Sử 7 Phân tích giá trị của di sản văn hóa dân gian ở vùng đất Biên Hòa-Đồng Nai do ông bà ta truyền lại .

M

minhtuan250802

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

cho em hỏi:phân tích giá trị của di sản văn hóa dân gian ở vùng đất Biên Hòa-Đồng Nai do ông bà ta truyền lại trong quá trình đấu tranh xây dựng, phát triển, chống ngoại xâm trước khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
 
T

tieuyetdethuong1

Ca dao - dân ca:
Cảm hứng thơ ca của đồng bào dân tộc ít người còn dồi dào, phong phú. Tiếng Châu Mạ, Xtiêng, Châu ro giàu chất thơ, có khả năng biểu cảm tốt, những lời hát đối đáp giao duyên trong lao động và những bài ca nghi lễ thường đọng lại thành ca dao trữ tình. Tiếc là đến nay, chưa có công trình sưu tập đầy đủ. Ở đây chỉ xin nhắc đến Tămpơt (bài ca trữ tình) của người Châu Mạ. Tămpớt của người Châu Mạ gồm những khúc hát đối đáp trữ tình của Kôông và K’Yai do Boulbet ghi chép được ở đồng bào Châu Mạ vùng thượng nguồn sông Đồng Nai Mới đây (năm 1997) nhóm sưu tập thuộc Chi hội văn nghệ dân gian Đồng Nai vừa xác minh, thấy nó còn lưu truyền đứt đoạn ở ấp Hiệp Nghĩa (Định Quán), và Tà Lài (Tân Phú). Qua câu chuyện tình yêu của Kôông và K’Yai, có thể thấy luật tục, nếp sống, quan niệm về tình yêu, hôn nhân của người Châu Mạ xưa. Theo đó cũng có thể thấy đặc điểm hình thức thơ ca của người Châu Mạ. Ví dụ, lời của chàng K’Yai bày tỏ nỗi khát khao nhớ nhung:
Rnom any yô, joh bou chrka;
Đak til hơ, joh bou mbring;
Ching any tur bou, kông tapxai;
Kwaiom ai ma any tam krơm;
Rơm chong toh bo bai,
Mpao krơm ai bintrony ta bụt,
Krơnl bi két chai xo;
Bi rao che kiêng.
Tạm dịch:
Rượu cần (Rnom) không uống vị men sẽ chua,
Nước suối không múc bình sẽ lên men,
Chiêng lâu không đánh sẽ đóng ten đồng.
Chúng mình cùng sống, mong ghì lấy nhau
Cặp vú rắn chắc đóng vào ngực anh,
Như cái khố lành quấn vào eo lưng,
Như lược nhiều chân cài vào búi tóc,
Như diều xoắn vặn cùng sợi dây lèo. Chỉ một đoạn thơ ngắn với vần điệu tự do, liền mạch như trên, nỗi khao khát của K'YiI đã cho thấy quan niệm về tình yêu hôn nhân của trai gái Châu Mạ, cũng cho thấy tập tục uống rượu cần, múc nước suối,đánh chiêng đồng bằng tay của người Châu Mạ xưa. 207 câu hát Tampơk Kôông và K'Yai'' đều chứa đựng những yếu tố trữ tình có ý nghĩa hiện thực như thế. Thơ ca dân gian của người Việt khá phong phú. Đó là lời ca đọng lại từ những khúc hát trữ tình, lâu dần thành câu nói cửa miệng. Phong phú nhất là mảng ca dao trữ tình mang theo trong hành trang của người Việt đến xứ Biên Hòa - Đồng Nai. Nhiều câu hát cũ vẫn nguyên vẹn vẻ đẹp ở đất mới:
Đã thương thì thương cho chắc
Đã trục trặc thì trục trặc cho luôn
Đừng như con thỏ đứng ở đầu truông
Khi vui giỡn bóng khi buồn bỏ đi.
(Ca dao Trung bộ)
Thử chuông cho biết chuông ngân
Thử bạn đôi lần cho biết dại khôn.
(Ca dao Bắc bộ).
Nhiều câu hát gốc Trung bộ, Bắc bộ được biến thể đôi chút trở thành tài sản gắn với địa phương. Ca dao “ Chiều chiều quạ nói với diều... '' phổ biến khắp nơi đậu lại xứ Biên Hòa:
Bao phen quạ nói với diều
Ngã ba Rạch Cát có nhiều cá tôm.
Môtif ca dao “ngó lên'' phổ biến ở Trung bộ (Ngó Lên Hòn Kẽm đá dừng... Ngó lên hòn núi Thiên Thai...) cũng thấy xuất hiện ở Biên Hòa- Đồng Nai:
Ngó lên Bình Điện thấy miệng em cười
Tơ duyên muốn kết sợ người đã có đôi.
Ngó lên Châu Thới có đám mây bạch
