- 29 Tháng mười 2018
- 3,304
- 4,365
- 561
- TP Hồ Chí Minh
- THCS Nguyễn Hiền


Ps: bài này TMQ viết để phục vụ cho việc học tập sử 7 và sử 10, mở rộng hơn một chút. Bài viết này tham khảo từ sách: Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 1 của Trương Hữu Quýnh, Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam của Trần Văn Giàu cùng một số tài liệu khác (xem ở cuối bài viết này).
1. Tổ chức chính quyền thời Nguyễn
Rút kinh nghiệm lớn của nhà Lê bị chúa Trịnh lấn quyền, cả kinh nghiệm tại Đàng Trong chúa Nguyễn bị quyền thần Trương Phúc Loan chiếm hết quyền, Hoàng đế đầu tiên là Gia Long đặt lệ "tứ bất": không lập tể tưởng, không lấy trạng nguyên, không lập hoàng hậu và không phong vương cho người ngoại tộc. Vua trực tiếp nắm các cơ quan và các bộ, trực tiệp phê các văn bản của triều đình, xét xử và cả việc chủ trì các khoa thi chọn nhân tài. Khi có vấn đề quan trọng, đình thần sẽ tập trung ở hoàng cung để "đình nghị" (góp ý) với vua, nhưng quyền tối hậu quyết định là ở vua. Sách Quốc triều chính biên toát yếu nhận xét nhà vua rất tích cực xem xét tấu chương để chỉ bảo, quyết định các việc quan trọng. Nhưng học giả Pháp là E.Luro thẳng thắng hơn khi nhận xét: "Nguyên lý quyền hành to quá mức. Hệ thống chính quyền như thế là quân chủ thuần túy, tuyệt đối, không có gì kiểm soát, không có hiến pháp thực, không có giới hạn nào khác hơn là tục mạnh mẽ trở nên lệ, không có văn bản lâu đời truyền lại từ triều này sang triều kia".
Vua có quyền rất lớn, thay trời trị dân, làm chủ tất cả đất đai. Người ta nói vua có 8 quyền lớn: "tước" (ban tước), "lộc" (ban cho lộc), "dữ" (cho bất cứ ai vật gì của nước), "trí" (cất nhắc mọi người), "sinh" (cho người được sống), "đoạt" (chiếm bất cứ cái gì của ai), "phế" (bỏ bất cử cái gì đã đặt ra từ trước), "tru" (giết bất cứ ai).
Lúc đầu, Hoàng đế lập Gia Định thành và Bắc thành rồi giao cho Nguyễn Văn Thành và Lê Văn Duyệt làm Tổng trấn. Sau khi hai ông bị triều đình bắt tội vì "có lòng khác", Hoàng đế bãi bỏ và chia thành 29 tỉnh thành trực thuộc. Ở vùng núi thì lập chức tri châu, nhưng duy trì chế độ "lưu quan" để giám sát.
2. Luật pháp:
Luật pháp của Hoàng đế sao chép chủ yếu từ luật Mãn Thanh. Lý do chỉ vì: Mãn Thanh là triều đại ngoại tộc thiểu số muốn thống trị người Hán đa số nên làm bộ luật rất khắc nghiệt. Triều Nguyễn cũng giống như thế. Mặt dù nói là tham khảo luật Hồng Đức, nhưng kỳ thực luật nhà Nguyễn xóa bỏ phần lớn các định chế tiến bộ thời Hồng Đức: hôn nhân, gia đình, dân luật và trừng phạt rất nghiêm khắc. Ví dụ tội "phản nghịch" bị xử nhiều cách khác nhau, có khi là xử tử ba họ của tội phạm là họ cha, họ mẹ và họ vợ. Hình thức phạt đánh trượng phổ biến, cả quan chức cũng bị đánh. Tuy nhiên, có quan chức được vua cho chuộc tội bằng lúa (60 - 100 hộc), bằng tiền (180 - 900 quan).
3. Quân đội
Chính quyền Nguyễn có số quan lại lớn, số binh lính phải nói rất lớn. Theo nguyên tắc 5 đinh bắt 1 lính thì thời Gia Long, nước ta chỉ có 612.000 đinh mà có tới 113.000 lính.
Tư tưởng "trọng văn khinh võ" rất nặng nề, nên trang bị của quân lính thời Nguyễn rất lạc hậu, quân lính không có lương (theo Luro). Phạm Phú Thứ tâu thẳng với vua: "quân sĩ hèn nhát do chưởng quan vô năng cũng vô quyền, quân sĩ nhiều người không có lương bổng, họ phải tìm cách giúp đỡ nhau chứ không trông gì gạo trong kho".
4. Quan lại
Kế nữa là tư tưởng "trọng quan khinh dân": làm quan là cách nhanh nhất để mau giàu có. Sang do chức tước, giàu do hối lộ. Theo Phạm Phú Thứ thì "quan lại khắc nghiệt, lấy giấy tờ pháp luật làm gông cùm, lấy dân đen làm cá thịt. Quan coi dân như kẻ thù, dân sợ quan như sợ cọp". Pasquier cắt nghĩa rõ tại sao quan có nhiều quyền: "các nhà thi hành quyền lực của mình như thể nhà vua thường trực giao cái quyền ấy cho họ; mà nhà vua thì có đủ tất cả các quyền hành, cho nên đại diện của vua phải nắm tất cả quyền hành".
Quan lại hầu hết được tuyển chọn qua các kỳ thi. Một số nhà nghiên cứu phương Tây ca ngợi chế độ quan lại từ thi cử chọn lựa ra là rất tiến bộ. Nhưng sự thật thì: người ta tính rằng trong các kỳ thi thì có 30 - 40% con em người dân là đậu. Học tập theo Nho giáo, một mặt đảm bảo lòng trung thành của sĩ tử và quan lại với nhà vua; mặt khác khi làm quan thì tới 9/10 số quan bóc lột dân mà thành địa chủ nhanh hơn (ý nói mau giàu có). Cho nên tính chất thanh liêm của viên quan không hề thay đổi gì cả cái tính chất phong kiến chung của triều đại: quan dù gì vẫn là "cha mẹ dân", vẫn bóc lột như thường. Các tấu sớ của quan lại, tỉnh thần gửi nhà vua bỏ bớt đất tư cho vào đất công thì Hoàng đế gạt đi, bảo rằng: "không nên xáo trộn". Minh Mạng làm cải cách cầm chừng rồi bỏ dở.
