TGQT Nam Bộ thời thuộc Pháp

Thái Minh Quân

Cựu Cố vấn Lịch sử | Cựu Chủ nhiệm CLB Lịch sử
Thành viên
29 Tháng mười 2018
3,304
4,365
561
TP Hồ Chí Minh
THCS Nguyễn Hiền
[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Có câu ca rằng:
“Bạc Liêu giấc mơ tình yêu … Dân gian ca rằng … Bạc Liêu là xứ cơ cầu … Dưới sông cá chốt, trên bờ Triều Châu…”
Hehe, nghe hay quá, ý là câu hát ấy ca ngợi xứ Bạc Liêu, mà rộng hơn là Nam Kỳ là chỗ đất đai rộng rãi, sản vật phong phú. Tuy nhiên được như vậy cũng là do công người đi mở đất, đi khai phá, chớ của đâu mà sẵn vậy? – Thời xưa, luật của An Nam và lệ làng quy định đất bỏ hoang không ai canh tác trong 3 năm thì người khác có quyền chiếm hữu, trồng trọt. Khi bọn Tai lông chiếm Nam Kỳ thì đặt ra quy định về giấy tờ, bằng khoán theo lối tây, xét theo quan điểm ngày nay thì hợp lý, dễ bề quản lý, thu thuế, trồng trọt, nhưng cách đây 100 năm, khi tỷ lệ mù chữ là 90% (chữ việt chứ chưa nói tới chữ tây) thì bà con Nam Kỳ cho là nhiêu khê, bày đặt bày điều, người với người mình sống ở cái tình cơ mà, hehe. Cơ mà đời này lạ lắm, giữa những con người chân chất luôn xuất hiện những thành phần … mất nết. Lợi dụng sự thiếu hiểu biết pháp luật của bà con bọn mất nết tiến hành trục lợi. Quãng năm 1927, có hai vụ án liên quan đến đất đai buộc nhà cầm quyền Pháp lúc đó phải nghiêm túc xem xét lại chế độ điền địa ở Nam Kỳ.
1. VỤ ÁN NINH THẠNH LỢI
Làng Ninh Thạnh Lợi (quận Phước Long, tỉnh Rạch Giá xưa kia, nay thuộc Hồng Dân - Bạc Liêu) trước kia là vùng đất thấp và phèn, cỏ mọc hoang vu, trên mấy giồng cao ráo thì người Miên đã làm ăn lâu đời. Từ khi đào kinh Quan Lộ — Phụng Hiệp nối Cà Mau đến Ngã Bảy (Cần Thơ), dân tới khai khẩn hai bên bờ ngày càng đông đúc, lập ra quận Phước Long. Thời Nguyễn tuy là dùng chánh sách đồng hóa nhưng vua chúa nhà Nguyễn dành cho người Miên ở Nam kỳ nhiều quyền tự trị : đất đai của họ thì họ gìn giữ, thủy lợi (huê lợi cá tôm dưới sông rạch) thuộc về họ hưởng.
Người Pháp lúc mới xâm chiếm đã gặp nhiều sóc Miên khá đông đúc nên vội kết luận là người Việt không có tài “thực dân”, vì những vùng chung quanh xóm Miên hãy còn nguyên vẹn, hoang vu. Nhưng thực tế cóc phải vậy, người Pháp nhanh chóng nhận ra điều đó: Luật lệ phiền phức về khai khẩn đất (tức là khai khẩn đất thì phải làm đơn xin bằng khoán, để nhà đương cục cử người xuống đo đạc, lên bản đồ rồi cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu thì mới được coi là hợp lệ) mà người Pháp ban hành đã làm đảo lộn tình thế. Vài cường hào thừa cơ hội lập hồ sơ mới để chiếm đoạt: Năm 1922, một người Pháp là Beauville—Eynaud dùng thủ đoạn hợp pháp nhưng bịp bợm, cho đàn em đứng tên xin khẩn đất trong làng Ninh Thạnh Lợi rồi hắn mua lại những biên lai xin khẩn ấy. Kết quả là hắn trở thành người chủ điền lớn, chiếm đến 9/10 diện tích của làng trong khi đó là đất bao đời nay của dân. Dân làng phần lớn là dân Miên, thưa lên tận quan Thống đốc Nam kỳ và Hội đồng quản hạt, Eynaud ớn quá phải trả đất lại,
Nhưng một người xã trưởng (Huê kiều lai) và một cai tổng tên Trừng là hai đàn em của Eynaud đã nói ở trên vẫn cù nhây, đếch trả hết đất, trong đó chiếm giữ nhiều đất của một điền chủ tên là Trần Kim Túc. Ông này là người lai Hoa – Khmer, người làng hay gọi là chủ Chọoc, hồ sơ Pháp gọi là Chok. Chủ Chọk có 300 mẫu đất ruộng, góp địa tô và cho vay ăn lời, mỗi năm thâu ước 15.000 giạ lúa. Sau một thời gian đợi hoài mà đếch thấy trả đất, vào đầu tháng 5/1927, chủ Chok bắt đầu ra tay. Chủ Chok, Mốc (em rể của ông ta) và một người thày bùa tên là Cồ Cui mà nhiều người cho rằng em của chủ Chọt. Họ tụ họp chừng 40 người, làm lễ cúng, phát bùa, khoe rằng hễ đeo vào người là súng bắn không lủng. Bọn đàn em mặc quần áo trắng, mấy người lãnh tụ thì mang cờ xí nhiều màu. Họ cử hành liên tiếp nhiều cuộc lễ khác, thay đổi địa điểm trong làng hoặc ở làng giáp ranh, có lẽ mục đích vừa củng cố tinh thần bọn tay em vừa thâu nạp thêm người mới? Mọi việc diễn ra êm thắm, không xúc phạm đến tài sản hay tánh mạng ai cả. Bấy giờ đạo Cao Đài bắt đầu phát triển ở miền tây, hương chức mấy làng lân cận suy luận qua sắc phục trắng của bọn tay em, cho là hình thức giống như đạo Cao Đài. Có lẽ chủ Chọk và đồng bọn muốn lập một tôn giáo mới, thế thôi.
Một biến cố nhỏ lại xảy ra: Một bữa nọ, chủ Chọk và bọn tay em làm lễ trên phần đất đai của đồn điền khai thác tràm của Mézin thì tên cai điền của Mézin bèn thị oai, cầm súng đưa lên như hăm dọa bắt buộc chủ Chọk phải giải tán (cai điền của Pháp được quyền giữ súng). Bọn chủ Chọt và tay em liền phản ứng ngay, bắt sống bốn người tá điền trên phần đất của Mézin rồi đem về “lãnh thổ” của mình. Tên cai điền hoảng hốt bèn đánh điện cho chủ tỉnh Rạch Giá mà báo nguy (đây là làng gần quận lỵ). Trong khi đó, chủ Chọk và đồng bọn trở về sào huyệt. Một cuộc lễ khác diễn ra. Cồ Cui làm phép, cầu khẩn với thần linh rồi phát bùa, dao, rựa cho đàn em sẵn sàng huyết chiến. Bức điện tín của người cai điền đến tay chủ tỉnh Rạch Giá chủ tỉnh lệnh cho chủ quận Phước Long và viên cai tổng trở về địa phương để xem xét tình hình và ứng phó gấp. Bấy giờ, sau cuộc lễ lớn, chủ Chọk cho giăng tứ phía quanh đất của mình một sợi chỉ màu trắng tượng trưng cho ranh giới bất khả xâm phạm, cấm ngặt không cho ai bước qua. Trái lời thì chém, đếch nói nhiều.
