- 29 Tháng mười 2018
- 3,304
- 4,365
- 561
- TP Hồ Chí Minh
- THCS Nguyễn Hiền


Trong lịch sử đầy những biến động của xã hội Việt Nam, các tổ chức được thành lập nhằm giành lấy chính quyền về tay mình bao giờ cũng áp dụng nhiều mưu chước, thủ đoạn để đạt được mục đích tối hậu đã đặt ra. Nhà Tây Sơn cũng không nằm ngoài qui luật đó. Họ nổi dậy năm 1771, trong lúc nội tình chính quyền Đàng Trong đang ở vào giai đoạn rối ren nhất. Quyền thần Trương Phúc Loan ỷ vào cương vị Quốc phó và mối quan hệ huyết thống với các chúa đương quyền, đã thao túng việc triều chính, truất người này, dựng người kia, các đại thần cương trực hoặc bị trừ khử, hoặc lánh xa nơi gió tanh mưa máu. Ba anh em nhà Tây Sơn gồm Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ đã chiêu binh mãi mã, cố tận dụng cơ hội rối ren tại kinh đô để giành lấy chính quyền.
Cùng thời điểm đó, chúa Trịnh Sâm tại Đàng Ngoài cũng có cùng một mưu định như thế. Năm 1774, chúa cử tướng Hoàng Ngũ Phúc cầm đầu đoàn quân Nam tiến, mượn danh nghĩa tiêu diệt Trương Phúc Loan, dẹp yên “loạn Tây Sơn”, phục hồi ngôi vị cho nhà Nguyễn. Trong thời gian thế lực còn yếu so với nhà Trịnh ở đất Bắc, phần khác, lòng người vẫn còn hướng về các chúa Nguyễn, ba anh em Tây Sơn đã đổi từ họ Hồ sang họ Nguyễn rồi bắt giữ Đông cung Nguyễn Phúc Dương làm con tin, gả con gái Nhạc là Thọ Hương cho và ép lên ngôi chúa. Biết được mưu sâu của họ, Đông cung Dương tìm cơ hội trốn vào Gia Định. Trong thế lưỡng đầu thọ địch, quân chúa Nguyễn ở phía Nam, quân Trịnh áp sát Qui Nhơn, Nguyễn Nhạc sai người mang vàng lụa cho Hoàng Ngũ Phúc và thư xin nộp ba phủ Quảng Nghĩa, Qui Nhơn và Phú Yên, xin làm tiểu tướng dẫn đại quân đánh lấy Gia Định. Hoàng Ngũ Phúc thấy thế cũng tiện cho mình, tạm cử Nguyễn Nhạc làm Tây Sơn Hiệu trưởng Tráng tiết Tướng quân.
Giữa thập niên 1780, sau khi đã nắm chắc phần thắng ở phía nam, nhận thấy sự suy yếu của họ Trịnh ở phương bắc, nhà Tây Sơn đã tính đến việc dứt họ Trịnh và nhất thống thiên hạ. Trong cuộc Bắc tiến năm 1786, họ thành công bước đầu qua việc tiêu diệt họ Trịnh, dòng họ đang nắm thực quyền tại Thăng Long, song vẫn phải lao tâm khổ tứ trong việc thanh toán những bất đồng nội bộ giữa Nguyễn Huệ, Nguyễn Hữu Chỉnh và Vũ Văn Nhậm.
