LÝ BẠCH!

T

tuyen_13

Tiểu sử tác giả


Lý Bạch (701 - 762) tự là Thái Bạch, quê quán ở Thánh Kỷ, Lũng Tây (nay ở Thiên Thủy, Can Túc), tổ tiên cuối đời Tùy bị đày đi Tây Vực nên Lý Bạch được sinh ở Trung Á, 5 tuổi mới theo cha về Miên Châu (nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên. Thời trẻ Lý Bạch học ở Thục, 25 tuổi thì rời Thục, chống kiếm viễn du. Đầu thời Thiên Bảo, ông ứng chiếu về Trường An, được Đường Minh Hoàng phong làm "Hàn lâm cung phụng sứ".

Năm Thiên Bảo thứ 3 (744), Lý Bạch từ quan và lại du lịch khắp đất nước. Trong loạn An-Sử, ông giúp Vĩnh vương Lý Lân. Lý Lân bị quân đội của Túc Tông đánh tan, ông bị bắt và đày đi Dạ Lang, trên đường gặp đại xá nên ông trở về, bị bệnh mất ở Đương Đồ (nay thuộc tỉnh An Huy). Người đời yêu mến Lý Bạch nên truyền rằng: Một hôm ông đi thuyền trên sông Thái Thạch, nhìn thấy vầng trăng trên mặt nước liền nhảy xuống để ôm trăng, sau đó ông cưỡi cá kình lên trời.

Lý Bạch là nhà thơ lãng mạn vĩ đại của Trung Quốc. Ông bất phục quyền quí, coi thường vương hầu, ngạo mạn phóng túng. Thơ ông tràn đầy tình cảm chủ quan, khoa trương táo bạo, tưởng tượng độc đáo, ngôn ngữ hào phóng, ý cảnh phiêu dật... cấu thành một cá tính sáng tạo đặc biệt. Tác phẩm của ông hiện còn hơn một ngàn bài, tập hợp trong "Lý Thái Bạch toàn tập".
 
T

tuyen_13

Anh Vũ châu


Anh Vũ lai quá Ngô giang thuỷ,
Giang thượng châu truyền Anh Vũ danh
Anh Vũ tây phi Lũng sơn khứ
Phương châu chi thụ hà thanh thanh
Yên khai lan diệp hương phong khởi,
Ngạn giáp đào hoa cẩm lãng sinh
Thiên khách thử thời đồ cực mục
Trường châu cô nguyệt hướng thuỳ minh.

Dịch Nghĩa:

Chim Anh vũ xưa bay đến sông Ngô
Bãi trên sông mới truyền lại tên Anh Vũ
Chim anh vũ đã bay về Tây qua núi Lũng
Bãi thơm cây xanh biếc làm sao !
Khói toả ra từ lá cây lan làm gió thơm nổi dậy
Bờ liền với hoa đào, sóng gấm sinh
Lúc ấy người đi đày trông hoài cõi xa
Trên bãi dài mảnh trăng cô đơn còn soi sáng cho ai

Dịch Thơ:

Bãi Anh Vũ

Sông Ngô anh vũ xưa qua đó
Anh vũ thành tên gọi đến giờ
Anh vũ về đây qua núi Lũng
Bãi thơm cây cối những xanh mờ !
Mùi hương lan diệp lừng trong khói
Sóng gấm đào hoa gợn sát bờ
Thiên khách trông vời thôi cũng uổng
Đợi ai trăng bãi luống bơ vơ !...

Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu
 
T

tuyen_13

Đăng Kim Lăng Phượng Hoàng đài


Phượng Hoàng đài thượng phượng hoàng du,
Phượng khứ, đài không, giang tự lưu.
Ngô cung hoa thảo mai u kính,
Tấn đại y quan thành cổ khâu.
Tam sơn bán lạc thanh thiên ngoại,
Nhị thuỷ trung phân Bạch Lộ châu,
Tổng vị phù vân năng tế nhật,
Trường An bất kiến sử nhân sầu.