Ngó xuống Rạch Cát thấy con cá chạch đỏ đuôi.
Nước chảy xuôi con cá đo đuôi lội ngược
Anh mảng thương nàng có được hay không?
Tương tự, có thể dẫn chứng hàng loạt câu ca dao có nguồn gốc ''miệt ngoài" được cải biến cho phù hợp với tâm tình cư dân vùng đất mới:
Đố anh con rít mấy chưn
Câu ô mấy nhịp chợ Dinh mấy người..
Ba Gioi ăn cá bỏ đầu
Bà Trường thấy vậy xỏ xâu mang về
Má ơn con má hư rồi
Cái trâm cũng bán vàng đôi cũng cầm
Thương em đưa nón đội đầu
Về nhà má hỏi qua cầu gió bay.
Có thể phân định mảng ca dao biến thể của người Biên Hòa – Đồng Nai với mảng ca dao nói về Đồng Nai ở chủ thể thầm mỹ của nó. Xứ Đồng Nai xưa rộng lớn, trù phú, giàu súc hấp dẫn đối với người đi khẩn hoang cho nên có mảng ca dao mang nội dung giới thiệu, mời gọi hướng về Đồng Nai:
Đồng Nai gạo trắng nước trong
Ai đi đến đó thi không muốn về Đồng Nai gạo trắng như cò
Trốn cha trốn mẹ xuống đò theo anh.
Hết gạo thì có Đồng Nai
Hết củi thì có Tân Sài chở vô.
Làm trai cho đáng nên trai
Phú Xuân đã trải Đồng Nai cũng từng.
Anh đi dao bảy dắt lưng
Nón chiên anh đội băng chừng Đồng Nai...
Mảng ca dao ''về Đồng Nai'' có giá trị ở chỗ nó in dấu ấn hình ảnh và cảm xúc của người phương xa đầu hướng đến Đồng Nai. Ngay cả câu ca dao quen thuộc : “Nhà Bè nước chảy chia hay. Ai về GiaĐịnh Đồng Nai thì về “, cảm hứng chủ đạo ở nó có lẽ cũng là tầm tình của người khẩn hoang chưa quen với vùng đất mới. Đáng lưu ý là mảng ca dao dân ca này sinh từ cảm xúc của người địa phương trong bối cảnh tự nhiên - xã hội ở xứ Đồng Nai. Mảng ca dao dân ca này số lượng không nhiều nhưng nó mang ý nghĩa hiện thực và sắc thái địa phương, từ hình thức thể hiện đến dòng mạch cảm xúc. Có thể nói, ca dao dân ca ''đặc sản”' của Biên Hòa – Đồng Nai thường ngắn, vần điệu ít nghiêm ngặt, hay phá cách lục bát, ít chải chuốt ngôn từ, quí là ở lời bộc trực chân tình, lòng thực thà, rộng mở. Cảm xúc buổi đầu bỡ ngỡ, lạ lùng trước cảnh vật hoang sơ rõ ràng là của lớp người mới di dân khẩn hoang ở Nam bộ:
Đến đây xứ sở lạ lùng
Con chim kêu phải sợ, con cá vùng phải kinh
Đi ra sợ đỉa cắn chưn
Xuống sông sầu ních lên rùng cọp tha...
Rồi qua lao động, chinh phục tự nhiên, làm chủ vùng đất mới, niềm tự hào về quê hương, và mối quan hệ máu thịt với đất nước, con người ờ Biên Hòa – Đồng Nai dần trở thành dòng mạch chính trong ca dao dân ca:
Trà Phú Hội, nước Mạch Bà
Sầu riêng An Lợi chuối già Long Tân
Cá buôi, sò huyết Phước An
Gạo thơm Phước Khánh, tôm càng Tam An
Biên Hòa có bưởi Thanh Trà
Thủ Đức nem nướng, Điện Bà Tây Ninh.
Rạch Đông nước chảy,
Con cá nhảy con tôm nhào
Hai đứa mình kết nghĩa
Lẽ nào cha mẹ không thương
Đưa em về miếu Bà Cô
Em trả trái bưởi em bù trái thơm…
Bao giờ cạn nước Đồng Nai
Nát chùa Thiên Mụ mới sai lời nguyền
Cả những niềm vui tinh nghịch còn âm vang hương sắc của quê nhà:
Sáng mai đi chợ Biên Hòa
Mua một vải vuông ta
Đem về cho con Hai nó cắt
Con Ba nó may
Con Tư nó đột
Con Năm nó viền
Con Sáu đơm nút
Con Bảy vắt khuy
Anh bước cẳng ra đi
Con Tám níu, con Chín trì
Ớ Mười ơi, sao em để vậy còn gì áo anh ?
Đồn rằng con gái Phú Yên
Đồng Nai đi cưới một thiên cá mòi
Chẳng tin giở quả ra coi
Chị Hươu đi chợ Đồng Nai
Ghé qua Bến Nghé còn nhai thịt bò...
Trong quá trình đấu tranh, bảo vệ quê hương xứ sở, hào khí Đồng Nai được kết tinh, đọng lại trong ca dao dân ca:
Rồng Chầu ngoài Huế
Ngựa tế Đồng Nai
 