Cũng từ những diễn biến chính trị và quân sự vào giai đoạn này, chúng ta thấy lập luận dành cho nhà Tây Sơn công thống nhất đất nước đã không đứng vững. Khi họ bức bách được chúa Nguyễn Ánh phải bỏ nước, sống lưu vong ở kinh thành Vọng Các, nước Xiêm (1784—1788) thì vua Lê – chúa Trịnh vẫn còn làm chủ vùng đất Đàng Ngoài; khi họ đánh thắng quân Thanh và chiếm lấy ngai vàng nhà Lê (1789) làm chủ một vùng đất rộng từ Thăng Long vào đến Qui Nhơn, Phú Yên thì quân chúa Nguyễn đã vĩnh viễn làm chủ đất Gia Định, và từ đó tiến dần lên phía bắc, chưa có thời điểm nào nhà Tây Sơn làm chủ trọn vẹn giang sơn nước Việt cả. Về yếu tố “nông dân” trong cuộc nổi dậy giành chính quyền của họ thì các nguồn sử liệu từ thế kỷ XIX trở về trước hầu như không thấy đả động đến và ngay bản thân phong trào Tây Sơn, vào những năm đầu cuộc nổi dậy, cũng chỉ sử dụng khẩu hiệu “lấy của người giàu chia lại cho người nghèo”, chứ không hề mượn chiêu bài nông dân để cổ xúy cho những hoạt động của mình. Đến thế kỷ XX, có lẽ vào năm 1938, lần đầu tiên người ta đọc thấy trong tác phẩm Việt Nam Văn Hóa Sử Cương, học giả Đào Duy Anh đã liên kết các cuộc kháng chiến chống xâm lược phương Bắc của Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Phan Đình Phùng với sự đóng góp tích cực của người nông dân, khi ông viết: “… xông pha giữa rừng rậm mà mở mang bờ cõi vào Chiêm Thành, Chân Lạp, đó là công phu của nông dân; theo Lê Lợi đuổi quân Minh, theo Tây Sơn đánh loạn thần Trương Phúc Loan cũng là nông dân; Nguyễn Huệ đánh đuổi quân Tôn Sĩ Nghị, Phan Đình Phùng kéo dài cuộc Cần vương, cũng đều là nhờ lực lượng của nông dân …” (Sđd – NXB Bốn Phương – Sài Gòn 1938, trang 321)
Song Đào Duy Anh cũng chỉ giới hạn nhận định của mình trong việc thừa nhận rằng sự tham gia của giới nông dân đã mang lại sức mạnh và thắng lợi của phong trào Tây Sơn. Tuyệt nhiên, ông cũng chưa hề khẳng định Tây Sơn là một “phong trào nông dân”. Phải chờ đến các thập kỷ 1950-1960 trở về sau, dưới ngòi bút của giới sử học xã hội chủ nghĩa (XHCN) miền Bắc, cụm từ “phong trào nông dân” mới thực sự hình thành và gắn liền với mọi hoạt động của nhà Tây Sơn. Vào những năm 1960, cuộc nội chiến Nam-Bắc Việt Nam đang lên đến đỉnh điểm, việc đồng nhất hóa hoạt động của một phong trào chống lại trật tự xã hội cũ và giành lấy chính quyền như phong trào Tây Sơn với hoạt động của những người Cộng sản đang cố thống nhất đất nước dưới ngọn cờ công nông của mình đã trở thành một nhu cầu thiết yếu cho sự cổ xúy các sách lược mà họ đã đề ra. Các nhà sử học XHCN đã chọn lập trường đứng hẳn về một bên trong cuộc nội chiến giữa nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn bằng cách miêu tả hình ành chúa Nguyễn Ánh và vương triều Nguyễn về sau là những thành phần “phản động” nhất … Lời giới thiệu bản dịch bộ Đại Nam Thực Lục Tiền Biên in năm 1962 tại Hà Nội là tiêu biểu cho cách hành xử này: “ Những sự kiện lịch sử xảy ra trong khoảng thời gian từ Nguyễn Hoàng đến Đồng Khánh, những công việc mà các vua nhà Nguyễn đã làm trong khoảng thời gian 330 năm ấy, tự chúng, chúng có ý nghĩa sự thực khách quan, tự chúng chúng tố cáo tội ác của nhà Nguyễn trước lịch sử của dân tộc chúng ta. Theo lệnh của các vua nhà Nguyễn, bọn sử thần của nhà Nguyễn làm công việc biên soạn Đại Nam thực lục đã cố gắng rất nhiều để tô son vẽ phấn cho triều đại nhà Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng của lịch sử Việt nam. Nhưng bọn sử thần ấy vẫn không che giấu nổi các sự thật của lịch sử. Dưới ngòi bút của họ, sự thật của lịch sử vẫn nổi bật lên cứng mạnh như gang thép, sáng tỏ như ánh mặt trời để phơi bày cho mọi người biết tội ác của bọn vua chúa phản động, không những chúng đã cõng rắn cắn gà nhà, mà chúng còn cố tâm kìm hãm, đày đọa nhân dân Việt nam trong một đời sống tối tăm đầy áp bức” (sách đã dẫn – NXB Sử Học – Hà Nội 1962, trang 6-7). Bên cạnh việc dành cho nhà Nguyễn những loại từ ngữ tệ hại nhất, cũng từ thời điểm này, hàng loạt sách, tiểu luận, bài báo với nhan đề “phong trào nông dân Tây Sơn” ra đời nhằm đề cao, phóng đại những việc mà nhà Tây Sơn đã làm được, đồng thời bỏ qua những sự thật lịch sử thuộc về mặt tiêu cực của phong trào này….
