biến nhẹ nhàng mà rõ rệt của thiên nhiên từ hạ sang đầu thu để rồi gợi trong lòng ta một chút bâng khuân một chút ngỡ ngàng và Sang thu có lẽ đã khơi dậy trong lòng ta bao nhiêu suy nghĩ về cuộc đời con người
 
L

lililovely

#4

Dẫu biết rằng thời gian bốn mùa luôn luân chuyển hết xuân đến hạ, thu sang rồi đông tới, thế nhưng ta vẫn cảm thấy ngỡ ngàng khi quên đi nhịp sống sôi động hàng ngày mà lắng nghe tiếng mùa thu đi để cảm nhận thời khắc đặc biệt bước chuyển mùa của thiên nhiên. Đọc Sang thu của Hữu Thỉnh giúp ta chiêm ngưỡng lại những giây phút giao mùa tinh tế đầy ý vị mà bấy lâu nay ta hững hờ. Đó là lúc hồn ta run lên những cảm nhận dung dị.
Mờ đầu bài thơ, người đọc có thể nhận ra ngay cảm nhận tinh tế của Hữu Thỉnh khi tiết thời sang thu:
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se”
Từ “bỗng” được gieo lên trong niềm ngỡ ngàng, ngạc nhiên. Từ bao giờ nhỉ, thu về? Tất cả đến với tác giả nhẹ nhàng, mà đột ngột quá, thu về với đất trời quê hương, với lòng người mà không hề báo trước. Để rồi trong giây phút ngỡ ngàng ấy, nhà thơ mới chợt nhận ra hương ổi. Vì sao lại là hương ổi mà không phải là các hương vị khác? Người ta có thể đưa vào bài thơ về mùa thu các hương vị ngọt ngào của ngô đồng, cốm xanh, hoa ngâu,… nhưng Hữu Thỉnh thì không. Giữa tiết trời cuối hạ đầu thu, ông nhận ra hương vị chua chua, ngòn ngọt của những quả ổi chín vàng ươm. Hương vị ấy đơn sơ, mộc mạc, đồng nội, rất quen thuộc của quê hương. Thế mà ít ai nhận ra sự hấp dẫn của nó. Bằng cảm nhận tinh tế, bằng khứu giác, thị giác, nhà thơ đã chợt nhận ra dấu hiệu của thiên nhiên khi mùa thu lại về. Chúng ta thật sự rung động trước cái “bỗng nhận ra” ấy của tác giả. Chắc hẳn nhà thơ phải gắn bó với thiên nhiên, với quê hương lắm nên mới có được sự cảm nhận tinh ết và nhạy cảm như thế!
Dấu hiệu của sự chuyển mùa còn được thể hiện qua ngọn gió se mang theo hương ổi chín. Gió se là một làn gió nhẹ, mang chút hơi lạnh, còn được gọi là gió heo mây. Ngọn gió se se lạnh, se se thổi, thổi vào cảnh vật. thổi vào lòng người một cảm giác mơn man, xao xuyến. Từ “phả” được dùng trong câu thơ “Phả vào trong gió se” mới độc đáo làm sao! Nó diễn tả được tốc độ của gió, vừa góp phần thể hiện sự bất chợt trong cảm nhận: hương ổi có sẵn mà chẳng ai nhận ra, thế mà Hữu Thỉnh đã bất chợt nhận ra và xao xuyến trước cái hương đồng gió nội ấy.
Không chỉ có “hương ổi’ trong “gió se” mà tiết trời sang thu còn có hình ảnh:
“Sương chùng chình qua ngõ”
Từ chùng chình gợi lên nhiều liên tưởng. Tác giả nhân hó làn sương nhằm diễn ta sự cố ý đi chậm chạp của nó khi chuyển động. Nó bay qua ngõ, giăng giắc và giậu rào, vào hàng cây khô trước ngõ đầu thôn. Nó có cái vẻ duyên dáng, yểu điệu của một làn sương, một hình bóng của thiếu nữ hay của một người con gái nào đấy. Đâu chỉ có thế, cái hay của từ láy “chùng chình” còn là gợi tâm trạng. Sương dềnh dàng hay lòng người đang tư lự, hay tâm trạng của tác giả cũng “chùng chình”?.
Khổ thơ thứ nhất khép lại bằng câu thơ “Hình như thu đã về”. Từ “hình như” không có nghĩa là không chắc chắn, mà là thể hiện cái ngỡ ngàng, ngạc nhiên và có chút bâng khuâng. Từ ngọn gió se mang theo hương ổi thơm chín, vàng ươm đến cái duyên dáng, yểu điệu của một làn sương cứ chùng chình không vội vàng trước ngõ, tác giả đã nhận dần nhận ra sự chuyển mình nhẹ nhàng nhưng khá rõ rệt của tiết trời và thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa bằng đôi mắt tinh tế và tâm hồn nhạy cảm của một thi sĩ yêu thiên nhiên, gắn bó với cuộc sống nơi làng quê.
Nếu ở khổ thơ đầu trạng thái của tác giả mới chỉ là “bỗng”, “hình như” thì ở khổ thứ hai, sự vận động của mùa thu đã được cụ thể hóa bằng những sắc thái đổi thay của tạo vật:
“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã”
Vì sao sông “dềnh dàng” còn chim lại “vội vã”? Đây là những cảm nhận rất tinh tế và có cơ sở khoa học nhưng vẫn rất giàu sức biểu cảm. Cái “dềnh dàng” của dòng sông là phút hiếm hoi sau lúc gập ghềnh leo thác nhọc nhằn rồi lại ồ ạc xối xả dưới những cơn mưa rào mùa hạ. Từ “được lúc” diễn tả cái hiếm hoi, thưa thớt. Từ láy “dềnh dàng” chỉ sự chuyển động chậm chạp, đã lâu lắm rồi con sông mới có dịp nghỉ ngơi thanh thản như thế. Dòng sông trở nên chậm chạp hơn khi sang thu, không đồng nghĩa với sự vật nào cũng vậy. Trái ngược với cái sự “dềnh dàng” của dòng sông, lúc bấy giờ, đàn chim đã vội vã hơn vì cơn gió heo mây lạnh lẽo đầu mùa tràn về khiến đàn chim phải bắt đầu vội vã bay về phương nam tránh rét. Phép nối và phép tương phản giữ hai câu thơ: dềnh dàng - vội, vã đã được tác giả gửi gắm vào đó một triết lý: cuộc đời không có giây phút nào phẳng lặng, êm đềm, cuộc sống vẫn chuyển động không ngừng, chính vì thế con người phải biết cách chuẩn bị đầy đủ đề ứng phó và theo kịp mạch chảy của cuộc đời
Và hai câu thơ tiếp theo, không gian đất trời lại tiếp tục được mở thêm một tầng mới
“Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”
Đây là sự liên tưởng sáng tạo, thú vị. Mây mùa hạ thường xám xịt, đen kịt, tạo cảm giác nặng nề. Mây mùa thu trong vắt, xanh ngắt. Sự thật, không có đám mây nào như thế. Vì sao có sự phân chia rạch ròi, mắt nhìn thấy được trên bầu trời. Đó là đám mây trong liên tưởng, tưởng tượng của tác giả. Nhưng chính cái hình ảnh mùa hạ nối với mùa thu bởi nửa đám mây lững lờ, cũng dềnh dàng, chùng chình, bảng lãng trên tầng không làm người đọc cảm thấy khong gian và thời gian chuyển mùa mới đẹp làm sao! Có thể nói đây là hai câu thơ đẹp nhất của tiết trời sang thu.
Nhà thơ cảm nhận những biểu hiện nào khác của tiết trời khi chuyển hạ qua thu?
“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”
Nắng – hình ảnh cụ thể của mùa hạ đã trở thành quá khứ. Trạng thái này của thời tiết lại một lần nữa khẳng định sự ngập ngừng đầy chủ động của vạn vật trước thời gian. Song, dẫu có ngập ngừng thì thời gian vẫn bước những bước đi vô tình của nó, và ngay cả hàng cây cũng bớt bất ngờ nên thường ngày nó có mùa xanh thế mà bây giờ trở thành hàng cây đứng tuổi . Hàng cây đứng tuổi – hình ảnh gợi lên cho người đọc nhiều liên tưởng về tuổi tác và tâm trạng của con người. Thời gian trôi nhanh qua cửa cuộc đời mỗi con người là một chứng nhân nhìn mùa thu đi qua nên nuối tiếc là cảm xúc của con người trước thời gian. Hai dòng thơ cuối có thể hiểu theo hai nghĩa: thực và tượng trưng. Lúc sang thu, bớt đi những tiếng sấm, hàng cây không không còn bị giật mình vì những tiếng sấm, hoặc hàng cây đứng tuổi như những con người từng trải không còn thấy bất ngờ trước những vang động bất thường của cuộc sống.
Xưa nay, mùa thu thường gắn liền với hình ảnh lá vàng, lá khô xào xạc và ta cứ ngỡ như chỉ những sự vật ấy mới là đặc điểm của mùa thu. Nhưng đến với Sang thu của Hữu Thỉnh, người đọc mới chợt nhận ra: một làn hương ổi, một màn sương, một dòng sông, một đám mây, một tia nắng,… những sự vật gân gũi thế mà cũng làm nên sức hấp dẫn của Sang thu.
Bài thơ được sáng tác bằng thể thơ năm chữ quen thuộc của thơ ca truyền thống, ngắn gọn, hàm súc. Chất hiện thưc kết hợp với chất trữ tình sâu lắng. Đằng sau những hình ảnh thi vị , mùa thu là nhịp của trái tim nhà thơ lúc trầm tư, lúc rộn rã da diết âm vang. Hình ảnh thơ thân thuộc, gần gũi thể hiện sự cảm nhận vô cùng tinh tế của một ngòi bút tài hoa.
Sang thu của đất trời, sang thu của người viết, sang thu của mỗi đời người gặp nhau ở đây. Bài thơ là sự hòa hợp giữa con người với thiên nhiên, vũ trụ nhỏ của vũ trụ lớn, vấn đề của cá nhân với vấn đề tổng quát của toàn nhân loại. Nó hòa hợp một cách rất tự nhiên trong chính ngòi bút của Hữu Thỉnh “thu đang đẹp độ hết mình.
 