Ngay trong đêm ấy, bọn chủ Chọk liền đến bao vây nhà của cai tổng Trừng và nhà của viên xã trưởng Ninh Thạnh Lợi. Cả 2 ông này đều không có nhà. Bọn Chọk rút lui, không phá hại gì trong nhà cả. Nhưng tiện tay chúng cắt tiết ông già của xã trưởng, rip cụ. Sáng hôm sau chủ tỉnh sai ông cò (aka đại úy cảnh sát) Bouchet mang chừng 30 lính mã tà có súng carbine (méo sài hoa cải nữa) vào làng tra xét, riêng chủ tỉnh sẽ đi sau. Cò Bouchet quá khinh địch, khi tàu chạy ngang vùng cấm địa của bọn chủ Chọk thì dừng lại rồi ra lịnh cho chừng 10 tên mã tà mang súng vô làng. Dọc đường, lính mã tà gặp bọn tay em của chủ Chọk đang nghinh chiến với dao mác. Bọn lính dỗ dành, mời họ đi theo để gặp mặt viên cò Tây mà kêu nài, trình bày nỗi oan ức. Bọn tay em của chủ Chọk chịu nhận lời nhưng với điều kiện là họ được đi thong thả phía sau, bọn lính phải đi phía trước. Bọn lính chấp thuận và lại khinh địch, mang súng trên vai, đi trước. Khi còn chừng 100 mét là tới tàu, thì theo hiệu lịnh bằng tiếng Miên, bọn tay em của chủ Chọt xông tới, đâm bọn lính mã tà từ phía sau lưng, khiến chẳng ai đề phòng kịp. Viên cò Bouchet bấy giờ đang đứng trên bờ, thấy chuyện náo động thì hoảng sợ (mặc dầu bên cạnh ông ta còn 15 người mã tà), nên chạy lên tàu trốn vào cabin. Nhưng một tay em của chủ Chọt lanh tay, giựt cây súng của tên mã tà tử trận (trong ấy có sẵn đạn), bèn nhắm vào viên cò mà bắn gây thương tích trầm trọng. Phát đạn thứ nhì bắn lên tàu trúng tên cai mã tà, gây thương tích. Lại còn một tên lính bị chém đứt 3 ngón tay. Hai ba người lính mã tà đủ thời giờ nạp đạn bắn trả lại, làm cho đối phương bị thương và chết 6 người. Một viên mã tà và 2 người lính (có lẽ lính kín) bị loạn quân giết tại trận. Thế là tàu chạy nhanh để tẩu thoát, bỏ sót lại một tên lính mã tà. Tên này nhảy xuống kinh xáng, lẩn trốn dưới cỏ để rồi lội nước qua bờ bên kia. Sau này, nhà cầm quyền Pháp chê Cò Bouchet quá vụng về và sợ chết. Bấy giờ, trên bờ chỉ có chừng 30 loạn quân với võ khí thô sơ và 3 cây súng mà họ vừa giựt được. Nếu từ trên tàu mà anh em mã tà nổ súng thì bọn phiến loạn chỉ có sml với anh em, hehe.
Viên chủ tỉnh đang trên đường xuống thì gặp toán quân của tên cò Bouchet chạy về bèn thu binh, thanh dã luôn một mạch và đánh điện cầu cứu với tỉnh Cần Thơ. Phó chủ tỉnh Cần Thơ bèn ra lịnh cho trung úy cảnh sát tên là Turcot tức tốc qua Rạch Giá với 30 lính mã tà của tỉnh Cần Thơ. Toán lính của Turcot đến, tấn công ngay vào sào huyệt. Súng nổ, bọn tay em của chủ Chọk chống cự hăng hái, họ dùng khí giới bén và bốn khẩu súng giựt được của lính mã tà hôm trước. Họ bắn tất cả 80 viên đạn, tức là đến viên đạn cuối cùng. Bên chủ Chọk, 14 người chết tại trận, gồm chủ Chọk, tên thày bùa và con gái của chủ Chọk. Cô gái này đứng hàng đầu, xung phong khi nghinh chiến. Ngoài ra còn khoảng 20 người bị thương, bị bắt giam. Bên mã tà … éo chết ai, hehe. Những người thuộc phe chủ Chọk, luôn cả ông được chôn vào địa điểm mà đến nay người địa phương còn gọi là “Mả chủ Chọk” ở giữa ruộng (đến vùng Phước Long hỏi ai cũng biết).
Quan Thống đốc Nam Kỳ Blanchard de la Brosse cho rằng cuộc thảm sát xảy ra là tất yếu, không có cách nào khác hơn (ông ta muốn binh vực bọn thuộc hạ) nhưng cũng thừa nhận rằng tên cò Bouchet bị thương lần trước và bọn lính mã tà đều quá dở. Dân địa phương thì “khen ngợi” viên xã trưởng, thầy cai tổng và quan chủ quận Phước Long là khôn ngoan và am hiểu tình hình : Thà rằng trốn hoặc rút lui còn hơn là xông pha vào vòng giáo mác. Khôn ngoan nhứt là viên chủ tỉnh Rạch Giá đã rút lui cho yên thân, để rồi chụp mũ, cho cuộc khởi loạn có tánh cách chống Pháp. Chủ quận và hương chức làng Ninh Thạnh Lợi cũng muốn chụp mũ như vậy để khỏi gánh trách nhiệm về những bất công mà họ đã gây ra. Quan Thống đốc không đồng ý rằng cuộc khởi loạn nhằm mục đích lật đổ ách thực dân Pháp, vì người Miên ở các vùng phụ cận tuyệt nhiên không hay biết. Chủ Chọk không ngu dại gì mà cử đồ đại sự với lực lượng vỏn vẹn 40 người.