Nhiều nhà nghiên cứu phương Tây nhận định: làng xã là những nước cộng hòa tự trị nhỏ xíu, là "Xô viết nông thôn" (cụm từ của Pasquier). Làng xã tồn tại bền vững do đấu tranh của nhân dân với triều đình, tàn tích công xã nông thôn, công điền công thổ, phong tục tập quán và luật lệ lâu đời còn gửi lại. Một triều đại khi lên cầm quyền phải nắm hết cả làng xã, chứ không phải nắm từng người dân ở làng đó. Triều đình quy định làng xã phải đóng bao nhiêu thuế, nộp bao nhiêu lính. Nếu làng xã nổi dậy chống triều đình, vua xử: nhẹ thì phá hai đường dài Đ-T, N-B và gạch chéo nhau, đụng nhà ai nấy chịu; nặng thì cả làng bị đốt phá sạch, kể cả những nhà không tham gia nổi dậy. Các triều đại nhiều lần cử quan lại quản lý làng xã, nhưng thực sự quản lý không được bao nhiêu cả.
Theo Luro, hương chức hội tề được bầu lên bởi các điền chủ giàu có, thương gia và số ít dân đinh thường. Quyền cai trị thực tế của làng xã lọt vào tay của "hội đồng hương chính" do bọn "quý tộc điền thổ" lập nên, bóc lột dân làng tàn bạo mà chính quyền trung ương chưa thể làm được gì nhiều. Việc cường hào lập ra "hội đồng hướng chính" được chính quyền trung ương cho rằng đó là cách hay nhất để triều đình quản lý làng xã. Triều đình muốn quản lý được làng xã thi phải dựa vào bọn cường hào này, bằng cách cho chúng ít nhiều quyền lợi để chúng trung thành với triều đình. Nhà nước nhiều lúc làm ngơ khi bọn cường hào khai man số dân đinh, số điền thổ ở làng xã; triều đình có cách để làm điều đó và nhắc nhở cầm chừng không cho bọn cường hào địa chủ đi quá mức có hại cho triều đình. Như vậy, cái "tự trị" của làng xã; một mặt là quyền hạn rộng lớn của cường hào địa chủ; mặt khác làng xã phải tự mình lo liệu mọi lĩnh vực mà chính quyền trung ương hầu như không chú ý tới.
5. Kinh tế thời Nguyễn
a. Nông nghiệp:
Diện tích ruộng tăng vọt. Thống kê năm 1840 cho thấy nước ta có 711.510 dân đinh, 4.063.892 mẫu, thu được 2.840.740 hộc lúa (một hộc = 60 lít). Năm 1847 số đinh là 925.184 người, số điền 4.278.013 mẫu, thu được 2.960.130 hộc lúa. Tính trung bình một dân đinh hưởng 4 mẫu ruộng
Ruộng thời Nguyễn có ruộng công, ruộng tự và cả ruộng khai hoang. Triều đình mộ dân lưu tán lập các cơ để khai khẩn đất hoang ở chủ yếu là biên cương Tổ quốc; ở Nam Kỳ lập ra tới 20 cơ đồn điền. Mức độ quy mộ giữa công điền và tư điền luôn dao động qua các triều đại: thời Trần ruộng tự chiếm phần lớn, đầu thời Lê sơ công điền được phục hồi nhưng không khá hơn là bao. Thời Nguyễn, theo báo cáo của các quan lại thì ở gần kinh đô: công điền nhiều hơn tư điền, xa kinh đồ thì ngược lại - tư điền nhiều hơn công điền. Mức thuế công điển và tư điền tùy nơi: gần kinh đô thì công điền năng hơn (báo cáo của Hà Duy Phiên gửi Tự Đức), xa kinh đô thì bằng nhau. Nhưng thực tế thì tư điền vẫn nhiều hơn công điền, bất chấp mọi cố gắng của triều đình muốn giảm bớt tệ nạn này. Lý do mà triều đình không thể hạn chế được tư hữu vì: (1) sự ràng buộc về quyền lực và lợi ích giữa triều đình với quan lai (có đề cập ở phần trên), (2) tục lệ cha mẹ chia ruộng cho con, kể cả con gái. Cho nên không phải ngẫu nhiên mà ở Nam Kỳ, có đại điền sản sở hữu hàng trăm mẫu ruộng. Số lượng đại điền sản rất ít, tiểu điền sản rất nhiều.
Mặc dù số ruộng đất nhiều, nhưng hiệu quả không được bao nhiêu. Nạn lưu tán nhiều nên các báo cáo gửi triều đình nhiều lúc là con số ảo. Thời Tự Đức sạt lở nhiều, mất 104.016 mẫu; dân lưu tán rất nhiều. Thời Gia Long, ở khu vực Trung Kỳ chiến tranh vừa dứt, có tới 2 vạn dân phiêu tán mất ở xứ Nghệ (báo cáo của Lê Văn Duyệt). Gia Định lưu tán còn nhiều hơn, báo cáo về triều đình chỉ có 50.000 dân đinh ! Đến thời Minh Mạng dân phiêu tán còn nhiều hơn nữa: ở Hải Dương có 13 huyện, nhưng nhân dân bỏ đi lưu tán hết 108 thôn, bỏ lại tới 12.700 mẫu ! Ở xã Bồng Hải, Nguyễn Công Trứ báo cáo: dân lưu tán rất nhiều vì không chịu nhận cày cấy đóng thuế, bỏ hoang hơn 700 mẫu. Tự Đức vừa lên ngôi đã phán: địa phương nào mà dân 10 phần bỏ đi 6 phần thì quan địa phương đó sẽ bị trừng phạt, nhưng không cải thiện được tình hình.
b. Thủ công nghiệp
Thời Nguyễn, thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp với mức độ rất nhỏ. Thủ công nghiệp còn dính chặt với nông nghiệp, sinh ra "công nghiệp tại gia". Xuất hiện nhiều làng nghề thủ công như: làng giấy Bưởi, làng gốm Bát tràng, làng tương Cự Đà, làng dệt Phát Diệm, làng nhuộm Gò Vấp... Các khu phố ở Hà thành và Gia Định như Hàng Trống, Hàng Gai, Hàng Bông, Lò Đúc, Hàng Thùng, Hàng Bạc... thì chủ thủ công nằm ít nhiều thợ, làm thủ công kết hợp buôn bán.
