Tổng hợp các bài, đoạn văn hay, tham khảo để thi vào cấp 3 ngon lành

  • Thread starter lililovely
  • Ngày gửi
  • Replies 75
  • Views 18,542

L

lililovely

♥ⓛⓞⓥⓔ♥☜

Vẻ đẹp Thúy Vân – Thúy Kiều

Văn bản “Chị em Thuý Kiều ”trích “Truyện Kiều” của Nguyễn Du là một trong những đoạn thơ tả người hay nhất ,đẹp nhất không chỉ bởi ngôn ngữ thơ trong sáng mà còn bởi ở đó có hai chị em nhà họ Vương nhan sắc, tài năng đều hội tụ đủ đầy .

Đọc truyện Kiều mấy ai không nhớ vẻ đẹp sắc nước hương trời của hai người con gái đầu lòng của ông bà Vương viên ngoại:

Đầu lòng hai ả tố nga

Thuý Kiều là chị em là Thuý Vân.

Mai cốt cách, tuyết tinh thần

Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười

Chỉ bốn câu thơ thôi tác giả đã giới thiệu với chúng ta hình ảnh hai người con gái xinh đẹp, dáng hình mảnh dẻ, thanh tao như mai và tâm hồn trắng trong như tuyết .Vẻ đẹp của cả hai đều đạt đến mức “mười phân vẹn mười ”nhưng nét bút của Nguyễn Du vẫn muốn đậm nhạt “mỗi người một vẻ” . Đến với người đọc trước hết là vẻ yêu kiều của Thuý Vân :

Vân xem trang trọng khác vời

Khuân trăng đầy đặn, nét ngài nở nang

Hoa cười, ngọc thốt đoan trang

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da .

Vân mới đẹp làm sao! Con người nàng toát lên vẻ trang trọng khác vời ,từng đường nét dường như đều là một kỳ công của tạo hoá :gương mặt tròn đầy ,tươi sáng như ánh trăng ,đôi mày dài thanh thoát,miệng cười tươi thắm như hoa ,tiếng nói trong như ngọc ,mái tóc mềm hơn mây ,làn da trắng mịn màng hơn tuyết …Cô gái ấy đã đẹp người lại ý nhị, đoan trang . Mỗi câu thơ thực sự là một nét vẽ tài hoa về bức chân dung giai nhân .Vẻ đẹp của nàng sánh ngang sự sáng trong của trăng,hoa,ngọc, vàng, mây,tuyết -những báu vật tinh khôi trong trẻo của đất trời. Dường như phải tả như thế mới nói hết vẻ yêu kiều của một giai nhân.Vẻ đẹp của Thuý Vân đươc thiên nhiên ưu ái nhường nhịn nên có lẽ cuộc đời sẽ phẳng lặng ấm êm.

Đẹp như Thuý Vân tưởng đã là tuyệt thế ,nhưng không :

Kiều càng sắc sảo mặn mà

So bề tài sắc lại là phần hơn .

Kiều đến với người đọc bằng ấn tượng đầu tiên : “sắc sảo mặn mà” .Các từ mang ý nghĩa so sánh:“càng”, “so bề”,“phần hơn”cho thấy nàng không chỉ có vẻ đẹp như Thuý Vân mà nàng còn đẹp hơn thế nữa.Cái “sắc sảo mặn mà” của người con gái đang độ trăng tròn được Nguyễn Du phác hoạ bằng vài nét chấm phá:

Làn thu thuỷ nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh .

Một hai nghiêng nước nghiêng thành

Sắc đành đòi một ,tài đành hoạ hai .

Không chi tiết như khi tả Thuý Vân ,tả Kiều tác giả chỉ tập trung đặc tả đôi mắt.Đôi mắt đẹp như làn nước mùa thu được điểm tô bằng đôi mày thanh nhẹ ,tươi tắn như dáng núi mùa xuân.Phải chăng khi miêu tả đôi mắt của Thuý Kiều Nguyễn Du muốn người đọc hiểu rằng : đằng sau đôi mắt trong veo ấy là một tâm hồn đa cảm ?Có thể là như thế .Chỉ biết rằng nàng đẹp lắm ,đẹp đến mức hoa phải ghen, liều phải hờn .Phép nhân hoá tài tình khiến người chợt liên tưởng :phải chăng hoa ghen với nàng bởi kém nàng hương sắc ,liễu hờn với nàng bởi kém nàng sự mềm mại thướt tha ?Không bằng những nét vẽ chi tiết ,chỉ vẫn là bút pháp ước lệ tượng trưng nhưng Kiều đã thật sự hiện ra trước mắt người đọc với đầy đủ vẻ đẹp lộng lẫy của một trang quốc sắc thiên hương .Vài cái nhìn của nàng đủ khiến cho thành xiêu nước đổ . Buồn thay, chính vẻ đẹp sắc sảo mặn mà khiến thiên nhiên cũng phải hờn ghen, đố kỵ ấy đã dự báo trước một cuộc đời đầy sóng gió sẽ ập đến với nàng .

Không chỉ có nhan sắc tuyệt đỉnh,Thuý Kiều còn là người con gái thông minh, đa tài :

Thông minh vốn sẵn tính trời

Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.

Ở nàng hội tụ đầy đủ tài thi- ca -nhạc- hoạ.Đỉnh cao của khiếu âm nhạc ở nàng là tài soạn nhạc với cung đàn“bạc mệnh ”mang âm điệu não nùng.Dường như số phận đã nhập vào điệu hồn riêng của nàng để hoá thân thành bản đàn bạc mệnh. Thuyết “tài mệnh tương đố” cũng mách bảo người nghe về một tương lai dâu bể sẽ xô cuốn đời nàng .Tất cả tài năng của Kiều đều ở mức tuyệt đỉnh ,tuyệt đỉnh như chính nhan sắc mà tạo hoá đã kỳ công ban cho nàng, mà“hồng nhan đa truân”,”chữ tài liền với chữ tai một vần ”.Triết lý đó đã được người học trò xuất sắc của đạo Khổng vận dụng để dự đoán trước cuộc đời của người con gái sắc nước hương trời ấy.

Dẫu vẫn sử dụng bút pháp miêu tả ước lệ tương trưng của văn thơ cổ song với tâm hồn mẫn cảm tài hoa,với cách sử dụng ngôn từ chắt lọc,chau chuốt,Nguyễn Du đã khắc hoạ thật sinh động hai bức chân dung Thuý Vân và Thuý Kiều,mỗi người một vẻ đẹp riêng, toát lên từng tính cách số phận riêng,không lẫn vào nhau và càng không dễ phai nhoà trong tâm hồn người đọc .

Với một tấm nhân đạo ,một quan điểm thẩm mỹ và triết lý vì con người ,ở đoạn trích này Nguyễn Du đã thực sự tạo nên một viên ngọc bằng ngôn ngữ đẹp nhất ,lấp lánh nhất và cũng ý nghĩa nhất .Đúng như nhận định :“Với bút pháp tinh diệu, Nguyễn Du không những tạo nên được hai bức chân dung mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười mà dường như còn nói lên được cả tính cách ,thân phận …toát ra từ diện mạo của mỗi vẻ đẹp riêng ”
 
L

lililovely

♥ⓛⓞⓥⓔ♥☜
http://langsao.vn/phan-tich-nhan-vat-thuy-kieu-trong-truyen-kieu-9-708.html
Phân tích nhân vật Thuý Kiều để thấy được quan niệm nghệ thuật mới tiến bộ về con người, cá nhân của Nguyễn Du.

1. MB: Giới thiệu tác giả, tác phẩm. Nd đoạn trích.
Đặc biệt trong đoạn trích, ND đã ưu ái dùng 12 câu thơ để để miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều: trích thơ

2. TB:
* Khía quát về mạch cảm xúc.
* Trong 12 câu thơ miêu tả vẻ đẹp của TK, ND đã chú ý mtả cả nhan sắc, tài năng và tâm hồn của nàng.
- Cũng như lúc tả TV, 2 câu thơ đầu đã khái quát đặc điểm của nhân vật:
“Kiều càng sắc sảo..... hơn”.
Nàng sắc sảo về trí tuệ và mặn mà về tâm hồn nghĩa là một vẻ đẹp nổi bật,có sức mạnh hấp dẫn,cuốn hút người khác. Vẻ đẹp này thể hiện tập trung ở sắc và tài.. ND đã so sánh Kiều với Vân, so với TV nàng hơn hẳn cả về sắc và tài
- Gợi tả vẻ đẹp của Kiều tác giả vẫn dùng những hình tượng ước lệ: thu thuỷ, xuân sơn, hoa, liễu
“ Làn thu thuỷ....... hoạ hai”
Đặc biệt khi hoạ bức chân dung Kiều, tác giả tập trung gợi tả vẻ đẹp đôi mắt. Hình ảnh “Làn thu thuỷ, nét xuân sơn” là hình ảnh mang tính ước lệ, đồng thời cũng là hình ảnh ẩn dụ, gợi lên một đôi mắt đẹp trong sáng, long lanh, linh hoạt như làn nước mùa thu, đôi lông mày thanh tú như nét núi mùa xuân, rất đẹp và quyến rũ. “Nét xuân sơn'' là nét lông mày như của nàng Trác Vân Quân xưa '' Mày như núi xa'', đen nhạt.. Đôi mắt đó là cửa sổ tâm hồn, thể hiện phần tinh anh của tâm hồn, trí tuệ. Tả Kiều, tác giả không cụ thể như khi tả Vân mà chỉ đặc tả đôi mắt theo lối điểm nhãn - vẽ hồn cho nhân vật, gợi lên vẻ đẹp chung của một trang giai nhân tuyệt sắc. ND không chỉ chú ý tới nét đẹp mà còn chú ý tới ảnh hưởng, tác động của vẻ đẹp. Vẻ đẹp ấy của Kiều làm cho hoa ghen, liễu hờn, nước nghiêng thành đổ. Hoa và liễu là tương trưng cho những vẻ đẹp chuẩn mực của TN, tạo hoá thế nhưng vẻ đẹp của nàng Kiềulại vựot lên trên cả vẻ đẹp ấy làm cho '' hoa ghen, liễu hờn'', TN, tạo hoá cũng phải ghen ghét, đố kị trước vẻ đẹp đó. Và đôi mắt nàng, một khi nhìn ai, thì có thể gây nên cảnh tai hoạ'' nghiêng nước, nghiêng thành''. Ta có thể thấy khi tả sắc đẹp nàng Kiều, ND đặc biệt nhấn mạnh tới tác động của đôi mắt, chỉ có đôi mắt là nói lên rõ nhất cái sắc sảo, mặn mà của nàng. Như thế ta thấy Nguyễn Du không miêu tả trực tiếp nhân vật mà miêu tả sự ghen ghét, đố kị hay ngưỡng mộ, say mê trước vẻ đẹp đó, cho thấy đây là vẻ đẹp có chiều sâu, có sức thu phục, cuốn hút lạ lùng. Đó là bút pháp lựa chọn tinh vi, công phu của tác giả.- Không chỉ miêu tả nhan sắc, ND còn miêu tả cái tài, cái tình đặc biệt của Kiều:
“ Thông minh.....não nhân”
Kiều rất mực thông minh và đa tài . Tài của Kiều đạt đến mức lý tưởng theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến, hội đủ cầm, kỳ, thi, hoạ. Đặc biệt tài đàn của nàng đã là năng khiếu (nghề riêng) của nàng. Cực tả cái tài của Kiều cũng là để ngợi ca cái tâm của nàng. Cung đàn Bạc mệnh do nàng sáng tác chính là ghi lại tiếng lòng của một trái tim đa sầu đa cảm.
- Chân dung Thuý Kiều là bức chân dung mang tính cách và số phận. Vẻ đẹp khi cho tạo hoá phải ghen ghét, các vẻ đẹp khác phải đố kị, tài hoa trí tuệ thiên bẩm, cả cái tâm hồn đa sầu đa cảm khiến Kiều không thể tránh khỏi định mệnh nghiệt ngã, số phận éo le, gian khổ bởi "Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau". "Trời xanh quen thói mà hồng đánh ghen". Cuộc đời Kiều hẳn là cuộc đời hồng nhan bạc mệnh.

