Văn [Lớp 10] Cùng bạn ôn thi học kì 1 - Tỏ lòng

Kagome811

Banned
Banned
28 Tháng hai 2017
670
1,763
271
21
Hải Dương
th
[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Dàn ý phân tích bài Tỏ lòng

I. Mở bài :

- Nhắc đến Phạm Ngũ Lão,chúng ta liền nhớ đến người anh hùng xuất thân ở tầng lớp bình dân,ngồi đan sọt mà lo việc nước.Về sau,chàng trai làng Phù Ủng ấy đã trở thành nhân vật lịch sử từng có công lớn trong kháng chiến chống quân Nguyên-Mông,giữ địa vị cao ở đời Trần.

- Phạm Ngũ Lão là người văn võ song toàn.Văn thơ của ông để lại không nhiều,nhưng Thuật hoài là bài thơ nổi tiếng hừng hực hào khí Đông A của lịch sử giai đoạn thế kỷ X đến XV.
giữ trọng trách nặng nề nơi biên ải.

2.3 Hai câu đầu:
- Câu 1 khắc hoạ hình ảnh người tráng sĩ qua tư thế và hành động .Hoành sóc nghĩa là cặp ngang ngọn giáo .Người trai càm giáo đã mấy thu sẵn sàng bảo vệ non sông đất nước . Tư thế ấy lại đặt trong không gian kỳ vĩ của giang san.Tất cả những chi tiết trên đã dựng lên bức chân dung oai phong lẫm liệt của người trai thời loạn.

- Câu 2 là hình ảnh ba quân.Ngày xưa ,quân lính thường chia làm ba đội gọi là tiền quân , trung quan ,hậu quan.Vì thế , câu thơ nói đến ba quân là ca ngợi sức mạnh của toàn dân tộc . Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu ,câu thơ có thể hiểu theo hai cách.Khí thôn Ngưu là khí thế nuốt được cả con trâu (chú giải của sách giáo khoa),cũng có thể hiểu là nuốt cả con ngưu.Cả hai cách hiểu đều nói đến khí thế mạnh mẽ của dân tộc . Đây là hình ảnh ước lệ quen thuộc thường gặp trong thơ cổ nhưng đặt trong hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm ,hình ảnh này lại gợi lên những cảm xúc chân thực vì phản ảnh hào khí của thời đại.

- Hai câu thơ là hai hình ảnh bổ sung vẻ đẹp cho nhau.Thời đại hào hùng tạo nên những con người anh hùng , ngược lại mỗi cá nhân đóng góp sức mạnh làm nên hào khí của thời đại.Câu thơ bộc lộ niềm tự hào của tác giả về quân đội của mình , về con người và thời đại của mình.Tác giả nói về chính mình vừa nói tiếng nói cho cả thế hệ.

2.4 Hai câu sau:- Đến đây bài thơ mới bầy tỏ hoài bão của nhân vật trữ tình . Đó là lập công danh nam tử, tức là công danh của đấng làm trai theo lý tưởng phong kiến .Người xưa quan niệm ,làm trai là phải có sự nghiệp và danh tiếng để lại muôn đời .Chí làm trai được coi là món nợ phải trả của đấng nam nhi .Phạm Ngũ Lão đã bầy tỏ khát vọng được đóng góp cho đất nước , xứng đáng là kẻ làm trai .Khát vọng thật đẹp và cao cả.

- Nhưng thật bất ngờ , câu kết bài thơ lại là nỗi thẹn:
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu
(Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu)


Vũ Hầu là Gia Cát Lượng , quân sư nổi tiếng đã giúp Lưu Bị khôi phục nhà Hán.Phạm Ngũ Lão thẹn vì thấy mình tài giỏi như Vũ Hầu để lập công giúp nước . Đây là nỗi thẹn cao cả , cái thẹn làm nên nhân cách .Vì sao? Phạm Ngũ Lão là người có công lớn trong sự nghiệp bảo vệ đất nước , đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông.Vậy mà ông vẫn còn cảm thấy mình vương nợ với đời , còn phải thẹn lhi nghe thuyết Vũ Hầu . Điều đó nói nên khát vọng muốn đóng góp nhiều hơn cho đất nước.

- Nếu hai câu đầu của bài thơ khắc hoạ chân dung người trai Đại Việt với vẻ đẹp oai phong bao năm bền bỉ bảo vệ đất nước thì hai cau sau bộc lộ chí lớn và cái tâm cao cả của người tráng sĩ.