L

lililovely

#5

Chẳng biết tự bao giờ, đất trời có mùa thu và cũng chẳng biết tự bao giờ, hương sắc mùa thu khiến cho các tao nhân mặc khách ngây ngất để phả vào mấy vần thơ. Tâm hồn con người luôn là một cây đàn muôn điệu với các "tiếng tơ, tiếng trúc,
tiếng đồng thướt tha” mà hoá công có thể diện tả được để gửi vào thời tiết. Đông mang đến sự héo hắt, bi luỵ, u sầu; xuân
mang đến mầm sống cùng sự chuyển mình thần kỳ, hạ mang sức trẻ, sự sôi nổi, nhiệt thành; còn thu, thu e ấp gam màu trầm
lặng với sự thơ mộng, lãng mạn. Nhưng cũng có lúc tâm hồn ta buồn vui lẫn lộn như một sự giao mùa, chuyển tiết Hè - Thu. Ít
ai nhận ra cái chuyển tiếp đó. Và Hữu Thỉnh từng thấy được điều ấy một cách tình cờ để phả vào khúc " Sang thu”.

Xinh tươi bao giờ cũng thuộc về những buổi bình minh cây xanh nắng gội còn hoàng hôn mang đến cho ta nét trầm lặng,
lãng mạn của một mùa thu vàng.

Đến rồi lại đi, tự nhiên là thế, mùa hạ đang trôi qua mau chóng nhưng dấu gót của nó vẫn còn phảng phất đâu đây trong
hương sắc trời thu để ta phải lưu luyến bâng khuâng như một hoài niệm.

Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ.
Hình như thu đã về.

Mở ra bài thơ thường bằng một vài lời trần thuật, tự sự để dẫn ta vào mạch cảm xúc. Song ở đây, Hữu Thỉnh đã gợi ra cái
ngỡ ngàng trong tâm trạng mình một cách đột ngột.

Bỗng nhận ra hương ổi.

" Bỗng" là một trợ từ nay lại được dùng làm từ mở ra một bài thơ thật bất thường. Nó gợi ra một sự ngạc nhiên đến tột
độ. Dường như, thu đến với nhà thơ quá đột ngột, tình cờ trong vô thức. Song chính nhờ cái tình cờ của chữ "bỗng" ấy, Hữu
Thỉnh mới nhìn vạn vật mang một vẻ đẹp đầy nên thơ, mơ mộng với những quan sát tinh tế đến từng chi tiết, góc độ.

Trời đã bước sang cuối hạ, hương ổi vẫn còn. Cái hương thơm nồng nàn của loại trái cây đương chín rộ đủ khiến ta ngây
ngất. Chắc hương thơm ấy phải đậm lắm mới khiến cho thi nhân đang triền miên suy nghĩ phải lặng người mà tận hưởng mùi
thơm ngào ngạt ấy. Rồi một làn gió heo may se sắt của mùa thu khe khẽ thoáng qua đời ta. Lả lướt, nhẹ dịu, mơn chớn khắp
da thịt đó là cái sung sướng của những làn thu gửi đến cho ta:

Phả vào trong gió se

Một chữ “phả" kia thôi cũng đủ cho mùi thơm của ổi trở nên sánh lại, đậm sắc hơn. Hương sắc của hoa lá cỏ cây quện vào
với gió rồi lan toả khắp không gian rợn ngợp thì còn gì thơm bằng. Mùi ổi như được gió thu tinh lọc để trở nên thanh khiết, cô
quánh lại. Riêng hai câu thơ mở đầu đã mang lại cho người đọc cảm giác bâng khuâng xao xuyến trước sự giao thoa vô cùng
tự nhiên mà quyến rũ của hè và thu.

Sương chùng chình qua ngõ

Hoà vào âm hưởng của sự chuyển tiết đó là những làn sương thu. Làn sương ấy mỏng tang giăng mắc khắp mọi nơi. Có
lẽ, ta chẳng thể tìm thấy một manh mối nào của mặt đất không được sương bao phủ. Sương giăng trên vạn vật hay chính là
giăng trong lòng người bao mối tơ vò. Một nỗi buồn vu vơ vì hạ đã qua để lại cho con người ta bao nỗi luyến tiếc. Hay đó cũng
là tiếng reo vui chào khí thu đã về. Nhưng dù sao, hình ảnh làn sương được thi nhân miêu tả thật đẹp. Sương khói mùa thu
buồn là vậy: bảng lảng, lờ đờ và nhè nhẹ đi qua tất cả. Với biện pháp nhân hoá, Hữu Thỉnh đã giúp cho sương có đôi chân
cùng những bước đi nhẹ nhàng, chậm rãi khoan thai. Dường như, ngay cả tạo hóa cũng muốn sương đi chậm lại như một sự
níu kéo những bước chân đều đều của khói thu tràn qua cổng ngõ thời tiết. "Chùng chình" một sự nhấn nhá đầy chủ ý, nó gợi
ra thấp thoáng đâu đây bóng dáng một thiếu nữ thư ớt tha, yểu điệu qua biên giới mong manh của thời tiết. Danh từ "sương"
đã được nhắc nhiều trong thơ ca từ trước đến nay và có ở khắp các mùa trong năm. Với "thi tiên " Lý Bạch, sương mang nặng
sự héo hắt giá buốt của mùa đông ẩn vào trong khúc " vọng nguyệt hoài hương":

Nghi thị địa thượng sương
(Tĩnh Dạ Tứ)

Còn với Nguyễn Trãi, sương mờ ảo bất định với vẻ đẹp bí ẩn, " Cỏ xuân như khói”. Nhưng sương thu của Hữu Thỉnh thì
thật giản dị, tiêu sơ nhưng lại gói gọn được cái bao điều thi vị.

Tất cả, tất cả mọi sự vật được gợi ra, bắt thi sĩ phải căng hết các giác quan và linh động tâm hồn nhạy cảm để phả vẻ đẹp
đó vào vần thơ. Để rồi, chúng khiến cho ngay cả chúng ta có cái gì như ngạc nhiên lạ lẫm ngỡ ngàng từa tựa một điều phán
đoán.
 
L

lililovely

#6

“Thu là thơ của đất trời. Thơ là thu của lòng người.”


Đúng vậy, mùa thu – mùa đẹp nhất trong năm – đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận trong thơ ca. Nếu như văn học trung đại có Nguyễn Khuyến với ba bài thơ thu nổi tiếng, văn học cận đại có Xuân Diệu với “Đây mùa thu tới”, Lưu Trọng Lư với “Tiếng thu” thì văn học hiện đại cũng có Hữu Thỉnh với bài “Sang thu”. Bằng cảm nhận tinh tế và những hình ảnh giàu sức biểu cảm, bài thơ đã thể hiện những biến chuyển của đất trời và tâm hồn con người từ cuối hạ sang đầu thu.


Nhà thơ Hữu Thỉnh tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Thỉnh, sinh năm 1942 ở một làng quê tỉnh Vĩnh Phúc. Năm 1963, ông nhập ngũ, vào binh chủng Tăng – Thiết giáp rồi trở thành cán bộ văn hóa, tuyên huấn trong quân đội và bắt đầu sáng tác thơ. Bài thơ “Sang thu” được ông sáng tác năm 1977, sau khi chiến tranh đa kết thúc, thể hiện những cảm nhận tinh tế của tác giả trước mùa thu trong hòa bình. Thể thơ năm chữ đã giúp miêu tả tinh tế và sâu sắc những biến chuyển của đất trời vào buổi giao mùa từ hạ sang thu.

“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se”

Khổ thơ, và cả bài thơ, được mở ra bằng một chữ “bỗng”, gợi nên cảm giác bất ngờ, đột ngột, đầy ngỡ ngàng của tác giả khi nhận thấy những dấu hiệu báo mùa thu tới. Thơ ca tự cổ chí kim đã viết rất nhiều về những dấu hiệu ấy, từ sắc vàng hoa cúc cho tới lá khô rải thảm, ngô đồng nhất diệp lạc… Hữu Thỉnh không đi theo lối mòn ấy, mùa thu trong ông bắt đầu với “hương ổi” – mùi hương vô cùng giản dị và gần gũi của vùng nông thôn miền Bắc quê ông. Nếu như cậu bé Trần Đăng Khoa ngày nào đã nhận ra mùa thu tới chỉ bởi hình ảnh “Sáng ra vại nước rụng đầy hoa cau” thì bây giờ Hữu Thỉnh nhờ đến hương ổi để nhận ra điều đó. Phải là một người yêu quê hương tha thiết mới có thể viết được như thế ! Từ “phả” ở đây được dùng rất chính xác, động từ ấy đã gợi lên hương ổi thơm đậm đà, hòa quyện và sánh lại trong gió. Những cơn gió se hơi khô, hơi lạnh đặc trưng của mùa thu ấy lại càng tinh lọc, cô đặc thêm mùi hương. Chúng đem hương ổi, hương thu tới từng ngõ ngách, đánh thức tâm hồn thi sĩ. Từ “se” là đang tả gió, hay là tả cái co mình hơi run của vạn vật khi gió lướt qua ? Từ gió, tác giả nhận ra sương.

"Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về"

Sương giăng mắc khắp không gian như một tấm màn hơi nước mỏng. Từ láy “chùng chình” như vừa tả sự khoan thai, chậm rãi của màn sương, lại vừa như tả những bước chân nhẹ nhàng của nàng Thu đang rón rén bước vào không gian. Hay sự “chùng chình” ấy cũng chính là cảm giác bâng khuâng, lưu luyến ủa nhà thơ khi thu tới. Ngay cả cái ngõ mà sương đang ngập ngừng đi qua ấy cũng là một ẩn dụ rất thơ, rất tinh tế. Nó vừa là cái ngõ quê trong thực tại, lại vừa là cửa ngõ thời gian thông giữa hai mùa. Ở đó có hương trong gió, có gió trong sương, những dấu hiệu đặc trưng của mùa thu đều hiện diện. Thế nhưng, dù đã cảm nhận được mùa thu qua ba giác quan khứu giác (“hương ổi”), xúc giác (“gió se”), cả thị giác (“sương chùng chình”), tác giả vẫn chưa hết sững sờ, vẫn chưa dám tin là thu đã về nên thầm hỏi lại mình trong câu thơ cuối. Sự bâng khuâng, mơ hồ ấy được lột tả qua hai chữ “hình như”, càng tạo thêm vẻ khói sương lãng đãng lúc thu sang. Bằng những cảm nhận tinh tế và sự điêu luyện trong ngôn từ, Hữu Thỉnh đã gợi lên cảm xúc lưu luyến, bâng khuâng trong lòng người khi nhận ra thu về.
 
L

lililovely

Sau cảm giác ngỡ ngàng ấy, nhà thơ mới bắt đầu xem xem “thu đã về” có là thật hay không.