Lê Nguyễn
31.5.2018
https://www.triviet.news/tay-son-co...XpoU5ilJUA-ecnWhwgzqCn7mIgCVLcGyRh0MW0kryxuWY
Cùng thời điểm đó, chúa Trịnh Sâm tại Đàng Ngoài cũng có cùng một mưu định như thế. Năm 1774, chúa cử tướng Hoàng Ngũ Phúc cầm đầu đoàn quân Nam tiến, mượn danh nghĩa tiêu diệt Trương Phúc Loan, dẹp yên “loạn Tây Sơn”, phục hồi ngôi vị cho nhà Nguyễn. Trong thời gian thế lực còn yếu so với nhà Trịnh ở đất Bắc, phần khác, lòng người vẫn còn hướng về các chúa Nguyễn, ba anh em Tây Sơn đã đổi từ họ Hồ sang họ Nguyễn rồi bắt giữ Đông cung Nguyễn Phúc Dương làm con tin, gả con gái Nhạc là Thọ Hương cho và ép lên ngôi chúa. Biết được mưu sâu của họ, Đông cung Dương tìm cơ hội trốn vào Gia Định. Trong thế lưỡng đầu thọ địch, quân chúa Nguyễn ở phía Nam, quân Trịnh áp sát Qui Nhơn, Nguyễn Nhạc sai người mang vàng lụa cho Hoàng Ngũ Phúc và thư xin nộp ba phủ Quảng Nghĩa, Qui Nhơn và Phú Yên, xin làm tiểu tướng dẫn đại quân đánh lấy Gia Định. Hoàng Ngũ Phúc thấy thế cũng tiện cho mình, tạm cử Nguyễn Nhạc làm Tây Sơn Hiệu trưởng Tráng tiết Tướng quân.
Giữa thập niên 1780, sau khi đã nắm chắc phần thắng ở phía nam, nhận thấy sự suy yếu của họ Trịnh ở phương bắc, nhà Tây Sơn đã tính đến việc dứt họ Trịnh và nhất thống thiên hạ. Trong cuộc Bắc tiến năm 1786, họ thành công bước đầu qua việc tiêu diệt họ Trịnh, dòng họ đang nắm thực quyền tại Thăng Long, song vẫn phải lao tâm khổ tứ trong việc thanh toán những bất đồng nội bộ giữa Nguyễn Huệ, Nguyễn Hữu Chỉnh và Vũ Văn Nhậm.
Cũng từ những diễn biến chính trị và quân sự vào giai đoạn này, chúng ta thấy lập luận dành cho nhà Tây Sơn công thống nhất đất nước đã không đứng vững. Khi họ bức bách được chúa Nguyễn Ánh phải bỏ nước, sống lưu vong ở kinh thành Vọng Các, nước Xiêm (1784—1788) thì vua Lê – chúa Trịnh vẫn còn làm chủ vùng đất Đàng Ngoài; khi họ đánh thắng quân Thanh và chiếm lấy ngai vàng nhà Lê (1789) làm chủ một vùng đất rộng từ Thăng Long vào đến Qui Nhơn, Phú Yên thì quân chúa Nguyễn đã vĩnh viễn làm chủ đất Gia Định, và từ đó tiến dần lên phía bắc, chưa có thời điểm nào nhà Tây Sơn làm chủ trọn vẹn giang sơn nước Việt cả. Về yếu tố “nông dân” trong cuộc nổi dậy giành chính quyền của họ thì các nguồn sử liệu từ thế kỷ XIX trở về trước hầu như không thấy đả động đến và ngay bản thân phong trào Tây Sơn, vào những năm đầu cuộc nổi dậy, cũng chỉ sử dụng khẩu hiệu “lấy của người giàu chia lại cho người nghèo”, chứ không hề mượn chiêu bài nông dân để cổ xúy cho những hoạt động của mình. Đến thế kỷ XX, có lẽ vào năm 1938, lần đầu tiên người ta đọc thấy trong tác phẩm Việt Nam Văn Hóa Sử Cương, học giả Đào Duy Anh đã liên kết các cuộc kháng chiến chống xâm lược phương Bắc của Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Phan Đình Phùng với sự đóng góp tích cực của người nông dân, khi ông viết: “… xông pha giữa rừng rậm mà mở mang bờ cõi vào Chiêm Thành, Chân Lạp, đó là công phu của nông dân; theo Lê Lợi đuổi quân Minh, theo Tây Sơn đánh loạn thần Trương Phúc Loan cũng là nông dân; Nguyễn Huệ đánh đuổi quân Tôn Sĩ Nghị, Phan Đình Phùng kéo dài cuộc Cần vương, cũng đều là nhờ lực lượng của nông dân …” (Sđd – NXB Bốn Phương – Sài Gòn 1938, trang 321)
