Văn 9 Ôn tập văn nghị luận văn học, chuẩn bị vào 10.

Harry Nanmes

Cựu Mod Văn | Tài năng sáng tạo 2018
Thành viên
6 Tháng chín 2017
1,593
3,819
544
Hải Dương
THPT Tứ Kỳ.
[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Chào các bạn! Đặc biệt là những bạn sắp thi vào 10. Nếu bạn thấy văn của mình chưa ổn thì có thể tham khảo topic này nhé!
Hân hạnh đồng hành cùng các bạn trong kỳ thi vào 10!
A, Kiến thức:
I, Khái niệm:
- Là trình bày những nhận xét, đánh giá về nhân vật, chủ đề nghệ thuật của tác phẩm truyện.
II, Bố cục:
1, Mở bài:
- Giới thiệu, tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác (nếu có) hoặc theo đề tài khái quát về nghệ thuật và nhân vật của tác phẩm.
2, Thân bài:
- Lần lượt trình bày các luận điểm về nội dung:
+ Luận điểm 1.....
+ Luận điểm 2.....
- Phân tích căn cứ vào cốt truyện việc, việc làm, cử chỉ, lời nói của nhân vật. Nhận xét, đánh giá, trình bày luận điểm nghệ thuật về cách kể chuyện, cách xây dựng tình huống truyện, cách miêu tả nhân vật.
3, Kết bài:
- Khái quát về nhân vật, đánh giá về tác giả, cảm nghĩ của người viết.
B, Luyện tập.

Chuyện người con gái Nam Xương

Phần I:
I, Tìm hiểu chung:
1 Tác phẩm:
- Tác phẩm trích trong tập truyện Truyền Kì Mạn Lục, ghi chép tản mạn những điều kỳ lạ vẫn được lưu truyền trong dân gian. Đây là câu chuyện thứ 16 trong tổng số 20 tác phẩm.
2, Nội dung:
- Ca ngợi vẻ đẹp phẩm chất, nhân cách, đồng thời thể hiện niềm cảm thương sâu sắc của tác giả đối với người phụ nữ dưới chế độ xã hội phong kiến qua nhân vật Vũ Nương.
3, Nghệ thuật:
- Xây dựng tình huống truyện bất ngờ, miêu tả tâm lý nhân vật,...
Cùng đón đọc phân tích tác phẩm vào ngày mai nhé!
Lưu ý:
  1. Các bạn HOÀN TOÀN có thể tự do trao đổi tại topic này.
  2. Khi cần trao đổi, vui lòng đặt trong SPOILER. Ví dụ: có câu hỏi thì tiêu đề spoiler sẽ là "Giải đáp", có ý kiến sẽ là "Ý kiến",... Tương tự như vậy.
  3. Cách đặt Spoiler xem tại ĐÂY, mục B-14.
  4. Những tác phẩm chính ôn thi, mình sẽ đăng theo như phân phối chương trình. Chẳng hạn như tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương mình đã đăng vào tuần học thứ 4. Tương tự các tác phẩm như vậy.
Gửi bạn phân phối chương trình (sưu tầm)
443612-1-816x1123.gif
443612-2-816x1123.gif
443612-3-816x1123.gif
443612-4-816x1123.gif
 

Harry Nanmes

Cựu Mod Văn | Tài năng sáng tạo 2018
Thành viên
6 Tháng chín 2017
1,593
3,819
544
Hải Dương
THPT Tứ Kỳ.
Phần II: Vẻ đẹp của Vũ Nương
I, Khái quát:

- Vũ Nương là người có đầy đủ vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ "công, dung, ngôn, hạnh". Trước hết:...
Luận cứ 1: Phân tích lời giới thiệu nhân vật của tác giả về: tên, quê, xuất thân, là người thùy mị, nết na, tư dung tốt đẹp.
=) VN là một người thiếu nữ đẹp người đẹp nết.
Luận cứ 2: Phân tích chi tiết biết chồng mình đang nghi, hay ghen-) luôn giữ gìn khuôn phép.
=) Cách cư xử đúng mực, nàng luôn biết giữ gìn hạnh phúc gia đình yên ấm.
Luận cứ 3: Vũ Nương là người phụ nữ rất mực ân tình đằm thắm. Phân tích qua lời đưa tiễn chồng đi chiến trận rằng cái nàng cần là hai chữ bình yên.
=) Không ham danh hoa phú quý, nàng luôn đạt hạnh phúc gia đình lên trên tất cả.
Luận cứ 4: Phân tích đối với chồng. Trước hết nàng là một người vợ thủy chung, son sắc, một trái tim dạt dào tình yêu thương. Chứng minh thông qua nỗi nhớ của Vũ Nương được gửi gắm trong những hình ảnh thiên nhiên "nhìn trăng soi thành cũ, trông liễu rủ bãi hoang lại thổn thức tâm tình, thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi". Đặc biệt, Vũ Nương ở nhà luôn "giữ gìn tấm lòng trong trắng, ba năm giữ gìn một tiết, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót".
=) Là một người vợ yêu chồng, thủy chung.
Luận cứ 5: Phân tích việc nàng đối với mẹ chồng. VN là một nàng dâu hiếu thảo khi chồng đi chiến trận vừa sinh con vừa chăm sóc mẹ. Khi mẹ ốm lấy lời ngọt ngào khuyên lơn, khi mẹ mất hết lòng thương xót lo ma chay tế lễ như đối với cha mẹ đẻ của mình.
=) Nàng dâu hiếu thảo, ân cần, là một người hiếu nghĩa, đức hạnh.
Luận cứ 6: Vũ Nương còn là một người phụ nữ bao dung vị tha. Phân tích qua việc khi gặp Phan Lang nói về quê hương, nàng đã ứa nước mắt khóc cùng việc Trương Sinh là thủ phạm gây ra oan khuất nhưng nàng vẫn "đa tạ tình chàng thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa".
=) VN là một người bao dung độ lượng giàu lòng vị tha.
Ý tóm lại của luận điểm vẻ đẹp của nhân vật VN: Vẻ đẹp của Vũ Nương là vẻ đẹp tiêu biểu của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Tình cảm của tác giả: ngợi ca với tấm lòng trân trọng.
Lưu ý: Tuy gọi là các luận cứ nhưng các bạn vẫn có thể tách dòng trong luận điểm này nhé. Luận điểm 2: Số phận bi kịch của VN sẽ tiếp tục vào ngày tiếp theo nhé!.
 
Last edited:

Harry Nanmes

Cựu Mod Văn | Tài năng sáng tạo 2018
Thành viên
6 Tháng chín 2017
1,593
3,819
544
Hải Dương
THPT Tứ Kỳ.
Phần III: Số phận oan nghiệt của Vũ Nương.
- Nguyên nhân dẫn đến bi kịch:
  • Bắt nguồn từ cuộc hôn nhan không bình đẳng.
  • Cuộc chiến tranh khiến vợ chồng phải chia ly.
  • Đặc biệt là câu nói ngây thơ của bé Đản và lòng ghen, thói hồ đồ đã đẩy câu chuyện đến đỉnh điểm.
- Phản ứng, tâm trạng của VN:
  • Khóc lóc, phân trần. "Vốn con kẻ khó, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót, nào có sự mất nết hư thân như lời chàng nói". (Đồng thời phân tích tâm trạng của VN nhé- đau đớn, xót xa....)
  • TS không thương xót, có hành động vũ phu với nàng. TS đã đuổi VN đi mặc hàng xóm can ngăn. -) Cuộc hôn nhân đổ vỡ, khát khao của VN bị dập tắt.
  • Diễn tả sự thất vọng của VN bằng những câu văn biền ngầu " nay bình rơi....tàn trước gió" -) sự thất vọng, đau đớn.
  • VN mượn con sông để giãi bày tấm lòng trong trắng của mình với lời thề "kẻ bạc mệnh này....diều quạ" -) Nàng kết thúc cõi đời mình.
-) Lời than chính là lời độc thoại nội tâm trong nỗ đau khổ, xót xa. -) Làm bổi bật số phận bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. -) Lời tố cáo xụp bất công, tàn nhẫn,...
* Đặc sắc nghệ thuật:
  • Nghệ thuật dựng truyện như thế nào?
  • Nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật ra sao?
  • Tác dụng của các yếu tố kỳ ảo?
* Kết bài:
  • Khái quát nhân vật.
  • Đánh giá về tác giả, cảm nghĩ của bản thân.
 