Dịch Thơ:

Lên đài Phượng Hoàng ở Kim Lăng

Đài Phượng Hoàng cao, phượng đến chơi,
Phượng đi, đài vắng, dải sông trôi !
Cung Ngô hoa cỏ che đường lối,
Đời Tấn cân đai hoá núi đồi.
Ba ngọn thanh sơn, trời khuất nửa,
Một vùng Bạch Lộ nước chia đôi.
Chỉ vì mây nổi che vầng nhật,
Chẳng thấy Trường An não dạ người.

Bản dịch của Khương Hữu Dụng
 
T

tuyen_13

Đảo y thiên


Khuê lý giai nhân niên thập dư
Tần nga đối ảnh hận ly cư
Hốt phùng giang thượng xuân qui yến
Hàm đắc vân trung xích tố thư
Ngọc thủ khai giam trường thán tức
Cuồng phu do thú Giao Hà bắc
Vạn lý Giao Hà thủy bắc lưu
Nguyện vi song điểu phiếm trung châu
Quân biên vân ủng thanh ty kỵ
Thiếp xứ đài sinh hồng phấn lâu
Lâu thượng xuân phong nhật tương yết
Thùy năng lãm kính khan sầu phát
Hiểu xuy huân quản tùy lạc hoa
Dạ đảo nhung y hướng minh nguyệt
Minh nguyệt cao cao khắc lậu trường
Trân châu liêm bạc yểm lan đường
Hoành thùy bảo ác đồng tâm kết
Bán phất quỳnh diên tô hợp hương
Quỳnh diên , bảo ác liên chi cẩm
Đăng chúc huỳnh huỳnh chiếu cô tẩm
Hữu sứ bằng tương kim tiễn đao
Vị quân lưu hạ tương tư chẩm
Trích tận đình lan bất kiến quân
Hồng cân thức lệ sinh nhân uân
Minh niên cánh nhược chinh biên tái
Nguyện tác Dương đài nhất đoạn văn.

Dịch Nghĩa:

Người đẹp ở phòng khuê đã hơn mười năm
Đổi bóng chau mày giận phải sống một mình
Bỗng gặp én xuân bay về trên sông
Trong mây ngậm bức thư trên lụa trắng
Tay ngọc mở phong thư miệng thở dài
Anh chồng cuồng còn đi thú ở phía bắc sông Giao
Muôn dặm sông Giao nước chảy về phương Bắc
Nguyện làm đôi chim cùng bay quanh bãi giữa sông
Bên mình chàng mây bao phủ ngựa rủ tơ xanh
Nơi thiếp ở rêu mọc trên lầu son phấn
Gió xuân thổi trên lầu ngày đà sắp hết
Ai lòng nào cầm gương nhìn mái tóc sầu thương
Sớm thổi sáo trúc theo cánh hoa rơi
Đê, giặt áo binh nhung ngẩng nhìn trăng sáng
Trăng sáng cao vời giọt đồng hồ kéo dài
Bức rèm trân châu rủ che kín nhà lan
Rủ ngang màn báu kết giải đồng tâm
Pháng phất trên nửa chiếu quỳnh ngát hương tô hợp
Chiếu ngọc màn báu gấm thêu đôi cánh liền nhau
Đèn nến sáng ngời chiếu chỗ nằm trơ trọi
Nếu có người nhắn tin thiếp sẽ lấy kéo vàng
Vì chàng may để lại chiếc gối tương tư
Hái hết hoa lan trong sân mà chưa thấy chàng
Khăn hồng lau lệ những hoa mờ đôi mắt
Năm sau nếu chàng vẫn lại đi nơi biên tái
Thiếp nguyện làm một đóa mây trôi ở chốn Dương Đài

Dịch Thơ:

Bài ca đập áo

Mười mấy buồng xuân gái liễu thơ
Xa chồng ngắm bóng ủ mây tơ
Chợt trông đầu bến xuân về yến
Xa ngậm tin mây lụa một tờ
Mở thơ não ruột than dài
Chồng ta đóng mãi đóng hoài sông Giao!
Muôn dặm sông Giao nước ngược chiều
Làm đôi chim bãi lượn vòng theo
Chàng bên cương ngựa lồng mây khói
Thiếp bóng lầu son dấu cỏ rêu