Last edited by a moderator:
T

tieuyetdethuong1

...Nước sông trong đổ lộn sông ngoài
Thương người xa (đáo) xứ lạc loài tới đây.
Nhiều khi, qua một câu hát, tính khí, lối ứng xử của người Biên Hòa – Đồng Nai bộc lộ rõ rệt. Có sự nóng nảy, mãnh liệt của con người bộc trực:
Chợ Biên Hòa đèn mờ đèn tỏ
Anh coi không rõ anh tưởng đèn màu
Rút dao đâm họng máu trào
Để em ở lại kiếm nơi nào hơn anh.
Có tình cảm bền chặt, ít đổi thay:
Nước Đồng Tranh sóng dồi lên xuống
Cửa Đồng Môn mây cuốn buồm xuôi
Bậu với qua hai mặt một lời
Trên có trời dưới có đất
Nguyện non cạn sông dời cũng chẳng xa.
Cũng có nét cởi mở, bạo dạn, mở lòng của thôn nữ Nam bộ:
Thấy anh lớn tuổi mà khờ
Lưng em không dựa, dựa bờ cỏ mai.
Nỗi niềm cơ cực của người cùng khổ cũng được gởi gắm chân tình qua ca dao dân ca; như lời than của một công nhân cao su:
Cao su đi dễ khó về
Khi đi trai tráng khi về bủng beo
Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, ca dao dân ca tiếp tục nâng đỡ tâm hồn của người kháng chiến. Cuộc sống kháng chiến đă đem lại cho ca dao dân ca Đồng Nai không khí mới. Người phụ nữ kháng chiến xứ Đồng Nai thoát khỏi thân phận bị ràng buộc, rụt rè; dám nói thật và nói vui:
Khoai lang lột vỏ hai đầu
Nửa thương anh trung đội trưởng,
Nửa sầu anh chính trị viên.
Bà mẹ của vùng kháng chiến ít chữ nghĩa nhưng lòng đầy lạc quan, câu hát đầy theo hũ gạo nuôi quân:
Sớm mơi (mai) xúc gạo ra vo
Nhớ đoàn Vệ quốc hốt cho nắm đầy
Một tháng là ba mươi ngày Mỗi ngày một nắm nhớ rày Vệ quốc quân.
Không khí đóng cọc, ngăn tàu giặc Pháp của chiến khu lòng chảo cũng được phản ảnh sinh động trong ca dao kháng chiến:
Đốn cây cắm cọc ngăn tàu
Lòng sông Vũng Gấm, Bà Hào, Phước An
Làm cho quân giặc hoang mang
Không cho khủng bố ruồng càn chiến khu.
Và nhiều câu ca dao dưới hình thức “bình cũ rượu mới'' thể hiện đặc điểm kháng chiến ở đia phương:
Khu Đ đi dễ khó về
Lính đi bỏ mạng quan về mất lon.
Ca dao dân ca ở Đồng Nai là gương phản ánh tâm hồn của người Biên Hòa – Đồng Nai gắn với sự phát triển kinh tế xã hội ở đia phương; nếu sưu tập, tìm hiểu đầy đủ có thể qua đó hiểu được mọi cung bậc tình cảm của con người mà lịch sử giấy bút chưa thể ghi nhận.