Harry Nanmes

Cựu Mod Văn | Tài năng sáng tạo 2018
Thành viên
6 Tháng chín 2017
1,593
3,819
544
Hải Dương
THPT Tứ Kỳ.
Phần IV: Tổng hợp các câu hỏi xoay quanh “Chuyện người con gái Nam Xương”
Lưu ý: Phần IV ở hầu hết mình sẽ đi sưu tầm ở những nguồn khác nhau, KHÔNG PHẢI LÀ CỦA MÌNH. Mục đích mình tìm ở các nguồn khác nhau là để các bạn có thể tham khảo và tự đọc và tìm được cho mình những kiến thức mới, bổ sung thêm những phần trống mà mình chưa biết để bài viết của các bạn được hoàn chỉnh hơn. Các bạn tham khảo nhé!
Câu 1: Nêu những nguyên nhân dẫn tới cái chết oan khuất của Vũ Nương:
- Nguyên nhân trực tiếp: do lời nói ngây thơ của bé Đản. Đêm đêm, ngồi buồn dưới ngọn đèn khuya, Vũ Nương thường “trỏ bóng mình mà bảo là cha Đản”. Vậy nên Đản mới ngộ nhận đó là cha mình, khi người cha thật chở về thì không chịu nhận và còn vô tình đưa ra những thông tin khiến mẹ bị oan.
- Nguyên nhân gián tiếp:
+ Do người chồng đa nghi, hay ghen. Ngay từ đầu, Trương Sinh đã được giới thiệu là người “đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức”, lại thêm “không có học”. Đó chính là mầm mống của bi kịch sau này khi có biến cố xảy ra. Biến cố đó là việc Trương Sinh phải đi lính xa nhà, khi về mẹ đã mất. Mang tâm trạng buồn khổ, chàng bế đứa con lên ba đi thăm mộ mẹ, đứa trẻ lại quấy khóc không chịu nhận cha. Lời nói ngây thơ của đứa trẻ làm đau lòng chàng:“Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia, chỉ nín thin thít” Trương Sinh gạn hỏi đứa bé lại đưa thêm những thông tin gay cấn, đáng nghi: “Có một người đàn ông đêm nào cũng đến” (hành động lén lút che mắt thiên hạ), “mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đảng ngồi cũng ngồi” (hai người rất quấn quýt nhau), “chẳng bao giờ bế Đản cả” (người này không muốn sự có mặt của đứa bé). Những lời nói thật thà của con đã làm thổi bùng lên ngọn lửa ghen tuông trong lòng Trương Sinh.
+ Do cách cư xử hồ đồ, thái độ phũ phàng, thô bạo của Trương Sinh. Là kẻ không có học, lại bị ghen tuông làm cho mờ mắt, Trương Sinh không đủ bình tĩnh, sáng suốt để phân tích những điều phi lý trong lời nói con trẻ. Con người độc đoán ấy đã vội vàng kết luận, “đinh ninh là vợ hư”. Chàng bỏ ngoài tai tất cả những lời biện bạch, thanh minh, thậm chí là van xin của vợ. Khi Vũ Nương hỏi ai nói thì lại giấu không kể lời con. Ngay cả những lời bênh vực của họ hàng, làng xóm cũng không thể cời bỏ oan khuất cho Vũ Nương. Trương Sinh đã bỏ qua tất cả những cơ hội để cứu vãn tấn thảm kịch, chỉ biết la lên cho hả giận. Trương Sinh lúc ấy không còn nghĩ đến tình nghĩa vợ chồng, cũng chẳng quan tâm đến công lao to lớn của Vũ Nương đối với gia đình, nhất là gia đình nhà chồng. Từ đây có thể thấy Trương Sinh là con đẻ của chế độ nam quyền bất công, thiếu lòng tin và thiếu tình thương, ngay cả với người thân yêu nhất.
+ Do cuộc hôn nhân không bình đẳng, Vũ Nương chỉ là “con nhà kẻ khó”, còn Trương Sinh là “con nhà hào phú”. Thái độ tàn tệ, rẻ rúng của Trương Sinh đối với Vũ Nương đã phần nào thể hiện quyền thế của người giàu đối với người nghèo trong một xã hội mà đồng tiền đã bắt đầu làm đen bạc thói đời.
+ Do lễ giáo hà khắc, phụ nữ không có quyền được nói, không có quyền được tự bảo vệ mình. Trong lễ giáo ấy, chữ trinh là chữ quan trọng hàng đầu; người phụ nữ khi đã bị mang tiếng thất tiết với chồng thì sẽ bị cả xã hội hắt hủi, chỉ còn một con đường chết để tự giải thoát.
+ Do chiến tranh phong kiến gây nên cảnh sinh ly và cũng góp phần dẫn đến cảnh tử biệt. Nếu không có chiến tranh, Trương Sinh không phải đi lính thì Vũ Nương đã không phải chịu nỗi oan tày trời dẫn đến cái chết thương tâm như vậy.
Câu 2: Có mấy cái bóng xuất hiện trong tác phẩm? Nêu ý nghĩa của chi tiết cái bóng.
Có hai cái bóng xuất hiện trong tác phẩm:
- Cái bóng “trên tường” hay còn được gọi là “Cha Đản” vừa là chi tiết thắt nút, là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới cái chết của Vũ Nương. Đồng thời cũng là chi tiết mở nút khi Trương Sinh nhận ra cái bóng trên tường chính là người mà bé Đản gọi là Cha, từ đó nhận ra mình đã nghi oan cho Vũ Nương. Chi tiết cái bóng còn góp phần hoàn thiện thêm vẻ đẹp nhân cách của Vũ Nương, đồng thời cũng thể hiện rõ nét hơn số phận bi kịch của Vũ Nương nói riêng và người phụ nữ Việt Nam nói chung. Cái bóng “trên tường” còn góp phần tố cáo những oan trái, bất công trong xã hội phong kiến xưa.
- Cái bóng “trên sông” khi Vũ Nương trở về: đây là cái bóng mang ý nghĩa của chi tiết kỳ ảo. Bóng “trên sông” có ý nghĩa:
+ “Chiếc bóng” xuất hiện ở cuối truyện: “Rồi trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất” : khắc họa giá trị hiện thực, nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.
+ “Chiếc bóng” mang ý nghĩa thức tỉnh người đọc về bài học hạnh phúc muôn đời: một khi đánh mất niềm tin, hạnh phúc chỉ còn là chiếc bóng mờ ảo, hư vô. Oan đã được giải nhưng Vũ Nương không thể trở về trần gian được nữa. Câu chuyện trước sau vẫn là bi kịch về cuộc đời của một người con gái thủy chung, đức hạnh.
Câu 3: Nêu ý nghĩa của chi tiết kỳ ảo trong tác phẩm
* Các chi tiết kỳ ảo trong câu chuyện:
- Phan Lang nằm mộng rồi thả rùa.
- Phan Lang gặp nạn, lạc vào động rùa, gặp Linh Phi, được cứu giúp; gặp lại Vũ Nương, được sứ giả của Linh Phi rẽ đường nước đưa về dương thế.
- Vũ Nương hiện về trong lễ giải oan trên bến Hoàng Giang giữa lung linh, huyền ảo rồi lại biến đi mất.
* Cách đưa các chi tiết kỳ ảo:
- Các yếu tố này được đưa vào xen kẽ với những yếu tố thực về địa danh, về thời điểm lịch sử, những chi tiết thực về trang phục của các mỹ nhân, về tình cảnh nhà Vũ Nương không người chăm sóc sau khi nàng mất… Cách thức này làm cho thế giới kỳ ảo lung linh, mơ hồ trở nên gần với cuộc đời thực, làm tăng độ tin cậy, khiến người đọc không cảm thấy ngỡ ngàng.
* ý nghĩa của các chi tiết kỳ ảo:
- Cách kết thúc này làm nên đặc trưng của thể loại truyện truyền kỳ.
- Làm hoàn chỉnh thêm nét đẹp vốn có của Vũ Nương: nặng tình, nặng nghĩa, quan tâm đến chồng con, phần mộ tổ tiên, khao khát được phục hồi danh dự.
- Tạo nên một kết thúc phần nào có hậu cho câu chuyện.
- Thể hiện về ước mơ, về lẽ công bằng ở cõi đời của nhân dân ta.
- Chi tiết kỳ ảo đồng thời cũng không làm mất đi tính bi kịch của câu chuyện. Vũ Nương trở về mà vẫn xa cách ở giữa dòng bởi nàng và chồng con vẫn âm dương chia lìa đôi ngả, hạnh phúc đã vĩnh viễn rời xa. Tác giả đưa người đọc vào giấc chiêm bao rồi lại kéo chúng ta sực tỉnh giấc mơ - giấc mơ về những người phụ nữ đức hạnh vẹn toàn. Sương khói giải oan tan đi, chỉ còn một sự thực cay đắng: nỗi oan của người phụ nữ không một đàn tràng nào giải nổi. Sự ân hận muộn màng của người chồng, đàn cầu siêu của tôn giáo đều không cứu vãn được người phụ nữ. Đây là giấc mơ mà cũng là lời cảnh tỉnh của tác giả. Nó để lại dư vị ngậm ngùi trong lòng người đọc và là bài học thấm thía về giữ gìn hạnh phúc gia đình.
