Sử 12 Quân đội nhân dân Việt Nam

Thái Minh Quân

Cựu Cố vấn Lịch sử | Cựu Chủ nhiệm CLB Lịch sử
Thành viên
29 Tháng mười 2018
3,304
4,365
561
TP Hồ Chí Minh
THCS Nguyễn Hiền
[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Các Hội nghị Trung ương Đảng 6,7 và đặc biệt là lần thứ 8 đã nhấn mạnh phải chuẩn bị mọi mặt để tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền trong toàn quốc.
Do đó, Đảng ta từng bước xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang cách mạng.

1.Đội du kích Bắc Sơn.
- Đây là lực lượng vũ trang đầu tiên của Đảng đã được thành lập sau khi khởi nghĩa Bắc Sơn (1940).
- Về sau, đội du kích Bắc Sơn đã phát triển thành Cứu quốc quân, mở rộng phạm vi hoạt động ra khắp Thái Nguyên, Tuyên Quang.

2.Các lực lượng tự vệ vũ trang khác.
Ở căn cứ địa Cao Bằng, Hồ Chí Minh đã trực tiếp thành lập đội du kích, tự vệ chiến đấu
.
3.Sự ra đời của Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
- Tháng 11/1944, trong không khí sôi sục cách mạng và do sự thôi thúc của quần chúng, liên tỉnh ủy Cao –Bắc – Lạng sắp phát động một cuộc khởi nghĩa vũ trang.
Kịp thời, Hồ Chí Minh vừa từ TQ về đã quyết định hoàn toàn khởi nghĩa vì thời cơ chưa đến.
Ngay sau đó, Hồ Chí Minh đề ra chủ trương thích hợp để đẩy mạnh công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang bằng cách ra chỉ thị lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân với phương châm : chính trị quan trọng hơn quân sự, tuyên truyền quan trọng hơn tác chiến - Bản chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân của Hồ Chí Minh được coi như là Cương lĩnh quân sự đầu tiên của Đảng ta.
- Ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân gồm 34 người do Võ Nguyên Giáp chỉ huy, đã ra đời tại huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng.
Ngay sau khi thành lập, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã đánh thắng hai trận đầu tiên ở Phai Khắt (25/12/1944) và Nà Ngần (26/12/1944), cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh vũ trang và mở đầu cho những thắng lợi tiếp theo.
Phát huy thắng lợi, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đẩy mạnh hoạt động vũ trang tuyên truyền, xây dựng cơ sở cách mạng, góp phần củng cố căn cứ địa Cao – Bắc – Lạng.

4.Việt Nam giải phóng quân ra đời.
Sau khi Nhật đảo chính Pháp, lực lượng vũ trang đã có một bước tiến mới.
+ Ơ các địa phương cũng xuất hiện thêm nhiều đội vũ trang mới, tiêu biểu là đội du kích Ba Tơ (Quảng Ngãi).
Lực lượng vũ trang đã tiến hành chiến tranh du kích cục bộ, tạo điều kiện để quần chúng nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền ở địa phương.
+ Trước sự phát triển của lực lượng vũ trang, Hội nghị quân sự Bắc Kỳ (4/1945) đã quyết định :
-Thống nhất các Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân thành Việt Nam giải phóng quân (5/1945).
-Phát triển chiến tranh du kích.
-Kiện toàn các căn cứ địa trong cả nước.
-Phát triển các đội tự vệ chiến đấu, tự vệ vũ trang.
-Trong Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945, lực lượng vũ trang đóng vai trò nòng cốt, xung kích, hỗ trợ cho lực lượng chính trị nổi dậy đè bẹp sức phản kháng của kẻ thù, giành quyền làm chủ, đưa thắng lợi trọn vẹn về tay nhân dân.