Triều đình khuyến khích thành lập phường hội, quy định: 10 thợ thành một "phường", "ty"; thời Minh Mạng gọi là "cuộc". Thành viên trong "cuộc" không phải đi lính, đổi lại "cuộc" phải thực hiện các yêu cầu của triều đình. Ở các tính lớn thì triều đình lập chức quan "cuộc trưởng chánh ty sứ" quản lý chung các phường hội. Đôi khi nhà nước tự mình lập ra các "hộ" (giống phường hội) phục vụ nhu cầu: "hộ sắt", "hộ thiết mộc"; cho quan mộ dân đi khai mỏ, thậm chí cho cả Hoa kiều được mộ dân khai mỏ. Năm 1870, Hoa kiều nộp thuế cho nhà vua 100.000 quan mỗi năm. Nhà nước cũng lập nhiều xưởng thủ công lớn, như xưởng đóng thuyền ở Thị Nghè (sông Sài Gòn), xưởng đúc súng ở Nghệ An; năm 1872, vua dụ cho Nghệ An đúc 500 cỗ đại bác, 2.000 súng tay.
c. Thương nghiệp
Nước ta rất ít thành thị, chỉ có ba thành thị lớn là Chợ Lớn của Gia Định, Hội An của Trung Kỳ và Hà Nội của Bắc Kỳ; còn các thành còn lại giống như trung tâm cai trị, chưa phải thị xã hay thị trấn gì. Bàn về thành thị ở nước ta giữa thế kỷ XIX, Nguyễn Trường Tộ nói: "thành phố ta nhà cửa cất lộn xộn, đường mòn, đường hẻm lung tung, lùm bụi um tùm, tám hương bốn bề ai đi đâu cũng được; ngoài ra xung quanh thành, tường lớn tường nhỏ, đầy mương hào, gò đống ngổn ngang".
Việt Nam vì sao không thể có được một thành phố ? Giải thích cho câu hỏi này, Vũ Quốc Thúc nói: "người Việt Nam không có tinh thần thị xã, chỉ có tinh thần công xã". Sở dĩ nói được như thế vì nước ta có nền kinh tế tự nhiên, thấp kém quá. Đến thế kỷ XIX, kinh tế buôn bán phát triển rất mạnh mẽ và cạnh tranh buôn bán sẽ rất sôi nổi. Tuy vậy, tư tưởng "trọng nông ức thương" của triều đình vẫn chiếm ưu thế. Vua coi thương nghiệp là bá đạo, nên hậu quả là "hoa lợi gián thu kém cỏi lắm" (câu của Luro). Triều đình cấm bán lúa gạo từ tỉnh nay sang tỉnh khác, nếu bán thì bị đánh thuế rất cao. Ví dụ gạo từ Nghệ An muốn bán ở Gia Định thì phải nộp thuế ở 9 nơi khác nhau ! Triều đình cũng cấm luôn dân đóng thuyền vượt biển đi buôn bán với nước ngoài.
Triều đình độc quyền ngoại thương. Vua ưu tiên buôn bán với Trung Quốc, nhưng với phương Tây thì khác: nhà nước giữ quyền ưu tiên mua bán với tàu nước ngoài, xong rồi thì tư nhân mới được mua bán với họ. Triều đình nhiều lần đình nghị với triều thần về buôn bán với nước ngoài, nhưng kẻ bàn ra, người bàn vô nên triều đình không quyết được việc gì.
6. Xã hội thời Nguyễn
Nhà Nguyễn chia xã hội thành 4 tầng lớp theo nghề nghiệp, gồm sĩ, nông, công, thương
+ Sĩ: là những người có học, được đào tạo theo thánh hiền và là người có trí tuệ của xã hội, đường danh vọng giàu sang phú quý, được nhân dân kính trọng. Tuy vậy nhân dân vẫn trêu: Nhất sĩ nhì nông, nhất nông nhì sĩ - ý chỉ nghề nông ổn định và chắc chắn, còn sĩ thì không có mấy cái này. Tầng lớp sĩ thời Nguyễn có tới hàng vạn người, đỗ làm quan thì ít mà làm thầy thì nhiều hoặc nằm không. Có sĩ làm quan, có người làm cường hào, thậm chí có người làm trí thức giúp dân.
+ Nông: bao gồm địa chủ và nông dân, mặc định bất cứ ai liên quan đến ruộng đất đều là "nông". 99% số nông dân đều làm ruộng, trồng cây lương thực để an cư lạc nghiệp, đất nước phồn vinh
+ Công: bất cử ai làm thợ, dù là thợ cả hay thợ phụ, người lãnh trưng hay người làm mướn
+ Thương: là nghề đứng cuối cùng. Nghề thương bị người dân xem thường, coi là nghề an gian nói dối, tích trữ chờ thời để cắt cổ thiên hạ; gọi với cái tên khinh miệt: con buôn, con hát, con rối; mà hễ ít nhiều thì "mua tiên cũng được".
Thực ra sự phân chia kiểu này không ảnh hưởng gì nhiều; nhưng trên thực tế sự chia công điền và địa vị xã hội khiến xã hội Việt Nam thời Nguyễn mang tính đẳng cấp. Khái niệm "giai cấp" nước ta thời Nguyễn được hiểu là: những lớp người hoặc có hoặc không có (hay có rất ít) đất trong tay; nên Việt Nam thế kỷ XIX chỉ có hai giai cấp chính là địa chủ và nông dân.