III. Kết luận:
- Bài thơ súc tích , ít lời nhưng đã nói nên lí tưởng nhân sinh của kẻ làm trai: lập công danh không phải chỉ để vinh thân vì phì gia,mà vì đan tộc ;khi đã có công danh , còn phải phấn đấu vươn lên không ngừng.
- Bài thơ súc tích , lời ít , chi tiết có sức gợi , tiêu biểu quy luật kết tinh nghệ thuật của văn học trung đại
[TBODY] [/TBODY]
Nguồn: Soanbai.com

GỢI Ý CÁCH LÀM BÀI
YÊU CẦU:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm, vấn đề quan tâm trong bài viết (Vẻ đẹp của trang nam nhi thời Trần).
- Tư thế hiên ngang, tầm vóc vũ trụ của trang nam nhi thời Trần trong không khí hào hùng của thời đại Đông A (phân tích 2 câu thơ đầu):
+ Câu thơ đâu vẽ nên hình ảnh con người cầm ngang ngọn giáo trấn giữ non sông. Chữ “múa giáo” trong bản dịch thơ đã không thể hiện được vẻ đẹp của nội lực con người trong bản phiên âm “hoành sóc”. “Hoành sóc” - cầm ngang ngọn giáo, không khoa trương, không thiên về phô bày, biểu diễn mà chững chạc, đường hoàng, khỏe khoắn. Kích cỡ của ngọn giáo ở đây cũng thật đặc biệt - được sánh với chiều dài, chiều rộng của non sông. Tư thế của trang nam nhi thời Trần ở đây đã được sánh ngang với tầm vóc của vũ trụ nhờ hình ảnh rộng lớn, kì vĩ ấy. Đó là tư thế thường trực với nhiệm vụ cứu nước.
+ Thời đại đã tạo nên kích cỡ con người lớn lao kì vĩ đó. Hình tượng trang nam nhi thời Trần chẳng nhữiig được thể hiện trong những chiều kích không gian, thời gian dài rộng, mà còn được tạo hình trên nền của khí thế hào hùng thời đại Đông A. Khí thế ấy tưởng như cuồn cuộn dâng lên qua câu chữ lời thơ: “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu” (Ba quân như hổ báo, khí thế hùng dũng nuốt trôi trâu). Sức mạnh của quân đội thời Trần cũng là sức mạnh, khí lực hùng hậu của toàn dân tộc. Câu thơ ấy gây ấn tượng mạnh cho người đọc bởi cách sử dụng hình ảnh so sánh vừa cụ thể, vật chất hóa sức mạnh, vừa khái quát được hào khí chung của ba quân. Đó cũng là khí thế mạnh mẽ, cuồn cuộn dâng lên như át cả trời xanh, làm nức lòng quân sĩ miệt mài không mệt mỏi trấn giữ biên cương suốt mấy thu ròng.
- Vẻ đẹp hùng tâm tráng chí của trang nam nhi thời Trần (phân tích 2 câu thơ cuối):
+ Quan niệm về “nợ công danh” của kẻ làm trai: Thời phong kiến, quan niệm về lập công danh trở thành lí tưởng sông của bậc nam nhi. Đó là món nợ kẻ làm trai phải trả để hoàn thành trách nhiệm với đời, với dân, với nước. “Công danh nam tử còn vương nợ” trong câu thơ của Phạm Ngũ Lão là nói đến quan niệm về chí làm trai ấy. Thời phong kiến, quan niệm đó đã cổ vũ con người từ bỏ lối sống tầm thường ích kỉ để vươn đến những khát vọng lớn lao “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Sau này nhà thơ Nguyễn Công Trứ cũng viết:
Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc,
Nợ tang bồng vay trả, trả vay.
Chí làm trai nam bắc, đông, tây,
Cho phí sức vẫy vùng trong bốn bể.
+ Nỗi “thẹn” cao quý của trang nam nhi thòi Trần: “Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu”. Người được nhắc tới trong nỗi thẹn ở đây là Vũ hầu, tức là Gia Cát Lượng, một nhân vật nổi danh thời Tam quốc đã có nhiều công lao đóng góp cho sự nghiệp khôi phục cơ đồ nhà Hán của Lưu BỊ, được phong tước Vũ Lượng hầu.
Phạm Ngũ Lão, một vị tướng, một gương mặt tiêu biểu của trang nam nhi thời Trần, có nhiều đóng góp lớn lao cho cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên của dân tộc vậy mà vẫn cảm thấy “thẹn” khi nghe nhắc đến Gia Cát Lượng. Nỗi thẹn ấy bắt nguồn từ khát vọng cống hiến cho dân cho nước của một bậc danh tướng. Nỗi thẹn đã tô đậm nhân cách của bậc làm trai.
- Khái quát vấn đề: Bài thơ ngắn gọn, hàm súc, hình ảnh kì vĩ, giàu sức biểu cảm, tất cả đã góp phần đậm tô vẻ đẹp của trang nam nhi thời Trần có khí thế hiên ngang, tầm vóc lớn lao và khát vọng công hiến, lập công trong sự nghiệp cứu nước cao cả. Vẻ đẹp ấy đã lí giải với chúng ta đâu là nguyên nhân đã làm nên sức mạnh kì diệu giúp cho dân tộc Việt Nam ba lần chiến thắng quân Mông - Nguyên, một thế lực ngoại xâm hung hãn nhất bấy giờ.