5.Sự thành lập Quân đội Quốc gia Việt Nam
Ngay từ sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Đảng và nhân dân ta khẩn trương xây dựng lực lượng vũ trang trên khắp cả nước.
- Giải phóng quân và các đội tự vệ đã trở thành công cụ chuyên chính của chính quyền cách mạng Trungương và các địa phương.
- Tháng 9/1945, Hồ Chủ tịch thi mở rộng Giải phóng quân VN và đổi tên là Vệ quốc đoàn.
- Đến 22/5/1946, Vệ quốc đoàn được tổ chức và phát triển thành Quân đội quốc gia của nứơc Việt Nam dân chủ cộng hòa.
- Sau khi toàn quốc kháng chiến bùng nổ, quân đội là lực lượng trụ cột trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đã được rèn luyện và trưởng thành về mọi mặt.
+ Dân quân du kích, bộ đội địa phương và bộ đội chủ lực là ba thứ quân được hình thành và phối hợp chặt chẽ trong các cuộc chiến đấu tiêu diệt địch.
+ Từ những đội quân du kích nhỏ trong những ngày đầu kháng chiến, quân đội ta đã lớn mạnh, trở thành một đội quân chính qui gồm nhiều binh chủng hợp thành, từ trang bị thô sơ tiến lên vũ khí hiện đại, từ hoạt động phân tán, đánh du kích là chính tiến lên hoạt động tập trung tác chiến theo phương thức chính qui, kết hợp tác chiến chính qui với tác chiến du kích, đưa kháng chiến đến toàn thắng.

6. Những chiến công vang dội của quân đội nhân dân Việt Nam.

a/Những thắng lợi lớn trong kháng chiến chống Pháp
- Những trận phục kích, chặn đánh địch cùng với những cuộc chiến đấu bao vây, cô lập, đánh tỉa quân địch trong chiến thắng Việt Bắc (1947) đã làm thay đổi tương quan lực lượng giữa ta và địch, làm phá sản chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của địch, đưa cuộc kháng chiến của ta sang một thời kỳ phát triển mới.
Dần dần lực lượng vũ trang cua ta trưởng thành, từ chổ đánh du kích tiến lên đánh vận động, đánh công kiên.
- Với chiến thắng Biên giới (1950), lần đầu tiên ta nắm quyền chủ động tìm địch mà đánh, đánh tiêu diệt, tập trung quân đánh chỗ yếu, phối hợp đánh đồn diệt viện…
Nghệ thuật tác chiến cũng già dặn : biết chỉ huy một chiến dịch lớn dài ngày, phối hợp chiến trường chính và các chiến trường khác, huy động được nhân tài vật lực ở hậu phương phục vụ cho tiền tuyến.
- Sau chiến thắng Biên giới, quân đội ta đã trưởng thành vượt bậc, đẩy địch vào thế phòng ngự bị động, giành quyền chủ động trên chiến trường chính Bắc bộ:
+ Thu đông 1952, ta mở chiến dịch Tây Bắc, vượt qua nhiều đèo cao sông rộng khiến cho kẻ địch không thể nào ngờ tới.
+ Chiến thắng Hòa Bình (2/1952) đã làm cho địch bị ngập sâu hơn nữa trong thế phòng ngự bị động.
+ Trong chiến cuộc Đông Xuân (1953 -1954) và chiến dịch Điện Biên Phủ, quân đội ta lại càng lớn mạnh vượt bậc vì :
-Biết khoét sâu mâu thuẫn giữa phân tán và tập trung binh lực của địch, buộc Pháp phải phân tán binh lực để đối phó với ta ở 5 nơi, kế hoạch Navarre bước đầu thất bại.
-Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, lần đầu tiên quân đội ta đã tiêu diệt toàn bộ một tập đoàn cứ điểm kiên cố của địch và đã giành được toàn thắng.
-Từ chỗ đánh công kiên nhỏ, quân đội ta đã tiến lên đánh một trận công kiên lớn có nhiều đơn vị và binh chủng phối hợp.
-Qua chiến dịch Điên Biên Phủ, quân đội ta vừa được rèn luyện về tinh thần khắc phục khó khăn, vừa rèn luyện ý chí chiến đấu cao hơn.