Lập luận thứ nhì, do một số đông báo chí Pháp ngữ đưa ra, lại thiên về “khảo cứu chủng tộc” : người Miên vào mùa nắng thường nổi cơn “say máu ngà” giống như trường hợp người Mã Lai say nắng, nổi cơn khùng (kêu là Amok) trở nên cuồng dại, hung hăng bất cần thực tế, lý trí kiểm soát không được hành động. Chẳng qua là dân ở Ninh Thạnh Lợi chưa được khai hóa, còn manh tánh chất thời cổ sơ của chủng tộc “Ấn Độ, Mã Lai”. Họ bảo rằng đây là vấn đề bịnh thần kinh, thuộc về y học !
Lập luận thứ ba, của báo chí Việt ngữ ở Sài Gòn lúc bấy giờ, cho đây là cuộc khủng hoảng của chánh sách điền địa bất công do người Pháp bày ra; viên chức địa phương tham nhũng, giành đất của dân. Chánh phủ nên chú ý hơn đến các sóc Miên hẻo lánh ở miền Tây, như việc đóng thuế, quy chế miễn đi lính cho sư vãi, đồng thời thử nghiên cứu việc tách ra vài vùng đất ruộng dành đặc biệt cho người Miên làm chủ. Và sẽ cứu xét một cách công bình những vụ khiếu nại về ruộng đất ở làng Ninh Thạnh Lợi.
Được chưa đầy năm thì lại xảy ra vụ án Đồng Nọc Nạng.
2. VỤ ÁN ĐỒNG NỌC NẠNG
Vụ này thì nổi tiếng hơn vụ trước, từng được đưa vào tuồng cải lương, sau này còn lên phim ảnh, tôi nghĩ đa phần trong các bạn đều có xem phim này rồi, nhưng đó là phim gì thì đọc xong hết sẽ biết.
Vụ việc này xảy ra ngày 16 tháng 2 năm 1928, đem ra xử ngày 17 tháng 8 năm 1928, tiếng Pháp gọi là l’Affaire de Phong Thanh – Vụ án Phong Thạnh, lấy theo tên xã nơi xảy ra vụ án, nay là ấp 4, xã Phong Thạnh B, huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu. Nguyên nhân như sau:
Trước 1900, một nông dân đến khai phá khu rừng ở rạch Nọc Nạng, được 73 ha. Năm 1908, nông dân này chết, để lại đất cho con là Hương chánh Luông. Khi khai phá, Bạc Liêu còn hẻo lánh, việc đo đạc ruộng đất, lập bản đồ đất đai chậm so với các tỉnh khác ở Nam Kỳ. Năm 1910, Hương chánh Luông( tức Tám Luông) chính thức làm đơn xin khẩn 20 ha đất, chịu đóng thuế trên diện tích này, được chính quyền chấp nhận bằng văn bản. Năm 1912, gia đình Luông lại làm đơn xin đo đạc và cấp bằng khoán (giấy chứng nhận sở hữu đất) chính thức cho toàn bộ diện tích đất canh tác 73 ha. Chủ tỉnh Bạc Liêu chấp thuận, trao cho Luông bản đồ phần đất. Năm 1916, Tăng Văn Đìu. kiện lên chủ tỉnh Bạc Liêu, yêu cầu không cấp đất cho Luông, với lý do Đìu cũng góp sức khẩn hoang. Nhà chức trách xử Đìu thua kiện, vẫn cấp giấy tờ đất cho Luông, nhưng bắt phải cắt 4,5 ha cho Đìu, đổi giấy của Luông thành tờ bằng khoán tạm số 303 đề ngày 7 tháng 8 năm 1916.
Năm 1917, một Hoa Kiều trong vùng tên là Mã Ngân, biết rằng đất nhà Hương Chánh Luông chỉ có bằng khoán tạm bèn giở trò lưu manh: Mã Ngân mua lại đất của người giáp ranh với đất của nhà Luông (đất người này có bằng khoán hợp pháp) nhưng trong hợp đồng ghi trùm luôn phần đất của nhà Hương chánh Luông hết 50 ha, ông Luông lúc này đã tiên du giá hạc, chủ gia đình giờ là Biện Toại, con trai cả.