“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã”
:p:p:p
Không gian của ý thơ được mở rộng. Bức tranh thu không còn chỉ gói gọn trong không gian nhỏ hẹp của “ngõ” với những nét vô hình như “hương”, “gió” mà trở nên rộng hơn, cao hơn với những thứ hữu hình, cụ thể như “sông”, “chim”, “mây”. Vế đối ở hai câu đầu rất chặt chẽ, rất thực nhưng vẫn rất đẹp, rất thơ. Dòng sông không còn chảy cuồn cuộn, dữ dội, gấp gáp như những ngày mưa lũ mùa hạ. Từ láy “dềnh dàng” đã tả được hết êm ả, lững lờ như thể sông đang lắng lại, đang trầm tư, suy ngẫm. Nhịp chảy chậm rãi, thư thả ấy kết hợp với từ “được lúc” đệm vào như gợi lên sự tranh thủ nghỉ ngơi của sông vào mùa thu. Phải chăng dòng sông ấy cũng chính là dòng sông “Dùng dằng hoa quan họ / Nở tím bên sông Thương” trong bài “Chiều sông Thương” cùng tác giả ? Tương phản với sông là sự vội vã của chim. Khi khí trời chuyển lạnh cũng là lúc các loài chim chuẩn bị cho chuyến di cư về phương Nam tránh rét trong mùa đông. Chúng “vội vã” vì mùa thu tới báo hiệu một mùa đông lạnh giá cũng sắp đến gần. Và mới chỉ “bắt đầu vội vã” thôi, chứ chưa phải là đang vội vã, tức là mới chỉ là “sang thu” thôi chưa hẳn là đã thu.

"Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu"

Vì chưa hẳn vào thu nên mới có một “đám mây mùa hạ” duyên dáng “vắt nửa mình sang thu”. Đám mây ấy cũng có nét gì đó giống “Đám mây trên Việt Yên / Rủ bóng về Bố Hạ” trong “Chiều sông Thương” nhưng ở “Sang thu” vẫn đẹp hơn, thơ hơn vì nó là đám mây chuyển mùa. Bầu trời lúc ấy như một bức tranh tuyệt đẹp về màu sắc, trải từ sắc hạ sang sắc thu. Nếu như ở khổ đầu tiên, cần có một cái ngõ thực để gợi lên ngõ thời gian thông giữa hai mùa thì ở khổ thứ hai, chỉ cần một áng mây lơ lửng cũng gợi ra được ranh giới rất nhẹ giữa hai mùa. Có cảm giác như đám mây là chiếc khăn voan đang được mùa hạ trao cho mùa thu, nó vẫn là của mùa hạ đấy, nhưng đã nhuốm sắc thu rồi. Phải rất nhạy cảm và tinh tế mới thấy được, mới sáng tạo được một hình ảnh thơ đẹp như thế ! Hữu Thỉnh đã tạo nên được những hình ảnh rất đẹp và giàu sức gợi cảm bằng cảm nhận tinh tế và sự sáng tạo của mình.


Nếu như cái hay của khổ đầu tiên là ở những từ ngữ gợi nên nhiều ẩn ý, cái đẹp của khổ thứ hai là ở những hình ảnh thơ đẹp và tinh tế thì khổ ba nổi bật lên nhờ ý nghĩa triết lí trong đó. Mùa thu không còn được cảm nhận trực tiếp nữa mà qua kinh nghiệm, bằng sự suy ngẫm của nhà thơ.

“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.”

Vẫn có “nắng”, có “mưa”, có “sấm” như mùa hạ, nhưng tất cả đều đã đi vào chừng mực, ổn định, tạo cảm giác lắng đọng. Nắng tuy “vẫn còn” nhưng không còn gay gắt, oi ả và chói chang nữa mà đã dịu đi. Những cơn mưa rào xối xả cũng vơi đi, nhẹ bớt dần. Dường như khí thu khiến cho vạn vật đều muốn nghỉ ngơi. Ngay cả sấm chớp, bão dông cũng không còn đột ngột, bất chợt nữa. Nhưng Hữu Thỉnh đâu chỉ viết một bài thơ tả cảnh “sang thu” bình thường, trong đó là một điều sâu xa hơn thế. Nghệ thuật ẩn dụ trong hai câu thơ cuối đã gợi ra tính chất triết lí của bài thơ. “Sấm” không chỉ là dông bão, mà còn là những khó khăn, thách thức của cuộc đời. Còn “hàng cây đứng tuổi” kia cũng chính là sự từng trải, chín chắn của con người sau khi trải qua những giao lao ấy. Bão táp, dông tố của cuộc sống sẽ cho ta thêm kinh nghiệm, tôi luyện ý chí, giữ cho ta sự điềm tĩnh để kiên cường đối mặt với những khó khăn sắp tới. Qua đó, con người sẽ trưởng thành hơn, sâu sắc và thâm trầm hơn, vững vàng hơn trước những tác động của ngoại cảnh. Điều đó đã giải thích vì sao khi nhận thấy mùa thu, nhà thơ không reo lên “Thu đã về !” mà chỉ cảm nhận rồi mơ hồ tự hỏi “Hình như thu đã về”. “Đứng tuổi” cũng là lúc đã qua thời thanh niên sôi nổi bồng bột để chợt nhận ra rằng sao thời gian trôi qua thật nhanh, bỗng chốc mà đã nửa đời người, thấy đời mình cũng đã “sang thu”. Đó cũng là tâm trạng của tác giả - một người lính đã trải qua bao đạn bom, khói lửa chiến trường trước khi được cảm nhận mùa thu thanh bình, được chứng kiến hòa bình độc lậphôm nay. Nhìn lại quãng đời đã qua, ta vừa như muốn sống chậm lại để nghỉ ngơi, tận hưởng cuộc sống, vừa cảm thấy mình chưa làm được gì nhiều nên muốn khẩn trương, gấp gáp hơn. Như vậy sự “dềnh dàng” của sông và “vội vã” của chim trong khổ thứ hai cũng là để chỉ sự thay đổi của con người lúc thu sang nữa. Thu không chỉ tới trong thiên nhiên đất trời mà cả trong suy nghĩ, trong tâm tưởng mỗi người. Khổ thơ thứ ba đã hoàn chỉnh ý thơ của cả bài và gợi ra nhiều suy ngẫm về triết lí mà tác giả muốn gửi gắm tới độc giả.


Mác-xen Prút-xơ đã từng nói : “Thế giới được tạo lập không phải một lần, mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập.” Cũng chỉ là mùa thu thôi mà mỗi nhà thơ có một cách thể hiện thật khác biệt. Hữu Thỉnh cũng vậy, ông không chỉ cảm nhận được mùa thu đến trong từng hơi thở của đất trời mà còn truyền tải những cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến khó tả của mình đến với người đọc bằng những hình ảnh rất giàu sức gợi. Để rồi khi đọc xong bài thơ, ta chợt thấy như thu đã về trong tâm hồn mình.