2/Những thắng lợi trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Sau năm 1954, miền Bắc đã hoàn toàn giải phóng tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Miền Nam trở thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ.
Để chống lại sự đàn áp khốc liệt của Mỹ – Diệm, lực lượng vũ trang ở miền Nam cũng dần dần phát triển.
Từ những đội tự vệ nhỏ bé làm nhiệm vụ hỗ trợ cho những cuộc đấu tranh chính trị, dần dần phát triển thành lực lượng vũ trang nhân dân địa phương.
Trong phong trào Đồng khởi, tiêu biểu là ở Bến Tre, lực lượng du kích đã hỗ trợ đắc lực cho lực lượng chính trị giành được chính quyền từng mảng ở vùng nông thôn, làm lung lay tận gốc chính quyền Sài Gòn.
Từ Đồng khởi, lực lượng vũ đã ra đời, đẩy mạnh chiến tranh nhân dân vì hình thức đấu tranh chính trị không đủ sức bảo vệ quyền làm chủ (chính quyền) đã giành về tay nhân dân.
- 15/2/1961, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời.
Nghệ thuật tác chiến của quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ngày càng trưởng thành làm cho tất cả các thủ đoạn, các chiến thuật quân sự của địch đều trở nên vô hiệu.
- Quân Giải phóng miền Nam đã lập nên chiến công vang dội tại Ap Bắc (Mỹ Tho) (2/1/1963), mở ra khả năng cho quân đội ta có thể đánh bại chiến tranh đặc biệt của Mỹ – quân đội Sài Gòn.
- Quân ta đánh thắng lớn tại Bình Giã (Bà Rịa) (12/1964) làm quân đội Sài Gòn có nguy cơ tan rã, chiến lược chiến tranh đặc biệt bị dập tan.
- Giữa 1965, đế quốc Mỹ liều lĩnh đưa quân vào miền Nam, quân ta đã đánh thắng trận đầu giòn giã : Vạn Tường (Quảng Ngãi) ngày 18/8/1965.
- Thừa thắng xông lên, quân ta liên tiếp đánh thắng trong hai mùa khô (1965 – 1966) và (1966 1967), làm địch bị thiệt hại nặng.
Quân đội ta ở miền Bắc cũng đã anh dũng đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần I : bắn rơi 3234 máy bay, bắn cháy và bị thương 143 tàu chiến.
Những thắng lợi trên tạo điều kiện cho quân đội ta tiến lên mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968, giành thắng lợi lớn về chính trị : buộc Mỹ phải đình chỉ đánh phá miền Bắc và chịu họp Hội nghị Paris.
Trong tình thế nguy nan, đế quốc Mỹ muốn tìm ra lối thoát bằng cách “thay màu da trên xác chết”, thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và gây chiến tranh phá hoại lần II đối với miền Bắc.
Ở miền Nam, quân đội tiếp tục tiến công địch trên các mặt trận và giành nhiều thắng lợi.
-2/1971 : quân đội ta phối hợp với quân Lào đã đập tan cuộc hành quân chiếm giữ đường 9 Nam Lào của quân đội Sài gòn.
-Trong trận này, Mỹ muốn đưa đội quân chủ lực của Sài gòn ra thi thố xem đã đủ sức đương đầu với Quân Giải phóng chưa ? Thực tế chứng tỏ rằng quân chủ lực của Sài gòn không chống cư nổi với quân chủ lực của ta. Qua trận này cho phép khẳng định : quân ta có khả năng đánh bại chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của địch.
30/3/1972 ; quân ta mở cuộc tập kích chiến lược, trong giai đoạn đầu thu được nhiều thắng lợi.
Quân ta ở miền Bắc đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần II, lập nên trận “Điện Biên Phủ trên không” ở Hà Nội (bắn rơi 735 máy bay, bắn cháy và bị thương 125 tàu chiến).
Với những chiến thắng oanh liệt đó, Mỹ buộc phải ký Hiệp định Paris (27/1/1973) đồng ý rút quân Mỹ về nước.
“Mỹ đã cút”, từ đây thế và lực của ta đã hơn hẳn địch.
Sau 2 năm chuẩn bị, quân ta tiến lên mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, với đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh, đã đánh cho “ngụy nhào”, lập nên một chiến công vĩ đại nhất trong 4000 năm lịch sử của dân tộc.
Với Đại thắng mùa Xuân 1975, từ nay cả nước ta bước qua kỷ nguyên mới : độc lập, thống nhất và tiến lê
 
  • Like
Reactions: thomnguyen1961
Top Bottom