Bóng xế trên lầu thoáng gió xuân
Tóc sầu ai dám ngắm gương chăng?
Tiếng tiêu buổi sớm theo hoa rụng
Chiếc áo đêm trường đập bóng trăng

Trăng sáng cao vời, giọt điểm canh
Nhà lan châu ngọc thấp buông mành
Đồng tâm giái kết ngang màn liễu
Tô hợp hương chia nửa chiếu quỳnh

Bằng gấm cành giao chiếu lẫn màn
Giường đơn hiu hắt ngọn đèn tàn!
Có ai trao kéo giùm nhau với
Cắt gối tương tư để nhớ chàng

Lan sân hái sạch thấy chàng đâu!
Nước mắt khăn lau đã ố màu
Ngoài ải năm sau còn đóng nữa
Mây thần xin hiện núi chiêm bao.

Bản dịch của Khương Hữu Dụng
 
T

tuyen_13

Đề Bắc Tạ bi


Nhất Vi thiên khách khứ Trường Sa
Tây vọng Trường An bất kiến gia
Hoàng Hạc lâu trung xuy ngọc địch
Giang Thành ngũ nguyệt Lạc mai hoa.

Dịch Nghĩa:

Làm người khách bị đổi ra Trường Sa
Nhìn Trường An ở phía tây không thấy nhà
Trong lầu Hoàng Hạc nghe thổi sáo ngọc
Bài "Hoa mơ rụng" vào tháng năm ở Giang Thành

Dịch Thơ:

Đề bia Bắc Tạ

Làm quan bị đổi đến Trường Sa
Nghoảnh lại Trường An chẳng thấy nhà
Hoàng Hạc lầu cao nghe sáo ngọc
Giang Thành dậy khúc "Lạc mai hoa".

Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu
 
T

tuyen_13

Đinh đô hộ ca


Vân Dương thướng chính khứ,
Lưỡng ngạn nhiêu thương cổ.
Ngô ngưu suyễn nguyệt thì,*
Đà thuyền nhất hà khổ.
Thủy trọc bất khả ẩm,
Hồ tương bán thành thổ.
Nhất xướng "Đô hộ" ca,
Tâm tồi lệ như vũ.
Vạn nhân tạc bàn thạch,
Vô do đạt giang hử.
Quân khan thạch Mang, Đãng
Yểm lệ bi thiên cổ.

Dịch Thơ:

Bài ca Đinh đô hộ

Đường ngược lên Vân Dương,
Đôi bờ buôn trù mật.
Tiết trâu Ngô thở trăng,
Người kéo thuyền khổ thật.
Nước đục uống không trôi,
Nửa bầu đọng thành đất.
Khúc "Đô hộ" cất lên,
Lệ trào đau thắt ruột.
Muôn người cột vào đá,
Cách gì tới bờ được.
Mang, Đãng kìa nhìn lên,
Muôn thuở buồn lệ nuốt.

Bản dịch của Khương Hữu Dụng
 
T

tuyen_13

Ô dạ đề


Hoàng vân thành biên ô dục thê
Qui phi á á chi thượng đề
Cơ trung chức cẩm Tần Xuyên nữ
Bích sa như yên cách song ngữ
Đình thoa trướng nhiên tư viễn nhân
Độc túc cô phòng lệ như vũ...

Dịch Nghĩa:

Đám mây vàng bên thành, quạ muốn đậu
Bay về rền rĩ trên cành cây
Cô gái Tần Xuyên dệt gấm bên khung cửi
Vải biếc như làn khói ngoài song cửa, cùng với tiếng nói.
Dừng thoi, thẫn thờ nhớ người đi xa
Trong phòng không một mình, lệ như mưa.

Dịch Thơ:

Quạ kêu đêm

Mây vàng chiếc quạ bên thành
Nó bay tìm ngủ trên cành nó kêu
Tần Xuyên cô gái buồng thêu
Song sa khói toả như khêu chuyện ngoài
Dừng thoi buồn bã nhớ ai
Phòng không gối chiếc giọt dài tuôn rơi.