* Đánh giá:
- Có thể nói tác giả đã rất tinh tế khi miêu tả nhân vật Thuý Kiều: Tác giả miêu tả chân dung Thuý Vân trước để làm nổi bật chân dung Thuý Kiều. Đó chính là thủ pháp đòn bẩy. ND chỉ dành bốn câu thơ để tả Vân, trong đó dành tới 12 câu thơ để cực tả vẻ đẹp của Kiều. Vẻ đẹp của Vân chủ yếu là ngoại hình, còn vẻ đẹp của Kiều là cả nhan sắc, tài năng, tâm hồn.
- Nhưng lời văn của ND đâu có giản đơn là lời giới thiệu nhan sắc, tài năng, tâm hồn của Kiều. Phải nói rằng đó là lời tung hô nhân vật của mình thì đúng hơn.Có thể nói rằng, lần đầu tiên trong lịch sử văn học nước nhà, hình ảnh người phụ nữ hoàn mĩ về hình thức lẫn tâm hồn được thể hiện dưới ngòi bút thiên tài của ND một cách say sưa, nồng nhiệt , tập trung và trân trọng nhất. Đó là cái nhìn của một con người có tấm lòng nhân đạo mênh mông.

3. KB :
=> Tóm lại, đoạn trích đã thể hiện bút pháp miêu tả nhân vật đặc sắc của Nguyễn Du khắc hoạ nét riêng về nhan sắc, tài năng, tính cách, số phận nhân vật bằng bút pháp nghệ thuật ước lệ cổ điển. Qua đoạn trích, ta thấy được cảm hứng nhân đạo sâu sắc của ND, đó là sự trân trong, ngợi ca vẻ đẹp của con
 
L

lililovely

lưu ý cái này mình cố ý sắp xeesp lộn xộn để các bạn kiểm tra và sắp xếp lại giúp nhớ kiến thức rất tốt đấy, nhớ là sắp xếp theo trục lịch sử diễn ra theo tue=wfng năm sáng tác bài nhá
 
L

lililovely

CHỦ ĐỀ 4:
VIẾNG LĂNG BÁC (Viễn Phương)



vieng%20lang%20bac.jpg


Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng.

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.

Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này...

1976
 
Last edited by a moderator:
L

lililovely

+cùg đề
cảm nhận về bài thơ''Viếng lăng bác''
+1
Sinh thời, Bác Hồ luôn luôn nghĩ đến miền Nam, ngày đêm thương nhớ miền Nam. Với Bác, miền Nam là niềm vui, là hạnh phúc, là nỗi đau không lúc nào nguôi: “Miền Nam trong trái tim tôi”. Niềm mong mỏi thiết tha của Bác là miền Nam mau được giải phóng. Miền Nam cũng ngày đêm thương nhớ Bác, mong ngày giải phóng để được gặp Bác kính yêu. Nhưng tiếc thay, khi Bắc Nam sum họp một nhà thì Bác không còn nữa.Lòng thương nhớ, nỗi niềm đau đớn của đồng bào và chiến sĩ miền Nam dồn nén bao nhiêu năm đã được nhà thơ Viễn Phương thể hiện trong bài Viếng lăng Bác. Bài thơ không những chỉ thể hiện dòng cảm xúc trào dâng của nhà thơ mà còn thể hiện hình tượng lãnh tụ Hồ Chí Minh bằng những hình ảnh vừa quen thuộc, vừa giàu sức khái quát, vừa lung linh gợi cảm. Bằng cảm xúc chân thực và ngôn ngữ thơ gợi cảm,Viễn Phương đã nói hộ chúng ta một chân lý: Bác Hồ vĩ đại sống mãi trong lòng nhân dân ta.Bài thơ ra đời năm1976, khi lần đầu tiên sau giải phóng miền Nam, Viễn phương ra thăm Lăng Bác. Bài thơ rất ngắn gọn, súc tích nhưng có sức gợi tạo nên sự xúc động cho người đọc. Ngôn ngữ thơ tuôn trào theo theo dòng cảm xúc chân thành, tha thiết. Mở đầu bài thơ,Viễn Phương đã bày tỏ ngay tình cảm sâu nặng, ruột thịt của mình bằng câu thơ giản dị
Tình cảm giữa miền Nam và Bác Hồ luôn luôn là tình cảm ruột thịt “Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà” (Tố Hữu) và tình cảm của miền Nam đối với Bác cũng là tình cảm nhớ mong da diết “Miền Nam mong Bác nỗi mong cha” (Tố Hữu). Tự đáy lòng của người con đến thăm cha, Viễn Phương nói với Bác: Con ở miền Nam…. Câu thơ giản dị nhưng bao hàm một ý nghĩa lớn. Trong tim Bác và trong tim miền Bắc, Miền Nam luôn luôn là nỗi đau chia cắt, nỗi nhớ thương, là niềm tự hào, là biểu tượng anh hùng, bất khuất, dũng cảm, kiên cường, là thành đồng Tổ Quốc… Giờ đây, nhà thơ mang theo cả niềm tự hào đó của đồng bào miền Nam để đến với Bác.Hình ảnh đầu tiên trong lăng làm nhà thơ xúc động là hình ảnh hàng tre
Hàng tre bát ngát cuốn hút cảm xúc của nhà thơ. Qua hình ảnh hàng tre quen thuộc tác giả gửi gắm một ý nghĩa tượng trưng nhằm ca ngợi Bác, ca ngợi dân tộc. Chắc rằng, cũng như mọi người Việt Nam, trong tâm khảm nhà thơ, cây tre là hình ảnh giản dị, thân thuộc, đời đời gắn bó với quê hương làng xóm.Hàng tre xanh xanh trong vườn Bác gợi cho người đọc nhiều liên tưởng.Hàng tre gợi hình ảnh mọi miền quê hương đất nước, nhất là hình ảnh miền Nam yêu thương. Tre kiên cường trong bão táp mưa sa như dân tộc ta vững vàng qua phong ba bão tố, như Bác Hồ suốt đời sống giản dị nhưng kiên cường tranh đấu vì độc lập tự do của dân tộc.Hoà vào dòng người thăm lăng, nhà thơ tiếp tục dòng suy tưởng. Lời thơ bỗng dạt dào một cảm xúc tự hào, thành kính,thương nhớ Bác
Ai đã từng một lần đi viếng lăng Bác mới hiểu hết hàm ý trong câu thơ của Viễn Phương. Ngày ngày, mặt trời - chúa tể của thiên nhiên - thán phục một mặt trời trong lăng rất đỏ. Mặt trời rất đỏ, hình ảnh tượng trưng cho Bác Hồ - là mặt trời cách mạng, là nguồn ánh sáng rực rỡ không bao giờ tắt, mãi mãi chiếu rọi con đường đi tới của dân tộc Việt Nam. Nhiều nhà thơ đã sử dụng hình ảnh mặt trời để thể hiện ánh sáng của lý tưởng cách mạng, nhưng đối sánh hai hình ảnh mặt trời của Viễn Phương quả là rất độc đáo. Đây là một sáng tạo nghệ thuật có tác dụng bộc lộ nội dung rất hiệu quả. Không nhiều lời, chỉ một hình ảnh mặt trời rất đỏ, nhà thơ đã khái quát được hình ảnh Bác Hồ vĩ đại. Nhà thơ đã nói hộ chúng rằng:Bác Hồ là mặt trời cách mạng đẹp nhất, rực rỡ nhất, chói lọi nhất luôn luôn toả sáng trong tâm hồn người Việt Nam.Cùng với mặt trời ngày ngày đi qua trên lăng là dòng người đi trong thương nhớ. Nhịp thơ chầm chậm như bước chân của dòng người lặng lẽ đi trong suy tưởng, bao trùm một một không khí thương nhớ Bác không nguôi, thành kính kết tràng hoa tình yêu dâng bảy mươi chín mùa xuân của Người. “Người ta là hoa của đất”, nhà thơ thật sâu sắc và tinh tế khi tôn quí nhân dân. Mỗi người dân là một bông hoa và dòng người đi trong thương nhớ chính là tràng hoa dâng lên Bác. Ngày ngày… ngày ngày …, thời gian không ngừng trôi và lòng người Việt Nam không bao giờ nguôi tình cảm nhớ thương, yêu quí, kính trọng đối với Bác. Đặc biệt xúc động là khi vào trong lăng, thấy Bác nằm nghỉ, nhà thơ sững sờ, nghẹn ngào, đau đớn
Bác nằm đó như đang trong giấc ngủ bình yên sau bảy mươi chín mùa xuân không hề nghỉ.Từ ánh điện mờ ở trong lăng, nhà thơ liên tưởng đến một hình ảnh rất đẹp: vầng trăng sáng dịu hiền. Hình ảnh đó đã đưa người đọc vào một thế giới huyền diệu, trong sáng và thanh khiết; càng gợi ta nghĩ đến tình yêu thiên nhiên, yêu trăng nồng nàn của Bác. Vầng trăng kia đã bao lần sáng lên trong thơ Người. Cả khi trong ngục: “Người ngắm trăng soi qua cửa sổ, trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”. Cả những khi bận rộn việc nước việc quân, Bác vẫn thấy “trung thu trăng sáng như gương”, “rằm xuân lồng lộng trăng soi”, “trăng ngân đầy thuyền”, “trăng vào cửa sổ đòi thơ”, “trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa…”


Giờ đây, Bác nằm đó, trong giấc ngủ bình yên, giữa vầng trăng sáng dịu hiền. Vẫn biết rằng Bác như trời xanh, mãi mãi sống trong sự nghiệp của chúng ta. Nhưng con tim nhà thơ đau đớn vô cùng khi đứng trước Người. Mà sao nghe nhói ở trong tim, chỉ một chữ nhói cũng đủ nói lên nỗi quặn đau, thương nhớ không gì bù đắp được vì mất Bác, vì nỗi thiếu vắng Bác. Và nỗi đau không còn kìm ném được nữa, nó trào lên dữ dội khi nhà thơ chia tay với Bác
 