- Địa chủ: là giai cấp có nhiều ruộng đất, bóc lột nông dân thông qua tô thuế. Số ruộng đất mà địa chủ chiếm hữu thì chưa biết rõ, chỉ biết có những đại địa chủ chiếm hàng vạn mẫu đất. Địa chủ cũng chiếm nhiều đất của dân khai hoang, mà người dân kiện chính quyền trung ương thì không có kết quả. Nhưng do ảnh hưởng lớn của công điền ở Trung và Bắc Kỳ mà khả năng chấp chiếm của địa chủ rất hạn chế, sự tập trung ruộng vườn vào tay một số người còn ít hơn nhiều do nhân dân, nhà nước gây áp lực.
- Nông dân: còn gọi là "dân vô sản", "dân áo rách", "dân lân". Họ không có đất đai, bị liệt vào là dân "ngụ cư". Bao nhiêu việc nhọc nhằn đều đổ lên vai họ. Tuy nhiên, nông dân cũng có đất để lập nhà ở do số công điền còn lớn. Theo báo cáo của Hà Duy Phiên thì ruộng tư nhiều hơn ruộng công. Bình Định năm 1838 thì có 6.000 mẫu đất công, nhưng ruộng tư thì tới 70.000 mẫu. Nhưng quyền phân phối dắt và khẩu phần lọt vào tay địa chủ cường hào.
Đẳng cấp ở Việt Nam vào thế kỷ XIX khác với Ấn Độ và Pháp trước đó vài thế kỷ, là nó được phân chia theo tước và địa vị. Việt Nam có hai đẳng cấp chính: Đẳng cấp 1 gồm các quan lại của triều đình, phân theo tước công, hầu, bá, tử, nam. Tước vương được ban 200 mẫu, tước công 100 mẫu, các tước còn lại vài ba chục mẫu mà thôi. Ngoài ra triều đình còn chia thành 9 phẩm trật. Đẳng cấp 2 là các chức dịch ở làng xã, gồm 10 hạng; chia như vậy để sắp xếp chỗ ngồi cho tiện. Hai hạng đầu tiên (Lão thượng và lão trung) được ngồi phía trên, kế là hạng 3 (quan lại),4 (nho sĩ) và 5 (binh sĩ) là được ngồi kế tiếp vì là chức dịch làng xã. Bật hàng phiên (thứ 10) là thấp kém nhất, bị làng sai vặt. Phân chia khẩu phần ở làng xã thì từ 3 đến 6 năm, tùy làng.
7. Đời sống nhân dân thời Nguyễn và đấu tranh của nhân dân
Nhà nước Nguyễn đánh thuế đinh không cao (Pháp về sau đánh thuế này cao gấp 5 - 7 lần khi no đô hộ nước ta). Quan lại và quân lính lương rất thấp nên chúng ra sức hối lộ rất nhiều. Luro nhận thấy quan lại nhận lương có 3 franc, nhưng hối lộ quà cáp từ người dân thì quan huyện hưởng tới 3.000 franc. Triều đình bắt dân lao dịch không công từ 60 đến 120 ngày để đắp thành lũy; riêng kinh đô thì vua huy động đến 8 vạn dân phu làm trong hàng chục năm trời, bắt các tỉnh nộp vật liệu như gỗ lim của Nghệ An, đá lát của Thanh Hóa, gạch ngói của Quảng Nam, gỗ ván của Gia Đinh... Các hoàng đế Nguyễn xây nhiều công trình tốn kém, mua hàng xa xỉ của Pháp về hưởng thụ
Triều đình lo dựng thành quách nên thiếu chú ý đời sống nhân dân. Đói kém, dịch bệnh, mất mùa thường xuyên diễn ra. Năm 1820, dịch bệnh giết hại 206.835 người; đến năm 1850 thì lên tới 589.640 người. Nạm đói lớn năm 1856 - 1857 khiến hàng chục vạn dân Trung và Bắc Kỳ bị chết. Mỗi lần có nạn đói thì nhà nước phát chẩn, song bị quan lại địa phương đẽo dân một cách tệ hại hơn nữa. Năm Gia Long thứ 15, vua có lệnh: tùy theo số lúa của các điền hộ mà cho mượn phần nửa; thì nhà giàu có cơ hội mượn nhiều thóc, rồi bắt dân cho vay cắt cổ khiến dân không mua ruộng nổi. Có quan thanh liêm than: "Cho mượn lúa mà theo số ruộng thì người không ruộng không được ăn", thì Minh Mạng phán một cách trắng trợn rằng: "trong dân, tài lực không đều, xưa nay đều như vậy; ; cho mượn lúa nhiều thì giá lúa hạ, người không ruộng cũng được nhờ ơn !. Vua Thiệu Trị thấy dân xứ Quảng trở vào đói kém liên tục, bèn lệnh cho dân hễ ai có đường cát, gỗ, lạt, tre, cau thì đem tới nha môn đổi lấy lúa gạo. Trục lợi tàn nhẫn quá sức tưởng tượng ! Cũng vào năm Thiệu Trị thứ 4, tháng 8 Bắc Kỳ lụt lớn, tháng 9 Trung Kỳ bị lụt - riêng lụt lớn ở Thừa Thiên Huế khiến 1.000 người chết chì. Nam Kỳ bị hạn hán lớn, buộc Nguyễn Tri Phương xin triều đình tha thuế cho dân.
Đã thế, chiến tranh liên miên. Vua Nguyễn huy động quân đội ra đánh với Xiêm La, Chân Lạp nhằm tranh giành ảnh hưởng. Chiến tranh kéo dài, khiến nhiều tỉnh nộp quân nhiều cho triều đình - Quảng Trị là nơi nghèo nhất cũng phải nộp đến 6.600 người tòng quân ! Bởi vậy, nhân dân khởi nghĩa liên miên: Gia Long 73 cuộc, Minh Mạng 234 cuộc, Thiệu Trị 58 cuộc và Tự Đức chỉ có 40 cuộc thôi.
