Văn 10 Phân tích Chí khí anh hùng

Nora Do

Học sinh mới
Thành viên
16 Tháng sáu 2020
1
2
1
19
Bình Thuận
THPT Chuyên Trần Hưng Đạo
[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Truyện Kiều là kiệt tác, là vết son đỏ chói trong sự nghiệp sáng tác của đại thi hào Nguyễn Du. Đây đồng thời cũng là một trong những tác phẩm làm nên sự hưng thịnh của văn học Việt Nam gia đoạn cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Qua Truyện Kiều, Nguyễn Du không chỉ gửi gắm sự đồng cảm, xót xa trước số phận nàng Kiều mà còn gửi cả ước mơ về người anh hung có thể cứu dân , dẹp loạn thông qua hình tượng Từ Hải. Trong đoạn trích “Chí khí anh hùng”, nhân vật Từ Hải hiện lên to lớn với những phẩm chất phi thường của bậc trượng phu “đầu đội trời, chân đạp đất”. Đoạn trích nằm ở vị trí câu 2213 đến câu 2230 thể hiện lý tưởng, ước mơ công lý của tác giả. Bốn câu thơ mở đầu của đoạn trích đã thể hiện rõ khát vọng ra đi vì nghiệp lớn của Từ Hải:
‘Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông với trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.”

Đương lúc cuôc sống vợ chồng đang hạnh phúc, yên ấm, Từ Hải lại quyết chí ra đi, rời xa người vợ tài sắc đẻ thực hiện chí nam nhi của mình. Trong xã hội xưa, thân là nam nhi muốn được công nhận thì phải có công danh, sự nghiêp và cả những công trạng lớn lao. Theo đó, Nguyễn Công Trứ đã từng viết:
“Chí làm trai nam bắc tây đông,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”

Từ Hải là đấng nam nhi vì muốn “vẫy vùng” nên chẳng mấy chốc đã “động lòng bốn phương”. Động từ “thoắt” đã thể hiện một trạng thái nhanh chóng, dứt khoát và đầy kiên quyết của Từ Hải. Nguyễn Du đã đặt người anh hùng vào tình huống khó xử khi một bên là cuốc sống hạnh phúc vợ chồn đầy cám dỗ còn một bên đất trời rộng lớn, nơi người nam nhi được thỏa sức vẫy vùng. Không ngoài suy đoán của đọc giả, người anh hung Từ Hải đã quyết chí ra đi vì lý tưởng, hoài bão của mình. Với cách gọi ‘trượng phu”, Nguyễn Du đã thể hiện sự trân trọng của mình đối với Từ Hải. Đã được miêu tả là “Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”, việc Từ Hải muốn thỏa sức tung hoành khắp thiên hạ âu cũng là điều dễ hiểu. Hình ảnh Từ Hải một mạch ra đi cùng thanh gươm trên yên ngựa trong cõi “trời bể mênh mang” thật oai phong lẫm liệt. Những hạnh phúc cá nhân riêng tư đã không cách nào làm chùn bước chân người anh hung, ‘Từ Hải không phải là người của một nhà, một họ, một xóm, một làng, mà là người của trời đất, của bốn phương’- (Hoài Thanh). Chàng đối diện với vũ trụ, trời đất bao la bằng một tâm thế đầy chủ động.
Trong các cuộc chia ly, nỗi buốn và nước mắt là điều khó có thể tránh khỏi, cuộc chia ly của Kiều và Từ Hải cũng không ngoại lệ:
“Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”

Nho giáo đã quy định nữ nhi phải theo luật “tam tòng”, ấy là: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Thúy Kiều đã khéo léo nhắc lại những điều răn dạy của Nho gia để xin đi theo chồng. Trong lúc ‘hương lửa đương nồng”, Kiều không muốn phải sống cuộc sống xa cách, chia lìa với Từ Hải- người chồng và còn là ân nhân đã cứu nàng ra khỏi chốn lầu xanh. Nàng muốn được theo chồng, nâng khăn sửa túi và chia sẽ nhưng khó khăn trong cuộc cống với chàng. Mong muốn ấy vô cùng chính đáng, dù là về tình hay về lý. Dù phải chịu muôn vài gian nan, vất vả thì Kiều cũng một lòng muốn ở bên Từ Hải. Nhưng với ghĩa khí của bậc quân tử, Từ Hải đáp lại rằng:
“Từ rằng; Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp trời.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ ước nàng nghi gia”