Có ai từng nói : “Thơ là người thư ký chân thành của trái tim”. Quả vậy, bài thơ “Sang thu” đã thể hiện những chuyển biến của thiên nhiên đất trời lẫn trong tâm hồn con người từ cuối hạ sang đầu thu. Hữu Thỉnh không chỉ mang tới những cảm nhận tinh tế, sáng tạo, những hình ảnh đẹp và giàu sức gợi cảm mà còn làm dậy lên trong ta tình yêu đối với thiên nhiên, với làng quê thôn xóm và rộng hơn nữa là cảnh thanh bình trên đất nước. Nhà thơ còn muốn gửi gắm một thông điệp về cuộc sống. Sau những thử thách, gian lao của cuộc đời, con người sẽ trưởng thành hơn, điềm tĩnh hơn trước những tác động của cuộc sống.
 
L

lililovely

#7

Khoảnh khắc giao mùa có lẽ là khoảnh khắc đẹp đẽ nhất của tự nhiên, nó gieo vào lòng người những rung động nhẹ nhàng khiến ta như giao hoà, đồng điệu. Khi chúng ta chưa hết ngỡ ngàng bởi một Xuân Diệu “tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì ” thì đã gặp một Hữu Thỉnh tinh tế ,sâu sắc đến vô cùng qua một thoáng “Sang Thu”.

Bài thơ là những cảm nhận ,những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trước vẻ đẹp và sự biến đổi kỳ diệu của thiên nhiên trong buổi giao mùa .Không phải là sắc “mơ phai” hay hình ảnh “con nai vàng ngơ ngác” mà là hương ổi thân quen nơi vườn mẹ đã đánh thức những giác quan tinh tế nhất của nhà thơ :

Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se,

Câu thơ có hương vị ấm nồng của chớm thu ở một miền quê nhỏ .Tín hiệu đầu tiên để tác giả nhận ra mùa thu là “hương ổi”. Mùi hương quê nhà mộc mạc “phả” trong gió thoảng bay trong không gian .Cảm giác bất chợt đến với nhà thơ : “bỗng nhận ra” -một sự bất ngờ mà như đã chờ đợi sẵn từ lâu lắm .Câu thơ không chỉ tả mà còn gợi liên tưởng đến màu vàng ươm , hương thơm lựng , vị giòn, ngọt, chua chua nơi đầu lưỡi của trái ổi vườn quê .Và không chỉ có thế ,cả sương thu như cũng chứa đầy tâm trạng,thong thả, chùng chình giăng mắc trên khắp nẻo đường thôn :

Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về .

Sương thu đã được nhân hoá ,hai chữ “chùng chình” diễn tả rất thơ bước đi chầm chậm của mùa thu . Nếu ở câu thơ đầu tiên nhà thơ “bỗng nhận ra” thu về khá bất ngờ và đột ngột thì sau khi cảm nhận sương thu ,gió thu, thi sỹ vẫn ngỡ ngàng thốt lên lời thầm thì như tự hỏi: Hình như thu đã về? Tâm hồn thi sỹ nắm bắt những biến chuyển nhẹ nhàng, mong manh của tạo vật trong phút giao mùa cũng êm đềm, bâng khuâng như bước đi nhỏ nhẹ của mùa thu.


Không gian nghệ thuật của bức tranh thu được mở rộng hơn ,cái bỡ ngỡ ban đầu vụt tan biến đi nhường chỗ cho những rung cảm mãnh liệt trước không gian thu vời vợi :

Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã

Sông nước đầy nên mới “dềnh dàng” nhẹ trôi như cố tình chậm lại ,những đàn chim vội vã bay về phương nam …Không gian thu thư thái , hữu tình và chứa chan thi vị, đặc biệt là hình ảnh :

Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

Câu thơ giúp ta hình dung về đám mây mỏng nhẹ ,trắng xốp ,kéo dài như tấm khăn voan duyên dáng của người thiếu nữ thảnh thơi , nhẹ nhàng “ vắt nửa mình sang thu”.Câu thơ có tính tạo hình không gian những lại có ý nghĩa diễn tả sự vận động của thời gian : thu bắt đầu sang, hạ chưa qua hết, mùa thu vừa chớm, rất nhẹ, rất dịu, rất êm , mơ hồ như cả đất trời đang rùng mình thay áo mới …

Khổ thơ thứ ba diễn tả rất rõ sự biến chuyển của không gian và cũng là một thoáng suy tư của nhà thơ trước cảnh vật, đất trời :

Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi

Vẫn là nắng, mưa, sấm, chớp của mùa hạ vương lại đâu đây , song chỉ là “vẫn còn” , “đã vơi dần”, “ cũng bớt bất ngờ” bởi mùa thu đã đến .Ý thơ còn gợi liên tưởng đến con người khi đã lớn tuổi và từng trải thì những giông gió, thăng trầm của cuộc đời ít làm con người ta bất ngờ, bị động .Những suy tư đó của tác giả có lẽ đã góp phần làm cho “Sang thu” trở nên giàu ý nghĩa .

Hình ảnh thơ đẹp , ngôn từ tinh tế , giọng thơ êm đềm và những rung động man mác ,bâng khuâng của tác giả trong buổi giao mùa đã tạo nên một dấu ấn không dễ phai mờ trong lòng bao độc giả . Có lẽ vì vậy mà sau khi đọc “Sang thu” của Hữu Thỉnh ta càng thấy yêu hơn mùa thu thiết tha, nồng hậu của quê nhà .
 
L

lililovely

#1

kho tho dau cua bai tho Sang Thu cua Huu Thinh

Dẫu biết rằng bốn mùa luân chuyển: hết xuân đến hạ, thu sang rồi lại đông tới, ta vẫn thấy ngỡ ngàng khi quên đi nhịp sống sôi động hàng ngày mà lắng nghe tiếng mùa thu đi, cảm nhận những thời khắc đặc biệt. Đọc Sang thu của Hữu Thỉnh, ta được sống lại những giây phút giao mùa tinh tế đầy ý vị mà bấy lâu ta hờ hững. Đó sẽ là lúc hồn ta rung lên những cảm nhận dung dị:

Bỗng nhận ra hương ổi

……….

Hình như thu đã về

Chỉ với bốn câu thơ ngắn, Hữu Thỉnh đã đem đến cho chúng ta những cảm nhận sâu sắc về thiên nhiên. Những tín hiệu của mùa thu với những nét phác họa tài hoa: hương ổi, gió se, sương chùng chình giản dị mà hiện lên đầy gợi cảm.

Tín hiệu đầu tiên của mùa thu là hương ổi, thứ hương thơm quê mùa, dân dã. Hương ổi không nồng nàn. Đó là thứ hương dìu dịu, nhè nhẹ. Cảm nhận được hương thơm đặc trưng của mùa thu ấy, nhà thơ còn thể hiện rất khéo cái khí thu trong lành. Nếu như mùa xuân ẩm ướt, mùa hè nóng nực, mùa đông kho hanh thì mùa thu trong mát. Tuy có chút ẩm của hơi sương nhưng khí thu lại có độ trong khiến người ta có thể cảm nhận hương thơm dịu nhẹ lan tỏa trong không gian.

