Nếu có thì tại sao như flo là chất có tính phi kim mạnh nhất nhưng HF lại không có tính oxi hóa?
do HF có liên kết hidro nội phân tử ... nó có cấu trúc dạng polime nên HF khó nhường Proton
Đọc thêm :
Hiđro florua HF:
Công thức cấu tạo: H - F
Do F có độ âm điện lớn hơn H rất nhiều nên liên kết H – F là liên kết cộng hoá trị phân cực, cặp e- dùng chung giữa H và F lệch về phía F nên phân tử HF có cực tính lớn (m=1.98). Khuynh hướng liên hợp thành mạch zích zắc do liên kết hiđro gây nên biểu hiện mạnh mẽ trong các phân tử HF. Vì thế ở điều kiện thường hiđro florua là chất lỏng không màu có tnc = -83o C, ts = 19,5o C. Hiđro flomua có mùi hắc, bốc khói mạnh trong không khí. Ngay ở trạng thái khí, hiđro florua cũng là hỗn hợp các polyme: H2F2, H3F3, H4F4, H5F5, H6F6.
nH2F g (HF)n ............ (n = 2g6)
Các đơn phân tử HF chỉ tồn tại ở nhiệt độ trên 90oC. HF bị nhiệt phân thành các nguyên tử một cách rõ rệt ở trên 3500o C.
Nhờ liên kết hiđro bền vững giữa các phân tử HF trong hiđro florua lỏng làm cho hiđro florua lỏng có hằng số điện môi lớn (e = 40 ở 0oC ) và là dung môi ion hoá tốt (sau nước) đối với nhiều chất vô cơ và hữu cơ. Bản thân hiđro florua lỏng tinh khiết tự ion hoá không đáng kể và xảy ra như sau: proton (hoặc tương ứng là ion flo) từ một phân tử này chuyển sang phân tử khác kèm theo sự biến đổi liên kết hiđro giữa các phân tử thành giữa các nguyên tử và thành liên kết cộng hoá trị. Khi đó, các ion solvat floroni FH2+ và floro hiđrogenat HF2- được tạo thành theo sơ đồ:
H - F ... H - F ... H - F [H - F - H]+ + [F ... H ... F]-
hoặc:
HF + HF H2F+ + F- ........( K»10-10)
F- + HF g HF2-
Như vậy, HF lỏng là dung môi ion hoá mạnh. Nước, florua, sunfat, nitrat của các nguyên tố s nhóm I dễ tan trong dung môi này, còn các hợp chất tương tự của những nguyên tố s nhóm II phần nào khó hơn. Khi đó các chất lấy proton của phân tử HF làm tăng nồng độ ion (HF2)-, có nghĩa chúng thể hiện là các bazơ. Ví dụ:
KNO3 + 2HF K+ + HNO3 + 2HF2-
Còn những chất dễ nhận ion F- như BF3, AsF3, SbF5 và SnF4 là axít trong hiđro florua lỏng, vì làm tăng nồng độ cation H2F+. Ví dụ:
SbF5 +2HF H2F+ + SbF6-
Hiđro florua tan vô hạn trong H2O khi đó xảy ra sự ion hoá các phân tử HF, tạo thành những ion H3O+ và F-.
HF + H2O H3O+ + F- ........( K = 7.10-4)
F- + HF HF2- .........( K = 5)
Vì một phần các phân tử HF liên kết thành các ion phức HF2 nên hàm lượng tương đối của ion H3O+ không đáng kể và do vậy dung dịch HF là axít trung bình, yếu hơn các axít halogenhiđric khác. Cũng do nguyên nhân này nên khi cho dung dịch kiềm vào dung dịch axít HF thì sẽ thu được không phải là florua mà là floro hiđrogenat kiểu K[HF2] (ton/c: 239oC); K[H2 F3] (ton/c: 62[SUB2]oC); K[H3 F4] (ton/c: 66oC); K[H4 F5](ton/c: 72o[/SUB2]C).
Đặc điểm riêng của axít flohiđric là axít duy nhất tác dụng với silic đioxít:
SiO2 + 4 HF 2 H2O + SiF4
Vì thế, không được chứa HF trong bình thuỷ tinh mà dùng chai bằng nhựa hay cao su để đựng. Là axit độc khi rơi vào da nó gây nên những vết loét khó lành.
Phương pháp duy nhất để điều chế HF ở trong công nghiệp cũng như trong phòng thí nghiệm là cho muối florua (thường CaF2) tác dụng với axít sunfuric đặc ở 250oC:
CaF2 + H2SO4 CaSO4 + 2 HF.