Câu 4: Phân tích ba lời thoại của Vũ Nương kể từ khi Trương Sinh hiểu lầm nàng cho tới khi nàng tự vẫn.
* Lần 1: “ Thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn mọt tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói..Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”
-> Nàng phân trần để chồng hiểu rõ lòng mình. Nàng đã nói đến thân phận, tình nghĩa vợ chồng, khẳng định tấm lòng thuỷ chung trong trắng, xin chồng đừng nghi oan, có nghĩa là nàng hết lòng hàn gắn hạnh phúc gia đình.
* Lần 2: “ Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồn xa, đầu còn có thể lại lên núi .Vọng Phu kia nữa”
-> Nàng đã nói lên nỗi đau đớn thất vọng khi không hiểu sao mình bị nghi oan, bị đối xử bất công. Đồng thời đó còn là sự tuyệt vọng đến cùng cực khi khao khát của cả đời nàng vun đắp đã tan vỡ. Tình yêu không còn. Cả nỗi đau khỏ chờ chồng đến hoá đá như trước đây cũng không còn có thể làm được nữa.
* Lần 3: “ Kể bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhố”
-> Đây là lời độc thoại. Lời thoại là một lời than, một lời nguyền xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và tiết hạnh trong sạch của nàng. Lời thoại đã thể hiện nỗi thất vọng đến tột cùng, nỗi đau cùng cực của người phụ nữ phẩm giá nhưng bị nghi oan nên tự đẩy đến chỗ tận cùng là cái chết
Câu 5: Tại sao Vũ Nương không muốn trở về với chồng con rồi lại quyết định trở về. Trở về rồi lại không trở về . Tác giả muốn nhắn gửi điều gì ?
Vũ Nương dù khi sống hay lúc đã thác làm ma đều khát khao hạnh phúc gia đình. Nàng vì phải chịu nỗi oan cay nghiệt mà chết . Nhưng vì lòng thanh sạch mà được sống dưới thủy cung. Trong những ngày sống cuộc sống nơi cung nước, Vũ Nương vẫn không quên mong nhớ dương gian và thầm mong chồng sẽ giải oan cho nàng. Vũ Nương nhờ Phan Lang nhắn Trương Sinh lập đàn giải oan là để chính chồng nàng chiêu tiết cho nàng, và hiểu tấm lòng chung thủy của nàng. Âm dương cách trở, nàng chỉ hiện về trong thoáng chốc rồi biến mất. Qua chi tiết này tác giả không chỉ khắc họa sâu sắc bi kịch của Vũ Nương mà còn khẳng định một lần nữa vẻ đẹp tâm hồn của nàng. Lời thoại của Vũ Nương không trở về vì đã thề sống chết với đức Linh Phi còn chứng tỏ nàng là người sống tình nghĩa, đã mắc ân với Linh Phi thì nàng sẽ ở lại trả ân đức đó.
Câu 6: Phân tích ý nghĩa của lời thoại sau: “Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trờ về nhân gian được nữa.”
  • Đây là lời nó cuối cùng của Vũ Nương với Trương Sinh vọng vào từ giữa dòng sông khi chàng lập đàn giải oan cho Vũ Nương.
  • Xây dựng lời thoại cuối cùng của tác phẩm, Nguyễn Dữ đã hoàn thiện vẻ đẹp tâm hồn nhân vật Vũ Nương. Cho dù Vũ Nương không thể trở về nhân gian nhưng khát vọng về cuộc sống nơi trần thế cũng như khát vọng trong nàng từ trước kia vẫn tha thiết khôn nguôi.
  • Câu nói còn cho thấy dù ở trong hoàn cảnh nào (cả khi bị đẩy đến chỗ phải tìm đến cái chết) thì Vũ Nương vẫn là con người giàu ân nghĩa, thủy chung.
  • Sự trân trọng ân nghĩa, thủy chung của Vũ Nương chính là sự trân trọng danh dự phẩm giá của chính mình. Đối với nàng, điều đó quan trọng hơn cả sinh mệnh của bản thân, nó còn thiêng liêng hơn cả khát vọng trở về nhân gian dù khát vọng ấy vô cùng tha thiết. Đó cũng chính là lí do mà Vũ Nương không thể “Trở về nhân gian”.
  • Câu nói còn là lời tố cáo nhẹ nhàng mà sâu sắc xã hội phong kiến – một xã hội đầy bất công ngang trái, xã hội không có đất để cho những người phụ nữ như Vũ Thị Thiết được sống
 
  • Like
Reactions: phamkimcu0ng

Harry Nanmes

Cựu Mod Văn | Tài năng sáng tạo 2018
Thành viên
6 Tháng chín 2017
1,593
3,819
544
Hải Dương
THPT Tứ Kỳ.
Phần V: Đây là phần mà mình sẽ cop các link tại diễn đàn về các bài phân tích nhân vật Vũ Nương. Nhằm mục đích như trên.
Lưu ý: Phần IV ở hầu hết mình sẽ đi sưu tầm ở những nguồn khác nhau, KHÔNG PHẢI LÀ CỦA MÌNH. Mục đích mình tìm ở các nguồn khác nhau là để các bạn có thể tham khảo và tự đọc và tìm được cho mình những kiến thức mới, bổ sung thêm những phần trống mà mình chưa biết để bài viết của các bạn được hoàn chỉnh hơn. Các bạn tham khảo nhé!
MỘT SỐ BÀI PHÂN TÍCH NHÂN VẬT VŨ NƯƠNG TẠI HMF:
https://diendan.hocmai.vn/threads/van-9-phan-tich-nhan-vat-vu-nuong.263964/
https://diendan.hocmai.vn/threads/v...-hoi-phong-kien-qua-nhan-vat-vu-nuong.136146/
https://diendan.hocmai.vn/threads/van-9-phan-tich-nhan-vat-vu-nuong.165583/
https://diendan.hocmai.vn/threads/ngu-van-9-phan-tich-nhan-vat-vu-nuong.261622/
 

Harry Nanmes

Cựu Mod Văn | Tài năng sáng tạo 2018
Thành viên
6 Tháng chín 2017
1,593
3,819
544
Hải Dương
THPT Tứ Kỳ.
CHỦ ĐỀ: TRUYỆN KIỀU.
CHỊ EM THÚY KIỀU
Phần I:
I, Tìm hiểu chung:
1 Tác phẩm:
- Tác phẩm:
P1: Gặp gỡ và đính ước.
P2: Gia biến và lưu lạc.
P3: Đoàn tụ.
2, Nội dung:
- Đoạn trichs ca ngợi ngợi vẻ đẹp, nhan sắc, tài năng và tự cảm về kiếp người tài hoa, bạc mệnh-) cảm hứng trong thơ ca của ND.
3, Nghệ thuật:
- Bút phép ước lệ, các biện pháp tu từ: so sánh, ẩn dụ,...
II, Dàn ý:
Thường thì mình sẽ để dàn ý sang phần 2, 3 nhưng trong tác phẩm này, mình sẽ hướng dẫn các bạn thêm về phần mở bài. Có 10 cách mở bài phổ biến trong nghị luận văn học nhưng hiện tại thì mình thông thạo nhất là mở bài theo tác giả và đề tài, nên mình sẽ hướng dẫn chi tiết 2 phần này. Các cách mở bài khác bạn đọc thêm, tham khảo tại đây nhé!
Cách 1: Tạo một bất ngờ
Ví dụ bài Nghị luận xã hội, đề bài: “Cảm nghĩ của em về một người em thương yêu nhất?” (Văn học 10), có học sinh giới thiệu về bà ngoại “siêu độc”: Mẹ - tiếng gọi thiêng liêng ấy với con luôn là nắng ấm trong những đêm trường đông giá, mẹ là nơi bình yên cho đời con trong bão tố, mẹ là bóng mát cho con trong dặm trường khô khát, mẹ cho con những yêu thương vô bờ bến như nước ngoài đại dương, như năng lượng của mặt trời, nhưng người em muốn dành cả bài văn này để nói về lại là bà ngoại của em, mẹ em tuyệt vời thế kia, ngoại còn sinh ra cả mẹ cơ mà, làm sao em không yêu cho được.
Mở bài này của học sinh tuy còn lỗi ngữ pháp nhưng giáo viên dễ dàng bỏ qua lỗi nhỏ ấy vì ý tưởng bất ngờ “rất học trò” của em đã là một món quà cho người chấm bài, nên có thể em vẫn dành được trọn điểm phần mở bài. (Để mở bài này trọn vẹn, học sinh chỉ cần bỏ dấu chấm câu đúng chỗ và viết hoa sau dấu chấm).
Cách 2: Đi từ thể loại. Không có tác phẩm nào không thuộc một thể loại chính nào đó. Mỗi thể loại văn học lại có những đặc trưng riêng. Người viết dựa vào đặc trưng thể loại để giải mã nghệ thuật trong tác phẩm.
Ví dụ, đề bài “Ánh sáng trong truyện Hai đứa trẻ của Thạch Lam?” (Văn học 11). Mở bài có thể là: Truyện ngắn hấp dẫn người đọc không chỉ ở cốt truyện giàu kịch tính, ở nhân vật điển hình cụ thể về hoàn cảnh sống và cụ thể về tính cách, sinh động về diễn biến tâm hồn. Thế nhưng, có nhà văn lại viết truyện ngắn theo một cách thức riêng, chỉ miêu tả những xao động tuổi mới lớn lại có sức nặng tựa ngàn cân.
Đó là lối đi riêng của Thạch Lam trong tập Gió đầu mùa nói chung, truyện Hai đứa trẻ nói riêng. Truyện mong manh những ánh sáng lập lòe của hoàng hôn, của đèn dầu đêm khuya, của đom đóm, của sao trời… nhưng ngời sáng lòng nhân hậu, giàu ước mơ ở hai đứa trẻ. Đối lập với bóng tối, ánh sáng là hình tượng giàu tính biểu tượng và đầy ám ảnh tưởng như vô tình nhưng Thạch Lam đã cố công xây dựng.
Cách 3: Đi từ nhân vật hoặc hình tượng. Có nhiều cách để đi từ nhân vật, hình tượng hoặc một câu văn, câu thơ “đinh” của tác phẩm. Nhân vật đối với tác phẩm tự sự, hình tượng/ hình ảnh trong tác phẩm trữ tình có ý nghĩa như những chiếc đinh để tác giả treo lên đó những “lời gửi”.
Cách 4: Đi từ giai đoạn. Mỗi thời kì lịch sử, giai đoạn lịch sử lại có những bối cảnh xã hội khác nhau ảnh hưởng ít nhiều trực tiếp hoặc gián tiếp đến giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Đi từ giai đoạn, thời kì văn học sẽ gắn hiện thực đời sống với nhà văn - tác phẩm - bạn đọc. Cách mở bài này dành cho những học sinh kiểu “triết học gia” ham tìm tòi, ưa lí luận nhờ đó dễ tạo điểm nhấn cho bài văn.
Cách 5: Đi từ hoàn cảnh sáng tác. Hầu hết các tác phẩm văn chương đều có một “duyên cớ” khiến tác giả không thể không viết. Đi từ hoàn cảnh sáng tác, học sinh chỉ cần khéo léo lồng tên tác giả, tác phẩm vào và không quên vấn đề nghị luận là trọn vẹn.
Cách 6: Đi từ tác giả. (Bạn xem phần mình hướng dẫn nhé!)
Cách 7: Đi từ chủ đề.