L

lililovely

+2

1. Hoàn cảnh sáng tác
Tháng 4 năm 1976. Tác giả là người miền Nam. Thơ của Viễn Phương là tiếng nói của đồng bào miền Nam hướng về vị Cha già kính yêu của dân tộc.
Sáng tác sau khi đất nước thống nhất, thể hiện cảm xúc chân thành và suy ngẫm sâu sắc về hình tượng Bác Hồ trong lòng dân tộc.
2. Kết cấu
Gồm 4 khổ thơ, thể hiện tình cảm với lãnh tụ qua tình cảm riêng tư. Bố cục nghệ thuật từ xa tới gần, từ ngoài vào trong, kết nối suy tưởng - cảm xúc. Thể thơ tự do, riêng khổ 3 kết cấu theo thể thất ngôn, cô đọng vẻ đẹp hình tượng Bác Hồ.
3. Phân tích :
+ Khổ đầu :
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Tình cảm bộc lộ trực tiếp qua cách xưng hô : Con - Bác, từ đó tạo thành mối liên hệ đồng cảm, gần gũi, vừa yêu thương vừa kính trọng với lãnh tụ. Tác giả không dùng từ « viếng » trong câu thơ mà dùng từ « thăm » để tạo cảm giác như được tiếp xúc với Bác. Tính chất gặp gỡ thân tình mà cảm động, nên từ xa nhìn thấy đã ngập tràn xúc cảm : « sương » vừa là báo hiệu thời gian ra thăm từ rất sớm, tạo nên không khí se chùng niềm thương nỗi nhớ. Nhưng cũng cho phép liên tưởng hình ảnh tác giả nhìn cảnh vật như mờ ảo sau màn sương - nhoà lệ nhớ thương ! Hình ảnh lăng Bác tạo cảm giác thân thuộc gần gũi, vì có sự xuất hiện của « hàng tre ». Hai sắc thái được diễn tả là « bát ngát » và « xanh xanh » để bao quát không gian rộng, thoáng và yên bình, không gian mở ra ngút ngát. Thăm Bác, nhìn thấy hàng tre cũng là lúc tác giả nói lên cảm giác xúc động mãnh liệt về hình ảnh biểu tượng của dân tộc. Thán từ « Ôi ! » cùng với cảm nhận dáng tre « đứng thẳng hàng » nghiêm trang cũng tạo nên cảm giác thành kính thiêng liêng trước lăng Bác. Không những thế, tư thế « đứng thẳng hàng » còn đặt trong thế đối lập với « bão táp mưa sa » gợi lên phẩm chất của tre dẻo dai, cứng cáp bền bỉ, cũng là tư thế hiên ngang của dân tộc vượt qua bao thử thách gian lao để đi đến thắng lợi vinh quang. Để từ đó, tác giả như cảm nhận giây phút về bên Bác, có toàn thể dân tộc cùng canh giấc ngủ cho Người.
+ Khổ 2 :
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Nếu như khổ thứ nhất là cảm nhận không gian trong cảm giác thanh tĩnh tuyệt đối thì khổ thứ hai là cảm nhận từ góc độ thời gian nghệ thuật. Thời gian được nói đến là « ngày ngày » cùng với hình ảnh so sánh « mặt trời » thực và « mặt trời trong lăng » tạo nên vẻ đẹp của suy tưởng biết ơn thành kính. Hình ảnh Bác được nâng tầm ngang với hình ảnh bất tử - mặt trời - mang tầm vóc vũ trụ. Mặt trời trong lăng là cách hình dung về Bác, theo thủ pháp hoán dụ. Mặt trời đem cho thế gian ánh sáng, sự sống, cũng như Bác đem ánh sáng lý tưởng cộng sản, sắc đỏ tương lai cho toàn dân tộc. Sự nghiệp của Bác tạo dựng nên cũng bất tử trường tồn như ánh thái dương. Suy ngẫm ấy không làm cho hình ảnh của vĩ nhân quá xa vời mà lại khiến Bác càng sống trong niềm thương nỗi nhớ của mọi người. Tình cảm thành kính biết ơn đã được tác giả đặt trong liên tưởng « dòng người » - « tràng hoa » và từ « dâng ». Cuộc đời Bác là « bảy mươi chín mùa xuân », mang ý nghĩa biểu tượng của một sức sống vĩnh cửu, một vẻ đẹp hoà vào thiên nhiên đầy sức sống như mùa xuân. Thủ pháp điệp kết cấu « ngày ngày...đi qua trên lăng » và « ngày ngày....đi trong thương nhớ » tạo hiệu quả thẩm mỹ đặc biệt : vừa chiêm ngưỡng cảm phục, vừa trân trọng yêu thương. Vẻ đẹp của Bác luôn sáng mãi trong lòng dân tộc, luôn gần gũi thân thương trong trái tim mọi người.
+ Khổ 3 :
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Khổ thơ diễn tả khoảnh khắc tác giả được đứng chiêm ngưỡng Bác trong lăng. Cảm xúc dồn nén, chất chứa thương yêu đem lại sự lắng sâu về vẻ đẹp tâm hồn Bác. Ở trên, Bác được so sánh với "mặt trời" thì ở khổ này Bác lại được đặt vào ánh sáng "vầng trăng" . Thực ra, vầng trăng này là một liên tưởng sáng tạo của Viễn Phương, bởi lẽ trong lăng nhưng tâm hồn Bác luôn có vầng trăng tri kỷ. Tâm hồn Bác là tâm hồn thi nhân, trăng từng làm bạn với Người trong bao bài thơ khi bị giam cầm, lúc đi kháng chiến... nên giờ đây khi Người vào "giấc ngủ bình yên" thì dường như trăng lại toả sáng cốt cách thi nhân của Bác. Toát lên từ khuôn mặt Bác là vẻ đẹp mà tác giả cảm nhận như giấc ngủ bình yên, giấc ngủ của con người thanh thản vì đã làm tròn sứ mệnh với dân tộc, hoàn thành sự nghiệp cách mạng của mình. Câu thơ gợi cảm giác nghiêm trang, đến lúc đó mới cảm thấy nỗi đau mất mát. Tác giả nghĩ về "trời xanh" cũng có nghĩa là nghĩ đến thời điểm đất nước thanh bình, nhưng cũng là cách ẩn dụ nói về con người Bác đã hoà nhập vào vũ trụ vĩnh hằng. Ý thơ này giống như câu thơ của một cao tăng Nhật Bản là thiền sư Ryokê Osini từng viết: Trời xanh đón ngừơi cứu nước về/Đau lòng chúng sinh trên đường mê/ Xưa nay hiếm bậc lão anh kiệt/ Chiếc lá thu bay trời ủ ê. Nỗi đau là có thật, xuất phát từ sâu thẳm trái tim của đứa con miền Nam ra thăm Bác ngày đất nước đã hoàn toàn thống nhất.(Chúng ta biết Bác luôn dành tình cảm sâu đậm cho đồng bào miền Nam khi sinh thời Người nói "Miền Nam trong trái tim tôi" và Tố Hữu trong bài tơ "Bác ơi" cũng từng viết: Miền Nam đang thắng mơ ngày hội/ Rước Bác vào thăm thấy Bác cười!). Ngày hội non sông không chứng kiến nụ cười của Bác rạng rỡ, nên nỗi đau như "nhói ở trong tim" là nỗi đau không gì bù đắp.
+ Khổ kết:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
Tình cảm của nhà thơ đến khổ thơ này tự nhiên không hề kìm giữ, làm nên phút giây "trào nước mắt" của nỗi xúc động bồi hồi. Tình cảm ấy không hề bi lụy mà thăng hoa thành khát vọng, thành lời tâm nguyện trước anh linh của Bác. Nỗi nhớ nhung biến thành ước muốn thật đẹp đẽ của đứa con miền Nam: muốn làm con chim hót, đoá hoa toả hương, muốn giữ lại những thời khắc lắng đọng và đẹp đẽ nhất của tâm hồn khi được gần bên Bác. Nói như một ý thơ Tố Hữu: "Yêu Bác lòng ta trong sáng hơn" hay như câu thơ: "Ta bên Người, Người toả sáng trong ta/ Ta bỗng lớn ở bên Người một chút". Mượn những hình tượng tự nhiên để diễn tả lòng mình, Viễn Phương cũng nói hộ tấm lòng những đứa con của Bác: muốn lòng mình trong sáng hơn, đẹp đẽ hơn. Hơn thế, tác giả còn muốn hoá thân "làm cây tre trung hiếu chốn này" - bồi đắp tâm hồn và phẩm chất để sống xứng đáng với tình thương của Bác. Đó cũng là lời hứa tiếp tục thực hiện ước vọng của Người.

Sau này bài thơ đã thành giai điệu trong bài hát nổi tiếng cùng tên, lời thơ được chắp cánh, thăng hoa thành bài hát xúc động bao thế hệ. Bởi những gì mà tác giả gửi gắm đã nói lên tình cảm đồng điệu của bao thế hệ người Việt Nam yêu nước.
 
L

lililovely

+3

Bài Làm
Nhà thơ Viễn Phương (1928-2005).Quê ở tỉnh An Giang là một trong những cây bút của lực lượng văn nghệ giải phóng có mặt sớm nhất ở miền nam thời chống Mĩ. Bài thơ Viếng Lăng Bác được viết khi lăng chủ tịch HCM được xây dựng xong, và đất nước cũng đã thống nhất vào tháng 4/1976, nhà thơ cùng đoàn đồng bào miền nam vào lăng viếng Bác. Bà thơ thể hiện tâm trạng xúc động, tấm lòng thành kính, biết ơn sâu sắc của tác giả cũng như nhân dân cả nước vào lăng viếng Bác
Bài thơ Viếng Lăng Bác được viết theo thể thơ tự do, chủ yêu là 8 chữ gồm 4 khổ, mạch cảm xúc của nhà thơ được triển khai theo trình tự từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, từ trước đến sau. Lời thơ xúc động, thành kính, xây dựng được nhiều hình ảnh đẹp vừa tả thực, nửa mang ý nghĩa biểu tượng và giá trị biểu cảm cao. Bài thơ để laik những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Mở đầu bài thơ vừa là giới thiệu, vừa là những cảm xúc rất chân thành, đầy ngỡ ngàng của nhà thơ từ ngoài xa nhìn vào lăng bác.
"Con ở miền nam ra thăm lăng bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh việt nam
Bão táp mưa xa vẫn đứng thẳng hàng"
Nhà thơ xưng "con" - một lời xưng hô thân mật, tự coi mình là con của bác, bác chính là người cha kính yêu.Đây cũng chính là cách gọi chung của người dân VN mà nhà thơ Tố Hữu đã nói :"Người là cha là bac là anh, nhân dân ta gọi người là bác". Hai từ "miền nam" được cất lên trong lời giới thiệu của nhà thơ cũng gợi ra biết bao điều sâu xa. trong khabgs chiến chống Mĩ, nước ta được chia cắt thành hai miền bắc nam. Đồng bào niềm nam ở nơi tuyến đầu của tổ quốc, gian khổ hi sinh xuốt gần 20 năm trời, nhưng tấm lòng của người miền nam vẫn hướng về bác kính yêu với tất cả nỗi nhớ thương da diết.Khi ước nguyện được gặp bá chưa thành, bác Hồ đã đi xa, đồng bào miền nam mãi đến ngày thống nhất mới có dịp ra thăm bác. Lời giới thiệu của nhà thơ tuy bình dị nhưng gửi gắn bao niềm xúc động. Từ xa nhìn vào, Viễn Phương thật không ngờ bên lăng Bác ẩn hiện trong làn sương mờ lại có một hình anh: " hàng tre bát ngát", xúc động qua nhà thơ thốt lên: " Ôi. hàng tre xanh xanh Việt Nam- Bão táp mưa xa vẫn đứng thẳng hàng". Nhà thơ liên tưởng ngay đến hình tượng hàng tre là biểu tượng cho dân tộc VN, đất nước VN kiên chung bât khuất trước mọi sóng gió của cuộc đời. Như vậy ở khổ thơ một, ngoài lời giới thiệu Viễn Phương còn bộc lộ cảm xúc ngỡ ngàng khi ông nhìn thấy hình ảnh gần gũi thân thương, biểu tượng cho dân tộc VN đứng bên lăng bác.
Càng đến gần lăng bác, cảm xúc của nhà thơ lại dâng lên khi nhìn thấy hình ảnh dòng người vào lăng viếng bác:
"Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bẩy mươi chín mùa xuân"
Nhà thơ rất tài tình khi xây dựng 4 câu thơ thành 2 cặp câu có cấu trúc tương ứng. Câu trên tả thực, câu dưới ẩn dụ. Ở cặp câu trên, tác giả đã sử dụng hình ảnh ẩn dụ.Ở cặp câu trên, tác giả sử dụng một hình ảnh ẩn dụ rất đẹp là mặt trời trong lăng rất đỏ để ca ngợi tôn vinh công lao vị lãnh tụ HCM. Nếu mặt trời của thiên nhiên mạng đến sự sống cho muôn loài thì bác là vị cứu tinh của nhân dân VN, đưa nhân dân thoát khỏi nô nệ, để được đọc lập tự do, hạnh phúc, cặp câu dưới ông lặp lại từngày ngày theo phépđiệp ngữ để nhấn mạnh dòng người vào lăng viếng bác cứ lặp đi lặp lại hết ngày này đến ngày khác. Dòng người nối nhau dài tưởng như không bao giờ dất. Cùng với đó tác giả tạo nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp " kết trang hoa", "bảy mươi chín mùa xuân". Dòng người vào lăng viếng bác và ra liên tục kiến cho nhà thơ liên tưởng đến tràng hoa mà cả dân ttoocj đang kính dâng lên bác.Cuộc đời của bác đã dành trọn vẹn 79 tuổi đời cho dân cho nước nên cuộc đời ấy, 79 tuổi đời ấy đẹp như mùa xuân. Khổ thơ này Viễn Phương đã thể hiện sâu sắc tấm lòng thành kính của dân tộc ta đối với công lao của bác.
Cảm xúc của nhà thơ khi bước vào trong lăng bác là một cảm xúc thật đặc biệt, vừa lắng sâu, vừa tiếc thương vô hạn.
" Bác lằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim"
Cảm giác đầu tiên của nhà thơ thấy bác như đang ngủ, một giấc ngủ thiên thai. Cách nói giảm,nói tránh như để đè nén nỗi đau trong lòng, hình ảnh" vầng trăng sáng dịu hiền" là một hình ảnh đẹp được gợi ra từ ánh sáng dụi nhẹ của ngọn đèn trong lăng.Khi sáng tạo hình ảnh này, nhà thơ phải gợi nhớ đến mối tình gắn bó đẹp đẽ giữa bác và trăng lúc sinh thời.Vầng trăng đã đi vào thơ bác qua các bài Cảnh Khuya,Ngắm Trăng...Qua đó, nhà thơ cũng muốn ca ngợi tâm hồn nghệ sĩ yêu trăng, yêu thiên nhiên của bác.Hai câu khổ cuối, Viễn Phương sử dụng cặp quan hệ "vẫn", "mà" để diễn tả những cái cố định và những cái thay đổi.Hình ảnh ẩn dụ trời xanh mãi mãi nhà thơ như muốn khẳng định rằng bác đã hóa thân vào trời xanh, non nước, tồn tại mãi mãi với non sông đất nươc ta như trời xanh còn đó.Nhưng khi đứng trước linh cữu của người thì nỗi đau đớn dồn nén trong bao năm qua bỗng trào dâng, làm quặn thắt con tim tác giả đã là nỗi tiếc thương vô hạn của nhà thơ nói riễncungx như đồng bào miền nam, dân tộc ta nói chung. Đọc khổ thơ chúng ta như liên tưởng đến ngày bác đi để lại bao nỗi tiếc thương mà Tố Hữu đã từng viết:" đời tuôn nước mắt, tròi tuôn mưa
Dời lăng bác, nghĩ đến phút giây phải xa bác để trở về quê hương miền nam, nỗi nhớ của nhà thơ lại càng dâng trào vô hạn:
" Mai về miền nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng bác
Muốn làm đóa hoa tỏa ngát hương đâu đây
Muốn làm con chim trung hiếu chốn này"
Câu thơ đầu tác giả bộc lỗ trược tiếp nỗi niềm thương nhớ, lưu luyến khi phải giời xa lăng bác, bao nhiêu năm mong nhớ bây giờ mới được gặp bây giờ phải chia tay ngay bảo sao không nhớ cho được, mà miền nam xa xôi bao giờ nhà thơ với đồng bào miền nam mới có dịp lại được ra thăm bác.Nỗi nhớ cứ trào dang khiến nước mắt k thể cầm lòng đc.Từ đó, nhà thơ muốn làm con chim hót, muốn làm một đóa hoa để tỏa hương sắc và một cây tre trung hiếu bên cạnh người. Đó là những hình ảnh ẩn dụ thể hiện mãi mãi gần bên bác, để làm người con trung hiếu gần bên bác. Điệp ngữ: " muốn làm" thể hiện ước nguyện dồn dập, liên tiếp vừa thể hiện cảm xúc, dâng trào của nhà thơ Ở khổ cuối "hàng tre" lại lặp lại làm cho đầu cuối tác giả ứng rất hoàn chỉnh.
Tóm lại, bằng lời tho rất chân thành, cảm xúc thành kính, giọng điệu trang ngiêm, sâu lặng. thiết tha, tự hào, thể thơ 8 chữ có đôi chỗ gieo vần vào lời thơ linh hoạt, ngôn ngữ biểu cảm, đặc biệt tác giả đã sáng tạo nhiều hình ảnh thơ vừa tả thực, vừa mang í nghĩa biểu tượng có í nghĩ khái quát câu. Các nghệ thuật ẩn dụ, điệp từ được sử dụng một cách có hiệu quả, bài thơ" Viếng lăng bác" là tâm trạng vô cùng xúc động của một người con từ chiến trường miền nam được ra viếng bác, là tấm lòng thành kính, thiêng liêng trước công lao vĩ đại và tâm hồn cao đẹp, sang trọng của người, là nỗi đau tột cùng của tác giả nói riêng và toàn dân ns chung khi bác không còn nữa, là tâm trạng lưu luyến của nhà thơ mong muốn được ở mãi bên bác
Viếng lăng bác của Viễn Phương là nài thơ rất đặc sắc viết về tình cảm cảu nhân dân tavowis lãnh tụ HCM.Bài thơ bồi dưỡng cho em về lòng biết ơn với bác và nhắc nhở chúng em phải sống sao cho xứng đáng với công lao của bác.
 