Là ‘tâm phúc tương tri”, hai người đã hiểu rõ lòng dạ nhau sâu sắc đến vậy mà Kiều vẫn “chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”, Đây là lời trách cứ Kiều là tri âm tri kỉ nhưng lại không hiểu cho hành động của Từ Hải. Đồng thời đây cũng là lời động viên, khuyên nhủ Thúy Kiều thay vì nhưng lo lắng trước mắt thì hãy hướng về tương lai tốt đẹp sau này. Từ Hải thuyết phục, hứa hẹn với Thúy Kiều bằng lời lẽ chứa đầy tình cảm chân thành, sâu nặng. Từ Hải ra đi lập sự nghiệp, đế khi trở thành con người xuất chúng, phi thường và nắm trong tay ‘mười vạn tinh binh’chàng sẽ trở về rước Kiều “nghi gia’ trong âm thanh vang dội của ‘tiếng chiêng dậy dất’ và khung cảnh bòng cờ rợp trên mọi nẻo đường.
Để thêm phần thuyết phục ,Từ Hải đã khéo léo nói thêm:
“Bằng nay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận biết là đi đâu.
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì”

Chàng từ chối mong muốn của Thúy Kiều là thật tâm chàng không muốn vợ mình chịu đựng những vất vả. Đối với đấng nam nhi, việc coi bốn bể là nhà là lẽ thường tình nhưng với phận nữ nhi thì không hề dễ dàng và rất khó thích nghi. Có lẽ vì vậy mà Từ Hải khuyên Kiều “đành lòng” chờ đợi ngày chàng thành công trở về. Một năm không quá dài để Kiều chờ đợi, cũng không quá ngắn để Từ Hải lập nên đại nghiệp. Nhưng lời hứa “một năm sau” đã thể hiện quyết tâm cao độ của người anh hùng Từ Hải. Việc lập nên công danh sự nghiệp chẳn phải một sớm một chiều, có người đã mát cả một đời nhưng vẫn chưa thành công, phải là người có quyết tâm cao mới có thể đưa ra lời hứa chắc nịch như Từ Hải.
Nếu như cuộc chia tay của đôi vợ chồng trong “Chinh phụ ngâm” được Đặng trần Côn miêu tả:
Nhủ rồi tay lại cầm tay
Bước đi một bước giây giây lại dừng”

Thì cuộc chia tay giữa Từ Hải và Thúy Kiều trong “Chí khí anh hùng” lại được Nguyễn Du miêu tả với sự dứt khoát:
“Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”

Hành động “dứt áo ra đi’ của Từ Hải thể hiện thái độ dứt khoát, không chút vướng bận chuyện cá nhân. Theo truyện ngụ ngôn trong sách Trang Tử, “chim bằng là giống chim rất lớn, đập cánh làm động nước trong ba ngàn dặm, cưỡi gió mà bay lên chin ngàn dặm. Chim bằng trong thơ văn thường tượng trưng cho khát vọng của người anh hùng có bản lĩnh phi thường, khát khao làm nên sự nghiệp lớn”. Tư thế ra đi của Từ Hải được thể hiện bằng hình ảnh ẩn dụ cánh chim bằng oai phong và có sức manh phi thường. Đây là cái nhìn thể hiện tâm hồn lãng mạn của nhà thơ trung đại.
Qua đoạn trích “Chí khí anh hùng”, đại thi hào Nguyễn Du đã khắc họa thành công hình tượng người anh hùng có khát khao vùng vẫy ‘năm châu bốn bể” cùng ý chí sắt đá, tư thế hiên ngang lẫm liệt làm chủ vũ trụ bao la rộng lớn thông qua hình ảnh ước lệ như “lòng bốn phương”, “mặt phi thường”,… Qua đó, ta có thể thấy được thái độ trân trọng và ngợi ca của tác giả cho hình tượng nhân vật người anh hùng Từ Hải.
*Đây là bài viết của mình, các bạn có thể tham khảo, đừng chép hết nhé!*
 