Bản dịch của Tản Đà
 
T

tuyen_13

Ô thê khúc


Cô Tô đài thượng ô thê thì
Ngô vương cung lý tuý Tây Thi
Ngô ca Sở vũ hoan vị tất
Thanh sơn dục hàm bán biên nhật
Ngân tiễn kim hồ lậu thuỷ đa
Khởi khan thu nguyệt truỵ giang ba
Đông phương tiệm cao nại lạc hà.

Dịch Nghĩa:

Vào lúc quạ đậu trên đài Cô Tô
Vua Ngô trong cung đang say với Tây Thi
Bài hát Ngô,điệu múa Sở,cuộc vui chưa dứt
Núi xanh sắp ngậm một nửa vầng mặt trời
Mũi tên bạc trong bình vàng,nước giọt đã nhiều
Ngẩng trông vầng trăng thu rơi xuống làn sóng sông
Phương đông mặt trời lên cao dần,sao vui mãi được ?

Dịch Thơ:

Khúc hát quạ đậu

Khi đàn quạ đậu mái Cô Tô
Vua với Tây Thi ở điện Ngô
Múa Sở,ca Ngô vui chửa tắt
Mặt trời ngậm nửa non xanh ngắt
Bình vàng tên bạc nước dần hao
Trông ánh trăng thu toả sóng xao
Bóng nắng cao rồi,vui mãi sao ?

Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu
 
T

tuyen_13

Ức Đông Sơn


Bất hướng Đông Sơn cửu
Tường vi kỷ độ hoa
Bạch vân hoàn tự thán
Minh nguyệt lạc thùy gia.

Dịch Thơ:

Nhớ núi Đông/font>

Đông Sơn xa cách bao xuân
Tường vi đã trải mấy lần nở hoa
Mây kia bạc xóa tan ra,
Vầng trăng khuất sáng, bóng sa nhà nào.

Bản dịch của Trần Trọng Kim


Non Đông xa cách bao xuân
Cây tường vi đã bao lần nở hoa
Mây xưa hẳn vẫn bay xa?
Trăng xưa biết rụng xuống nhà ai nao?

Bản dịch của Ngô Tất Tố
 
T

tuyen_13

Bạch đầu ngâm


Cẩm thuỷ đông bắc lưu
Ba đãng song uyên ương
Hùng sào Hán cung thụ
Thư lộng Tần thảo phương.

Ninh đồng vạn tử toái ỷ dực
Bất nhẫn phân gian lưỡng phân trương
Thử thời A Kiều chính kiều đố
Độc toạ Trường Môn sầu nhật mộ
Đãn nguyện quân ân cố thiếp thâm
Khởi tích hoàng kim mãi từ phú
Tương Như tác phú đắc hoàng kim
Trượng phu hiếu tân đa dị tâm
Nhất triêu tương sính Mậu Lăng nữ
Văn Quân nhân tặng Bạch đầu ngâm
Đông lưu bất tác tây quy thuỷ
Lạc hoa từ điều tu cố lâm.

Thố ti cố vô tình
Tuỳ phong nhiệm khuynh đảo
Thuỳ sử nữ la chi
Nhi lai cưỡng oanh bão
Lưỡng thảo do nhất tâm
Nhân tâm bất như thảo
Mạc quyển long tu tịch
Tòng tha sinh võng ti
Thả lưu hổ phách chẩm
Hoặc hữu mộng lai thì.

Phúc thuỷ tái thu khởi mãn bôi
Khí thiếp dĩ khứ nan trùng hồi
Cổ lai đắc ý bất tương phụ
Chỉ kim duy kiến Thanh Lăng đài.

Dịch Thơ:

Bạch Đầu Ngâm

Sông Gấm theo dòng đông bắc trôi
Uyên ­ương sóng vỗ giạt đôi trời
Cung Hán chim chồng mê xây tổ
Cỏ Tần chim vợ nhởn nhơ chơi

Dù chết muôn lần tan nát cánh
Chẳng lìa đôi ngả giữa tầng mây

A Kiều thuở xư­a mang hận tình
Tr­ường Môn vò võ mái đầu xanh
L­ưu quân không vấn vư­ơng tình cũ
Tao khang hai chữ tiếc chi vàng.