L

lililovely

+4


Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam – đã cống hiến trọn đời mình vì sự nghiệp giải phóng đất nước. Người ra đi năm 1969, để lại biết bao nỗi thương nhớ và xót xa cho Tổ quốc. Có nhiều nhà thơ đã viết bài thơ tưởng nhớ về Bác, và “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là một trong những bài thơ xuất sắc nhất. Chúng ta hãy cùng đến với bài thơ để cảm nhận được cảm xúc ấy.
Năm 1976, sau ngày đất nước ta được hoàn toàn giải phóng, lăng Bác được khánh thành. Nhà thơ Viễn Phương từ miền Nam đã ra thăm lăng Bác. Cảm xúc dâng trào, nhà thơ đã làm một bài thơ như một lời bộc bạch chân tình của hàng triệu người con miền Nam với Bác. Đây là một bài thơ đặc sắc, giàu ý nghĩa, làm cho người đọc xúc động.

Hai khổ thơ đầu là những dòng cảm xúc ban đầu của nhà thơ khi được lần đầu đến thăm lăng Bác: một chút tự hào, xen lẫn vui sướng, lẫn xúc động khi sắp đc kề cận bên Người cha thân yêu của dân tộc. Bằng những hình ảnh ẩn dụ giàu sức gợi, nhôn ngữ bình dị mà hàm súc, tinh tế, đoạn thơ đã để lại trong lòng người đọc những cảm xúc vô cùng sâu sắc.
Hai khổ cuối bài thơ như những nốt nhạc du dương, trầm bổng, réo rắt như tấm lòng tha thiết yêu mến của nhà thơ với Bác. Bằng những ngôn từ ẩn dụ đặc sắc,từ ngữ bình dị mà giàu sức gợi, câu thơ đã khơi gợi trong lòng người đọc những rung động sâu sắc và đáng quý.
Bài thơ được phân chia theo bố cục thời gian, và khổ thơ đầu tiên nói về cảm xúc của tác giả khi nhìn thấy lăng Bác từ xa.
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”
Câu thơ đầu tiên thật ngắn gọn nhưng nó lại là một lời tâm sự chân tình của nhà thơ cũng như hàng triệu người con miền Nam. Một tiếng “con” thật ấm áp, gần gũi, thể hiện lòng kính yêu to lớn đối với Bác. Bác thật gần gũi với người dân, như là một vị cha già của dân tộc. “Con ở miền Nam” - mấy tiếng ấy bao hàm một nỗi đau và một niềm tự hào. Miền Nam gian khổ và anh hùng, miền Nam đi trước về sau, miền Nam thành đồng Tổ quốc, miền Nam vừa chiến thắng kẻ thù hung bạo trở về trong đại gia đình Việt Nam đây Bác ơi! Nhà thơ mong nhìn thấy Bác một lần sau khi đất nước đã giải phóng nhưng thật đau xót, Bác đã không còn. Vì vậy, từ “viếng” đã được nhà thơ thay bằng từ “thăm” để giảm nhẹ nỗi đau cũng như bày tỏ niềm tin rằng Bác vẫn sống mãi.
“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
Đập vào mắt nhà thơ là hình ảnh hàng tre xanh ngắt trước lăng Bác. Cây tre - biểu tượng cho sự bất khuất, kiên cường nhưng giản dị, thanh cao của người dân Việt Nam – đã để lại một dấu ấn đậm nét trong lòng tác giả trước khi bước vào lăng Bác. Hàng tre bát ngát – Hàng tre xanh xanh – Hàng tre Việt Nam: hàng tre bao đời như một dấu hịêu đặc biệt của dân tộc. Hàng tre trùm bóng mát rượi lên bao thế hệ cuộc đời, hàng tre mang bao phẩm chất của con người Tổ quốc ta: dẻo dai, đoàn kết, bất khuất, kiên cường. Ở Bác có tất cả những gì mà những con người Việt Nam từng có, cũng cái dấu hiệu xanh tươi sự sống ấy, cũng cái kiên cường “đứng thẳng hàng” trong “bão táp mưa sa” ấy. Dân tộc ta thật sự có sức sống mãnh liệt, cho dù những thử thách của thiên nhiên, của lịch sử có khắc nghiệt cách mấy thì vẫn kiên cường chống chọi, và vẫn cố gắng đứng thẳng chứ nhất quyết không chịu bị bẻ cong. Hàng tre đứng đó, bên lăng Bác như ru giấc ngủ ngàn thu của Bác, gắn bó mãi mãi với Bác như dân tộc Việt Nam vẫn kính trọng Bác mãi mãi.
Đến gần lăng Bác, xếp hàng vào viếng thì tác giả có thêm nhiều cảm xúc mới.
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
Hai câu thơ sinh động với nhiều hình ảnh gợi cảm được tạo nên từ những hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ sóng đôi với nhau. Một mặt trời thực đi qua trên lăng, là mặt trời của tự nhiên, của muôn loài, soi sáng cho muôn loài, đem lại sức sống cho thế giới. Từ mặt trời thật ấy, một mặt trời ẩn dụ khác hiện ra trong lăng, rất đỏ. Bác nằm trong lăng với ánh sáng đỏ xung quanh như một mặt trời. Bác tồn tại vĩnh cửu trong lòng mỗi người dân Việt Nam như sự tồn tại của một mặt trời thật. Bác soi sáng đường cho dân tộc ta đi, cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp giành độc lập của Tổ quốc.
còn nữa.......​