Song Đào Duy Anh cũng chỉ giới hạn nhận định của mình trong việc thừa nhận rằng sự tham gia của giới nông dân đã mang lại sức mạnh và thắng lợi của phong trào Tây Sơn. Tuyệt nhiên, ông cũng chưa hề khẳng định Tây Sơn là một “phong trào nông dân”. Phải chờ đến các thập kỷ 1950-1960 trở về sau, dưới ngòi bút của giới sử học xã hội chủ nghĩa (XHCN) miền Bắc, cụm từ “phong trào nông dân” mới thực sự hình thành và gắn liền với mọi hoạt động của nhà Tây Sơn. Vào những năm 1960, cuộc nội chiến Nam-Bắc Việt Nam đang lên đến đỉnh điểm, việc đồng nhất hóa hoạt động của một phong trào chống lại trật tự xã hội cũ và giành lấy chính quyền như phong trào Tây Sơn với hoạt động của những người Cộng sản đang cố thống nhất đất nước dưới ngọn cờ công nông của mình đã trở thành một nhu cầu thiết yếu cho sự cổ xúy các sách lược mà họ đã đề ra. Các nhà sử học XHCN đã chọn lập trường đứng hẳn về một bên trong cuộc nội chiến giữa nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn bằng cách miêu tả hình ành chúa Nguyễn Ánh và vương triều Nguyễn về sau là những thành phần “phản động” nhất … Lời giới thiệu bản dịch bộ Đại Nam Thực Lục Tiền Biên in năm 1962 tại Hà Nội là tiêu biểu cho cách hành xử này: “ Những sự kiện lịch sử xảy ra trong khoảng thời gian từ Nguyễn Hoàng đến Đồng Khánh, những công việc mà các vua nhà Nguyễn đã làm trong khoảng thời gian 330 năm ấy, tự chúng, chúng có ý nghĩa sự thực khách quan, tự chúng chúng tố cáo tội ác của nhà Nguyễn trước lịch sử của dân tộc chúng ta. Theo lệnh của các vua nhà Nguyễn, bọn sử thần của nhà Nguyễn làm công việc biên soạn Đại Nam thực lục đã cố gắng rất nhiều để tô son vẽ phấn cho triều đại nhà Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng của lịch sử Việt nam. Nhưng bọn sử thần ấy vẫn không che giấu nổi các sự thật của lịch sử. Dưới ngòi bút của họ, sự thật của lịch sử vẫn nổi bật lên cứng mạnh như gang thép, sáng tỏ như ánh mặt trời để phơi bày cho mọi người biết tội ác của bọn vua chúa phản động, không những chúng đã cõng rắn cắn gà nhà, mà chúng còn cố tâm kìm hãm, đày đọa nhân dân Việt nam trong một đời sống tối tăm đầy áp bức” (sách đã dẫn – NXB Sử Học – Hà Nội 1962, trang 6-7). Bên cạnh việc dành cho nhà Nguyễn những loại từ ngữ tệ hại nhất, cũng từ thời điểm này, hàng loạt sách, tiểu luận, bài báo với nhan đề “phong trào nông dân Tây Sơn” ra đời nhằm đề cao, phóng đại những việc mà nhà Tây Sơn đã làm được, đồng thời bỏ qua những sự thật lịch sử thuộc về mặt tiêu cực của phong trào này….
Lê Nguyễn
31.5.2018
https://www.triviet.news/tay-son-co...XpoU5ilJUA-ecnWhwgzqCn7mIgCVLcGyRh0MW0kryxuWY