Tài liệu tham khảo:
1. Tổ chức chính quyền thời Nguyễn
Rút kinh nghiệm lớn của nhà Lê bị chúa Trịnh lấn quyền, cả kinh nghiệm tại Đàng Trong chúa Nguyễn bị quyền thần Trương Phúc Loan chiếm hết quyền, Hoàng đế đầu tiên là Gia Long đặt lệ "tứ bất": không lập tể tưởng, không lấy trạng nguyên, không lập hoàng hậu và không phong vương cho người ngoại tộc. Vua trực tiếp nắm các cơ quan và các bộ, trực tiệp phê các văn bản của triều đình, xét xử và cả việc chủ trì các khoa thi chọn nhân tài. Khi có vấn đề quan trọng, đình thần sẽ tập trung ở hoàng cung để "đình nghị" (góp ý) với vua, nhưng quyền tối hậu quyết định là ở vua. Sách Quốc triều chính biên toát yếu nhận xét nhà vua rất tích cực xem xét tấu chương để chỉ bảo, quyết định các việc quan trọng. Nhưng học giả Pháp là E.Luro thẳng thắng hơn khi nhận xét: "Nguyên lý quyền hành to quá mức. Hệ thống chính quyền như thế là quân chủ thuần túy, tuyệt đối, không có gì kiểm soát, không có hiến pháp thực, không có giới hạn nào khác hơn là tục mạnh mẽ trở nên lệ, không có văn bản lâu đời truyền lại từ triều này sang triều kia".
Vua có quyền rất lớn, thay trời trị dân, làm chủ tất cả đất đai. Người ta nói vua có 8 quyền lớn: "tước" (ban tước), "lộc" (ban cho lộc), "dữ" (cho bất cứ ai vật gì của nước), "trí" (cất nhắc mọi người), "sinh" (cho người được sống), "đoạt" (chiếm bất cứ cái gì của ai), "phế" (bỏ bất cử cái gì đã đặt ra từ trước), "tru" (giết bất cứ ai).
Lúc đầu, Hoàng đế lập Gia Định thành và Bắc thành rồi giao cho Nguyễn Văn Thành và Lê Văn Duyệt làm Tổng trấn. Sau khi hai ông bị triều đình bắt tội vì "có lòng khác", Hoàng đế bãi bỏ và chia thành 29 tỉnh thành trực thuộc. Ở vùng núi thì lập chức tri châu, nhưng duy trì chế độ "lưu quan" để giám sát.
2. Luật pháp:
Luật pháp của Hoàng đế sao chép chủ yếu từ luật Mãn Thanh. Lý do chỉ vì: Mãn Thanh là triều đại ngoại tộc thiểu số muốn thống trị người Hán đa số nên làm bộ luật rất khắc nghiệt. Triều Nguyễn cũng giống như thế. Mặt dù nói là tham khảo luật Hồng Đức, nhưng kỳ thực luật nhà Nguyễn xóa bỏ phần lớn các định chế tiến bộ thời Hồng Đức: hôn nhân, gia đình, dân luật và trừng phạt rất nghiêm khắc. Ví dụ tội "phản nghịch" bị xử nhiều cách khác nhau, có khi là xử tử ba họ của tội phạm là họ cha, họ mẹ và họ vợ. Hình thức phạt đánh trượng phổ biến, cả quan chức cũng bị đánh. Tuy nhiên, có quan chức được vua cho chuộc tội bằng lúa (60 - 100 hộc), bằng tiền (180 - 900 quan).
3. Quân đội
Chính quyền Nguyễn có số quan lại lớn, số binh lính phải nói rất lớn. Theo nguyên tắc 5 đinh bắt 1 lính thì thời Gia Long, nước ta chỉ có 612.000 đinh mà có tới 113.000 lính.
Tư tưởng "trọng văn khinh võ" rất nặng nề, nên trang bị của quân lính thời Nguyễn rất lạc hậu, quân lính không có lương (theo Luro). Phạm Phú Thứ tâu thẳng với vua: "quân sĩ hèn nhát do chưởng quan vô năng cũng vô quyền, quân sĩ nhiều người không có lương bổng, họ phải tìm cách giúp đỡ nhau chứ không trông gì gạo trong kho".
4. Quan lại
Kế nữa là tư tưởng "trọng quan khinh dân": làm quan là cách nhanh nhất để mau giàu có. Sang do chức tước, giàu do hối lộ. Theo Phạm Phú Thứ thì "quan lại khắc nghiệt, lấy giấy tờ pháp luật làm gông cùm, lấy dân đen làm cá thịt. Quan coi dân như kẻ thù, dân sợ quan như sợ cọp". Pasquier cắt nghĩa rõ tại sao quan có nhiều quyền: "các nhà thi hành quyền lực của mình như thể nhà vua thường trực giao cái quyền ấy cho họ; mà nhà vua thì có đủ tất cả các quyền hành, cho nên đại diện của vua phải nắm tất cả quyền hành".
Quan lại hầu hết được tuyển chọn qua các kỳ thi. Một số nhà nghiên cứu phương Tây ca ngợi chế độ quan lại từ thi cử chọn lựa ra là rất tiến bộ. Nhưng sự thật thì: người ta tính rằng trong các kỳ thi thì có 30 - 40% con em người dân là đậu. Học tập theo Nho giáo, một mặt đảm bảo lòng trung thành của sĩ tử và quan lại với nhà vua; mặt khác khi làm quan thì tới 9/10 số quan bóc lột dân mà thành địa chủ nhanh hơn (ý nói mau giàu có). Cho nên tính chất thanh liêm của viên quan không hề thay đổi gì cả cái tính chất phong kiến chung của triều đại: quan dù gì vẫn là "cha mẹ dân", vẫn bóc lột như thường. Các tấu sớ của quan lại, tỉnh thần gửi nhà vua bỏ bớt đất tư cho vào đất công thì Hoàng đế gạt đi, bảo rằng: "không nên xáo trộn". Minh Mạng làm cải cách cầm chừng rồi bỏ dở.