30935130.jpg
 
L

lililovely

\{ABC}/:)/:)Bác giúp nhân dân ta thoát khỏi kiếp sống nô lệ, trở thành một con người tự do để bây giờ được hạnh phúc. Công lao của Bác đối với dân tộc ta cũng như mặt trời, to lớn không kể xiết. Bác là một mặt trời. Cái ẩn dụ mặt trời ở đây không biết đã đủ nói về Bác chưa ?. Không, nếu nói Bác là mặt trời thì phải nhấn mạnh thêm cho rõ cái đặc tính của vầng mặt trời ấy: rất đỏ. Cái mặt trời đang tỏa sáng trên cao kia, cái mặt trời của thiên nhiên, tượng trưng của nguồn nóng, nguồn sáng, nguồn sự sống ấy, không phải bao giờ cũng nguyên vẹn thế đâu, không phải lúc nào cũng ấm nóng thế đâu! Vầng mặt trời ấy có thể bị bóng đêm lấn át. Nhưng vầng mặt trời Bác Hồ của ta thì mãi mãi đỏ thắm, mãi mãi là nguồn sưởi ấm, nguồn sáng soi đường cho con người Việt Nam. Hôm nay có hai mặt trời chiếu rọi trên đường đời: một mặt trời tỏa sáng trước mặt, một mặt trời tỏa sáng tâm hồn…Như mặt trời kia, Bác thuộc về vĩnh cửu. Bác sẽ sống mãi trong lòng mỗi con người Việt Nam.
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…"
Cùng với mặt trời đi qua trên lăng, ngày ngày dòng người vẫn đi qua lăng trong thương nhớ. Điệp ngữ “ngày ngày” ý nói rằng nhân dân ta mãi luôn ghi nhớ công lao to lớn của Bác, mãi mãi là như vậy. Nhịp thơ của đoạn chậm, diễn tả đúng tâm trạng khi đứng xếp hàng trước lăng chờ đến lượt vào, ngậm ngùi tưởng nhớ đến Bác đã khuất.
Tuy vậy, nhịp thơ chầm chậm như bước chân người đi trong cuộc tưởng niệm mà sao câu thơ vẫn không buồn ? Phải rồi. Chúng ta không làm cái việc tưởng niệm bình thường với Bác như một người đã khuất. Dòng người đang đi đây là đang đi trong cuộc hành trình ngợi ca vinh quang của Bác. Và tràng hoa vinh quang này không phải được kết bằng những bông hoa bình thường như mọi tràng hoa vinh hiển khác trên đời đâu. Tràng hoa đây là một hình ảnh ẩn dụ của tác giả, đó chính là những đoá hoa thật sự của đời, là đàn con mà Bác đã cố công tạo nên suốt bảy mươi chín mùa xuân Bác sống trên đời. Những bông hoa trong vườn Bác nay đã lớn lên, nở rộ ngát hương kính dâng lên Bác.
Vào bên trong lăng Bác, thấy Bác đang nằm đó, nhà thơ lại một lần nữa cố giấu tiếng nấc nghẹn ngào:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”
Khung cảnh bên trong lăng thật êm dịu, thanh bình. Lúc này, trước mặt mọi người chỉ có hình ảnh Bác. Bác nằm đó trong giấc ngủ vĩnh hằng. Bác mất thật rồi sao? Không đâu. Bác chỉ nằm đó ngủ thôi, Bác chỉ ngủ thôi mà! Suốt bảy mươi chín năm cống hiến cho đất nước, bây giờ đất nước đã bình yên, Bác phải được nghỉ ngơi chứ. Bao quanh giấc ngủ của Bác là một “vầng trăng sáng dịu hiền”. Đó là hình ảnh ẩn dụ cho những năm tháng làm việc của Bác, lúc nào cũng có vầng trăng bên cạnh bầu bạn. Từ giữa chốn tù đày, đến “cảnh khuya” núi rừng Việt Bắc, rồi “nguyên tiêu”…
Tuy vậy, Bác chưa bao giờ thảnh thơi để ngắm trăng đúng nghĩa. Khi thì “trong tù không rựơu cũng không hoa”, khi thì “việc quân đang bận”. Chỉ có bây giờ, trong giấc ngủ yên, vầng trăng ấy mới thật sự là vầng trăng yên bình, để Bác nghỉ ngơi và ngắm. Trăng dịu hiền, soi sáng hình ảnh Bác. Nhìn Bác ngủ ở đấy thật bình yên, nhưng có một sự thật dù đau lòng cách mấy ta vẫn phải chấp nhận: Bác đã thật sự ra đi mãi mãi.
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!”
Trời xanh bao la kia kéo dài đến vô tận, không bao giờ chấm dứt. Dù lí trí vẫn luôn trấn an lòng mình rằng Bác vẫn sống đấy, vẫn còn dõi theo Tổ quốc mãi mãi như màu xanh thanh bình trên nền trời Tổ quốc độc lập nhưng con tim ta vẫn nhói đau vì một sự thật đau lòng. Một từ “nhói” của nhà thơ nói hộ ta nỗi đau đớn, nỗi đau vượt lên mọi lí lẽ, mọi lập luận lí trí. Bác như trời xanh, Bác là mãi mãi, Bác vẫn sống trong tâm tưởng mỗi chúng ta, Bác mãi hiện diện trên mỗi phần đất, mỗi thành quả, mỗi phần tử tạo nên đất nước này.
Nhưng mà Bác mất thật rồi, ta không còn có Bác trong cuộc đời thường này. Mất Bác, cái thiếu vắng ấy liệu có thể nào bù đắp được? Tổ quốc ta đã thật sự không còn Bác dõi theo từng bước chân, không còn được Bác nâng đỡ mỗi khi vấp ngã. Bác ra đi, nỗi đau ấy liệu có từ ngữ nào diễn tả hết? Cả đàn con Việt Nam luôn tiếc thương Bác, luôn nhớ về Bác như một cái gì đó thật vĩ đại, không thể xoá nhoà. Dù Bác ra đi thật sự rồi nhưng những điều Bác đã làm vẫn sẽ đọng lại trong tâm hồn, hình ảnh Bác vẫn tồn tại trường kì trong trái tim mỗi người dân Việt Nam.
Cuối cùng dẫu thương tiếc Bác đến mấy, cũng đến lúc phải rời lăng Bác để ra về. Khổ thơ cuối như một lời từ biệt đầy xúc động:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”
Ngày mai phải rời xa Bác rồi. Một tiếng “thương của miền Nam” lại vang lên, gợi về miền đất xa xôi của Tổ quốc, một nơi từng có vị trí sâu sắc trong trái tim người. Một tiếng “thương” ấy là yêu, là biết ơn, là kính trọng cuộc đời cao thượng, vĩ đại của Người. Đó là tiếng thương của nỗi đau xót khi mất Bác. Thương Bác lắm, nước mắt trào ra, thật đúng là tình thương của người Việt Nam, vô bờ bến và rất thật.
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Cùng với nỗi niềm yêu thương vô hạn, tác giả nói lên muôn vàn lời tự nguyện. Điệp ngữ “muốn làm” khẳng định mạnh mẽ những ước nguyện ấy. Ước chi ta có thể biến hình thành những gì thân yêu quanh nơi Bác ngủ để mãi mãi được chiêm ngưỡng Bác, cuộc đời và tâm hồn của Bác, để bày tỏ lòng ta với Bác. Một con chim nhỏ góp tiếng hót làm vui những bình minh của Bác, một đóa hoa góp mùi hương làm thơm không gian quanh Bác hay một cây tre trong hàng tre xanh xanh VN tỏa bóng mát dịu dàng quê hương của Bác, tất cả đều làm Bác vui và ngủ an giấc hơn. Đây cũng chính là nguyện ước chân thành, sâu sắc của hàng triệu con tim người Việt sau một lần ra thăm lăng Bác. Bác ơi! Bác hãy ngủ lại bình yên nhé, chúng cháu về miền Nam tiếp tục xây dựng Tổ quốc từ nền móng Bác đã tạo ra đây! Câu thơ trầm xuống để kết thùc, ngừng lặng hòan toàn.
Về nghệ thuật, bài thơ Viếng lăng Bác có nhiều điểm nghệ thuật rất đặc sắc, giúp biểu hiện thành công thêm về những giá trị nội dung. Bài thơ viết theo thể tám chữ, trong có có xen một vài câu bảy và chín chữ. Nhiều hình ảnh trong bài thơ lấy từ ngoài đời thực đã được ẩn dụ, trở thành một cách thể hiện cảm xúc thành kính của tác giả. Nhịp thơ của bài linh hoạt, lúc nhanh là biểu hiện cho ước nguyện đền đáp công ơn Bác, lúc chậm là lúc thể hiện lòng thành kính với Bác. Giọng điêu của bài trang trọng, tha thiết, ngôn ngữ thơ bình dị mà cô đúc.
Bằng những từ ngữ, lời lẽ chân thành, giàu cảm xúc, nhà thơ Viễn Phương đã bày tỏ được niềm xúc động cùng lòng biết ơn sâu sắc đến Bác trong một dịp ra miền Bắc viếng lăng Bác. Bài thơ như một tiếng nói chung của toàn thể nhân dân Việt Nam, biểu lộ niềm đau xót khi thấy Bác kính yêu ra đi. Qua bài thơ, tôi cảm thấy rằng đất nước ta có hoà bình như ngày hôm nay một phần lớn là nhờ công lao của Bác, như vậy chúng ta cần phải biết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ta, để những công ơn to lớn của Bác không bị bỏ phí.
 
L

lililovely

phần đặc biệt ^^

Nhà thơ Viễn Phương nói về Viếng lăng Bác : “Lúc tôi 25 tuổi, bị bọn Mỹ – Diệm kết án tử hình rồi chuyển thành trung thân khổ sai và đày ra Côn Đảo. Trong chuồng cọp, địa ngục trần gian của nhà tù ấy, tôi bị bắt buộc phải nằm dưới hầm suốt ngày...". Trên vách chuồng cọp, tôi thấy chi chít những chữ ghi bằng nhiều cách khác nhau. Có những dòng được khắc trên vôi bằng cái xương cá mắm. Có những chữ bằng máu, có những ghi bằng than. Tôi đọc được bài thơ dài, chỗ này ghi một đoạn, chỗ khác ghi một khúc ráp lại rất vần với nhau. Cha già ơi Hôm nay mười chín tháng năm Lòng con sáng tựa đêm rằm trung thu Con đang chúc thọ dưới mồ Con đang dựng một rừng cờ trong tim Đêm nay mộng hóa thành chim Bay qua lưới sắt con tìm đến cha Sau này mới biết là thơ Viễn Phương, bài Chúc thọ dưới mồ. Tôi nghĩ rằng đó cũng là hạnh phúc lớn của nhà thơ: Góp phần mình vào công cuộc giải phóng đất nước. Nhà thơ Viễn Phương: Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kiệt xuất của dân tộc ta là nguồn cảm hứng vô tận của người sáng tạo văn, thơ, nhac, họa. Trong kháng chiến chống Pháp và Mỹ, các nhà thơ sống ở Nam Bộ đều có những tác phẩm viết về Bác. Trong nhà tù của giặc, tôi luôn luôn nghĩ về Bác. Bác là nguồn động viên, cổ các chiến sĩ trong nhà tù. Tôi đã viết bài thơ Chúc thọ dưới mồ, được các đồng chí trong tù thuộc, truyền cho nhau. Tuy lời thơ còn mộc mạc nhưng là tấm lòng thành kính của tôi đối với Người. Khi Bác còn sống, nhân dân miền Nam mong muốn đất nước giải phóng để đón Bác vào thăm. Nhưng rồi, ước mơ ấy không được toại nguyện. Khi miền Nam giải phóng, mọi người đều muốn ra thăm miền Bắc, viếng lăng Bác. Năm 1976, tôi ra Hà Nội, được đến viếng Bác. Sáng hôm ấy mưa phùn, Hà Nội lây phây trong gió rét, tôi được nối vào dòng người vào lăng Bác. Chúng tôi đi từ hướng chùa Một Cột. Sương toả mênh mông, những hàng tre xanh sẫm, những gốc đào hoa đỏ rực… Tất cả đều thiêng liêng. Đến bên Bác, ai cũng muốn dừng thật lâu. Bác nằm đó, thanh thản, giản dị, hiền từ như đang ngủ. Anh sáng dịu dàng toả xuống như giữa một đêm trăng thanh miền thôn dã. Tôi không cầm nổi nước mắt. , tôi đi như người mộng du và tứ thơ bật ra: Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát. Lời thơ thật giản dị. Tôi nghĩ, Bác của chúng ta vốn giản dị, Người ghét sự cầu kỳ, làm dáng. Giản dị, trong sáng, sâu sắc cũng là bao quát trong thơ Bác. Tôi viết như là ý nghĩ của mình. Và, đó cũng là tâm tư của nhân dân và chiến sỹ ở Nam Bộ với Bác. Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ Mặt trời của vũ trụ đối với mặt trời trong lăng. Đó cũng là hàm chứa sự vĩnh cửu của sự nghiệp Bác Hồ tạo dựng và nhân dân ta, Đảng ta đã thực hiện: xây dựng một đất nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh như di chúc của Bác. Hoa tươi là nét đẹp của thiên nhiên, hàng ngày dâng lên Bác rất nhiều nhưng tôi nghĩ đến: Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng Bảy mươi chín mùa xuân Dòng người vây quanh Bác trở thành hoa. Và dâng cho Bảy mươi chín màu xuân, là hoa tươi của cuộc sống. Toàn bài Viếng Lăng Bác mang một không khí trang nghiêm, thành kính. Đoạn kết, tôi muốn nói lên tình cảm của nhân dân, chiến sỹ miền Nam hứa với Bác: Mai về miền Nam thương trào nước mắt Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này….(Nhà Thơ Viễn Phương)
 