T­ương Nh­ư nhờ phú đ­ợc tiếng tăm
Nam nhân tâm bạc dễ thay lòng
Mậu Lăng thiếu nữ sinh tình ý
Văn Quân nâng bút Bạch đầu ngâm.

Nư­ớc trôi đông không về tây nữa
Hoa lìa cành thẹn với rừng x­ưa

Dây tơ hồng vô tình
Mặc gió lay nghiêng ngả
Xui chi cành nữ la
Mải bên nhau quấn quýt
Cây cỏ còn tình chung
Sao con ng­ười lại không
Đừng cuốn chiếc chiếu long
Nhện giăng chẳng bận lòng
Ghìn giữ gối hổ phách
Hẹn trong mộng t­ương phùng.

Bát nư­ớc đổ hớt sao cho trọn
Ng­ười đi rồi không dễ hồi tâm
Từ xưa đắc ý không phụ nghĩa
Thanh Lăng trần thế có bao lần.

Bản dịch của Nguyệt Minh
 
T

tuyen_13

Cổ ý


Quân vị nữ la thảo
Thiếp tác thố ti hoa
Khinh điều bất tự hành
Vị trục xuân phong tà
Bách trượng thác viễn tùng
Triền miên thành nhất gia
Thuỳ ngôn hội diệc dị
Các tại thanh sơn nha
Nữ la phát hinh hương
Thố ti đoạn nhân trường
Chi chi tương củ kết
Diệp diệp cánh phiêu dương
Sinh tử bất tri căn
Nhân thuỳ cộng phân phương
Trung sào song phỉ thuý
Thượng túc tử uyên ương
Nhược thức nhị thảo tâm
Hải triều diệc khả lường.

Dịch Nghĩa:

Chàng là loài cỏ nữ la
Thiếp là loài hoa thố ti
Cành nhỏ nhắn không thể tự đi
Nghiêng ngả theo gió xuân
Gởi thân nơi cây tùng trăm trượng xa xôi
Lâu ngày thành chung một nhà
Ai bảo gặp nhau đã dễ
Mỗi bên ở một bên sườn núi xanh
Cỏ nữ la toả mùi thơm ngát
Hoa thố ti làm người ta đứt ruột
Cành cành kết lại với nhau chằng chịt
Lá lá phất phơ theo gió
Sinh con chẳng biết đến rễ
Nhờ ai mà cùng thơm
Bên trong là tổ phỉ thuý
Bên trên đôi uyên ương đậu
Ví như biết được tấm lòng của hai loài cỏ ấy
Thì có thể đo được nước triều ở biển.

Dịch Thơ:

Cổ ý

Chàng là cỏ nữ la
Còn thiếp, thố ti hoa
Cành mềm không tự chuyển
Nghiêng ngả gió xuân qua
Gửi nhánh thông trăm thước
Vấn vương hoá một nhà
Ai rằng thường gặp gỡ
Mỗi kẻ một sườn xa !
Nữ la cứ toả hương
Thố ti gợi đoạn trường
Cành cành chằng chịt kết
Lá lá phất phơ giương
Sinh con không biết rễ
Ai để ngát mùi hương
Trong nương đôi phỉ thuý
Trên đậu cặp uyên ương
Ví biết lòng hai cỏ
Triều kia cũng dễ lường.

Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu
 
T

tuyen_13

Cổ phong


Đăng cao vọng tứ hải
Thiên địa hà man man
Sương bị vật quần thu
Phong phiêu đại hoang hàn
Vinh hoa đông lưu thuỷ
Vạn sự giai ba lan
Bạch nhật yểm tồ huy
Phù vân vô định đoan.
Ngô đồng sào yến tước
Chỉ cức thê uyên loan
Thả phục qui khứ lai
Kiếm ca hành lộ nan.