Nhiều nhà nghiên cứu phương Tây nhận định: làng xã là những nước cộng hòa tự trị nhỏ xíu, là "Xô viết nông thôn" (cụm từ của Pasquier). Làng xã tồn tại bền vững do đấu tranh của nhân dân với triều đình, tàn tích công xã nông thôn, công điền công thổ, phong tục tập quán và luật lệ lâu đời còn gửi lại. Một triều đại khi lên cầm quyền phải nắm hết cả làng xã, chứ không phải nắm từng người dân ở làng đó. Triều đình quy định làng xã phải đóng bao nhiêu thuế, nộp bao nhiêu lính. Nếu làng xã nổi dậy chống triều đình, vua xử: nhẹ thì phá hai đường dài Đ-T, N-B và gạch chéo nhau, đụng nhà ai nấy chịu; nặng thì cả làng bị đốt phá sạch, kể cả những nhà không tham gia nổi dậy. Các triều đại nhiều lần cử quan lại quản lý làng xã, nhưng thực sự quản lý không được bao nhiêu cả.
Theo Luro, hương chức hội tề được bầu lên bởi các điền chủ giàu có, thương gia và số ít dân đinh thường. Quyền cai trị thực tế của làng xã lọt vào tay của "hội đồng hương chính" do bọn "quý tộc điền thổ" lập nên, bóc lột dân làng tàn bạo mà chính quyền trung ương chưa thể làm được gì nhiều. Việc cường hào lập ra "hội đồng hướng chính" được chính quyền trung ương cho rằng đó là cách hay nhất để triều đình quản lý làng xã. Triều đình muốn quản lý được làng xã thi phải dựa vào bọn cường hào này, bằng cách cho chúng ít nhiều quyền lợi để chúng trung thành với triều đình. Nhà nước nhiều lúc làm ngơ khi bọn cường hào khai man số dân đinh, số điền thổ ở làng xã; triều đình có cách để làm điều đó và nhắc nhở cầm chừng không cho bọn cường hào địa chủ đi quá mức có hại cho triều đình. Như vậy, cái "tự trị" của làng xã; một mặt là quyền hạn rộng lớn của cường hào địa chủ; mặt khác làng xã phải tự mình lo liệu mọi lĩnh vực mà chính quyền trung ương hầu như không chú ý tới.
5. Kinh tế thời Nguyễn
a. Nông nghiệp:
Diện tích ruộng tăng vọt. Thống kê năm 1840 cho thấy nước ta có 711.510 dân đinh, 4.063.892 mẫu, thu được 2.840.740 hộc lúa (một hộc = 60 lít). Năm 1847 số đinh là 925.184 người, số điền 4.278.013 mẫu, thu được 2.960.130 hộc lúa. Tính trung bình một dân đinh hưởng 4 mẫu ruộng
Ruộng thời Nguyễn có ruộng công, ruộng tự và cả ruộng khai hoang. Triều đình mộ dân lưu tán lập các cơ để khai khẩn đất hoang ở chủ yếu là biên cương Tổ quốc; ở Nam Kỳ lập ra tới 20 cơ đồn điền. Mức độ quy mộ giữa công điền và tư điền luôn dao động qua các triều đại: thời Trần ruộng tự chiếm phần lớn, đầu thời Lê sơ công điền được phục hồi nhưng không khá hơn là bao. Thời Nguyễn, theo báo cáo của các quan lại thì ở gần kinh đô: công điền nhiều hơn tư điền, xa kinh đồ thì ngược lại - tư điền nhiều hơn công điền. Mức thuế công điển và tư điền tùy nơi: gần kinh đô thì công điền năng hơn (báo cáo của Hà Duy Phiên gửi Tự Đức), xa kinh đô thì bằng nhau. Nhưng thực tế thì tư điền vẫn nhiều hơn công điền, bất chấp mọi cố gắng của triều đình muốn giảm bớt tệ nạn này. Lý do mà triều đình không thể hạn chế được tư hữu vì: (1) sự ràng buộc về quyền lực và lợi ích giữa triều đình với quan lai (có đề cập ở phần trên), (2) tục lệ cha mẹ chia ruộng cho con, kể cả con gái. Cho nên không phải ngẫu nhiên mà ở Nam Kỳ, có đại điền sản sở hữu hàng trăm mẫu ruộng. Số lượng đại điền sản rất ít, tiểu điền sản rất nhiều.
Mặc dù số ruộng đất nhiều, nhưng hiệu quả không được bao nhiêu. Nạn lưu tán nhiều nên các báo cáo gửi triều đình nhiều lúc là con số ảo. Thời Tự Đức sạt lở nhiều, mất 104.016 mẫu; dân lưu tán rất nhiều. Thời Gia Long, ở khu vực Trung Kỳ chiến tranh vừa dứt, có tới 2 vạn dân phiêu tán mất ở xứ Nghệ (báo cáo của Lê Văn Duyệt). Gia Định lưu tán còn nhiều hơn, báo cáo về triều đình chỉ có 50.000 dân đinh ! Đến thời Minh Mạng dân phiêu tán còn nhiều hơn nữa: ở Hải Dương có 13 huyện, nhưng nhân dân bỏ đi lưu tán hết 108 thôn, bỏ lại tới 12.700 mẫu ! Ở xã Bồng Hải, Nguyễn Công Trứ báo cáo: dân lưu tán rất nhiều vì không chịu nhận cày cấy đóng thuế, bỏ hoang hơn 700 mẫu. Tự Đức vừa lên ngôi đã phán: địa phương nào mà dân 10 phần bỏ đi 6 phần thì quan địa phương đó sẽ bị trừng phạt, nhưng không cải thiện được tình hình.
b. Thủ công nghiệp
Thời Nguyễn, thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp với mức độ rất nhỏ. Thủ công nghiệp còn dính chặt với nông nghiệp, sinh ra "công nghiệp tại gia". Xuất hiện nhiều làng nghề thủ công như: làng giấy Bưởi, làng gốm Bát tràng, làng tương Cự Đà, làng dệt Phát Diệm, làng nhuộm Gò Vấp... Các khu phố ở Hà thành và Gia Định như Hàng Trống, Hàng Gai, Hàng Bông, Lò Đúc, Hàng Thùng, Hàng Bạc... thì chủ thủ công nằm ít nhiều thợ, làm thủ công kết hợp buôn bán.