L

lililovely

phần đặc biệt ^^2

* Giới thiệu bài học:
Bác Hồ là tên gọi thân yêu vang âm trong trái tim bao người,là niềm tin, là sức mạnh, là phẩm giá của con người Việt Nam, một người bạn lớnđối với tâm hồn mỗi con người, đối với thiên nhiên tạo vật... Sự vĩ đại, vẻ đẹpcủa Bác, lòng kính yêu với Bác đã trở thành cảm hứng cho các các nghệ sĩ sángtạo ra các tác phẩm nghệ thuật bất hủ. Đến sau trong đề tài thơ về Bác do điềukiện, hoàn cảnh: là người con miền Nam, cầm súng ở ngoài tiềntuyến...nhà thơ Viễn Phương đã để lại bài thơ "Viếng lăng Bác" độcđáo, có sức cảm hóa sâu sắc bởi tình đẹp, bởi lời hay.
I – Tìm hiểu chung:
1. Tác giả:
- Viễn Phương (1928 – 2005), tên khai sinh là Phan ThanhViễn, quê ở tỉnh An Giang.
- Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, ông hoạt động ởNam Bộ , là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng vănnghệ giải phóng ở miền Namthời kì chống Mĩ cứu nước.
- Thơ ông thường nhỏ nhẹ, giàu tình cảm, giàu chất mộng mơngay trong hoàn cảnh khốc liệt của chiến trường.
- Tác phẩm tiêu biểu: Mắt sáng học trò (1970); Như mây mùa xuân (1978); Phù sa quê mẹ(1991);…
2.Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sáng tác:
- Bài thơ được viết vào tháng 4 năm 1976, một năm sau ngàygiải phóng miền Nam,đất nước vừa được thống nhất. Đó cũng là khi lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa đượckhánh thành, đáp ứng nguyện vọng tha thiết của nhân dân cả nước là được đếnviếng lăng Bác. Tác giả là một người con của miền Nam, suốt ba mươi năm hoạt động vàchiến đấu ở chiến trường Nam Bộ xa xôi. Cũng như đồng bào và chiến sĩ miền Nam,nhà thơ mong mỏi được ra thăm Bác và chỉ đến lúc này, khi đất nước đã thốngnhất, ông mới có thể thực hiện được ước nguyện ấy. Tình cảm đối với Bác trởthành nguồn cảm hứng để ông sáng tác bài thơ này.
- In trong tập thơ “Như mây mùa xuân” (1978)
b. Bố cục:4 phần, tương ứng với bốn khổ thơ.
- Khổ 1: Cảm xúc của nhà thơ khi đến lăng Bác
- Khổ 2: Cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác
- Khổ 3: Cảm xúc của nhà thơ khi vào trong lăng
- Khổ 4: Tâm trạng lưu luyến của nhà thơ khi rời xa lăngBác.
=> Mạch vận động của cảm xúc trong bài theo trình tự củamột cuộc viếng thăm, thời gian kết hợp với không gian. Theo admin Học văn lớp 9
c. Cảm xúc bao trùm: Niềm xúc động thiêng liêng, thành kính,niềm tự hào, đau xót của nhà thơ từ miền Nam vừa được giải phóng ra thămlăng Bác.
II – Đọc – hiểu văn bản:
1. Cảm xúc của nhà thơ khi đến lăng Bác: Cảm xúc của mộtngười con đã đi từ một nơi rất xa cả về không gian và thời gian, giờ đây giờphút được trở về bên Bác đã được diễn tả sâu sắc trong khổ thơ này:
- Nhà thơ kể: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Câu thơ mởđầu như một lời thông báo ngắn gọn, lời lẽ giản dị nhưng chứa đựng trong nóbiết bao điều sâu xa, Nhà thơ nói mình ở miền Nam, ở tuyến đầu của Tổ quốc, ở nơimáu đổ suốt mấy chục năm trời. Như vậy, không đơn giản là chuyên đi thăm côngtrình kiến trúc, không chỉ chiêm ngưỡng trước di hài một vĩ nhân mà đó là câytìm về cội, lá tìm về cành, máu chảy về tim, sông trở về nguồn. Đó là cuộc trởvề để báo công với Bác, để được Bác ôm vào lòng và ngợi khen.
- Nhà thơ xưng “con” và chữ “con” ở đầu dòng thơ, đầu bàithơ. Trong ngôn từ của nhân loại không có một chữ nào lại xúc động và sâu nặngbằng tiếng “con”. Cách xưng hô này thật gần gũi, thật thân thiết, ấm áp tìnhthân thương mà vẫn rất mực thành kính, thiêng liêng. Đồng thời, cũng diễn tảtâm trạng xúc động của người con ra thăm cha sau bao nhiêu năm xa cách.
- Nhà thơ sử dụng từ “thăm” thay cho từ “viếng”:
+ “Viếng”: là đến chia buồn với thân nhân người chết.
+ “Thăm”: là gặp gỡ, trò chuyện với người đang sống.
-> Cách nói giảm, nói tránh -> giảm nhẹ nỗi đau thươngmất mát -> khẳng định Bác vẫn còn mãi trong trái tim nhân dân miền Nam,trong lòng dân tộc. Đồng thời gợi sự thân mật, gần gũi: Con về thăm cha – thămngười thân ruột thịt, thăm chỗ Bác nằm, thăm nơi Bác ở để thỏa lòng khát khaomong nhớ bấy lâu.
 
L

lililovely

/:)/:)=> Câu thơ không có một dụng công nghệ thuật nào nhưnglại vô cùng gợi cảm, dồn nén biết bao cảm xúc.
Cách xưng hôvà cách dùng từ của Viễn Phương giúp cho người đọc cảm nhận được tình cảm xúcđộng, nhớ thương của một người con đối với cha. Đó không chỉ là tình cảm riêngcủa nhà thơ mà còn là tình cảm chung của dân tộc Việt Nam. Thế hệ này tiếp nối thế hệkhác song tất cả đều có chung một tình cảm như thế với Bác Hồ kính yêu.
- Đến lăng Bác, hình ảnh đầu tiên mà tác giả quan sát được,cảm nhận được, và có ấn tượng đậm nét là hình ảnh hàng tre. Khi xây dựng lăngBác, các nhà thiết kế đã đưa về từ mọi miền đất nước các loài cây, loài hoa,tiêu biểu cho mọi miền quê hương đất nước để trồng ở lăng Bác bởi Bác là mộttâm hồn rộng mở trước thiên nhiên và Bác cũng là biểu tượng cho tinh hoa, chođất nước, cho dân tộc Việt Nam. Và ai đã từng đến lăng Bác đều có thể nhận thấyhình ảnh đầu tiên về cảnh vật hai bên lăng là những hàng tre đằng ngà bát ngát.Nhà thơ Viễn Phương cũng vậy!
+ Sự xuất hiện của hàng tre trong thơ Viễn Phương không chỉcó ý tả thực, nhà thơ đã viết hình ảnh hàng tre với bút pháp tượng trưng, biểutượng ( gợi ra một điều gì đó từ một hình ảnh ẩn dụ lớn).
+ Hình ảnh thực: Trước hết, hàng tre là hình ảnh hết sứcthân thuộc và gần gũi của làng quê, đất nước Việt Nam.
+ Hình ảnh ẩn dụ: Hình ảnh hàng tre còn là một biểu tượngcon người, dân tộc Việt Nam.
_ Thành ngữ “bão táp mưa sa” nhằm chỉ những khó khăn, giankhổ, những vinh quang và cay đắng mà nhân dân ta đã vượt qua trong trường kìdựng nước và giữ nước, đặc biệt là trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chốngMĩ vừa qua.
_ “Đứng thẳng hàng” là tinh thần đoàn kết đấu tranh, chiếnđấu anh hùng, không bao giờ khuất phục, tất cả vì độc lập tự do của nhân dânViệt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ.
 
L

lililovely

-> Từ hình ảnh hàng tre bát ngát trong sương quanh lăngBác, nhà thơ đã suy nghĩ, liên tưởng và mở rộng khái quát thành một hình ảnhhàng tre mang ý nghĩa ẩn dụ, biểu tượng cho sức sống bền bỉ, kiên cường, bấtkhuất của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Dù gặp bão táp mưa sa – gặpnhững thăng trầm trong cuộc kháng chiến cứu nước và giữ nước, vẫn “đứng thẳnghàng”, vẫn đoàn kết đấu tranh, chiến đấu anh hùng, không bao giờ khuất phục.Niềm xúc động và tự hào về đất nước, về dân tộc, về những con người Nam Bộ đãđược nhà thơ bộc lộ trực tiếp qua từ cảm thán “Ôi” đứng ở đầu câu.
-> Hàng tre ấy như những đội quân danh dự cùng với nhữngloài cây khác đại diện cho những con người ở mọi miền quê trên đất nước ViệtNam tụ họp về đây xum vầy với Bác, trò chuyện và bảo vệ giấc ngủ cho Người. NơiBác nghỉ vẫn luôn xanh mát bóng tre xanh.
=> Chỉ một khổ thơ ngắn thôi nhưng cũng đủ để thể hiệnnhững cảm xúc chân thành, thiêng liêng của nhà thơ và cũng là của nhân dân đốivới Bác kính yêu.
2. Cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác:
- Nhà thơ đã sử dụng một ẩn dụ nghệ thuật tuyệt đẹp để nóilên cảm nhận của mình khi đứng trước lăng Bác:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
+ Hình ảnh “mặt trời đi qua trên lăng” là hình ảnh thực. Đólà mặt trời thiên tạo, là hành tinh quan trọng nhất của vũ trụ, nó gợi ra sự kìvĩ, sự bất tử, vĩnh hằng. Mặt trời là nguồn cội của sự sống, ánh sáng.
+ Hình ảnh “mặt trời trong lăng” là một ẩn dụ đầy sáng tạo,độc đáo – đó là hình ảnh của Bác Hồ. Giống như “mặt trời”, Bác Hồ cũng là nguồnánh sáng, nguồn sức mạnh. “Mặt trời” – Bác Hồ soi đường dẫn lối cho sự nghiệpcách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do, thống nhất đất nước. hocvanlop9facebook Bác đã cùng nhân dân vượt qua trăm ngàn gian khổ, hi sinh để đi tớichiến thắng quanh vinh, trọn vẹn. “Mặt trời” – Bác Hồ tỏa hơi ấm tình thươngbao la trong lòng mỗi con người Việt Nam. Nhà thơ Tố Hữu đã so sánh Bácnhư: “Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ”. Cái nghĩa, cái nhân lớn lao của Bácđã tác động mạnh mẽ, sâu xa tới mỗi số phận con người.
+ Thật ra so sánh Bác Hồ với mặt trời đã được các nhà thơ sửdụng từ rất lâu:
Người rực rỡ một mặt trời cách mạng
Mà đế quốc là loài dơi hốt hoảng
Đêm tàn bay chập chạng dưới chân người.
( Tố Hữu – “Sáng tháng năm”) hocvanlop9 facebook
 
L

lililovely

:p:pNhưng cái so sánh ngầm Bác Hồ nằm trong lăng rất đỏ trongcái nhìn chiêm ngưỡng hàng ngày của mặt trời tự nhiên( biện pháp nhân hóa“thấy”) là một sáng tạo độc đáo và mới mẻ của Viễn Phương. Cách ví đó một mặtca ngợi sự vĩ đại, công lao trời biển của Người đối với các thế hệ con ngườiViệt Nam. Mặt khác bộc lộ rõ niềm tự hào của dân tộc Việt Nam khi có Bác Hồ - có được mặttrời của cách mạng soi đường chỉ lối cũng như ánh sáng của mặt trời thiênnhiên.
+ Từ láy “ngày ngày” đứng ở đầu câu vừa diễn tả sự liên tụcbất biến của tự nhiên vừa góp phần vĩnh viễn hóa, bất tử hóa hình ảnh Bác Hồtrong lòng mọi người và giữa thiên nhiên vũ trụ.
- Hình ảnh dòng người vào thăm lăng Bác đã được nhà thơ miêutả một cách độc đáo và để lại nhiều ấn tượng:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
+ Từ láy “ngày ngày” có nghĩa tương tự như câu thơ cầu đầutrong khổ thơ -> diễn tả cảnh tượng có thực đang diễn ra hàng ngày, đều đặntrong cuộc sống của con người Việt Nam: hocvanlop9 facebook Những dòng người nặng trĩu nhớ thương từ khắpmọi miền đất nước đã về đây xếp hàng, lặng lẽ theo nhau vào lăng viếng Bác –“Dòng người đi trong thương nhớ”.
+ Bằng sự quan sát trong thực tế, tác giả đã tạo ra một hìnhảnh ẩn dụ đẹp và sáng tạo: “tràng hoa”.
_ Chúng ta có thể hiểu “tràng hoa” ở đây theo nghĩa thực lànhững bông hoa tươi thắm kết thành vòng hoa được những người con khắp nơi trênđất nước và thế giới về thăm dâng lên Bác để bày tỏ tình cảm, tấm lòng nhớthương, yêu quý, tự hào của mình.
_ “Tràng hoa” ở đây còn mang nghĩa ẩn dụ chỉ từng người mộtđang xếp hàng viếng lăng Bác mỗi ngày là một bông hoa ngát thơm. Những dòngngười bất tận đang ngày ngày vào lăng viếng Bác nối kết nhau thành những trànghoa bất tận. Những bông hoa – tràng hoa rực rỡ đó dưới ánh mặt trời của Bác đãtrở thành những bông hoa – tràng hoa đẹp nhất dâng lên “bảy mươi chín mùa xuân”– 79 năm cuộc đời của Người.
-> Hình ảnh thơ trên biểu lộ tấm lòng thành kính, và biếtơn sâu sắc của nhà thơ, của nhân dân đối với Bác Hồ.
3. Cảm xúc của nhà thơ khi vào trong lăng:
- Vào trong lăng, khung cảnh và không khí như ngưng kết cảthời gian, không gian. Hình ảnh thơ đã diễn tả thật chính xác, tinh tế sự yêntĩnh, trang nghiêm cùng ánh sáng dịu nhẹ, trong trẻo của không gian trong lăngBác.
- Đứng trước Bác, nhà thơ cảm nhận Người đang ngủ giấc ngủbình yên, thanh thản giữa vầng trăng sáng dịu hiền. hocvanlop9 facebook
- Hình ảnh “vầng trăng sáng dịuhiền” gợi cho chúng ta nghĩ đến tâm hồn, cách sống cao đẹp, thanh cao, sángtrong của Bác và những vần thơ tràn ngập ánh trăng của Người. Trăng với Bác đãtừng vào thơ Bác trong nhà lao, trên chiến trận, giờ đây trăng cũng đến để giữgiấc ngủ ngàn thu cho Người. -> Chỉ có thể bằng trí tưởng tượng, sự thấuhiểu và yêu quí những vẻ đẹp trong nhân cách của Hồ Chí Minh thì nhà thơ mớisáng tạo nên được những ảnh thơ đẹp như vậy!
- Tâm trạng xúc động của nhà thơ được biểu hiện bằng mộthình ảnh ẩn dụ sâu xa: “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi”.
+ “Trời xanh” trước tiên được hiểu theo nghĩa tả thực đó làhình thiên nhiên mà chúng ta hằng ngày vẫn đang chiêm ngưỡng, nó tồn tại mãimãi và vĩnh hằng.
+ Mặt khác, “trời xanh” còn là một hình ảnh ẩn dụ sâu xa:Bác vẫn còn mãi với non sông đất nước, như “trời xanh” vĩnh hằng. Nhà thơ TốHữu đã viết: “Bác sống như trời đất của ta”, bởi Bác đã hóa thân thành thiênnhiên, đất nước và dân tộc.
- Dù tin như thế nhưng mấy chục triệu người dân Việt Nam vẫn đau xótvà nuối tiếc khôn nguôi trước sự ra đi của Bác – “ Mà sao nghe nhói ở trongtim”.
+ “Nhói” là từ ngữ biểu cảm trực tiếp, biểu hiện nỗi đau độtngột quặn thắt. Tác giả tự cảm thấy nỗi đau mất mát ở tận trong đáy sâu tâm hồnmình: nỗi đau uất nghẹn tột cùng không nói thành lời. Đó không chỉ là nỗi đauriêng tác giả mà của cả triệu trái tim con người Việt Nam.
+ Cặp quan hệ từ “vẫn, mà” diễn tả mâu thuẫn. Cảm giác nghenhói ở trong tim mâu thuẫn với nhận biết trời xanh là mãi mãi. Như vậy, giữatình cảm và lý trí có sự mâu thuẫn. Con người đã không kìm nén được khoảnh khắcyếu lòng. Chính đau xót này đã làm cho tình cảm giữa lãnh tụ và nhân dân trởnên ruột già, xót xa. Cảm xúc đau đớn này, vô vọng này đã từng xuất hiện trongbài thơ của Tố Hữu:
Trái bưởi kia vàng ngọt với ai
Thơm cho ai nữa hỡi hoa nhài
Còn đâu bóng Bác đi hôm sớm…
Cảm xúc này là đỉnh điểm của nỗi nhớ thương, của niềm đauxót. Nó chính là nguyên nhân dẫn đến những khát vọng ở khổ cuối bài thơ.
4. Tâm trạng lưu luyến của nhà thơ khi rời xa lăng Bác:
- Nếu ở khổ thơ đầu, nhà thơ giới thiệu mình là người conmiền Namra thăm Bác thì trong khổ thơ cuối, nhà thơ lại đề cập đến sự chia xa Bác. Nghĩđến ngày mai về miền Nam,xa Bác, xa Hà Nội, tình cảm của nhà thơ không kìm nén, ẩn giấu trong lòng màđược bộc lộ thể hiện ra ngoài:
“Mai về miền Namthương trào nước mắt”.
+ Câu thơ “Mai về miền Nam thương trào nước mắt” như mộtlời giã biệt.
+ Lời nói giản dị diễn tả tình cảm sâu lắng.
+ Từ “trào” diễn tả cảm xúc thật mãnh liệt, luyến tiếc, bịnrịn không muốn xa nơi Bác nghỉ.
+ Đó là không chỉ là tâm trạng của tác giả mà còn là củamuôn triệu trái tim khác. Được gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng không baogiờ ta muốn xa Bác bởi Người ấm áp quá, rộng lớn quá.
- Mặc dù lưu luyến muốn được ở mãi bên Bác nhưng tác giảcũng biết rằng đến lúc phải trở về miền Nam. Và chỉ có thể gửi tấm lòngmình bằng cách muốn hóa thân, hòa nhập vào những cảnh vật quanh lăng để đượcluôn ở bên Người trong thế giới của Người:
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
+ Điệp ngữ “muốn làm” cùng các hình ảnh đẹp của thiên nhiên“con chim”,”đóa hoa”,”cây tre” đã thể hiện ước muốn tha thiết, mãnh liệt củatác giả.
+ Nhà thơ ao ước được hóa thân thành con chim nhỏ cất tiếnghót làm vui lăng Bác, thành đóa hoa đem sắc hương, điểm tô cho vườn hoa quanhlăng.
+ Đặc biệt là ước nguyện “Muốn làm cây tre trung hiếu chốnnày” để nhập vào hàng tre bát ngát, canh giữ giấc ngủ thiên thu của Người. Hìnhảnh cây tre có tính chất tượng trưng một lần nữa nhắc lại khiến bài thơ có kếtcấu đầu cuối tương ứng. Hình ảnh hàng tre quanh lăng Bác được lặp ở câu thơcuối như mang thêm nghĩa mới, tạo ấn tượng sâu sắc, làm dòng cảm xúc được trọnvẹn. “Cây tre trung hiếu” là hình ảnh ẩn dụ thể hiện lòng kính yêu, sự trungthành vô hạn với Bác, nguyện mãi mãi đi theo con đường cách mạng mà Người đãđưa đường chỉ lối. Đó là lời hứa thủy chung của riêng nhà thơ và cũng là ýnguyện của đồng miền Nam,của mỗi chúng ta nói chung với Bác.
III. Tổng kết:
1. Nội dung:
Niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, niềm tự hào, đau xótcủa nhà thơ từ miền Namvừa được giải phóng ra thăm lăng Bác.
2. Nghệ thuật:
- Giọng điệu thơ phù hợp với nội dung tình cảm, cảm xúc: vừatrang nghiêm, sâu lắng, vừa tha thiết, đau xót, tự hào.
- Thể thơ 8 chữ, xen lẫn những dòng thơ 7 hoặc 9 chữ. Nhịpthơ chủ yếu là nhịp chậm, diễn tả sự trang nghiêm, thành kính và những cảm xúcsâu lắng. Riêng khổ cuối nhịp thơ nhanh hơn, phù hợp với sắc thái của niềm mongước.
- Hình ảnh thơ có nhiều sáng tạo, kết hợp hình ảnh thực vớihình ảnh ẩn dụ, biểu tượng. Những hình ảnh ẩn dụ - biểu tượng như “mặttrời trong lăng”,”tràng hoa”,”trời xanh” vừa quen thuộc, vừa gần gũi vớihình ảnh thực, vừa sâu sắc, có ý nghĩa khái quát và giá trị biểu cảm.
 
L

lililovely

+
Phân tích khổ thơ cuối của bài thơ viếng lăng bác

"Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm bông hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này."
Khổ cuối bài thơ Viếng Lăng Bác thể hiện nỗi lòng của người con miền Nam đối với vị chủ tịch vĩ đại của đất nước. Động từ " thương trào" đã thể hiện rất sâu sắc nỗi lòng đó. Đây là một động từ mạnh, diễn tả cảm xúc mãnh liệt, là " trào" chứ không phải là " rưng rưng" hay " ngậm ngùi", là niềm thương cảm sâu sắc, là nỗi xót xa, đau đớn khi phải rời xa Bác trong lòng người con miền nam. Điệp từ " Muốn làm" được lặp lại 3 lần đã cho thấy niềm khát khao được ở bên Bác, được hóa thân vào những vật nhỏ bé nhưng vô cùng thân thương luôn luôn gần bên Bác. Người con miền Nam khao khát thành" con chim", thành "bông hoa" để dâng tiếng hót, sắc hương lên Bác. Đặc biệt là hình ảnh " cây tre trung hiếu", cho thấy ước vọng của người con miền Nam muốn được bên Bác, giống Bác, cống hiến tất cả cuộc đời mình cho sự nghiệp của quốc gia, dân tộc. Ước vọng này không chỉ của riêng tác giả mà còn là của tất cả mọi người dân Việt Nam.
 
L

lililovely

+

Phân tích hình ảnh hàng tre trong bài tho Viếng năng Bác của Viễn Phương

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Tình cảm bộc lộ trực tiếp qua cách xưng hô : Con – Bác, từ đó tạo thành mối liên hệ đồng cảm, gần gũi, vừa yêu thương vừa kính trọng với lãnh tụ. Tác giả không dùng từ « viếng » trong câu thơ mà dùng từ « thăm » để tạo cảm giác như được tiếp xúc với Bác. Tính chất gặp gỡ thân tình mà cảm động, nên từ xa nhìn thấy đã ngập tràn xúc cảm : « sương » vừa là báo hiệu thời gian ra thăm từ rất sớm, tạo nên không khí se chùng niềm thương nỗi nhớ. Nhưng cũng cho phép liên tưởng hình ảnh tác giả nhìn cảnh vật như mờ ảo sau màn sương – nhoà lệ nhớ thương ! Hình ảnh lăng Bác tạo cảm giác thân thuộc gần gũi, vì có sự xuất hiện của « hàng tre ». Hai sắc thái được diễn tả là « bát ngát » và « xanh xanh » để bao quát không gian rộng, thoáng và yên bình, không gian mở ra ngút ngát. Thăm Bác, nhìn thấy hàng tre cũng là lúc tác giả nói lên cảm giác xúc động mãnh liệt về hình ảnh biểu tượng của dân tộc. Thán từ « Ôi ! » cùng với cảm nhận dáng tre « đứng thẳng hàng » nghiêm trang cũng tạo nên cảm giác thành kính thiêng liêng trước lăng Bác. Không những thế, tư thế « đứng thẳng hàng » còn đặt trong thế đối lập với « bão táp mưa sa » gợi lên phẩm chất của tre dẻo dai, cứng cáp bền bỉ, cũng là tư thế hiên ngang của dân tộc vượt qua bao thử thách gian lao để đi đến thắng lợi vinh quang. Để từ đó, tác giả như cảm nhận giây phút về bên Bác, có toàn thể dân tộc cùng canh giấc ngủ cho Người.
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
Tình cảm của nhà thơ đến khổ thơ này tự nhiên không hề kìm giữ, làm nên phút giây “trào nước mắt” của nỗi xúc động bồi hồi. Tình cảm ấy không hề bi lụy mà thăng hoa thành khát vọng, thành lời tâm nguyện trước anh linh của Bác. Nỗi nhớ nhung biến thành ước muốn thật đẹp đẽ của đứa con miền Nam: muốn làm con chim hót, đoá hoa toả hương, muốn giữ lại những thời khắc lắng đọng và đẹp đẽ nhất của tâm hồn khi được gần bên Bác. Nói như một ý thơ Tố Hữu: “Yêu Bác lòng ta trong sáng hơn” hay như câu thơ: “Ta bên Người, Người toả sáng trong ta/ Ta bỗng lớn ở bên Người một chút”. Mượn những hình tượng tự nhiên để diễn tả lòng mình, Viễn Phương cũng nói hộ tấm lòng những đứa con của Bác: muốn lòng mình trong sáng hơn, đẹp đẽ hơn. Hơn thế, tác giả còn muốn hoá thân “làm cây tre trung hiếu chốn này” - bồi đắp tâm hồn và phẩm chất để sống xứng đáng với tình thương của Bác. Đó cũng là lời hứa tiếp tục thực hiện ước vọng của Người.
Sau này bài thơ đã thành giai điệu trong bài hát nổi tiếng cùng tên, lời thơ được chắp cánh, thăng hoa thành bài hát xúc động bao thế hệ. Bởi những gì mà tác giả gửi gắm đã nói lên tình cảm đồng điệu của bao thế hệ người Việt Nam yêu nước.
 
L

lililovely

+

Sự thành kính thiêng liêng của Viễn Phương trong bài thơ Viếng lăng Bác.
Nhà thơ Cu-Ba F.Đờ-ri-gết đã từng ca ngợi : "Hồ Chí Minh - tên người là cả một miền thơ". Vâng, quả đúng vậy ! Được viết về Người là niềm vinh dự lớn lao cho thế hệ những người cầm bút. Một dòng sông thi ca viết về Con người đẹp nhất ấy chảy dạt dào hơn mấy chục năm qua. Người đi vào trong thơ từ buổi đầu Người đi tìm hình của nước - Chế Lan Viên, là người lính già trong chiến dịch Việt Bắc với nhiều đêm hành quân không ngủ trong thơ Minh Huệ. Và Người toả sáng làm ấm lòng những đứa con đất Việt trong giờ phút về "Viếng lăng Bác" - Viễn Phương. Lăng Bác trở thành nơi lưu giữ bóng dáng Bác lúc sinh thời, nơi chiêm ngưỡng thành kính của nhân dân và bè bạn quốc tế. Viếng lăng Bác là một bài thơ ngắn đầy cảm động, thể hiện niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, lòng biết ơn, tự hào, lẫn nỗi xót xa khi tác giả từ Miền Nam ra viếng Bác.
Đến với khổ thơ đầu tiên, người đọc sẽ dễ dàng cảm nhận được tình cảm thành kính, thiêng liêng của nhà thơ đứng trước lăng Bác:
"Con ở Miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi ! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa xa đứng thẳng hàng".
Viễn Phương xưng với Bác là "con", đó là cách xưng hô trong gia đình, với người lớn tuổi, là lời xưng hô thật gần gũi thân thương và kính trọng. Các nhà thơ Tố Hữu, Thu Bồn đã từng xưng hô như thế.
"Ở miền Nam" - cụm từ định danh tạo cho bài thơ một sắc thái tình cảm mới. Nói rằng đứa con Bác thương nhớ nhất, bây giờ mới được gặp Người đây.
Tác giả nhấn mạnh nỗi nhớ thư¬ơng mong chờ, ấp ủ bấy lâu nay, bây giờ được gặp, được thăm Bác. Tình cảm thổn thức trào dâng không thể nào diễn tả nỗi trong lòng những đứa con đất thành đồng Tổ quốc. Nhan đề bài thơ được dùng đúng với nghĩa đen của nó, khẳng định Bác đã qua đời. Còn ở câu thơ đầu tiên lại là "thăm lăng Bác", với ngụ ý nói giảm, Bác trở nên thân mật, gần gũi và sống mãi trong lòng nhân dân Miền Nam. Quanh lăng Bác trồng rất nhiều tre. Tre là hiện thân cho những gì mộc mạc, thanh cao, ngay thẳng, bất khuất nhất, cũng như những con người Việt Nam vậy. Dù cho "bão táp mưa xa" vẫn "đứng thẳng hàng", có nghĩa là dù qua bao gian lao vất vả nhưng người Việt Nam vẫn không bao giờ chịu khuất phục, luôn đoàn kết với nhau để làm nên những chiến công hiển hách. Chỉ một khổ thơ ngắn thôi nhưng cũng đủ để thể hiện những cảm xúc chân thành, thiêng liêng của nhà thơ đối với Bác kính yêu.
Chúng ta hãy đọc khổ thơ thứ hai và ba của bài thơ :
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân

Bác nằm trong lăng, giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng trong dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Mặt trời một cách sáng tạo mới mẻ của Viễn Phương, cùng với điệp từ "ngày ngày", "mặt trời trong lăng" đã được vĩnh viễn hoá, bất tử hoá thành hình tượng Bác Hồ trong lòng mọi người, giữa thiên nhiên, vũ trụ. Mặt khác để ca ngợi sự vĩ đại, công lao trời bể của Bác đối với nhân dân Việt Nam. Bác đã chiếu sáng cho dân tộc Việt Nam thoát khỏi ách đô hộ của đêm trư¬ờng nô lệ. Tác giả không dùng "đoàn người, tốp người" mà dùng "dòng người", cùng với từ láy "ngày ngày" thể hiện hình ảnh này đã trở thành qui luật đều đặn, thể hiện tấm lòng thành kính của nhân dân Việt Nam, của bạn bè bốn phương đối với Bác. Mỗi người thăm Bác lúc bấy giờ là đại diện cho những tấm gương điển hình tiên tiến trên mặt trận chiến đấu, là những người con ưu tú, là những bông hoa tươi thắm kết thành một "tràng hoa" để dâng lên Người. "Bảy mươi chín mùa xuân" là hình ảnh hoán dụ, khẳng định sự trường tồn, bất tử như mùa xuân vĩnh viễn, tràn đầy sức sống.
Sang tới khổ thơ thứ ba, chúng ta thấy hiện lên một giấc ngủ bình yên, thanh thản. "Cả cuộc đời Bác có ngủ yên đâu". Với Bác được ngủ bình yên khi :
"Việc quân, việc nước bàn xong
Gối khuya yên giấc bên khung trăng nhòm".
Với Viễn Phương, Bác ngủ bình yên nghĩa là Bác vẫn còn sống, được nghỉ ngơi, giấc ngủ đến với Người nhẹ nhàng, thanh thản bởi lúc này, nước đang tràn ngập niềm vui chiến thắng, ước nguyện của Người đã trở thành sự thật. "Vầng trăng" là hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng cho lòng nhân ái, đức độ, tâm hồn Bác. Đồng thời, gợi vầng trăng tri kỉ đã từng gắn bó với Bác, thể hiện tâm hồn Bác hoà hợp với tình yêu thiên nhiên. "Trời xanh" cũng là một hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng cho hình ảnh bất tử của Bác. "Bác còn sống mãi với non sông đất nước". Bác đã hoá thân vào thiên nhiên, đất nước. Cặp từ quan hệ "vẫn biết… mà sao" thể hiện sự đau đớn, tiếc thương đến cực độ của tác giả - "nhói", tình cảm ấy cũng là tình cảm chung của nhân dân khi Bác ra đi "đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa". Mạch cảm xúc từ thành kính chuyển thành tiếc thương, làm cho thơ Viễn Phương có lối viết hàm súc, câu chữ để lại nhiều ám ảnh trong lòng người đọc.
Đến với khổ thơ cuối cùng ta thấy được những ước nguyện chân thành của tác giả khi sắp phải rời xa Bác :
Mai về Miền Nam dâng trào n¬ước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả h¬ương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
"Mai về Miền Nam" nghĩa là phải xa Bác, xa tất cả những gì nhà thơ ấp ủ, ước ao từng ngày. Ông như không kìm nén nổi nữa, bật thành niềm thương cảm "trào nước mắt". Nếu như đằng sau những câu thơ này tiếp tục diễn tả sự đau xót, tiếc thương thì bài thơ sẽ đem đến cho người đọc một cảm giác bi lụy. Thế nhưng từ cái đau thương, Viễn Phương đã thể hiện lòng thành kính, biết ơn Bác bằng những ước nguyện chân thành của mình. "Muốn làm" con chim mang đến niềm vui cho Bác, làm hoa để làm đẹp, toả hương thơm và là cây tre trung hiếu, trung thành, thuỷ chung, ân nghĩa canh cho giấc ngủ của Người mãi mãi bình yên. đứa con ra đi nhưng tấm lòng vẫn luôn ở bên cha
Bài thơ là nén hương thơm của những đứa con phương xa, ở đất Thành đồng Tổ quốc kính dâng lên Người với tấm lòng tha thiết yêu thương vô hạn. Đồng thời đó còn là tiếng nói cảm xúc chân thành ngợi ca Bác, bày tỏ sự thành kính thiêng liêng, niềm thuỷ chung son sắt của nhà thơ và cũng là của nhân dân Việt Nam đối với Bác - vị Cha già vô vàn kính yêu của dân tộc.

Xin được cùng gìn giữ
Hạnh phúc này thơ ơi
Là người con trung hiếu
Được gác với đêm rằm
 
L

lililovely

CHỦ ĐỀ 5:
#
Sang Thu
Tác giả: Hữu Thỉnh



huong+oi.jpg



Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Gió chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về

Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
 
L

lililovely

#1
cùng đề
Phân tích bài Sang thu của Hữu Thỉnh
Mùa thu là một đề tài muôn thuở của các thi nhân Việt Nam. Nếu như Nguyễn Khuyến có chùm thơ thu với ba bài : « Thu vịnh », « Thu điếu », « Thu ẩm » ; Xuân Diệu có « Đây mùa thu tới » ; Lưu Trọng Lư có « Tiếng thu », tất cả đều là những bài thơ rất nổi tiếng, thì Hữu Thỉnh cũng có một chớm « Thu sang » rất nhẹ nhàng êm dịu. Trong đó có hai khổ thơ rất hay ghi lại cảm xúc của nhà thơ trước cảnh sang thu ở một miền quê nhỏ :

« Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.

Sông được nước dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Mùa thu của Hữu Thỉnh được mở ra không phải với sắc vàng tươi của hoa cúc, cũng không phải với vị thơm ngon của cốm làng Vòng, mà là với hương ổi thơm giòn ngọt phả vào trong gió thu. Dường như cái hương thơm dịu ấy chỉ thoang thoảng quanh quất đâu đây. Nó không mang cái mùi thơm hăng hắc như hoa sữa, cũng không quá nhẹ để người ta dễ lãng quên. Hương thơm ấy nhẹ nhàng thoảng qua theo gió, đề người ta chợt xốn xang trong lòng. Làn gió se se lạnh của mùa thu cũng rất khác với cái gió tê tái của mùa đông. Nó chỉ khiến ta hơi co người lại một chút và để rồi thảnh thơi đón nhận cả một lưồng khí thu mát rượt trong lòng. Có lẽ, sẽ chẳng ở đâu có cái gió se lạnh ấy ngoài mùa thu của đất Bắc – cái gió se mà từ lâu vẫn được coi là hồn thu Bắc Bộ. Một hương thơm thu một làn heo may thu đã làm nên cái mở độc đáo cho bài thơ, thậm chí dường như còn độc đáo đến bất ngờ cho cả nhà thơ : “Bỗng nhận ra hương ổi”. Thu đến chẳng hề báo trước! Thu sang từ bao giờ Hữu Thỉnh cũng không biết nữa! Ông chỉ nhận ra một sự bất ngờ mà như đã đợi từ lâu lắm. Thu sang mang theo hơi thửo của mình và mang theo cả cái vẻ thu mơ màng mờ ảo:

“Sương chùng chình qua ngõ”

Sương thu cũng có cái nét đặc biệt riêng của nó. Nó không tan nhanh như sương mùa hạ, cũng chẳng dầy đặc như sương mùa đông. Sương thu là những làn khói mong manh bay vờn nhẹ trên những nãi nhà, ngoài vườn. Sương thu không vô cảm, nó cũng mang hồn người . Sương đang đợi ai, sương đang chờ ai mà sao lưu luyến thế? Từ láy “chùng chình” tạo cho ta cảm giác “dùng dằng nửa ở nửa về”. Đến sương lúc này cũng là sương thu mà Hữu Thỉnh vẫn còn ngẩn ngơ mãi:

“Hình như thu đã về”

Ông thờ ơ quá chăng hay bởi lòng ông đang bối rỗi? Thu về tự bao giờ? Từ hương ổi hay từ làn gió heo may? Thu làm lòng người xao xuyến quá chừng để đến nỗi không biết thu đến thực hay mơ!

Sau một thoáng bỡ ngỡ, nhà thơ như chợt bừng tỉnh- thu đã về thật rồi! Khép lại những hoài nghi, Hữ Thỉnh chẳng còn nghĩ gì ngoài cảm xúc đang dâng trào:

“Sông được nước dềnh dàng,
Chim bắt đầu vội vã”.

Nhịp thơ nhanh và gấp cũng như hơi thở của mùa thu đã bắt đầu đập mạnh. Sông vào mùa này chẳng có mưa to gió lớn nên nước cứ “dềnh dàng”. Con sông tràn trề nước mà hình như cứ không chịu chảy, cứ cố nán lại để đợi chờ ai. Sông chờ nước mùa thu chăng? Một hình ảnh thơ thật thi vị và lãng mạn. Nhưng đàn chim thì không thể dềnh dàng được nữa, chúng phải vội vã bay về phương Nam tránh rét. Tất cả đều đang chuyển mình, đang thay đổi. Thậm chí ngay cả đám mây mùa hạ cũng thấy sốt ruột, phải “Vắt nửa mình sang thu”. Phải chăng đám mây kia có hai nửa thì một nửa nằm bên mùa hạ, nửa kia thuộc về mùa thu. Không biết ở đây là mùa thu lưu luyến mùa thạ hay nhà thơ đang mong chờ mùa hạ mà vẫn lưu luyến mùa thu đây? Điêu này thì Hữu Thỉnh thật khác với các nhà thơ khác. Cũng viết về mùa thu, Nguyễn Khuyến viết: “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” – có nghĩa là thu của Nguyễn Khuyến đã thực là thu, nó không còn vương vấn chút gì của mùa hè rực lửa. Còn Hữu Thỉnh, ông viết mùa thu nhưng lại là vào lúc giao mùa. Chắc hản phải yêu mùa thu lắm Hữu Thỉnh mới vẽ ra được một bức tranh thu nồng đượm hơi ấm đất trời, nồng đượm hơi ấm quê nhà như thế.

Trong làng thơ dân tộc, đã và sẽ có nhiều bài thơ thu hay. Nhưng có lẽ sẽ chẳng ai biết mà lại quên được một chớm “Thu sang” của Hữu Thỉnh - một mùa thu nhẹ nhàng, nữ tính, trông qua như một cô thôn nữ mộc mạc mà sao lại đằm thắm khó quên đến thế!
 
Top Bottom