“Phả” vốn là một động tác mạnh gợi một cái gì đó đột ngột. Thế nhưng câu thơ: “ Bỗng nhận ra hương ổi. Phả vào trong gió se” rất nhẹ bởi động thái phả ấy lại vào không gian trong gió se – vô hình chứ không phải hữu hình. Câu thơ ngắn mà có cả gió cả hương. Hương là hương ổi, gió là gió se. Đây là những nét riêng của mùa thu vùng đồi trung du miền Bắc. Gợi được như vậy hẳn cái tình quê của Hữu Thỉnh phải đậm đà lắm.

Câu thơ: “ Bỗng nhận ra hương ổi. Phả vào trong gió se” còn có cái cảm giác ngỡ ngàng bối rối: bỗng nhận ra. Nhận ra hương ổi giống như một sự phát hiện nhưng ở đây là phát hiện ra mùi hương vẫn vương vấn mà bấy lâu nay con người hờ hững. chính vì sự phát hiệ ra cái gần gũi xung quanh mình cho nên con người mới có cảm giác ngỡ ngàng đôi chút bối rối ấy.

Tiếp nối những tín hiệu mùa thu là hình ảnh: sương chùng chình qua ngõ. Một hình ảnh đầy ấn tượng. Sương được cảm nhận như một thực thể hữu hình có sự vận động – một sự vận động chậm rãi. Từ láy chùng chình làm hiện hình tạo vật, làm ta như thấy một sự dùng dằng, gợi cảnh thu sống động trong tĩnh lặng, thong thả yên bình. Hình ảnh sương chùng chình qua ngõ cùng với hương ổi phả vào trong gió se thực là những hình ảnh mùa thu ở thôn quê êm ả thanh bình.

Như vậy, tín hiệu mùa thu được cảm nhận bằng cả khứu giác (hương ổi), cả thị giác (sương). Những tín hiệu , bởi vậy, tạo nên ấn tượng mới mẻ với những liên tưởng mơ hồ, chập chờn không rõ nét. Phải vậy chăng mà nhà thơ, khi đã đã cảm nhận những nét riêng của mùa thu, vẫn còn dè dặt: Hình như thu đã về.

Giống như một sự hoài nghi: hình như, giống như tự vấn lòng mình. Thế nhưng thực ra là một lời thông báo – một thông báo rất nhẹ nhàng, ý vị. Không phải là một lời khẳng định, một tiếng reo vui. Câu thơ của hữu thỉnh như có chút gì thâm trầm, kín đáo rất hợp với cách nghĩ, cách nói của người dân quê.

Khổ thơ ngắn mà đã để lại cho ta biết bao rung động. Ta như cảm thấy một hồn quê, một tình quê đi về trong câu chữ làm lòng ta ấm áp. Hình ảnh quê hương như càng thêm gần gũi, yêu mến.

Mùa thu lặng lẽ và nhẹ nhàng. Những hình ảnh thơ cứ vương vấn mãi trong hồn. có một cái gì thật êm, dịu dàng toát lên từ đoạn thơ ấy. quả thực ta thấy lòng thanh thản vô cùng mà lại vô cùng nôn nao nhớ đến những miền quê xa vắng trong nắng thu khi đọc mấy câu thơ của Hữu Thỉnh.
 
L

lililovely

#1

Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh để thấy được cảm nhận tinh tế của tác giả trước khoảnh khắc giao mùa

Mùa thu, mùa mang lại cảm hứng thi ca bất tận nhưng ít ai lại có thể có những cảm nhận tinh tế trong thời khắc giao mùa của vạn vật như nhà thơ Hữu Thỉnh. Điều ấy lại bắt nguồn từ tình cảm sâu đậm với quê hương. Và tình yêu làng xóm, yêu miền quê sẽ trở nên tình yêu Tổ quốc. Trong cuộc sống bận rộn hôm nay, dẫu có thế nào đi chăng nữa, chúng ta cũng nên dành những khoảnh khắc để lắng sâu cảm xúc của mình, để cảm nhận vẻ đẹp của quê hương, đất nước như nhà thơ Hữu Thỉnh.
Hạ qua-thu đến, đó là quy luật khách quan không thể nào thay đổi. Trong khoảnh khắc giao mùa tuyệt vời, đất trời có những biến chuyển nhẹ nhàng mà rõ rệt. Sự biến chuyển này đã được Hữu Thỉnh- nhà thơ viết nhiều, viết hay về vẻ đẹp bình dị của cuộc sống, đặc biệt là mùa thu gợi lên bằng những cảm nhận mới mẻ và tinh tế của mình trong tác phẩm đặc sắc của ông, “ Sang thu”.
“Sang thu” là cái nhìn, cái cảm nhận của Hữu Thỉnh về bức tranh mùa thu lúc giao mùa.
Trong biết bao hương vị thân thuộc của làng quê, HT giật mình thảng thốt, nhận ra cái làn hương ngây ngất, ngọt ngào của trái ổi đầu mùa. “hương ổi” thân thương sực thẳng vào miền kí ức, đánh thức hương vị của làng quê bắc bộ yêu thương, đánh thức kỉ niệm của một thời ấu thơ bên cạnh cây ổi vườn nhà. Từ “bỗng” như được gieo lên trong niềm ngỡ ngàng ngạc nhiên. Từ bao giờ nhỉ, thu về? Tất cả đến với tác giả nhẹ nhàng mà cũng đột ngột quá, thu về với đất trời quê hương, với lòng người mà ko hề báo trước. Để rồi trong phút giây ngỡ ngàng, nhà thơ chợt nhận ra hương thơm nồng nàn : “phả” vào trong gió se. Từ “phả” sử dụng trong câu thơ mang đày ý nghĩa. Nhờ nó, hương ổi như có một sức mạnh vô hình nào đó để có thể tràn ngập trong khôg gian, có sức lan tỏa về mặt cảm xúc. Cũng nhờ nó, bức tranh giao mùa có một sức sống mạnh mẽ đến kì lạ, mà cũng bất ngờ cho long người. Hương ổi từ đó mà lan tỏa mãi trong ko gian và rồi vấn vít trong gió se- cơn gió heo may đầu mùa.
Màn Sương qua từ láy gợi hình “chùng chình” được nhân hóa khiến nó mang dáng vẻ thong thả, nhẹ nhàng như thiễu nữ đôi mươi. Và câu thơ “hình như thu đã về” đã kết lại dòng cảm xúc bất ngờ đột ngột của nhà thơ. Tất cả tín hiệu trên rồi cũng đi đến nghi vấn “ Thu đã về?”, ngỡ ngàng và thảng thốt, thu đã đến với đất trời.
Hơi thở của thu đã rõ rệt hơn. Sự hiện diện của thu ko còn mơ hồ mà đã cụ thể, hữu hình trong thiên nhiên và tạo vật, Trong không gian rộng lớn hơn, từ bầu trời tới mặt đất, đâu đâu cũng thấy cảnh sắc nhuốm thu. Dòng sông chảy khoan thai, lững lờ, mà mềm mại và duyên dág chứ ko ào ạt, cuộn dâng như trong hạ. Thế nhưng trái lại với vẻ chậm chạp của dòng sông, đàn chim trời lại đang vội vã, chuẩn bị cho một hành trình mới, khi thu sang, ngày ngắn, đêm dài và gió se đã thổi. Như vậy, mùa thu của HT ko chỉ có bìh yên, thư thả mà còn có cả sự vội vã, gấp gáp.
Đẹp nhất của phút chuyển mùa là hình ảnh đám mây mùa thu còn vương nắng hạ. Bầu trời sang thu có làn mây mỏng, nhẹ, kéo dài và có sợi dây vô hình làm ranh giới cho 2 mùa thiên nhiên, để nàg mây có thể vắt nửa mình qua mà khoe duyên phô sắc. Từ giây phút giao mùa vô hình, HT đã “nhờ mây” cho người đọc cảm nhận rõ hơn về tín hiệu sang thu của đất trời.
Vẫn viết về khoảnh khắc giao mùa nhưng HT còn mang đến suy ngẫm của mình về phút giao mùa ấy.
Thiên nhiên vẫn âm thầm vận động sang thu và hơi hướng mùa hạ vẫn còn vương vấn trong nắg, mưa, sấm, chớp, nhưng cái hồn thu đã rõ rệt hơn nhiều. Các từ “vẫn còn, bao nhiêu, đã, vợi” gợi cảm giác như nhà thơ đang cân, đo, đong, đếm nắng mưa của đất trời. Đất trời sang thu, “nắng, mưa, sấm vẫn còn nhưng không mạnh mẽ, dữ dội như trong hạ. Nắng nhạt dần, mưa vơi bớt, sấm cũng không còn ghê gớm như sấm của giông bão mùa hè, không thể làm rung chuyển hàng cây đã cứng cáp, trưởng thành. Như vậy, Thu đã thực sự đến, đất trời cũng lắng dịu. Mùa hạ sôi nổi, nồng nàn đã nhường chỗ cho mùa thue ấp, dịu dàng, chừng mực.
Thế nhưng, không chỉ là những rung động tinh tế cho riêng thiên nhiên đất trời, HT -người lính vừa đi qua chiến tranh còn cho ta cảm nhận về cuộc sống và con người sau chiến tranh để chuyển sang thời bình. Đời sống cũng vừa “sang thu”, lòng người có nhiều trăn trở, xúc động.
“Sương chùng chình qua ngõ”, “Sông được lúc dềnh dàng”-những câu thơ không chỉ nói về nét riêng của dòng sông sang thu hay thiên nhiên phút giao mùa. “Chùng chình” và “Dềnh dàng” ngầm tỏ thái độ về lối sống của những con người thời kì chiến tranh xông pha là thế, giờ mới hòa bình đã tự cho phép mình sống buông thả, không lo nghĩ, chỉ “dềnh dàng” nghỉ ngơi.
“Chim bắt đầu vội vã” Không chỉ nói về cánh chim trời mà dường như nhà thơ còn muốn ám chỉ những đối tượng sống tuy thời, thức thời, chỉ biết xuôi theo sự thăng trầm của xã hội mà không có ý chí, quết tâm của chính bản thân mình. Bày tỏ thái độ và phê phán những con người từng trải, già dặn.
 
L

lililovely

Trong cả bài thơ, đằng sau những câu thơ tả cảnh thiên nhiên, lắc đầu trước lối sống của một bộ phận con người, còn có lớp người xúc động, luyến tiếc nhận ra tuổi trẻ của mình đã đi qua, để nhìn lại quãng đời đã làm nhiều việc và còn nhiều việc chưa làm, cần phải khẩn trương vì thời gian không đứng đợi.
Nhưng dù thế nào đi nữa, con người ấy vẫn bình thản, tự tin đón nhận tất cả, không run sợ trước biến cố cuộc đời, vững tin vì cuộc đời đã được tôi luyện. Đó cũng chính là tâm sự của HT và của cả lớp người đi trước để lại cho thế hệ sau.
Thu sang với đất trời và thu sang với lòng người. Hữu Thỉnh đã cho ta thấy một tâm hồn vô cùng tinh tế và nhạy cảm khi có thể vận dụng hết mọi giác quan để đón nhận hương vị khoảnh khắc giao mùa.
 
F

flytoyourdream99

bài thơ về tiểu đội xe không kính


Phạm Tiến Duật sinh năm 1941, quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Năm 1964, ông tốt nghiệp khoa Ngữ văn Đại học Sư phạm Hà Nội. Tháng 8-1964, ông vào bộ đội, hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn và trở thành một trong gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ.

Với quan niệm “ chủ yếu tìm cái đẹp từ trong những diễn biến sôi động của cuộc sống” , Phạm Tiến Duật đưa tất cả những chất liệu hiện thực của đời sống chiến trường vào trong thơ. Cách tiếp cận hiện thực ấy đã đem lại cho thơ Phạm Tiến Duật một giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, hóm hỉnh, tinh nghịch mà sâu sắc. Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ qua các hình tượng người lính và cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.

Bài thơ về tiểu đội xe không kính nằm trong chùm thơ của Phạm Tiến Duật được tặng giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969-1970. Chùm thơ đã khẳng định giọng thơ riêng của của ông. Sau này bài thơ được đưa vào tập thơ “ Vầng trăng quầng lửa” ( 1970 ) của tác giả.

Bài thơ đã sáng tạo một hình ảnh độc đáo – những chiếc xe không kính, qua đó làm nổi bật hình ảnh những người lái xe trên tuyến đường Trường Sơn hiên ngang, dũng cảm, trẻ trung, sôi nổi.

Bài thơ có một nhan đề khá dài, tưởng như có chỗ thừa, nhưng chính nhan đề ấy lại thu hút người đọc ở cái vẻ lạ và độc đáo của nó. Nhan đề bài thơ đã làm nổi bật rõ hình ảnh của toàn bài: những chiếc xe không kính. Hình ảnh này là một phát hiện thú vị của tác giả, thể hiện sự gắn bó và am hiểu hiện thực đời sống chiến tranh trên tuyến đường Trường Sơn. Nhưng vì sao tác giả còn thêm vào nhan đề hai chữ “Bài thơ”? Hai chữ đó cho thấy rõ hơn cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả: không phải chỉ viết về những chiếc xe không kính hay là cái khốc liệt của chiến tranh, mà điều chủ yếu là Phạm Tiến Duật muốn nói về chất thơ của hiện thực ấy, chất thơ của tuổi trẻ hiên ngang, dũng cảm, trẻ trung, vượt lên thiếu thốn gian khổ, hiểm nguy của chiến tranh.