Tục ngữ, phương ngôn:
Hiện chưa có đầy đủ tài liệu để có thể nói về tục ngữ, phương ngôn của đồng bào các dân tộc Châu Mạ, Châu Ro, Xiêng ở địa bàn Đồng Nai. Nhóm dân tộc này chưa có chữ viết, cho nên kinh nghiệm sản xuất, kinh nghiệm sống và tập quán xã hội ắt được truyền đời chủ yếu qua lời nói ngắn gọn, có vần điệu dễ nhớ hình thành tục ngữ, phương ngôn trong kho tàng văn hóa dân gian địa phương. Như người Châu Ro chẳng hạn, họ truyền nhau kinh nghiệm quan sát tự nhiên để đoán định thời tiết: “Ray nhim Đaq Gung char” hoặc ''GungcharĐaq nhim Ray'' (nghĩa là cây anh (to) ven sông Ray khóc cây em (cỏ tranh) ở núi Chứa Chan là vào mùa mưa). Cũng vậy, họ thấy ếch kêu, ve kêu, đuôi kì đà đen đều, đầu cắt kè chuyển màu xanh, xương ếch chuyển màu đen... thì tiết trời sắp có mưa. Trong ứng xử xã hội, người Châu Ro khuyên nhau giữ nếp sống ''làm em chịu lành làm anh chịu cả “ và ứng xử chừng mực: “vui cười quá đáng thì sống trước mắt, chết sau lưng”.
Luật tục kinh nghiệm của người Châu Mạ chủ yếu cũng truyền khẩu qua lời nói. Kinh nghiệm sống cho thấy:
Rnom any yô jơh bou chrka .
Đaky tilhơ, jơh bou mbring
Ching any tua bou, kông tap xai…
(Rượu cần không uống thì chua men
Bình không múc nước thì lên men
Chiêng để lâu không đánh thì đóng ten đồng)
Bởi vậy, đồ vật phải dùng, yêu phải cưới, con người phải làm việc. Luật tục truyền đời phải nhớ:
Lưỡi mác phải có cán
Muốn ngủ phải có mền
Muốn cưới xin phải có lễ vật và trao vòng tay.
Luật tục cũng nghiêm cấm không được ngoại tình:
Ăn ớt rát họng
Ăn sả rát yết hầu
Ngủ với vợ người khác có chuyện !
Tìm hiểu về tục ngữ, phương ngôn của đồng bào dân tộc ít người ở Đồng Nai là công trình lớn, còn ở phía trước; ở đây chỉ muốn ví dụ để cho thấy nó có vai trò quan trọng, như là bộ bách khoa thư không bằng văn tự trong đời sống tinh thần của đồng bào.
Người Việt ở Biên Hòa - Đồng Nai kế tục vốn tri thức và tiếng nói của cha ông ở nguyên quán cho nên kho tàng tục ngữ, phương ngôn về kinh nghiệm sản xuất, qui tắc ứng xử ít có khác lạ so với xứ Bắc, xứ Trung. Tuy nhiên, có những kinh nghiệm sống hình thành từ cuộc sống cụ thể ở Biên Hòa - Đồng Nai cũng được truyền miệng qua bao thế hệ. Đó là những kinh nghiệm trong việc sản xuất từ việc dự báo thời tiết, mùa vụ đến việc chọn giống nuôi trồng:
- Được mùa cau đau mùa lúa, được mùa lúa úa mùa cau.
- Ruộng đấng thì ăn, ruộng năn thí bỏ.
- Được mùa xoài toi mùa lúa.
- Đười ươi cười thì nắng, cỏ gà trắng thì mưa.
- Tháng giêng nắng dai, tháng hai giông tố
Tháng ba nồm sợ, tháng tư nồm non.
- Gà rừng gáy thì cấy hạt đậu...
- Thợ mộc không ghế, thợ rèn không dao…
Hoặc là những kinh nghiệm thưởng thức sản vật địa phương:
- Cơm Nai Rịa, cá Rí Rang.
- Gạo Cần Đuốc, nước Đồng Nai.
- Trầu bai Bến Cá, thuốc lá Tân Huê.
- Dưa đàng ***, mít đàng đầu.
- Ăn chuối đàng sau, ăn cau đàng trước.
- Nhất đầu thỏ, nhì mỏ lươn.
- Nhất rún chị sui nhì đuôi rắn hổ…
hoặc là những kinh nghiệm ứng xử xã hội hình thành tập quán cộng đồng:
- Đi xe coi ách coi nài
- Coi trong bộ ví coi ngoài bộ tun
- Họ hàng thì xa, sui gia thì gần
- Đất mình thì đội dù qua
- Sang đất người ta thì hạ dù xuống
- Tham ăn một miếng mang tiếng cả đời.
Nhiều khi, tục ngữ phương ngôn Biên Hòa – Đồng Nai khái quát một hiện tượng xã hội, một sự kiện lịch sử để dễ nhớ; ví dụ để nhắc về thầy võ ở Tân Khánh diệt cọp (trước thuộc Tân Uyên, Biên Hòa): Cọp Bàu Lòng Võ Tòng Tân Khánh; hay nói về quan hệ tương xứng giữa hai miền: Gái Đồng Nai trai Thuận Hóa, hoặc lưu ý những mối hiểm nguy: Cọp Biên Hòa, ma Rùng Sắc...
Tục ngữ phương ngôn mang sắc thái của Biên Hòa - Đồng Nai hiện chưa được ghi chép đầy đủ, có bao nhiêu mặt sinh hoạt của con người là có bấy nhiêu lĩnh vực đời sống đã đi vào kho tàng tục ngữ, phương ngôn, nó góp phần làm giàu thêm vốn sống, làm phong phú vốn tiếng Việt ở địa phương.