Mua bán xong, Mã Ngân kiện Biện Toại ra tòa với lý do lấn chiếm đất, bên Biện Toại kháng cáo, hai bên thưa nhau lên tận Thống đốc Nam Kỳ, lên cả Toàn Quyền Đông Dương. Năm 1919, quan phủ Ngô Văn Hữu, tự ý xác nhận phần đất của gia đình Biện Toại thuộc về Nguyễn Thị Dương, người đã bán đất trước đây cho Mã Ngân, như vậy cũng có nghĩa công nhận phần đất trên thuộc về Mã Ngân. Anh em Biện Toại dĩ nhiên không chấp nhận, mọi người trong nhà mài dao, mã tấu, tuyên bố : Ai vô, chém!
Mã Ngân cũng ko dám làm căng, vội bán tháo mảnh đất trên cho mẹ vợ của anh trai Đốc phủ Hữu. Bà này là dân có máu mặt, đòi anh em Biện Toại phải nộp địa tô, coi họ như tá điền trên chính phần đất họ đã khai khẩn. Ngày 6 tháng 12 năm 1927, bà này xin được án lệnh của tòa, cho phép tịch thu tất cả lúa của anh em Biện Toại. Ngày 13 tháng 2 năm 1928, lính mã tà gặp anh em Biện Toại để thực thi lệnh tịch thu lúa, anh em Biện Toại kháng cự. Ngày hôm sau, mã tà lại tới, anh em Biện Toại lại kháng cự, mã tà phải rút.Trước thái độ cứng rắn của anh em Biện Toại, hương chức làng liền tự ý bắt giữ bà Hương chánh Luông (mẹ Biện Toại) trong 24 giờ. Thương mẹ, Biện Toại hứa không kháng cự. Bà Luông được thả. Tối 14 tháng 2 năm 1928, anh em nhà Biện Toại họp, làm lễ lạy ông bà tổ tiên và bà Luông, gọi là báo hiếu lần chót. Họ trích huyết thề ăn thua, không sợ chết, rút thăm để ông bà chỉ định ai là người hy sinh đầu tiên. Lần đầu, cô em gái tên Út Trong (tức Nguyễn Thị Trong) rút được thăm. Anh em yêu cầu bốc lại. Lần thứ hai, Út Trong vẫn rút được thăm. OK, fine, âu cũng là cái số.
Sáng 16 tháng 2 năm 1928, khoảng 7 giờ, hai viên cảnh sát Pháp là Tournier và Bouzou cùng bốn lính mã tà từ Bạc Liêu đến tịch thu lúa của gia đình Biện Toại. Đến gần đống lúa, Tournier yêu cầu hương chức làng mời một người trong gia đình ra chứng kiến. Mười lăm phút sau, cô Nguyễn Thị Trong, em gái Biện Toại đi ra, dắt theo một bé gái 14 tuổi, tên là Tư. Tournier đuổi Trong, vì cho cô là phụ nữ và còn nhỏ tuổi, không thể chứng kiến việc đong lúa. Trong không đi, còn yêu cầu đong lúa xong phải ghi biên nhận.Tournier từ chối, bợp tai Trong. Cô lập tức rút ra cây dao nhỏ. Tournier đập báng súng vô đầu, Trong chết giấc. Bouzou tước dao khỏi tay Trong. Trong lúc lấy dao, ông này bị xước ở tay. Đứa cháu tên Tư bèn chạy về cấp báo. Anh em Biện Toại từ nhà chạy ra, mang theo dao mác gậy gộc. Họ chia thành hai tốp, tốp đầu do Mười Chức, em ruột Biện Toại, dẫn đầu. Tốp thứ nhì do bà Nghĩa (vợ Mười Chức) dẫn đầu. Tổng cộng năm đàn ông, năm phụ nữ. Tournier ra lệnh cho lính chuẩn bị ứng phó, bắn chỉ thiên, nhưng Mười Chức không dừng lại. Tournier bèn bắn Mười Chức. Bị thương nặng, nhưng Mười Chức vẫn gắng nhào đến, đâm lưỡi mác trúng bụng Tournier, rồi mới ngã xuống. Bouzou rút súng bắn, hết đạn, Bouzou lại lấy súng của Tournier, bắn tiếp, làm nhiều người thương vong. Nghe tin dân làng kéo đến trợ giúp gia đình Mười Chức khiến bọn ác ôn hoảng sợ tháo chạy. Sáng hôm đó, Mười Chức và vợ đang mang thai (bà Nghĩa), một người anh tên Nhẫn, đều chết. Nhịn, Liễu (hai em Mười Chức) bị thương nặng. Ba ngày sau, Nhịn chết tại bệnh viện. Về phía nhà cầm quyền, Tournier thiệt mạng ngày 17 tháng 2 tại bệnh viện Bạc Liêu.