Dịch Nghĩa:

Lên cao trông ra bốn bể
Trời đất sao mà mênh mông !
Muôn vật nhuộm màu sương thu
Gió lùa hơi lạnh đến miền hoan vu
Vinh hoa như nước chảy về đông
Vạn sư như là làn sóng
Mặt trời bị che thì ánh sáng loé ra
Đám mây nổi không biết bay về đâu
Cây ngô đồng thì chim sẻ và chim én làm tổ
Uyên loan thì đậu trong bụi cỏ gai
Hãy về đi thôi
Ôm kiếm mà ca bài " đường đi khó"

Dịch Thơ:

Cổ phong

Lên cao nhìn bốn bể
Trời đất mênh mông thế
Cảnh vật nhuốm sương thu
Gió lùa nơi vắng lạnh
Vinh hoa nước về đông
Muôn sự làn sóng gợn
Le lói ánh tà dương
Mây buồn không chốn dựa
Ngô đồng nơi én sẻ
Cỏ gai tổ uyên loan
Thà về nơi chốn cũ
Ca bài "hành lộ nan".

Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu
 
T

tuyen_13

Cửu biệt ly


Biệt ly kỷ xuân vị hoàn gia
Ngọc song ngũ kiến anh đào hoa
Huống hữu cẩm tự thư
Khai giam sử nhân ta
Chí thử trường đoạn bỉ tâm tuyệt
Vân hoàn lục mấn bãi sơ kết
Sầu như hồi phiêu loạn bạch tuết
Khứ niên ký thư báo Dương Đài
Kim niên ký thư trùng tương thôi
Đông phong hề đông phong
Vị ngã xuy hành vân sử tây lai
Đãi lai cánh bất lai !
Lạc hoa tịch tịch uỷ thương đài...

Dịch Nghĩa:

Từ ra đi đến nay,đã mấy mùa xuân chưa về nhà
Trước cửa sổ,năm lần thấy anh đào nở hoa
Huống nữa lại có bức thư chữ gấm
Mở phong bì ra khiến người thở than,
Đến nỗi ruột ấy đứt,lòng này cắt
Cuộn tóc mây và mớ tóc mai thôi chải và thắt
Buồn như cơn gió lốc thổi tan tuyết trắng.
Năm trước đã gửi thư nhắn tới Dương Đài
Năm nay lại gửi thư giục giã lần nữa
Gió đông chừ gió đông !
Hãy vì ta thổi đám mây trôi bay về phía tây.
Đợi người mà chưa thấy người về
Hoa rơi lặng lẽ phủ lên rêu xanh...

Dịch Thơ:

Xa cách lâu dài

Mấy xuân xa cách chửa về nhà
Năm lần cửa ngọc thấy đào hoa
Huống còn thư chữ gấm
Mở xem dạ xót xa
Quặn lòng đứt ruột đau khôn xiết
Tóc mây biếng chải,mai thôi kết
Sầu tựa gió về tung bạch tuyết
Năm trước gửi thư nhắn Dương Đài
Năm nay đưa thư giục giã hoài...
Gió đông chừ gió đông !
Hãy thổi mây bay về tây cho ai
Hẹn về sao cứ sai ?
Hoa rơi lặng lẽ lớp rêu phai...

Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu
 
T

tuyen_13

Chiến thành nam


Khứ niên chiến, Tang Càn nguyên,
Kim niên chiến, Thông Hà đạo.
Tẩy binh Điều Chi hải thượng ba,
Phóng mã Thiên Sơn tuyết trung thảo.
Vạn lý trường chinh chiến,
Tam quân tận suy lão.
Hung nô dĩ sát lục vi canh tác ;
Cổ lai duy kiến bạch cốt hoàng sa điền.
Tần gia trúc thành bị Hồ Xứ,
Hán gia hoàn hữu phong hỏa nhiên.
Phong hỏa nhiên bất tức,
Chinh chiến vô dĩ thì.
Dã chiến cách đấu tử,
Bại mã hào minh hướng thiên bi.
Ô diên trác nhân trường,
Hàm phi thướng quải khô thụ chi.
Sĩ tốt đồ thảo mãng,
Tướng quân không nhĩ vi.
Nãi tri binh giả thị hung khí,
Thánh nhân bất đắc dĩ nhi dụng chi.