Cũng như đề tài, bất kì tác phẩm văn học nào cũng có một hoặc hơn một chủ đề nào đó. Nếu đề tài là hiện thực cuộc sống được phản ánh trong tác phẩm thì viết về đề tài đó nhà văn muốn gửi gắm thông điệp gì, viết để làm gì chính là chủ đề của tác phẩm văn học. Hiểu điều này, học sinh có thể làm mở đầu bài văn dễ như hát bài tủ.
Cách 8: Đi từ đề tài. (Bạn xem phần mình hướng dẫn nhé!)
Cách 9: So sánh. So sánh là cách đối chiếu hai hoặc nhiều đối tượng với nhau ở phương diện giống nhau, khác nhau hoặc cả hai. Tác dụng của so sánh là giúp người đọc dễ thấy rõ bản chất của vấn đề đang nói trong tương quan với đối tượng khác. Mở bài theo cách so sánh không khó, vì vấn đề của nghị luận văn học trong trường THPT thường là trung tâm của đời sống văn học - tác phẩm.
Một vấn đề văn học thường có nhiều tác giả, ở nhiều đất nước, nhiều thời đại khác nhau quan tâm, phản ánh trong những bó hoa ngôn từ(). Cách mở bài so sánh gây thích thú cho người đọc vì nó chứng tỏ người viết có kiến thức văn học phong phú. Có nhiều cách làm phần mở bài theo dạng so sánh. Tác phẩm thì có tác giả, đề tài, chủ đề, nội dung, cảm hứng, thể loại, giai đoạn, giá trị, nhân vật… nên người viết có thể đối chiếu điểm giống nhau, khác nhau hoặc vừa giống vừa khác của một trong các vấn đề đó.
So sánh hai hoặc hơn hai đối tượng. Cách so sánh nhiều đối tượng đòi hỏi thêm kĩ năng xâu chuỗi, tổng hợp kiến thức của người viết. Người viết có đất để “khoe tài” với kiểu mở bài này. Đó là ưu điểm, nhưng nếu không khéo có thể làm lu mờ vấn đề đang bàn vì đối tượng so sánh nổi bật hơn.
Ví dụ, đề bài “Vẻ đẹp người phụ nữ qua hai bài thơ Tự tình II - Hồ Xuân Hương và Thương vợ - Trần Tế Xương?” (Văn học 11).
Mở bài: Cùng thời, cùng rung cảm trước thân phận người phụ nữ đương thời đại, nếu Nguyễn Du thổn thức bên thân phận người phụ nữ tài năng nhưng bạc mệnh, Hồ Xuân Hương quan tâm đến giá trị sống, khát khao hạnh phúc, bản lĩnh sống, thì Trần Tế Xương chủ yếu viết về người vợ trong cuộc sống đời thường. Qua các bài thơ Tự tình Hồ Xuân Hương và Thương vợ của Trần Tế Xương, ta thấy rõ vẻ đẹp của người phụ nữ bấy giờ.
Cách 10: Nêu phản đề. Nêu phản đề có nghĩa là tạo tình huống đối lập, tương phản, ngược với vấn đề trong đề bài. So với cách giới thiệu trực tiếp thì cách mở bài này thường gây ấn tượng ngay với người đọc. Đồng thời tạo cho người đọc cảm giác thích thú, lôi cuốn khiến họ nhập tâm đọc ngay phần thân bài với toàn bộ chú tâm. Lợi thế dễ thấy của cách mở này là người viết nhanh chóng gây được thiện cảm cho người đọc. Đây là một điểm cộng cho người viết.
Cách mở bài theo đề tài: Có những tác phẩm có đề tài giống nhau như Lão Hạc, Làng-) đề tài người nông dân, đồng chí, bài thơ về tiểu đội xe không kính-) đề tài người lính. Vậy tại sao ta không lấy đề tài đó dẫn dắt đến tác phẩm cần phân tích nhỉ? Bởi từ đó, ta có thể giới thiệu vấn đề một cách mạch lạc và rõ ràng hơn.
Ví dụ:
Viết về thiên nhiên và con người trong thời kỳ lao động đổi mới luôn là nguồn cảm hứng cho các nhà thơ, nhà văn như Tế Hanh với bài Quê Hương, Nguyễn Thành Long với truyện ngắn Lặng lẽ Sapa,... Huy Cận cũng viết về đề tài này trong một bài thơ đầy ấn tượng, đó là bài Đoàn thuyền đánh cá....(khái quát ND+NT)
Cách mở bài theo tác giả: Nói một cách đơn giản nhất chính là giới thiệu các nét chính của tác giả và phong cách nghệ thuận của họ.
Mình lấy ví dụ luôn là tác phẩm truyện Kiều nhé!
Nguyễn Du là một trong những nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc. Ông được mệnh danh là thiên tài văn học, nhà nhân đạo chủ nghĩalớn, danh nhân văn hóa thế giới. Nguyễn Du đã để lại cho đời một kiệt tác trở thành bất hủ, đó là Truyện Kiều. Tác phẩm không chỉ thành công ở..... mà còn nổi bật ở ...... Đoạn trích.... là một minh chứng cho những thành công ấy.
Tham khảo nhé!
 
  • Like
Reactions: phamkimcu0ng
Top Bottom