Trong bài thơ nổi bật lên một hình ảnh độc đáo: những chiếc xe không kính vấn băng ra chiến trường. Xưa nay, những hình ảnh xe cộ, tàu thuyền nếu đưa được vào thơ thì thường được “mĩ lệ hóa”, “lãng mạn hóa” đi rồi và thường mang ý nghĩa tượng trưng hơn là tả thực ( chiếc xe tam mã trong thơ của Puskin, con tàu trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên, đoàn thuyền đánh cá trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận ). Nay chiếc xe không kính của Phạm Tiến Duật là một hình ảnh thực, thực đến trần trụi. Tác giả giải thích nguyên nhân cũng rất thực:

Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi

Cái hình ảnh thực này được diễn tả bằng hai câu thơ rất gần với văn xuôi, lại có giọng thản nhiên càng gây sự chú ý về vẻ khác lạ của nó. Bom đạn chiến tranh còn làm cho những chiếc xe ấy biến dạng thêm, trần trụi hơn nữa:

Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước

Hình ảnh chiếc xe không kính vốn không hiếm trong chiến tranh, nhưng phải có hồn thơ nhạy cảm với nét ngang tàng và tinh nghịch, thích cái lạ như của Phạm Tiến Duật mới nhận ra được và đưa nó vào thành hình tượng thơ độc đáo của thời chiến tranh chống Mĩ.

Hình ảnh những chiếc xe không kính đã làm nổi rõ hình ảnh những chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn. Thiếu đi những điều kiện, phương tiện vật chất tối thiểu lại là một cơ hội để người lính lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao của họ, đặc biệt là lòng dũng cảm, tinh thần bất chấp gian khổ khó khăn.

Tác giả đã diễn tả một cách cụ thể và gợi cảm những ấn tượng cảm giác của người chiến sĩ lái xe trên chiếc xe không kính. Với tư thế “ nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” qua khung cửa xe không còn kính chắn gió, người lái xe tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên ngoài :

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đườg chạy thẳng vào tim

Câu thơ đã diễn tả được cảm giác về tốc độ của những chiếc xe đang lao nhanh. Qua khung cửa đã không còn kính chắn gió, không chỉ mặt đất mà cả bầu trời với sao trời, cánh chim cũng như ùa vào buồng lái. Nhà thơ đã diễn tả chính xác cái cảm giác mạnh và đột ngột của người ngồi trong buồng lái, khiến người đọc có thể hình dung được rõ ràng những ấn tượng, cảm giác ấy như chính mình đang ở trên chiếc xe không kính.

Người lái xe hiện ra với những nét tính cách thật cao đẹp. Tư thế của họ ung dung, hiên ngang mới đàng hoàng làm sao. Con mắt nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng có một vẻ trang nghiêm, bất khuất như lời thề. Họ không thẹn với đất, với trời. Hay nhất là hai chữ nhìn thẳng – nhìn thẳng vào gian khổ, nhìn thẳng vào hi sinh, không run sợ, không né tránh.

Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng

Thái độ bất chấp khó khăn gian khổ nguy hiểm. Tình cảm của người chiến sĩ lái xe trên những chiếc xe không kính được miêu tả thật chân thực: bụi phun tóc trắng, mặt lấm, mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời. Nhưng người chiến sĩ chấp nhận thử thách như một tất yếu: ừ thì có bụi, ừ thì ướt áo. Với tinh thần chấp nhận thử thách, họ hết sức bình thản: chưa cần rửa, chưa cần thay. Cái cách phì phèo châm điếu thuốc và nhìn nhau mặt lấm cười ha ha thì sự bình thản đã đạt đến mức vô tư lự một cách thật trẻ trung! Cái thái độ phớt tỉnh…lái trăm cây số nữa – Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi cũng rất trẻ trung. Quả là tiếng thơ, lời thơ của một thế hệ trẻ tuổi. Khi viết bài này nhà thơ chưa đến độ tuổi ba mươi ấy đã thực sự khơi một nguồn cảm xúc trẻ trung, tinh nghịch cho thơ cách mạng, kháng chiến

Không có kính ừ thì có bụi
…Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Không có kính ừ thì ướt áo
…Chưa cần thay lái trăm cây số nữa

Những người lính lái xe còn là những chàng trai trẻ sôi nổi, vui nhộn, lạc quan: Hình ảnh những chiếc xe từ trong bom rơi gợi lên cái ý những chiếc xe gan góc, những chiếc xe đã qua thử thách. Những người đã qua thử thách trên con đường đi tới bỗng trở thành bạn bè, và cái bắt tay qua cửa kính vỡ rồi mới thật tự hào, sảng khoái biết bao! Họ có thể chào nhau, bắt tay nhau mà không có gì phải hổ thẹn, ngại ngùng. Câu thơ: Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới cũng đầy ý tứ sâu xa: những người gặp nhau trên đường đi tới giải phóng miền Nam mới thực sự là bạn bè. Và mặt khác, con đường đi tới là đường chính nghĩa, càng đi càng gặp nhiều bè bạn.

“ Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”
“ Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy”

Cái gì đã làm nên sức mạnh ở họ để coi thường gian khổ, bất chấp nguy nan như vậy? Đó chính là ý chí giải phóng miền Nam, là tình yêu nước nồng nhiệt ở tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mĩ ( Chỉ cần trong xe có một trái tim )

Giọng thơ ngang tàng, có cả chất ngịch ngợm, rất phù hợp với những đối tượng miêu tả ( nhữngchàng trai lái xe trên những chiếc xe không kính ). Giọng điệu ấy làm cho lời thơ gần với lời văn xuôi, lời đối thoại, lời nói thường ngày nhưng vẫn thú vị và giàu chất thơ ( Chất thơ ở đây là từ những hình ảnh độc đáo, từ cảm hứng về vẻ hiên ngang, dũng cảm, sự sôi nổi trẻ trung của những người lính lái xe, từ ấn tượng cảm giác được miêu tả cụ thể, sống động và gợi cảm…)

Thể thơ: Kết hợp linh hoạt thể thơ 7 chữ và 8 chữ, tạo cho bài thơ có điệu thơ gần với lời nói tự nhiên, sinh động. Những yếu tố về ngôn ngữ và giọng điẹu bài thơ đã góp phần trong việc khắc họa hình ảnh người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn một cách chân thực và sinh động.

Cả bài thơ là lời nói, cảm xúc của người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Thử thách ngày càng tăng, nhưng mức độ và hướng đi không thay đổi. Vẫn là khẳng định tinh thần bất khuất, quyết thắng của quân đội ta, nhưng Phạm Tiến Duật đã đem lại nhiều hình ảnh mới và giọng điệu mới: trẻ trung, tinh nghịch, ngang tàng mà kiên định. Bài thơ đâu chỉ nói về tiểu đội xe không kính, nó phản ánh cả khí thế quyết tâm giải phóng miền Nam của toàn quân và toàn dân ta, khẳng định rằng ý chí của con người mạnh hơn cả sắt thép.


nguồn: net
 
E

edodeptrai

khá hay và cần thiết, nhưng nên đầu tư thêm nhiều tác phẩm về văn học hiện đại VN hơn
 
L

lililovely

Thật ra thì đề thi cấp 3 chia làm 22 phần (cái này ai cũng biết) nhưng có nhiều cách chia. VD như:
P1: thơ
P2: đoạn văn

hay như

P1: văn học hiện đại
P2: văn học trug đại

(vì thi chủ yếu lơp 8,9 nên theo phân bố 2 khối í)
thế nên m mới post cả 2 :)


p/s: m có thể chủ trọng thêm phần văn học hiện đại VN hơn cũng ok. Post thế này cho mn không phải tìm nhiều nguồn khác nhau mà bài cũng giống nhau
 
Top Bottom