Dịch Thơ:

Chiến thành Nam

Năm ngoái trên sông Tang đánh nhau,
Năm nay dọc sông Thông chém giết.
Điều Chi, gươm rửa sóng ngoài khơi,
Thiên Sơn, ngựa ăn cỏ ngập tuyết.
Muôn dặm chinh chiến hoài,
Ba quân già ốm hết.
Hung Nô giết chóc thay cấy cày,
Cát vàng xương trắng xưa nay đấy !
Này dãy thành, Tần đắp ngự Hồ,
Kia lửa trận, Hán đốt đang cháy !
Lửa trận cháy chẳng tắt,
Chiến tranh mãi không thôi !
Sa trường đâm nhau chết,
Ngựa ai ngơ ngác nhìn hý trời !
Diều quạ rỉa ruột người,
Tha treo cành khô trông tả tơi.
Binh lính thây bón cỏ,
Tướng quân bó tay rồi.
Mới hay : Gươm đao là vật gở,
Thánh nhân bất đắc dĩ mới dùng thôi !

Bản dịch của Hoàng Tạo & Tương Như
 
T

tuyen_13

Dạ túc sơn tự


Nguy lâu cao bách xích
Thủ khả trích tinh thần
Bất cảm cao thanh ngữ
Khủng kinh thiên thượng nhân.

Dịch Nghĩa:

Lầu cao vòi vọi trăm thước
Tay có thể hái được trăng sao tinh tú
Không dám nói lớn tiếng
Sợ làm kinh động đến người trên trời.

Dịch Thơ:

Đêm ở chùa trên núi

Vòi vọi lầu trăm thước
Với tay hái được sao
Chỉ e nói lớn tiếng
Kinh đông tiên trên cao.

Bản dịch của "Khuyết danh"
 
T

tuyen_13

Dữ Sử lang trung ẩm thính Hoàng Hạc lâu thượng xuy địch


Nhất vi thiên khách khứ Trường Sa
Tây vọng Trường An bất kiến gia
Hoàng Hạc lâu trung xuy ngọc địch
Giang thành ngũ nguyệt "Lạc mai hoa".

Dịch Nghĩa:

Thân là một người khách đến tận Trường Sa xa vạn dặm
Trông ngóng sang phía Tây về thành Trường An mà không thấy nhà
Ở trên lầu Hoàng Hạc, tiếng sáo ngọc thổi
Giữa tháng năm, (sáo thổi) vang lên khúc "Lạc Mai Hoa" trên sông nước dưới chân thành

Dịch Thơ:

Cùng Sử lang trung uống rượu nghe thổi sáo trên lầu Hoàng Hạc

Một làm khách biếm tận Trường Sa
Tây ngóng Trường An chẳng thấy nhà
Sáo ngọc trên lầu Hoàng Hạc lộng
Tháng năm thành quạnh "Lạc mai hoa".

Bản dịch của Đông A


Chú thích:

Lạc mai hoa: tên một khúc địch (loại sáo thổi ngang), âm điệu não nề gợi niềm lữ thứ tha hương .
 
T

tuyen_13

Giang thượng ngâm


Mộc lan chi duệ sa đường châu
Ngọc tiêu kim quản tọa lưỡng đầu
Mỹ tửu tôn trung trí thiên hộc
Tái kỹ tùy ba nhiệm khứ lưu
Tiên nhân hữu đãi thừa hoàng hạc
Hải khách vô tâm tùy bạch âu
Khuất Bình từ phú huyền nhật nguyệt
Sở vương đài tạ không sơn khâu
Hứng hàm lạc bút dao ngũ nhạc
Thi thành tiếu ngạo lăng thương châu
Công danh phú quí nhược trường tại
Hán thủy diệc ưng tây bắc lưu.

Dịch Nghĩa:

Con thuyền bằng gỗ sa đường, lái bằng gỗ mộc lan
Có tiêu ngọc sáo vàng ở hai đầu
Với ngàn hộc rượu ngon đặt bên trên
Thuyền chở kỹ nữ , theo sóng tự do trôi đi
Xưa kia có vị tiên chờ cưỡi hạc vàng bay đi,
Lại có người khách biển vô tâm theo chim âu trắng
Còn lâu đài của vua Sở ngày nay chỉ còn là núi gò
Khi cảm hứng sau sưa hạ ngọn bút làm rung chuyển năm ngọn núi lớn
Lúc thơ làm xong tiếng cười cợt ngạo nghễ vượt qua Thương Châu
Nếu như công danh, phú quí mà còn tồn tại lâu dài
Thì dòng sông Hán thủy hẳn phải chạy lên phía Tây bắc .

Dịch Thơ:

Khúc ngâm trên sông

Chèo lan thuyền gỗ sa đường
Hai đầu sáo ngọc tiêu vàng giúp vui
Ngàn bình rượu đã sẵn rồi
Chở theo kỹ nữ mặc trôi con thuyền
Có người cỡi hạc lên tiên
Vô tâm khách biển theo chim quên đời
Khuất Bình văn rực gương trời
Lâu đài vua Sở chôn vùi cổ khâu
Hứng say bút chuyển núi cao
Thơ xong cười cợt rạt rào bãi sông
Giàu sang còn mãi không cùng
Thì sông Hán hẳn ngược dòng mà trôi.

Bản dịch của Trần Trọng San
 
T

tuyen_13

Hành lộ nan kỳ I


Kim tôn thanh tửu đẩu thập thiên
Ngọc bàn trân tu trị vạn tiền
Đình bôi đầu trợ bất năng thực
Bạt kiếm tứ cố tâm mang nhiên
Dục độ Hoàng Hà băng tắc xuyên
Tương đăng Thái Hàng tuyết ám thiên
Nhàn lai thuỷ điếu toạ khê thượng
Hốt phục thừa chu mộng nhật biên
Hành lộ nan! Hành lộ nan
Đa kỳ lộ, kim an tại?
Trường phong phá lãng hôi hữu thì
Trực quải vân phàm tế thượng hải.

Dịch Thơ:

Đũa vàng chén ngọc vạn một đấu
Thức ngon nhắm quí giá mười ngàn
Dừng chén,ném đũa,nuốt không được
Tuốt kiếm nhìn quanh lòng mênh mang

Muốn vượt Hoàng Hà sông băng đóng
Toan lên Thái Hàng núi tuyết phơi
Rảnh rỗi buông câu bờ khe biếc
Bỗng mơ thuyền lướt cạnh mặt trời.

Đường đi khó ! Đường đi khó !
Nay ở đâu ? Đường bao ngả ?
Cưỡi gió phá sóng hẳn có ngày
Treo thẳng buồm mây vượt biển cả.

Bản dịch Khuyết danh
 
T

tuyen_13

Há Giang Lăng


Triêu từ Bạch Đế thái vân gian
Thiên lý Giang Lăng nhất nhật hoàn
Lưỡng ngạn viên thanh đề bất trụ
Khinh chu dĩ quá vạn trùng san.

Dịch Nghĩa:

Sớm từ thành Bạch Đế trong làn mây rực rỡ
Qua vạn dặm đến Giang Lăng trong một ngày
Hai bên bờ nghe tiếng vượn kêu không dứt
Chiếc thuyền nhẹ đã đi qua vạn dặm núi non.

Dịch Thơ:

Sáng ra đi từ thành Bạch Đế

Sớm từ Bạch Đế rực ngàn mây
Muôn dặm Giang Lăng tới một ngày
Vượn hót ven sông nghe rỉ rả
Thuyền qua muôn núi nhẹ như bay

Bản dịch của Tương Như

-----

Sáng từ Bạch Đế giữa ngàn mây
Muôn dặm Giang Lăng tới một ngày
Tiếng vượn đôi bờ kêu không dứt
Ngàn non thuyền nhẹ đã qua ngay.

Bản dịch trong Lịch sử văn học Trung Quốc, tập I Nxb Giáo dục, 1987


Chú thích:

- Thành Bạch Đế xây bằng đá ong, ở trên núi Bạch Đế, thuộc huyện Phụng Tiết, tỉnh Tứ Xuyên, thường có mây bao phủ.
- Giang Lăng: một địa danh ở tỉnh Hồ Bắc, cách thành Bạch Đế 220 dặm (có tài liệu nói chỉ có 1200 dặm).
- Ba chữ cuối câu thứ 3 ở nguyên bản, có chỗ chép: "đề bất trú" (cũng có nghĩa là "kêu không dứt", "kêu mãi không thôi").
 
Top Bottom