Vụ án gây rúng động cả Nam Kỳ, các nhà báo, trí thức, dân biểu nhảy vào và nhanh chóng thấy nhiều khuất tất trong vụ này, dư luận yêu cầu phỈ xử nghiêm: Tòa Đại hình Cần Thơ xét xử vụ án Nọc Nạn ngày 17 tháng 8 năm 1928. Chánh án là De Rozario, công tố viên là Moreau. Các luật sư biện hộ (miễn phí) cho gia đình Biện Toại là người Pháp, Tricon và Zévaco, theo lời nhờ của nhà báo Lê Trung Nghĩa.
- Ra trước tòa nhân chứng Hồ Văn Hi người làng xác nhận Tournier tát tai và nổ súng trước. Mười Chức chỉ đâm Tourier sau khi đã trúng đạn.
- Lâm Văn Kiết, thành viên Hội đồng phái viên đo đạc đất đai, xác nhận phần đất do Hương chánh Luông và con là Biện Toại khai khẩn trước. Công tố viên nói ông Kiết không dám cãi cấp trên của mình là Tri phủ Hữu.
- Tri phủ Ngô Văn Hữu cho rằng vấn đề đất đai quá phức tạp, mất thì giờ, nên ông đã buông xuôi. Công tố viên rất giận dữ, cho rằng lề lối làm việc của ông Hữu quá bừa bãi, không thể viện lý do mất thì giờ mà không phân xử rạch ròi. Bị luật sư chất vấn, ông Hữu thú nhận anh ruột của ông có hùn vốn làm ăn với Mã Ngân. Sau vụ án, ông Hữu bị bãi chức tri phủ.
- Mã Ngân khi được tòa hỏi phủ nhận mọi liên quan và nói rằng ko hối hận gì. Viên công tố đập bàn quát: Người dân cho rằng lẽ ra ông phải chết thế mạng cho cò Tournier đó!
- Luật sư Tricon trong phần biện hộ đã nói: Chúng ta, những người Pháp, nên xây dựng ở xứ này một chế độ độc tài. Không phải độc tài bằng sức mạnh của súng đạn, nhưng là sự độc tài của trái tim. Ông nói nên sa thải vài ông phủ, ông huyện bất hảo và vạch rõ hành động của cặp bài trùng Mã Ngân - Tri phủ Hữu đã dẫn đến tấn thảm kịch Nọc Nạng. Ông xin tòa tha thứ cho các bị can, nói: Lần này sẽ có một bà lão khóc về cái chết của bốn đứa con. Bốn người này đã chết, vì họ tưởng rằng có thể tự lực gìn giữ phần đất ruộng mà họ đã từng rưới mồ hôi và máu của họ lên đó.
+ Tòa tuyên án:
Tòa Đại hình Cần Thơ tuyên Biện Toại, Nguyễn Thị Liễu (em út Toại) và Tia (con trai Toại) được tha bổng. Cô Nguyễn Thị Trong, sáu tháng tù (đã bị tạm giam đủ sáu tháng, phóng thích tại tòa).
Sau phiên tòa, các nhân sĩ và người dân ở Phong Thạnh như các ông Huỳnh Minh Trí, Nguyễn Duy Biện, Nguyễn Viết Trọng ở Giá Rai, Bùi Văn Túc ở Long Điền, làm tiệc cảm ơn hai vị luật sư và các nhà báo Pháp và Việt, theo truyền thống trung hậu và hào hoa cố hữu của người Bạc Liêu.
À, giờ thì các bạn biết vụ án Nọc Nạng này được lên bộ phim nào chưa?
(Edit lại từ Lịch sử khẩn hoang miền nam - Sơn Nam)
 
Top Bottom