Harry Nanmes

Cựu Mod Văn | Tài năng sáng tạo 2018
Thành viên
6 Tháng chín 2017
1,593
3,819
544
Hải Dương
THPT Tứ Kỳ.
Truyện Kiều là kiệt tác, là vết son đỏ chói trong sự nghiệp sáng tác của đại thi hào Nguyễn Du. Đây đồng thời cũng là một trong những tác phẩm làm nên sự hưng thịnh của văn học Việt Nam gia đoạn cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Qua Truyện Kiều, Nguyễn Du không chỉ gửi gắm sự đồng cảm, xót xa trước số phận nàng Kiều mà còn gửi cả ước mơ về người anh hung có thể cứu dân , dẹp loạn thông qua hình tượng Từ Hải. Trong đoạn trích “Chí khí anh hùng”, nhân vật Từ Hải hiện lên to lớn với những phẩm chất phi thường của bậc trượng phu “đầu đội trời, chân đạp đất”. Đoạn trích nằm ở vị trí câu 2213 đến câu 2230 thể hiện lý tưởng, ước mơ công lý của tác giả. Bốn câu thơ mở đầu của đoạn trích đã thể hiện rõ khát vọng ra đi vì nghiệp lớn của Từ Hải:
‘Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông với trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.”

Đương lúc cuôc sống vợ chồng đang hạnh phúc, yên ấm, Từ Hải lại quyết chí ra đi, rời xa người vợ tài sắc đẻ thực hiện chí nam nhi của mình. Trong xã hội xưa, thân là nam nhi muốn được công nhận thì phải có công danh, sự nghiêp và cả những công trạng lớn lao. Theo đó, Nguyễn Công Trứ đã từng viết:
“Chí làm trai nam bắc tây đông,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”

Từ Hải là đấng nam nhi vì muốn “vẫy vùng” nên chẳng mấy chốc đã “động lòng bốn phương”. Động từ “thoắt” đã thể hiện một trạng thái nhanh chóng, dứt khoát và đầy kiên quyết của Từ Hải. Nguyễn Du đã đặt người anh hùng vào tình huống khó xử khi một bên là cuốc sống hạnh phúc vợ chồn đầy cám dỗ còn một bên đất trời rộng lớn, nơi người nam nhi được thỏa sức vẫy vùng. Không ngoài suy đoán của đọc giả, người anh hung Từ Hải đã quyết chí ra đi vì lý tưởng, hoài bão của mình. Với cách gọi ‘trượng phu”, Nguyễn Du đã thể hiện sự trân trọng của mình đối với Từ Hải. Đã được miêu tả là “Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”, việc Từ Hải muốn thỏa sức tung hoành khắp thiên hạ âu cũng là điều dễ hiểu. Hình ảnh Từ Hải một mạch ra đi cùng thanh gươm trên yên ngựa trong cõi “trời bể mênh mang” thật oai phong lẫm liệt. Những hạnh phúc cá nhân riêng tư đã không cách nào làm chùn bước chân người anh hung, ‘Từ Hải không phải là người của một nhà, một họ, một xóm, một làng, mà là người của trời đất, của bốn phương’- (Hoài Thanh). Chàng đối diện với vũ trụ, trời đất bao la bằng một tâm thế đầy chủ động.
Trong các cuộc chia ly, nỗi buốn và nước mắt là điều khó có thể tránh khỏi, cuộc chia ly của Kiều và Từ Hải cũng không ngoại lệ:
“Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”

Nho giáo đã quy định nữ nhi phải theo luật “tam tòng”, ấy là: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Thúy Kiều đã khéo léo nhắc lại những điều răn dạy của Nho gia để xin đi theo chồng. Trong lúc ‘hương lửa đương nồng”, Kiều không muốn phải sống cuộc sống xa cách, chia lìa với Từ Hải- người chồng và còn là ân nhân đã cứu nàng ra khỏi chốn lầu xanh. Nàng muốn được theo chồng, nâng khăn sửa túi và chia sẽ nhưng khó khăn trong cuộc cống với chàng. Mong muốn ấy vô cùng chính đáng, dù là về tình hay về lý. Dù phải chịu muôn vài gian nan, vất vả thì Kiều cũng một lòng muốn ở bên Từ Hải. Nhưng với ghĩa khí của bậc quân tử, Từ Hải đáp lại rằng:
“Từ rằng; Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp trời.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ ước nàng nghi gia”

Là ‘tâm phúc tương tri”, hai người đã hiểu rõ lòng dạ nhau sâu sắc đến vậy mà Kiều vẫn “chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”, Đây là lời trách cứ Kiều là tri âm tri kỉ nhưng lại không hiểu cho hành động của Từ Hải. Đồng thời đây cũng là lời động viên, khuyên nhủ Thúy Kiều thay vì nhưng lo lắng trước mắt thì hãy hướng về tương lai tốt đẹp sau này. Từ Hải thuyết phục, hứa hẹn với Thúy Kiều bằng lời lẽ chứa đầy tình cảm chân thành, sâu nặng. Từ Hải ra đi lập sự nghiệp, đế khi trở thành con người xuất chúng, phi thường và nắm trong tay ‘mười vạn tinh binh’chàng sẽ trở về rước Kiều “nghi gia’ trong âm thanh vang dội của ‘tiếng chiêng dậy dất’ và khung cảnh bòng cờ rợp trên mọi nẻo đường.
Để thêm phần thuyết phục ,Từ Hải đã khéo léo nói thêm:
“Bằng nay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận biết là đi đâu.
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì”

Chàng từ chối mong muốn của Thúy Kiều là thật tâm chàng không muốn vợ mình chịu đựng những vất vả. Đối với đấng nam nhi, việc coi bốn bể là nhà là lẽ thường tình nhưng với phận nữ nhi thì không hề dễ dàng và rất khó thích nghi. Có lẽ vì vậy mà Từ Hải khuyên Kiều “đành lòng” chờ đợi ngày chàng thành công trở về. Một năm không quá dài để Kiều chờ đợi, cũng không quá ngắn để Từ Hải lập nên đại nghiệp. Nhưng lời hứa “một năm sau” đã thể hiện quyết tâm cao độ của người anh hùng Từ Hải. Việc lập nên công danh sự nghiệp chẳn phải một sớm một chiều, có người đã mát cả một đời nhưng vẫn chưa thành công, phải là người có quyết tâm cao mới có thể đưa ra lời hứa chắc nịch như Từ Hải.
Nếu như cuộc chia tay của đôi vợ chồng trong “Chinh phụ ngâm” được Đặng trần Côn miêu tả:
Nhủ rồi tay lại cầm tay
Bước đi một bước giây giây lại dừng”

Thì cuộc chia tay giữa Từ Hải và Thúy Kiều trong “Chí khí anh hùng” lại được Nguyễn Du miêu tả với sự dứt khoát:
“Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”

Hành động “dứt áo ra đi’ của Từ Hải thể hiện thái độ dứt khoát, không chút vướng bận chuyện cá nhân. Theo truyện ngụ ngôn trong sách Trang Tử, “chim bằng là giống chim rất lớn, đập cánh làm động nước trong ba ngàn dặm, cưỡi gió mà bay lên chin ngàn dặm. Chim bằng trong thơ văn thường tượng trưng cho khát vọng của người anh hùng có bản lĩnh phi thường, khát khao làm nên sự nghiệp lớn”. Tư thế ra đi của Từ Hải được thể hiện bằng hình ảnh ẩn dụ cánh chim bằng oai phong và có sức manh phi thường. Đây là cái nhìn thể hiện tâm hồn lãng mạn của nhà thơ trung đại.
Qua đoạn trích “Chí khí anh hùng”, đại thi hào Nguyễn Du đã khắc họa thành công hình tượng người anh hùng có khát khao vùng vẫy ‘năm châu bốn bể” cùng ý chí sắt đá, tư thế hiên ngang lẫm liệt làm chủ vũ trụ bao la rộng lớn thông qua hình ảnh ước lệ như “lòng bốn phương”, “mặt phi thường”,… Qua đó, ta có thể thấy được thái độ trân trọng và ngợi ca của tác giả cho hình tượng nhân vật người anh hùng Từ Hải.
*Đây là bài viết của mình, các bạn có thể tham khảo, đừng chép hết nhé!*
Cảm ơn bài viết của bạn nhé!
Mình cũng xin gửi các bạn dàn ý tham khảo để có 1 bài văn hoàn thiện như trên nha!
Phân tích:
  • Nguyễn Du đặt nhân vật Từ Hải vào cuộc sống vợ chồng êm ấm, hạnh phúc:
Nửa năm hương lửa đương nồng,
  • Hoàn cảnh sống có sức níu kéo là khao khát của biết bao con người.
  • Khi khát vọng lớn lao của Từ Hải trỗi dậy một cách bất ngờ:
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
‘“Trượng phu” 1 một từ Hán Việt chỉ người đàn ông có khí phách.
-> Cách thể hiện thái độ trân trọng, ngợi ca của Nguyễn Du đối với Từ Hải.
“động lòng bốn phương”- trong con người từ Hải nó nhắc chí tung hoành bốn phương. Khát vọng vùng vẫy tự do, sống không chịu gò bó vào trong khuôn khổ nào. Nói như Hoài Thanh “Từ Hải không phải là người của một gia đình, một họ, một xóm một làng và người của bốn phương”
=> Câu thơ đã thể hiện được ý chí nguyện lập công, lập xanh xanh nung nấu trong con người Từ Hải, dù cuộc sống vợ chồng đang đỗi nồng nàn hạnh phúc.
=> Làm nổi bật vẻ đẹp của người anh hùng: đẹp từ trong suy nghĩ, khát vọng, quyết tâm, bản lĩnh.
  • Tầm vóc và tư thế của người anh hùng:
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.
+ “Trông vời”: nhìn ra xa, trông ra xa.
+ Hình ảnh trời bể mênh mang gợi trong không gian vũ trụ. Từ đó đẩy tầm vóc người anh hùng sánh ngang với trời đất. Đây là cảm hứng quen thuộc trong văn học trung đại.
(so sánh với Phạm Ngũ Lão “Hoành sóc giang sơn kháp kỷ thu)
+ Tư thế, hành động lên đường của Từ Hải: đi liều một mạch, gợi về 1 tư thế hiên ngang, dứt khoát, dũng cảm, ra đi thực hiện chí lớn.
=> thể hiện thái độ trân trọng, đề cao.
I,(10 câu tiếp) Thông qua ngôn ngữ nhân vậ, chân dung Từ Hải được khám phá ở các phương diện: khát vọng lớn lao, phi thường, tự tin vào tài năng xuất chúng và tấm lòng chân thành với Kiều.
I1, Ngôn ngữ của Kiều tha thiết xin được đi cùng:

  • Lý do: Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng, Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”- tức là nhấn mạnh đạo tam tòng của xã hội phong kiến: đã là phận gái “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”
  • Một lòng xin đi: tình cảm của Kiều với Từ Hải: muốn được chia sẻ tất cả những khó khăn với chàng, muốn được gánh vác cùng và hơn hết là muốn động viên cổ vũ Từ Hải thực hiện chí lớn.
=> Kiều hiểu khát vọng của Từ Hải, hiểu được đây không phải là con người bình thường.
I2, Ngôn ngữ Từ Hải: chân dung tự họa:
* Lời từ chối:
  • Lý do: “Từ rằng: “Tâm phúc tương tri “- là ta với nàng đã hiểu nhau sâu sắc sao nàng vẫn chưa thoát khỏi “Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?””- dưới dạng một câu hỏi tu từ như một lời trách, nhưng cao hơn là lời động viên an ủi Kiều. Nàng đừng có tình cảm của nhi nữ thường tình mà làm chùn bước chân người anh hùng.
-> Như vậy, chứng tỏ Từ Hải coi Kiều là tri âm, tri kỷ, xứng đáng là vợ của một anh hùng.
* Từ Hải vẽ ra một viễn cảnh trong tương lai có một sự nghiệp lẫy lừng bằng các hình ảnh phóng đại:
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
  • Đây là số từ chỉ số nhiều nhưng không cụ thể.
+ “Tinh binh” là đội quân hùng mạnh, tinh nhuệ.
+ “Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường”: âm thanh của đội quân đi đến đâu chiến thắng tới đó qua tiếng chiêng tiếng trống, rồi còn là hình ảnh bóng cờ rợp đường.
=> Với sự nghiệp, đoàn quân hùng mạnh đó chỉ có thể là sự nghiệp của đoàn quân chính nghĩa. Đi đến đến đâu đập tan bất công, mang lại công bằng, đem lại bình yên cho nhân loại đến đó.
-> Khát vọng lớn lao, đáng trân trọng của Từ Hải. Đáng trân trọng là bởi đội quân hùng mạnh không phải là đem lại sự bất công mà mang lại hạnh phúc cho nhân dân.
Làm cho rõ mặt phi thường,
  • Khẳng định tài năng xuất chúng và khát vọng phi thường của bản thân. Tuy nhiên mục đích lớn nhất là là:
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
  • “Rước” thể hiện thái độ đầy yêu thương trân trọng.
  • “Nghi gia” là những nghi lễ trang trọng cần có của một người chồng đón vợ về nhà khi có trong tay một sự nghiệp lẫy lừng.
  • Khi có trong tay 1 sự nghiệp lẫy lừng, Từ Hải mới xứng đáng với kiều, lúc đó mới có đủ khả năng đem lại hạnh phúc cho nàng. Bởi lẽ, cuộc gặp gỡ giữa Kiều và Từ Hải không phải mến nhau vì sắc mà là trọng nhau vì tài.
  • -> Từ muốn làm nên sự nghiệp để mang lại bình yên, ấm ni, công bằng cho nàng, bù đắp lại tất cả những bất công mà nàng đã gặp phải trước đó.
* Khó khăn, gian nan của buổi đầu lập nghiệp:
Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
  • Hình ảnh “bốn bể không nhà: tức là người anh hùng vẫn trắng tay, vẫn chưa có gì, do vậy Kiều đi theo sẽ càng thêm lo bận, khổ cực.
  • -> Bộc lộ lo lắng của Từ Hải bởi Hải không muốn Kiều chịu khó khăn.
  • -> Đây là lo lắng của người chồng dành cho người vợ mà mình hết mực yêu thương.
* Lời hứa của Từ:
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!”
  • Khuyên ngủ: đành lòng chờ đó ít lâu.
-> Lời khuyên thể hiện sự quan tâm, yêu thương. Nàng hãy đành lòng vậy, cầm lòng vậy. Nàng hãy cố nén tình cảm và chịu sự xa cách.
Chầy chăng là một năm sau vội gì!
  • Giọng thơ chắc nịch, mang theo tính chất khẳng định thời gian của sự xa cách cùng lắm là 1 năm. 1 năm là vô cùng ngắn ngủi so với sự nghiệp lẫy lừng của người anh hùng. Điều đó chứng cỏ Kiều có bản lĩnh, có sự tự tin vào tài năng xuất chúng của mình.
  • => Thông qua ngôn ngữ của Từ Hải, chân dung tự họa của người anh hùng hiện lên 1 cách sinh động. Từ Hải không chỉ hooij tụ được vẻ đẹp của người anh hùng mà còn là 1 con người đời thường với trái tim ấm áp, với tình cảm yêu thương Kiều một cách chân thành, sâu nặng.
I3, Hai câu kết: Thông qua ngôn ngữ của Nguyễn Du, Từ Hải hiện lên với vẻ đẹp của tư thế và hành động lên đường.
Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.
  • Hành động: 3 hành động liên tiếp” biểu thị thái độ dứt khoát, mạnh mẽ, kiên quyết, hiên ngang.
  • Sử dụng hình ảnh ước lệ”gió mây bằng” tô đậm cánh chim bàng
-> Dùng hình ảnh cánh chim để miêu tả Từ Hải- tượng trung cho sự nghiệp, khát vọng của những người anh hùng có bản lĩnh phi thường, khat khát làm nên sự nghiệp lớn.
=> Hiện lên với tư thế ra đi hào hùng và lãng mạn- không vướng bận, lưu luyến vì vợ con-> trai anh hùng, gái thuyền uyên.
=> Thông qua ngôn ngữ của Nguyễn Du và của nhân vật đã làm bật nên chí khí của người anh hùng Từ Hải.
II, Đặc sắc nghệ thuật:
  • Thể thơ lục bát với ngôn ngữ trang trọng, nhiều từ Hán Việt, cách ngắt nhịp linh hoạt. Đoạn thơ-) Giọng mạnh mẽ, dứt khoát.
  • Hình ảnh thơ mang tính chất ước lệ với cảm hững vũ trụ, đồng thời giàu giá trị tạo hình và biểu cam.
  • Bút phát xây dựng nhân vật theo hướng lí tưởng hóa, nhưng đồng thời vẫn giúp người đọc hiểu được suy nghĩ và tâm tư của nhân vật.
  • Sự thành công của các biện pháp nghệ thuật: câu hỏi tu từ, liệt kê, sử dụng các điển tích điển cố.
 
  • Like
Reactions: baochau1112
Top Bottom