Triều đình khuyến khích thành lập phường hội, quy định: 10 thợ thành một "phường", "ty"; thời Minh Mạng gọi là "cuộc". Thành viên trong "cuộc" không phải đi lính, đổi lại "cuộc" phải thực hiện các yêu cầu của triều đình. Ở các tính lớn thì triều đình lập chức quan "cuộc trưởng chánh ty sứ" quản lý chung các phường hội. Đôi khi nhà nước tự mình lập ra các "hộ" (giống phường hội) phục vụ nhu cầu: "hộ sắt", "hộ thiết mộc"; cho quan mộ dân đi khai mỏ, thậm chí cho cả Hoa kiều được mộ dân khai mỏ. Năm 1870, Hoa kiều nộp thuế cho nhà vua 100.000 quan mỗi năm. Nhà nước cũng lập nhiều xưởng thủ công lớn, như xưởng đóng thuyền ở Thị Nghè (sông Sài Gòn), xưởng đúc súng ở Nghệ An; năm 1872, vua dụ cho Nghệ An đúc 500 cỗ đại bác, 2.000 súng tay.
c. Thương nghiệp
Nước ta rất ít thành thị, chỉ có ba thành thị lớn là Chợ Lớn của Gia Định, Hội An của Trung Kỳ và Hà Nội của Bắc Kỳ; còn các thành còn lại giống như trung tâm cai trị, chưa phải thị xã hay thị trấn gì. Bàn về thành thị ở nước ta giữa thế kỷ XIX, Nguyễn Trường Tộ nói: "thành phố ta nhà cửa cất lộn xộn, đường mòn, đường hẻm lung tung, lùm bụi um tùm, tám hương bốn bề ai đi đâu cũng được; ngoài ra xung quanh thành, tường lớn tường nhỏ, đầy mương hào, gò đống ngổn ngang".
Việt Nam vì sao không thể có được một thành phố ? Giải thích cho câu hỏi này, Vũ Quốc Thúc nói: "người Việt Nam không có tinh thần thị xã, chỉ có tinh thần công xã". Sở dĩ nói được như thế vì nước ta có nền kinh tế tự nhiên, thấp kém quá. Đến thế kỷ XIX, kinh tế buôn bán phát triển rất mạnh mẽ và cạnh tranh buôn bán sẽ rất sôi nổi. Tuy vậy, tư tưởng "trọng nông ức thương" của triều đình vẫn chiếm ưu thế. Vua coi thương nghiệp là bá đạo, nên hậu quả là "hoa lợi gián thu kém cỏi lắm" (câu của Luro). Triều đình cấm bán lúa gạo từ tỉnh nay sang tỉnh khác, nếu bán thì bị đánh thuế rất cao. Ví dụ gạo từ Nghệ An muốn bán ở Gia Định thì phải nộp thuế ở 9 nơi khác nhau ! Triều đình cũng cấm luôn dân đóng thuyền vượt biển đi buôn bán với nước ngoài.
Triều đình độc quyền ngoại thương. Vua ưu tiên buôn bán với Trung Quốc, nhưng với phương Tây thì khác: nhà nước giữ quyền ưu tiên mua bán với tàu nước ngoài, xong rồi thì tư nhân mới được mua bán với họ. Triều đình nhiều lần đình nghị với triều thần về buôn bán với nước ngoài, nhưng kẻ bàn ra, người bàn vô nên triều đình không quyết được việc gì.
6. Xã hội thời Nguyễn
Nhà Nguyễn chia xã hội thành 4 tầng lớp theo nghề nghiệp, gồm sĩ, nông, công, thương
+ Sĩ: là những người có học, được đào tạo theo thánh hiền và là người có trí tuệ của xã hội, đường danh vọng giàu sang phú quý, được nhân dân kính trọng. Tuy vậy nhân dân vẫn trêu: Nhất sĩ nhì nông, nhất nông nhì sĩ - ý chỉ nghề nông ổn định và chắc chắn, còn sĩ thì không có mấy cái này. Tầng lớp sĩ thời Nguyễn có tới hàng vạn người, đỗ làm quan thì ít mà làm thầy thì nhiều hoặc nằm không. Có sĩ làm quan, có người làm cường hào, thậm chí có người làm trí thức giúp dân.
+ Nông: bao gồm địa chủ và nông dân, mặc định bất cứ ai liên quan đến ruộng đất đều là "nông". 99% số nông dân đều làm ruộng, trồng cây lương thực để an cư lạc nghiệp, đất nước phồn vinh
+ Công: bất cử ai làm thợ, dù là thợ cả hay thợ phụ, người lãnh trưng hay người làm mướn
+ Thương: là nghề đứng cuối cùng. Nghề thương bị người dân xem thường, coi là nghề an gian nói dối, tích trữ chờ thời để cắt cổ thiên hạ; gọi với cái tên khinh miệt: con buôn, con hát, con rối; mà hễ ít nhiều thì "mua tiên cũng được".
Thực ra sự phân chia kiểu này không ảnh hưởng gì nhiều; nhưng trên thực tế sự chia công điền và địa vị xã hội khiến xã hội Việt Nam thời Nguyễn mang tính đẳng cấp. Khái niệm "giai cấp" nước ta thời Nguyễn được hiểu là: những lớp người hoặc có hoặc không có (hay có rất ít) đất trong tay; nên Việt Nam thế kỷ XIX chỉ có hai giai cấp chính là địa chủ và nông dân.
- Địa chủ: là giai cấp có nhiều ruộng đất, bóc lột nông dân thông qua tô thuế. Số ruộng đất mà địa chủ chiếm hữu thì chưa biết rõ, chỉ biết có những đại địa chủ chiếm hàng vạn mẫu đất. Địa chủ cũng chiếm nhiều đất của dân khai hoang, mà người dân kiện chính quyền trung ương thì không có kết quả. Nhưng do ảnh hưởng lớn của công điền ở Trung và Bắc Kỳ mà khả năng chấp chiếm của địa chủ rất hạn chế, sự tập trung ruộng vườn vào tay một số người còn ít hơn nhiều do nhân dân, nhà nước gây áp lực.
- Nông dân: còn gọi là "dân vô sản", "dân áo rách", "dân lân". Họ không có đất đai, bị liệt vào là dân "ngụ cư". Bao nhiêu việc nhọc nhằn đều đổ lên vai họ. Tuy nhiên, nông dân cũng có đất để lập nhà ở do số công điền còn lớn. Theo báo cáo của Hà Duy Phiên thì ruộng tư nhiều hơn ruộng công. Bình Định năm 1838 thì có 6.000 mẫu đất công, nhưng ruộng tư thì tới 70.000 mẫu. Nhưng quyền phân phối dắt và khẩu phần lọt vào tay địa chủ cường hào.
Đẳng cấp ở Việt Nam vào thế kỷ XIX khác với Ấn Độ và Pháp trước đó vài thế kỷ, là nó được phân chia theo tước và địa vị. Việt Nam có hai đẳng cấp chính: Đẳng cấp 1 gồm các quan lại của triều đình, phân theo tước công, hầu, bá, tử, nam. Tước vương được ban 200 mẫu, tước công 100 mẫu, các tước còn lại vài ba chục mẫu mà thôi. Ngoài ra triều đình còn chia thành 9 phẩm trật. Đẳng cấp 2 là các chức dịch ở làng xã, gồm 10 hạng; chia như vậy để sắp xếp chỗ ngồi cho tiện. Hai hạng đầu tiên (Lão thượng và lão trung) được ngồi phía trên, kế là hạng 3 (quan lại),4 (nho sĩ) và 5 (binh sĩ) là được ngồi kế tiếp vì là chức dịch làng xã. Bật hàng phiên (thứ 10) là thấp kém nhất, bị làng sai vặt. Phân chia khẩu phần ở làng xã thì từ 3 đến 6 năm, tùy làng.
7. Đời sống nhân dân thời Nguyễn và đấu tranh của nhân dân
Nhà nước Nguyễn đánh thuế đinh không cao (Pháp về sau đánh thuế này cao gấp 5 - 7 lần khi no đô hộ nước ta). Quan lại và quân lính lương rất thấp nên chúng ra sức hối lộ rất nhiều. Luro nhận thấy quan lại nhận lương có 3 franc, nhưng hối lộ quà cáp từ người dân thì quan huyện hưởng tới 3.000 franc. Triều đình bắt dân lao dịch không công từ 60 đến 120 ngày để đắp thành lũy; riêng kinh đô thì vua huy động đến 8 vạn dân phu làm trong hàng chục năm trời, bắt các tỉnh nộp vật liệu như gỗ lim của Nghệ An, đá lát của Thanh Hóa, gạch ngói của Quảng Nam, gỗ ván của Gia Đinh... Các hoàng đế Nguyễn xây nhiều công trình tốn kém, mua hàng xa xỉ của Pháp về hưởng thụ
Triều đình lo dựng thành quách nên thiếu chú ý đời sống nhân dân. Đói kém, dịch bệnh, mất mùa thường xuyên diễn ra. Năm 1820, dịch bệnh giết hại 206.835 người; đến năm 1850 thì lên tới 589.640 người. Nạm đói lớn năm 1856 - 1857 khiến hàng chục vạn dân Trung và Bắc Kỳ bị chết. Mỗi lần có nạn đói thì nhà nước phát chẩn, song bị quan lại địa phương đẽo dân một cách tệ hại hơn nữa. Năm Gia Long thứ 15, vua có lệnh: tùy theo số lúa của các điền hộ mà cho mượn phần nửa; thì nhà giàu có cơ hội mượn nhiều thóc, rồi bắt dân cho vay cắt cổ khiến dân không mua ruộng nổi. Có quan thanh liêm than: "Cho mượn lúa mà theo số ruộng thì người không ruộng không được ăn", thì Minh Mạng phán một cách trắng trợn rằng: "trong dân, tài lực không đều, xưa nay đều như vậy; ; cho mượn lúa nhiều thì giá lúa hạ, người không ruộng cũng được nhờ ơn !. Vua Thiệu Trị thấy dân xứ Quảng trở vào đói kém liên tục, bèn lệnh cho dân hễ ai có đường cát, gỗ, lạt, tre, cau thì đem tới nha môn đổi lấy lúa gạo. Trục lợi tàn nhẫn quá sức tưởng tượng ! Cũng vào năm Thiệu Trị thứ 4, tháng 8 Bắc Kỳ lụt lớn, tháng 9 Trung Kỳ bị lụt - riêng lụt lớn ở Thừa Thiên Huế khiến 1.000 người chết chì. Nam Kỳ bị hạn hán lớn, buộc Nguyễn Tri Phương xin triều đình tha thuế cho dân.
Đã thế, chiến tranh liên miên. Vua Nguyễn huy động quân đội ra đánh với Xiêm La, Chân Lạp nhằm tranh giành ảnh hưởng. Chiến tranh kéo dài, khiến nhiều tỉnh nộp quân nhiều cho triều đình - Quảng Trị là nơi nghèo nhất cũng phải nộp đến 6.600 người tòng quân ! Bởi vậy, nhân dân khởi nghĩa liên miên: Gia Long 73 cuộc, Minh Mạng 234 cuộc, Thiệu Trị 58 cuộc và Tự Đức chỉ có 40 cuộc thôi.
Tài liệu tham khảo:
- Luro, Le pay d'Annam.
- Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều chính biên toát yếu.
- P. Pasquier, L'Annam d'autrefois.
- Trương Bá Cần, Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo.
Last edited: