L
lililovely
![](https://blog.hocmai.vn/wp-content/uploads/2017/07/hot.gif)
![](https://blog.hocmai.vn/wp-content/uploads/2017/07/hot.gif)
CHỦ ĐỀ 1:
Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu
Đồng chí
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ
Đồng chí!
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
(2/1948)
Nhà thơ CHÍNH HỮU
Thơ Chính Hữu có cái nghiêm ngắn của "nhà binh", nhưng không khuôn cứng. Nó vừa là cảm xúc, vừa là trí tuệ. Mặc dù rất kiệm lời nhưng đọc thơ Chính Hữu, ta vẫn thấy đậm hơi thở thời đại, đồng thời thấy được phần nào chân dung tác giả. Thơ Chính Hữu luôn cho ta cảm giác, đằng sau những con chữ là một người sâu sắc, kinh lịch việc đời.
Chính Hữu tên thật là Trần Đình Đắc, sinh ngày 15 tháng 12 năm 1926 mất ngày 27 tháng 11 năm 2007, quê huyện Can Lộc nay là huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Ông nguyên là Đại tá, Phó cục trưởng cục Tuyên huấn thuộc Tổng cục chính trị, Quân đội Nhân dân Việt Nam, nguyên Phó tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam.
Ông học tú tài (triết học) ở Hà Nội trước Cách mạng tháng tám. Năm 1946, ông gia nhập Trung đoàn Thủ Đô và hoạt động trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ. Năm 1947 ông làm Chính trị viên Đại đội; sang năm 1949 đến 1952 là Phó trưởng ban Văn nghệ quân đội. Tại chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, Chính Hữu làm Chính trị viên Tiểu đoàn, thuộc Sư đoàn 308 lừng danh bách chiến bách thắng!
Sau hoà bình 1954 ở Miền Bắc, Chính Hữu giữ chức Phó Cục trưởng Cục tuyên huấn, thuộc Tổng cục Chính trị quân đội nhân dân Việt Nam. Những năm sau này, khi đã chuyển ngành, Chính Hữu từng giữ chức Phó Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam khoá III rồi Uỷ viên BCH Hội Nhà văn Việt Nam khoá IV.
Ông làm thơ từ năm 1947 và hầu như chỉ viết về người lính và chiến tranh. Tập thơ Đầu súng trăng treo (1966) là tác phẩm chính của ông. Bài thơ "Đồng chí" được in vào tháng 2-1948. Thơ ông không nhiều nhưng lại có nhiều bài đặc sắc, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc, hàm súc. Ông đã sáng tác bài thơ "Đồng chí" mà sau này đã được phổ nhạc cho bài hát "Tình đồng chí". Bài hát đã khơi dậy những xúc động mạnh mẽ trong lòng nhiều thế hệ . Ông được Nhà nước Việt Nam trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật đợt hai (năm 2000)
Tác phẩm:
Đầu súng trăng treo (tập thơ, NXB Văn học, 1966)
Thơ Chính Hữu (tập thơ, NXB Hội nhà văn, 1997)
Tuyển tập Chính Hữu (NXB Văn học, 1998)
Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu
![image001_6.jpg](http://vanhocnghethuathatinh.org.vn/uploads/tac-gia-tac-pham/2012_08/image001_6.jpg)
Đồng chí
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ
Đồng chí!
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
(2/1948)
Nhà thơ CHÍNH HỮU
![chinhhuu-a1.jpg](http://vanhocnghethuathatinh.org.vn/uploads/tac-gia-tac-pham/2012_08/chinhhuu-a1.jpg)
Thơ Chính Hữu có cái nghiêm ngắn của "nhà binh", nhưng không khuôn cứng. Nó vừa là cảm xúc, vừa là trí tuệ. Mặc dù rất kiệm lời nhưng đọc thơ Chính Hữu, ta vẫn thấy đậm hơi thở thời đại, đồng thời thấy được phần nào chân dung tác giả. Thơ Chính Hữu luôn cho ta cảm giác, đằng sau những con chữ là một người sâu sắc, kinh lịch việc đời.
Chính Hữu tên thật là Trần Đình Đắc, sinh ngày 15 tháng 12 năm 1926 mất ngày 27 tháng 11 năm 2007, quê huyện Can Lộc nay là huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Ông nguyên là Đại tá, Phó cục trưởng cục Tuyên huấn thuộc Tổng cục chính trị, Quân đội Nhân dân Việt Nam, nguyên Phó tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam.
Ông học tú tài (triết học) ở Hà Nội trước Cách mạng tháng tám. Năm 1946, ông gia nhập Trung đoàn Thủ Đô và hoạt động trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ. Năm 1947 ông làm Chính trị viên Đại đội; sang năm 1949 đến 1952 là Phó trưởng ban Văn nghệ quân đội. Tại chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, Chính Hữu làm Chính trị viên Tiểu đoàn, thuộc Sư đoàn 308 lừng danh bách chiến bách thắng!
Sau hoà bình 1954 ở Miền Bắc, Chính Hữu giữ chức Phó Cục trưởng Cục tuyên huấn, thuộc Tổng cục Chính trị quân đội nhân dân Việt Nam. Những năm sau này, khi đã chuyển ngành, Chính Hữu từng giữ chức Phó Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam khoá III rồi Uỷ viên BCH Hội Nhà văn Việt Nam khoá IV.
Ông làm thơ từ năm 1947 và hầu như chỉ viết về người lính và chiến tranh. Tập thơ Đầu súng trăng treo (1966) là tác phẩm chính của ông. Bài thơ "Đồng chí" được in vào tháng 2-1948. Thơ ông không nhiều nhưng lại có nhiều bài đặc sắc, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc, hàm súc. Ông đã sáng tác bài thơ "Đồng chí" mà sau này đã được phổ nhạc cho bài hát "Tình đồng chí". Bài hát đã khơi dậy những xúc động mạnh mẽ trong lòng nhiều thế hệ . Ông được Nhà nước Việt Nam trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật đợt hai (năm 2000)
Tác phẩm:
Đầu súng trăng treo (tập thơ, NXB Văn học, 1966)
Thơ Chính Hữu (tập thơ, NXB Hội nhà văn, 1997)
Tuyển tập Chính Hữu (NXB Văn học, 1998)
Last edited by a moderator: