

Truyện Kiều là kiệt tác, là vết son đỏ chói trong sự nghiệp sáng tác của đại thi hào Nguyễn Du. Đây đồng thời cũng là một trong những tác phẩm làm nên sự hưng thịnh của văn học Việt Nam gia đoạn cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Qua Truyện Kiều, Nguyễn Du không chỉ gửi gắm sự đồng cảm, xót xa trước số phận nàng Kiều mà còn gửi cả ước mơ về người anh hung có thể cứu dân , dẹp loạn thông qua hình tượng Từ Hải. Trong đoạn trích “Chí khí anh hùng”, nhân vật Từ Hải hiện lên to lớn với những phẩm chất phi thường của bậc trượng phu “đầu đội trời, chân đạp đất”. Đoạn trích nằm ở vị trí câu 2213 đến câu 2230 thể hiện lý tưởng, ước mơ công lý của tác giả. Bốn câu thơ mở đầu của đoạn trích đã thể hiện rõ khát vọng ra đi vì nghiệp lớn của Từ Hải:
‘Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông với trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.”
Đương lúc cuôc sống vợ chồng đang hạnh phúc, yên ấm, Từ Hải lại quyết chí ra đi, rời xa người vợ tài sắc đẻ thực hiện chí nam nhi của mình. Trong xã hội xưa, thân là nam nhi muốn được công nhận thì phải có công danh, sự nghiêp và cả những công trạng lớn lao. Theo đó, Nguyễn Công Trứ đã từng viết:
“Chí làm trai nam bắc tây đông,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”
Từ Hải là đấng nam nhi vì muốn “vẫy vùng” nên chẳng mấy chốc đã “động lòng bốn phương”. Động từ “thoắt” đã thể hiện một trạng thái nhanh chóng, dứt khoát và đầy kiên quyết của Từ Hải. Nguyễn Du đã đặt người anh hùng vào tình huống khó xử khi một bên là cuốc sống hạnh phúc vợ chồn đầy cám dỗ còn một bên đất trời rộng lớn, nơi người nam nhi được thỏa sức vẫy vùng. Không ngoài suy đoán của đọc giả, người anh hung Từ Hải đã quyết chí ra đi vì lý tưởng, hoài bão của mình. Với cách gọi ‘trượng phu”, Nguyễn Du đã thể hiện sự trân trọng của mình đối với Từ Hải. Đã được miêu tả là “Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”, việc Từ Hải muốn thỏa sức tung hoành khắp thiên hạ âu cũng là điều dễ hiểu. Hình ảnh Từ Hải một mạch ra đi cùng thanh gươm trên yên ngựa trong cõi “trời bể mênh mang” thật oai phong lẫm liệt. Những hạnh phúc cá nhân riêng tư đã không cách nào làm chùn bước chân người anh hung, ‘Từ Hải không phải là người của một nhà, một họ, một xóm, một làng, mà là người của trời đất, của bốn phương’- (Hoài Thanh). Chàng đối diện với vũ trụ, trời đất bao la bằng một tâm thế đầy chủ động.
Trong các cuộc chia ly, nỗi buốn và nước mắt là điều khó có thể tránh khỏi, cuộc chia ly của Kiều và Từ Hải cũng không ngoại lệ:
“Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”
Nho giáo đã quy định nữ nhi phải theo luật “tam tòng”, ấy là: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Thúy Kiều đã khéo léo nhắc lại những điều răn dạy của Nho gia để xin đi theo chồng. Trong lúc ‘hương lửa đương nồng”, Kiều không muốn phải sống cuộc sống xa cách, chia lìa với Từ Hải- người chồng và còn là ân nhân đã cứu nàng ra khỏi chốn lầu xanh. Nàng muốn được theo chồng, nâng khăn sửa túi và chia sẽ nhưng khó khăn trong cuộc cống với chàng. Mong muốn ấy vô cùng chính đáng, dù là về tình hay về lý. Dù phải chịu muôn vài gian nan, vất vả thì Kiều cũng một lòng muốn ở bên Từ Hải. Nhưng với ghĩa khí của bậc quân tử, Từ Hải đáp lại rằng:
“Từ rằng; Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp trời.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ ước nàng nghi gia”
Là ‘tâm phúc tương tri”, hai người đã hiểu rõ lòng dạ nhau sâu sắc đến vậy mà Kiều vẫn “chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”, Đây là lời trách cứ Kiều là tri âm tri kỉ nhưng lại không hiểu cho hành động của Từ Hải. Đồng thời đây cũng là lời động viên, khuyên nhủ Thúy Kiều thay vì nhưng lo lắng trước mắt thì hãy hướng về tương lai tốt đẹp sau này. Từ Hải thuyết phục, hứa hẹn với Thúy Kiều bằng lời lẽ chứa đầy tình cảm chân thành, sâu nặng. Từ Hải ra đi lập sự nghiệp, đế khi trở thành con người xuất chúng, phi thường và nắm trong tay ‘mười vạn tinh binh’chàng sẽ trở về rước Kiều “nghi gia’ trong âm thanh vang dội của ‘tiếng chiêng dậy dất’ và khung cảnh bòng cờ rợp trên mọi nẻo đường.
Để thêm phần thuyết phục ,Từ Hải đã khéo léo nói thêm:
“Bằng nay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận biết là đi đâu.
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì”
Chàng từ chối mong muốn của Thúy Kiều là thật tâm chàng không muốn vợ mình chịu đựng những vất vả. Đối với đấng nam nhi, việc coi bốn bể là nhà là lẽ thường tình nhưng với phận nữ nhi thì không hề dễ dàng và rất khó thích nghi. Có lẽ vì vậy mà Từ Hải khuyên Kiều “đành lòng” chờ đợi ngày chàng thành công trở về. Một năm không quá dài để Kiều chờ đợi, cũng không quá ngắn để Từ Hải lập nên đại nghiệp. Nhưng lời hứa “một năm sau” đã thể hiện quyết tâm cao độ của người anh hùng Từ Hải. Việc lập nên công danh sự nghiệp chẳn phải một sớm một chiều, có người đã mát cả một đời nhưng vẫn chưa thành công, phải là người có quyết tâm cao mới có thể đưa ra lời hứa chắc nịch như Từ Hải.
Nếu như cuộc chia tay của đôi vợ chồng trong “Chinh phụ ngâm” được Đặng trần Côn miêu tả:
“Nhủ rồi tay lại cầm tay
Bước đi một bước giây giây lại dừng”
Thì cuộc chia tay giữa Từ Hải và Thúy Kiều trong “Chí khí anh hùng” lại được Nguyễn Du miêu tả với sự dứt khoát:
“Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”
Hành động “dứt áo ra đi’ của Từ Hải thể hiện thái độ dứt khoát, không chút vướng bận chuyện cá nhân. Theo truyện ngụ ngôn trong sách Trang Tử, “chim bằng là giống chim rất lớn, đập cánh làm động nước trong ba ngàn dặm, cưỡi gió mà bay lên chin ngàn dặm. Chim bằng trong thơ văn thường tượng trưng cho khát vọng của người anh hùng có bản lĩnh phi thường, khát khao làm nên sự nghiệp lớn”. Tư thế ra đi của Từ Hải được thể hiện bằng hình ảnh ẩn dụ cánh chim bằng oai phong và có sức manh phi thường. Đây là cái nhìn thể hiện tâm hồn lãng mạn của nhà thơ trung đại.
Qua đoạn trích “Chí khí anh hùng”, đại thi hào Nguyễn Du đã khắc họa thành công hình tượng người anh hùng có khát khao vùng vẫy ‘năm châu bốn bể” cùng ý chí sắt đá, tư thế hiên ngang lẫm liệt làm chủ vũ trụ bao la rộng lớn thông qua hình ảnh ước lệ như “lòng bốn phương”, “mặt phi thường”,… Qua đó, ta có thể thấy được thái độ trân trọng và ngợi ca của tác giả cho hình tượng nhân vật người anh hùng Từ Hải.
*Đây là bài viết của mình, các bạn có thể tham khảo, đừng chép hết nhé!*
‘Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông với trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.”
Đương lúc cuôc sống vợ chồng đang hạnh phúc, yên ấm, Từ Hải lại quyết chí ra đi, rời xa người vợ tài sắc đẻ thực hiện chí nam nhi của mình. Trong xã hội xưa, thân là nam nhi muốn được công nhận thì phải có công danh, sự nghiêp và cả những công trạng lớn lao. Theo đó, Nguyễn Công Trứ đã từng viết:
“Chí làm trai nam bắc tây đông,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”
Từ Hải là đấng nam nhi vì muốn “vẫy vùng” nên chẳng mấy chốc đã “động lòng bốn phương”. Động từ “thoắt” đã thể hiện một trạng thái nhanh chóng, dứt khoát và đầy kiên quyết của Từ Hải. Nguyễn Du đã đặt người anh hùng vào tình huống khó xử khi một bên là cuốc sống hạnh phúc vợ chồn đầy cám dỗ còn một bên đất trời rộng lớn, nơi người nam nhi được thỏa sức vẫy vùng. Không ngoài suy đoán của đọc giả, người anh hung Từ Hải đã quyết chí ra đi vì lý tưởng, hoài bão của mình. Với cách gọi ‘trượng phu”, Nguyễn Du đã thể hiện sự trân trọng của mình đối với Từ Hải. Đã được miêu tả là “Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”, việc Từ Hải muốn thỏa sức tung hoành khắp thiên hạ âu cũng là điều dễ hiểu. Hình ảnh Từ Hải một mạch ra đi cùng thanh gươm trên yên ngựa trong cõi “trời bể mênh mang” thật oai phong lẫm liệt. Những hạnh phúc cá nhân riêng tư đã không cách nào làm chùn bước chân người anh hung, ‘Từ Hải không phải là người của một nhà, một họ, một xóm, một làng, mà là người của trời đất, của bốn phương’- (Hoài Thanh). Chàng đối diện với vũ trụ, trời đất bao la bằng một tâm thế đầy chủ động.
Trong các cuộc chia ly, nỗi buốn và nước mắt là điều khó có thể tránh khỏi, cuộc chia ly của Kiều và Từ Hải cũng không ngoại lệ:
“Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”
Nho giáo đã quy định nữ nhi phải theo luật “tam tòng”, ấy là: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Thúy Kiều đã khéo léo nhắc lại những điều răn dạy của Nho gia để xin đi theo chồng. Trong lúc ‘hương lửa đương nồng”, Kiều không muốn phải sống cuộc sống xa cách, chia lìa với Từ Hải- người chồng và còn là ân nhân đã cứu nàng ra khỏi chốn lầu xanh. Nàng muốn được theo chồng, nâng khăn sửa túi và chia sẽ nhưng khó khăn trong cuộc cống với chàng. Mong muốn ấy vô cùng chính đáng, dù là về tình hay về lý. Dù phải chịu muôn vài gian nan, vất vả thì Kiều cũng một lòng muốn ở bên Từ Hải. Nhưng với ghĩa khí của bậc quân tử, Từ Hải đáp lại rằng:
“Từ rằng; Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp trời.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ ước nàng nghi gia”
Là ‘tâm phúc tương tri”, hai người đã hiểu rõ lòng dạ nhau sâu sắc đến vậy mà Kiều vẫn “chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”, Đây là lời trách cứ Kiều là tri âm tri kỉ nhưng lại không hiểu cho hành động của Từ Hải. Đồng thời đây cũng là lời động viên, khuyên nhủ Thúy Kiều thay vì nhưng lo lắng trước mắt thì hãy hướng về tương lai tốt đẹp sau này. Từ Hải thuyết phục, hứa hẹn với Thúy Kiều bằng lời lẽ chứa đầy tình cảm chân thành, sâu nặng. Từ Hải ra đi lập sự nghiệp, đế khi trở thành con người xuất chúng, phi thường và nắm trong tay ‘mười vạn tinh binh’chàng sẽ trở về rước Kiều “nghi gia’ trong âm thanh vang dội của ‘tiếng chiêng dậy dất’ và khung cảnh bòng cờ rợp trên mọi nẻo đường.
Để thêm phần thuyết phục ,Từ Hải đã khéo léo nói thêm:
“Bằng nay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận biết là đi đâu.
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì”
Chàng từ chối mong muốn của Thúy Kiều là thật tâm chàng không muốn vợ mình chịu đựng những vất vả. Đối với đấng nam nhi, việc coi bốn bể là nhà là lẽ thường tình nhưng với phận nữ nhi thì không hề dễ dàng và rất khó thích nghi. Có lẽ vì vậy mà Từ Hải khuyên Kiều “đành lòng” chờ đợi ngày chàng thành công trở về. Một năm không quá dài để Kiều chờ đợi, cũng không quá ngắn để Từ Hải lập nên đại nghiệp. Nhưng lời hứa “một năm sau” đã thể hiện quyết tâm cao độ của người anh hùng Từ Hải. Việc lập nên công danh sự nghiệp chẳn phải một sớm một chiều, có người đã mát cả một đời nhưng vẫn chưa thành công, phải là người có quyết tâm cao mới có thể đưa ra lời hứa chắc nịch như Từ Hải.
Nếu như cuộc chia tay của đôi vợ chồng trong “Chinh phụ ngâm” được Đặng trần Côn miêu tả:
“Nhủ rồi tay lại cầm tay
Bước đi một bước giây giây lại dừng”
Thì cuộc chia tay giữa Từ Hải và Thúy Kiều trong “Chí khí anh hùng” lại được Nguyễn Du miêu tả với sự dứt khoát:
“Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”
Hành động “dứt áo ra đi’ của Từ Hải thể hiện thái độ dứt khoát, không chút vướng bận chuyện cá nhân. Theo truyện ngụ ngôn trong sách Trang Tử, “chim bằng là giống chim rất lớn, đập cánh làm động nước trong ba ngàn dặm, cưỡi gió mà bay lên chin ngàn dặm. Chim bằng trong thơ văn thường tượng trưng cho khát vọng của người anh hùng có bản lĩnh phi thường, khát khao làm nên sự nghiệp lớn”. Tư thế ra đi của Từ Hải được thể hiện bằng hình ảnh ẩn dụ cánh chim bằng oai phong và có sức manh phi thường. Đây là cái nhìn thể hiện tâm hồn lãng mạn của nhà thơ trung đại.
Qua đoạn trích “Chí khí anh hùng”, đại thi hào Nguyễn Du đã khắc họa thành công hình tượng người anh hùng có khát khao vùng vẫy ‘năm châu bốn bể” cùng ý chí sắt đá, tư thế hiên ngang lẫm liệt làm chủ vũ trụ bao la rộng lớn thông qua hình ảnh ước lệ như “lòng bốn phương”, “mặt phi thường”,… Qua đó, ta có thể thấy được thái độ trân trọng và ngợi ca của tác giả cho hình tượng nhân vật người anh hùng Từ Hải.
*Đây là bài viết của mình, các bạn có thể tham khảo, đừng chép hết nhé!*