Diễn xướng
Do mới hình thành từ sự hội nhập nhiều lớp cư dân cách đây hơn ba thập kỷ, ở Biên Hòa – Đồng Nai không thấy có làn điệu dân ca nào đặc thù nhưng lại có gần như đủ giọng dân ca của xứ Trung, xứ Bắc. Quan họ, ca Huế, ví dặm... hiện vẫn có đất sống ở các cụm dân cư còn da diết với cố hương. Tiếng hát ru của các bà má Biên Hòa – Đồng Nai đủ giọng ba miền Nam- Trung – Bắc. Các điệu hò, lý ở đồng ruộng, trên dòng sông hay ở bãi mía, sân đình thường lộ rõ âm điệu của xứ Thuận, xứ Quảng. Có thể nói, hội nhập, tổng hợp, dung hòa là đặc điểm của diễn xướng nghệ thuật truyền thống ở xứ Biên Hòa – Đồng Nai. Có hai dạng diễn xướng nghệ thuật truyền thống khó phân đinh rạch ròi: diễn xướng nghệ thuật trong sinh hoạt thông thường và diễn xướng thực hiện nghi lễ.
Trong sinh hoạt thông thường, người Biên Hòa – Đồng Nai xưa có sinh hoạt nghệ thuật: Hò hát, lý, kể vè, nói thơ, nói tuồng, đờn ca tài tử... nhằm giải trí, giao lưu văn hóa, thư giãn tinh thần và tăng hứng thú lao động.
Sách Gia Định Thành thông chí của Trịnh Hoài Đức có ghi ở Cù Lao Phố xưa, ngày tết có hát sắc bùa: “Đêm 28 tháng chạp, na nhân (tục danh nậu sắc bùa) đánh trống, gõ phách, một bọn 15 người đi dọn đường, trông nhà hào phú nào mở cửa ngõ thì vào dán lá bùa nơi cửa, niệm thần chú, rồi nổi trống phách lên, ca xướng những lời chúc mừng, người chủ nhà dựng cỗ bàn chè rượu khoản đãi và gói tiền thưởng tạ xong nhà này lại qua nhà khác, cũng làm như vậy cho đến chiều buổi trừ tịch mới thôi, ấy là có ý đuổi tà tống ma, trừ cũ rước mới vậy.
Đó là hình thức diễn xướng tổng hợp với chức năng chúc xuân, bắt đầu từ 28 tháng chạp đến rằm tháng riêng hàng năm, có nguồn gốc liên quan đến tục hát xiếc bùa của người Mường theo đoàn người di dân vào Đồng Nai, phổ biến đến đầu thế kỷ XX, hiện đã thất truyền ở Biên Hòa – Đồng Nai, còn thấy bảo lưu ở một số xã thuộc tỉnh Bến Tre.
Hò là hình thức hát đối đáp trong lao động, có người cất giọng diễn lời (xướng), tập thể nối theo phụ họa (xô). Phổ biến ở Biên Hòa – Đồng Nai là loại hò cấy, tức điệu hò của vạn cấy.
 
T

tieuyetdethuong1

...Xưa, dân cấy thường đi cấy tập thể do đầu công tập hợp và điều hành. Đêm khuya, tiếng tù và của đầu công thổi từng hồi, báo hiệu các công cấy thức giấc, nấu cơm tập trung ở điểm hẹn cùng đi ra đồng. Đến đồng ruộng, nếu thiếu công cấy, lại thổi tù và “còn thiếu...” để mời gọi thêm công hoặc nhờ điều phối công từ vạn cấy khác. Không khí cấy tập thể đông vui, nảy sinh nhu cầu hò hát. Giọng hò cấy tự do, âm điệu na ná hò mái ố của miền Tây nhưng có nét riêng của đồng ruộng Đông Nam bộ. Lời hò là lục bát, song thất lục bát hoặc lục bát biến thể được mở đầu bằng giọng hò dài “Hò... hơ... hớ... ơ… ơ’’;giữa câu ngắt đoạn bằng đoạn hò ngắn ‘’hò.. ơ... hò “, kết thúc bằng giọng xuống hơi kéo dài, giọng xô tập thể nối theo ‘’hò khoan... hò”. Dứt giọng xô của câu đối, giọng hò đắp cất lên. Lời hò sau phải tiếp vần câu hò trước. Nếu bí vần là bi đứt, coi như thua cuộc. Lời đáp câu đối nối nhau, bên nam bên nữ, tốp này tốp kia cùng vào cuộc chơi, có người hò cái, có người nhắc câu, tập thể hò phụ họa. Cứ thế cuộc hò kéo dài, có khi liên tục mấy ngày liền. Nhiều người mê hò mà đến mê nhau. Các vùng Cù Lao phố (Biên Hòa), Cù lao Thạnh Hội (Tân Uyên), Bình Lục (Vĩnh Cửu), Phước Hòa (Long Thành), Hiệp Phước (Nhơn Trạch)…đều có những giọng hò nổi tiếng, thường giao lưu đối đáp với nhau, hiện nhiều nghệ nhân ở lứa tuổi 50, 60 trở lên còn ấp ủ nhiều kỷ niệm đẹp về một thời hò cấy. Ví dụ, một đoạn đối đáp hò cấy ghi được ở Cù lao Thạnh Hội:
Nam: (Hò… hơ… ơ… ớ… ơ)
Tay cầm bó mạ rẻ hai (hò…hơ…)
Miệng hò tay cấy/ chân tui thài lai ngoẹo… nàng.
Giọng xô nam: (Hò …. Khoan… hò…)
Nữ: (Hò… hơ… hớ… hơ…)
Mạ non khéo cấy thẳng hàng (hò… hơ… hớ…)
Hỏi người quân tử / đá vàng hay… chơi
Giọng xô nữ: (Hò… khoan… hò…)
Nam: (Hò… hơ… ơ….ớ… ơ…)
Ngó lên Bình Điện thấy miệng em cười (hò… hơ…)
Tơ duyên muốn kết/ sợ người đã có… đôi.
Giọng xô nam: (Hò… khoan… hò…)
Nữ : (Hò… hơ… hớ…. Hơ…)
Ván kia lỡ đóng thuyền rồi (hò… hơ…. Hơ…)
Hỡi người quân tử buông lời nữa… không ?
Giọng xô nữ: (Hò… khoan… hò…)
Sau những lời hò dạo, thưa chào, kết nối, ướm hỏi; cuộc hát đi vào nội dung đố đáp. Sự dí dỏm, thông minh, tài ứng đối bộc lộ cả ở giai đoạn này. Ví dụ:
Nữ: Đồn anh hay chữ lắm tài
Cho em hỏi thử một vài câu ca
Anh người xứ ở Biên Hòa
Đó anh biết bưởi thanh trà đâu ngon
Thuốc đâu đằm khói mê hồn
Đá đâu nước chảy vẫn còn trơ trơ ?
Nam: Hỏi thơ thì đáp bằng thơ
Đá Hàn nước chảy trơ trơ vẫn còn
Tân Huệ thuốc lá thơm ngon
Bưởi thanh thì chẳng đâu hơn Tân Triều
Nữ:Tiếng anh ăn học đã nhiều
Cho em hỏi thử cây điều mấy bông ?
Nam:Bậu về bắt hết cá sông
Qua đây biết được mấy bông cây điều.
Cùng với hò cấy còn có hò chèo xuống (còn gọi hò chèo ghe), hò giã gạo. Theo các nghệ nhân cao tuổi, thực chất, hò chèo xuồng, hò giã gạo là biến thể của hò cấy trong môi trường lao động chèo xuồng hoặc giã gạo; có khác hò cấy chút ít ở giọng hò ngân dài hơn, ít giọng xô và một số lời hát theo văn cảnh.
Cũng theo hình thức lao động mà ngoài hò chèo ghe còn có hò đò dọc của giới thương hò buôn bán đường dài và hò rỗi của nậu ghe chuyên chở cá. Còn có bao nhiều điệu hò nữa ở Biên Hòa – Đồng Nai xưa ? Hiện chưa có đủ điều kiện để trả lời câu hỏi ấy.
Lý là hình thức diễn xướng những câu hát ngắn, ngẫu hứng thành làn điệu, một loại hình diễn xướng phổ biến của Nam bộ “Nam lý, Huế hò, Bắc thơ”. Theo ký ức của người cao tuổi, ngoài các bài lý phổ biến ở Nam bộ, xứ Biên Hòa – Đồng Nai từng có nhiều người hát lý rất hay, nhưng không hiểu do đâu đã mất hẳn, hiện chưa tìm ra dấu vết. Bài Lý Đồng Nai âm điệu thế nào không rõ, chỉ còn lại phần lời không đầy đủ:
Gạo Đàng Ngoài: Bảy tiền một bát
Gạo Đàng Trong: Bảy bát một tiền
Anh không tin thì anh vô Đồng Nai mà coi
Có quân tập trận có chòi bắn bia
Có con ngựa hồng mao tiền mao hậu
Quan võ thầy đầu đội mão đai.
Bà Ba Dẹt ở xã Long Tân, huyện Nhơn Trạch còn hát được điệu lý lu la, lý trèo lên với các câu hát nửa quen, nửa lạ, ví dụ:
Lý lu là: Ai đem con sáo sang sông
Cho nên con sáo ăn buồng chuối tiêu.
Lý trèo lên: Trèo lên cây khế mà rung
Khế rụng đùng đùng không biết khế ai
Khế này là khế chị Hai
Khế chưa có trái, chị Hai có chồng
Xem ra, lý lu là và lý trèo lên có thể là biến thể của các điệu lý đồng dạng phổ biến của Nam bộ.
Kể vè, nói thơ, nói tuồng là hình thức diễn xướng tự sự bằng lối “nói vãn” có gõ nhịp hoặc không gõ nhịp, nhằm thể hiện các bài vè, truyện thơ, tích tuồng thuộc nằm lòng. Ở Biên Hòa
– Đồng Nai xưa lưu truyền nhiều bài vè. Phổ biến là các bài vè quen thuộc (nguyên bản hoặc dị bản) lưu truyền cả nước như: Vè Chàng Lía, vè Thông Chánh, vè Con cút, vè Bài tới, vè Con gái lấy thợ câu cua, vè Nói ngược, vè Nói dóc, vè Trăm thứ bánh… còn có những bài vè ứng tác tại địa phương kể về các sự việc đáng chú ý trong đời thường, có thể nêu: Vè Xã Những mất vợ (Ông Võ Văn Đạc ở xã Long Phước, huyện Long Thành kể), vè Hương thân Cẫn (bà Sáu Nhâm ở xã Phú Hội huyện Nhơn Trạch kể), vè Rượu (ông Chín Lát ở xã Long Tân, huyện Nhơn Trạch kể)…
Qua nội dung của bài vè được kể, có thể tái hiện một phần của đời thực thủa xưa; ví dụ như bài vè Các đường lục tỉnh được ghi chép trong Di chỉ của Trương Vĩnh Ký
… Đến đây buôn bán một khi
Khúc đà chợ Búng, sang đồng Lái Thiêu
Rạch Tra nhà ở treo leo
Hóc Môn là xứ vườn trần nghinh ngang.
Dầu Một, Chợ Thủ, Ba Càng
Quanh co Đồng Phú, nhộn nhàng Võ Sa
Bến Cá xóm ở đông nhà
Xưa kia Đồng Ván trời đà cao xây.
Chợ Đồn đá dợn nước trào,
Hoặc khi ngó thấy Cù Lao An Mày
Hòn núi Châu Thới cao thay
Kiểng Dương qua khỏi xuống ngay Nhà Bè.
Tiếng đồn các lái Đồng Nai
Tháng giêng đóng ván, tháng hai đóng thuyền
Tháng ba trở gạo mà chuyên
Tháng tư hành thuyền rải rác mọi nơi.
Kể từ Rách Cát, Rạch Dơi
Sài Gòn, Bến Nghé tựa nơi Nhà Bè
Rủ nhau lãnh thẻ chiêu đề
Ghe nào bạn nấy ta hèo kéo theo.
Thơ được kể ở Biên Hòa xưa thường là truyện thơ Nôm: Lục Vân Tiên, Lâm Sanh Xuân Nương, Phạm Công Cúc Hoa, Chàng Nhái Kiểng Tiên, Trần Minh khố chuối… hoặc các truyện cổ tích Tàu diễn ca, như: Tống tửu Đơn Hùng Tín, Tiết Cương phục nghiệp… Đầu thể kỷ XX, có thêm truyện thơ lịch sử các hội thâm nhập từ miền Tây: Thơ Sáu Trọng Hai Đẩu, Thơ thầy Thông Chánh, Năm Tỵ, Sáu Nhỏ… Nói tuồng thường là độc diễn các trích đoạn tuồng tích Tàu hoặc tuồng tích dân gian, như: Văn Doan Chàng Lía, ông Trượng – Tiên Bửu…. Hình thức kể vè, nói thơ, nói tuồng thường diễn ra dưới trăng, trong đêm vắng, lúc thư thả hay những buổi hội, giỗ… Đó là món ăn tinh thần của người cao tuổi đồng thời là thế giới kỳ ảo trong trí tưởng tượng của tuổi thơ.
Đồng Dao là một dạng hát – kể vè gắn với trò chơi tập thể của trẻ em. Nhiều bài hát đã mất nghĩa ngôn từ nhưng còn ý nghĩa văn hóa trong cách chơi, cách diễn đạt thể hiện tính hồn nhiên của tuổi thơ. Qua khảo sát thực tế, nhận thấy nhiều bài (hoặc dị bản) đồng dao quen thuộc ở Trung bộ, Bắc bộ có mặt tự lâu đời ở Biên Hòa – Đồng Nai, phổ biến là các bài: Tập tầm vông, chơi với quấc, vè Nói ngược, Cu cu chằn chằn, Con cò Xanh, Xích đu tiên, Bắt con kỳ nhông… Đồng dao tập cho trẻ em hòa mình vào tập thể, quen với luật chơi bình đẳng, tự giác.
Đờn ca tài tử là dạng sinh hoạt của các nhóm theo nghiệp đờn ca bài bản tài tử có nguồn gốc từ nhạc sư Ba Đợi (Nguyễn Quang Đại) phổ biến ở Nam bộ từ đầu thế kỷ XX. Ở Biên Hòa, Nhơn Trạch, Vĩnh Cửu xưa có người theo học các thấy đờn ca tài tử tại Sài Gòn, Cần Đước…
về lập nhóm, sắm nhạc, họp thành ban nhạc, đờn ca các bài bản cổ điển như là sinh hoạt âm nhạc thính phòng của dân gian. Từ đờn ca tài tử đến ca ra bộ, sau này phát triển thành ca cổ, cải lương.
Hát tuồng (còn gọi là hát bội) là hình thức diễn xướng nghệ thuật tuồng truyền thống vốn phát triển đặc sắc ở Trung bộ; có lẽ nó đã phổ biến ở Trấn Biên khá sớm, và có điều gì đó đặc sắc khiến vào khoảng năm 1761 Chúa Nguyễn sai người vào Trấn Biên tìm bắt ca nhi đem về phụng sự phủ Chúa. Tuồng hát ở Nam bộ thường dựa theo tích Tàu, sau có soạn thêm một số tuồng Việt lấy tích trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc; xoay quanh các chủ đề ca ngợi trung, hiếu, tiết, nghĩa. Đoàn hát do dân tự lập, lưu diễn ở các thôn làng, có diễn trích đoạn ở đám tang theo yêu cầu của gia chủ. Như gánh hát bội của Bầu Làm ở xã An Hòa (huyện Long Thành) chẳng hạn. Họ hàng, bạn bè trong làng hợp lại mua sắm, tự soạn kịch bản, tự diễn tập, mùa hát đi diễn khắp miền Đông, mùa ruộng phân tán làm ăn, diễn được hơn 20 vở tuồng tự soạn cả tích Tàu tích Việt, biết thực hiện nghi xây chầu, đại bội theo tục cổ truyền, đã trụ vững nhiều chục năm qua. Từ khi kịch nghệ cải lương phát triển, hát bội dần dần vắng bóng ở sinh hoạt giải trí thông thường, chỉ còn phổ biến trong các lễ cúng Kỳ Yên gắn với nghi lễ xây cầu, đại bội.
Nguồn: google
Mod thông cảm.Bài dài quá nên mình phải chia ra
 
Top Bottom