Nguồn: Chiasekienthuc24h.com
Gợi ý:
- Cái chí làm trai của tác giả là :
+ Lập công ( để lại sự nghiệp cho đời), lập danh ( để lại tiếng thơm )-> quan niệm lập công trở thành lý tưởng của người làm trai thời phong kiến.
+ Công danh được coi là món nợ của người làm trai với đất nước ( trả xong nợ công danh là hòan thành nghĩa vụ với đất nước)
* Chí làm trai cổ vũ con người từ bỏ lối sống tầm thường, ích kỷ sẵn sàng hy sinh cho Tổ quốc. Cho nên , chí làm trai có nội dung tích cực và có tác dụng to lớn trong việc cổ vũ, khích lệ tinh thần yêu nước cho mọi thế hệ.

Vẻ đẹp của người trai thời Trần không chỉ thể hiện ở cái tư thế, khí phách, tầm vóc, sức mạnh mà còn thể hiện ở cái chí, cái tâm của người tráng sĩ. Cái chí, cái tâm ấy gắn liền với quan niệm chí làm trai. Theo Phạm Ngũ Lão chí làm trai phải gắn liền với hai chữ công danh, Chí làm trai này mang tinh thần, tư tưởng tích cực, gắn với ý thức trách nhiệm, lập công (để lại sự nghiệp), lập danh (để lại tiếng thơm cho đời). Chí làm trai đó được coi là món nợ đời phải trả. Trả xong nợ công danh có nghĩa là hoàn thành nghĩa vụ đối với dân, với nước. Quan niệm lập công danh đã trở thành lý tưởng sống của trang nam nhi thời phong kiến. Sau này Nguyễn Công Trứ cũng khẳng định:
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
Đó là lí tưởng sống tích cực, tiến bộ " Sự nghiệp công danh của cá nhân thống nhất với sự nghiệp chung của đất nước- sự nghiệp chống giặc ngoại xâm cứu dân, cứu nước, lợi ích cá nhân thống nhất với lợi ích của cộng đồng.
" Chí làm trai của Phạm Ngũ Lão có tác dụng cổ vũ con người từ bỏ lối sống tầm thường, ích kỉ, sẵn sàng chiến đấu hi sinh cho sự nghiệp cứu nước, cứu dân để “cùng trời đất muôn đời bất hủ”.

- Vũ Hầu- Khổng Minh Gia Cát Lượng- bậc kì tài, vị đại quân sư nổi tiếng tài đức, bậc trung thần của Lưu Bị thời Tam Quốc.
- Thẹn" hổ thẹn" Phạm Ngũ Lão thẹn chưa có được tài mưu lược lớn như Gia Cát Lượng đời Hán để trừ giặc, cứu nước.
Các nhà thơ trung đại mang tâm lí sùng cổ (lấy giá trị xưa làm chuẩn mực), thêm nữa từ sự thật về Khổng Minh" Nỗi tự thẹn của Phạm Ngũ Lão là hiển nhiên.
“thẹn” còn được hiểu là cách nói thể hiện khát vọng, hoài bão muốn sánh với Vũ hầu. Xưa nay, những người có nhân cách vẫn thường mang trong mình nỗi thẹn. Nguyễn Khuyến trong bài thơ “Thu vịnh” từng bày tỏ nỗi thẹn khi nghĩ tới Đào Tiềm – một danh sĩ cao khiết đời Tấn. Đó là nỗi thẹn của người có nhân cách. Trong bài Thuật hoài,Phạm Ngũ Lão thẹn vì chưa trả xong nợ nước. Vì từ một chàng trai thôn dã bình thường ở làng Phù ủng ông đã trở thành một vị tướng tài, tham gia trực tiếp vào cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần 2, lần 3, nổi tiếng là người đánh đâu thắng đấy. Cho tới khi 63 tuổi ông vẫn hăng hái xung phong cầm quân, dẹp tan bọn xâm lợc quấy rối biên giới phía Tây Tổ quốc. Được phong chức : “Điện súy thượng tướng quân”
Cho nên Thẹn với Vũ hầu không phải là so sánh mình với Vũ hầu mà là soi vào tấm gơng ấy để nỗ lực phấn đấu, khát khao có đợc tài mu lợc giúp nhà Trần trừ giặc, cứu nớc.
Đó là nỗi thẹn có giá trị nhân cách. Nỗi thẹn ấy không làm cho con người trở nên nhỏ bé mà trái lại nâng cao phẩm giá con người. Đó là cái thẹn của một con người có lý tưởng, hoài bão vừa lớn lao, vừa khiêm nhường. Nỗi thẹn của một con người luôn dành trọn cái tâm cho đất nước, cho cộng đồng. Như vậy, Phạm Ngũ Lão vừa đề cao cái chí, vừa đề cao cái tâm của con người Việt Nam đời Trần. Đó chính là con người hữu tâm trong thơ ca trung đại Việt Nam.

" Hoài bão lớn: ước muốn trở thành người có tài cao, chí lớn, đắc lực trong việc giúp vua, giúp nước.. Điều đó nói nên khát vọng muốn đóng góp nhiều hơn cho đất nước.
" Đó là nỗi thẹn tôn lên vẻ đẹp tâm hồn tác giả, thể hiện cái tâm vì nước, vì dân cao đẹp.
Nếu ở hai câu đầu giọng điệu sôi nổi hùng tráng thì đến đây âm hưởng thơ bỗng dưng như một nốt trầm lắng lại. Điều đó rất phù hợp với lời bộc bạch, tâm sự, bày tỏ nỗi lòng của nhà thơ. Nói cách khác âm hưởng thơ góp phần thể hiện nỗi lòng của Phạm Ngũ lão

Với tinh thần ấy, nhân dân ta đã làm nên những chiến công oanh liệt ở Chương Dương, Hàm Tử, Chi Lăng, v.v... và nhất là Bạch Đằng”
* Bài học đối với thế hệ thanh niên ngày nay: Đó chính là Trần Quốc Toản mới 16 tuổi (cùng triều đại): đã giơng cao lá cờ thêu 6 chữ vàng “Phá Cường Địch Báo Hoàng Ân” và sau này trở thành một vị tướng tài ba xuất chúng trong 2 cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông. Lập công danh ngày nay là của tất cả mọi người và không chỉ khi đất nước có giặc ngoại xâm mà trong hoà bình vẫn cần lập công danh.
- Sống phải có hoài bão, ước mơ và biết mơ ước những điều lớn lao.
- Nỗ lực hết mình và không ngừng để thực hiện hoài bão và hoàn thiện bản thân.
- Gắn khát vọng, lợi ích của bản thân với lợi ích của tổ quốc, nhân dân.

Nguồn: HMF
Thuật hoài

Hoành sóc giang san kháp kỉ thu,
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.
(Phạm Ngũ Lão)

Tỏ lòng

Múa giáo non sông trai mấy thu,
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu.
Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu.
(Bùi Văn Nguyên dịch)

I. Mở bài.

- Vài nét về tác giả Phạm Ngũ Lão và hoàn cảnh lịch sử khi bài thơ ra đời.
- Ghi lại bài thơ.

II. Thân bài.

Bài thơ gồm bốn câu, chia làm hai ý chính, diễn đạt hùng khí một thời và nỗi lòng băn khoăn, trăn trở vì nghĩa cả của một nhân cách lớn.

A. KHÍ PHÁCH ANH HÙNG CỦA VỊ TƯỚNG VÀ QUÂN ĐỘI.

1. Mở đầu bài thơ bằng cụm động từ hoành sóc. Tư thế cắm ngang ngọn giáo vẽ nên nét đẹp ngang tàng, oai phong lẫm liệt của một tráng sĩ xung trận, sẵn sàng chiến đấu:

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
(Múa giáo non sông trải mấy thu)

Người tráng sĩ ấy, vị tướng quán ấy đã chinh chiến triền miên, dãi dầu gian khó để bảo vệ giang sơn đã mấy thu rồi.

Ta bỗng nhớ tới hình ảnh người tráng sĩ trong Chinh phụ ngâm: Múa gươm rượu tiễn chưa tàn - Chí ngang ngọn giáo cào ngàn hang beo. Hình ảnh người tráng sĩ càng đẹp hơn khi đạt trong khung canh bừng bừng khí thế tiến công cua một đội quân dũng mãnh muốn át cả trời sao (ba quân khí mạnh...)

2. Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.
(Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu).

Tì là loài thú lai giống cọp và beo (theo truyền thuyết), hổ là cọp. Tam quân tì hổ ý nói ba quân có sức mạnh vô địch. Khí thôn ngưu ngụ ý quân đội bừng bừng khí thế chiến đấu và chiến thắng.

Lời thơ ước lệ, hào tráng, hình ảnh kì vĩ, toát lên khí thế ngất trời của quân đội đời Trần qua ba lần chiến thắng bọn xâm lược Mông Nguyên.

Hai câu thơ đã phác họa nên một bức tranh hoành tráng về một thời oanh liệt với một giọng điệu thật hào hùng. Đó chính là âm hưởng vang vọng của hào khí nhà Trần.

B. QUAN NIỆM VỀ CÔNG DANH VÀ KHÁT VỌNG CỦA TÁC GIẢ

Nam nhi vị liễu công danh trái
(Công danh nam tử còn vương nợ)

Công danh là sự nghiệp và tiếng tăm. Trong thời phong kiên, kẻ làm trai rất coi trọng công danh, tức là phải lập sự nghiệp ích quốc lợi dân (công) để lưu lại tiếng thơm cho hậu thế (danh). Cho nên, công danh xem như món nợ đối với người trai:

Có trung hiếu nên đứng trong trời đất,
Không công danh thà nát với cỏ cây.
(Nguyễn Công Trứ)

Câu thơ thể hiện ý chí và khát vọng thật cao đẹp: muốn được cống hiến cao nhất, muốn làm tròn sứ mệnh của đấng nam nhi.

2. Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.
(Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu).

Hoài bão của người trai càng cao đẹp hơn mà người đọc bắt gặp ở đây là một nhân cách lớn lao: một con người “cắp ngang ngọn giáo”, xông ra giữa trận tiền chống giặc suốt mấy thu rồi không nhớ nữa. Thế mà vẫn nghĩ mình chưa làm tròn trách nhiệm, còn nợ với non sông, đất nước; vẫn thấy “thẹn” khi nghĩ mình công danh vẫn chưa bằng được Vũ Hầu.

Gia Cát Vũ Hầu được xem là một bậc tuyệt tri trong thời Tam Quốc, đầy tài năng thao lược, đã giúp Lưu Bị dựng nên nhà Thục Hán, công danh xếp vào bậc nhất thiên hạ. Phạm Ngũ Lão có thể tự thấy mình còn thua kém Gia Cát Lượng về công danh sự nghiệp. Cũng có thể hiểu “thẹn” là cách nói thể hiện khát vọng, hoài bão muốn sánh ngang với Vũ Hầu.

Có lần Nguyễn Khuyến cũng đã “thẹn” khi nghĩ mình chưa có tài thơ văn và nhân cách cao bằng Đào Uyên Minh:
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.
(Thu vịnh)

Như vậy, những cái “thẹn” ấy cao đẹp và quý giá biết chừng nào!. Đó là nỗi thẹn cua một nhân cách lớn. Nỗi thẹn ấy giúp cho con người ta biết vươn tới lẽ sống cao cả hơn.

III. Kết bài.

Bài thơ thể hiện tấm lòng và ý chí của Phạm Ngũ Lão, đồng thời tiêu biểu cho tư tưởng và tình cảm của lớp người cùng thế hệ với ông, thế hệ làm nên hào khí Đông A.

Nguồn: Baikiemtra.com
Bài mẫu
Phạm Ngũ Lão xuất thân bình dân nhưng có tài kiêm văn võ. Tương truyền, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn trẩy quân dẹp giặc Nguyên - Mông đã gặp ông. Bấy giờ Phạm Ngũ Lão đang ngồi giữa đường đan sọt. Quân lính của Vương quát dẹp đường, ông vẫn không nghe thấy, lấy giáo đâm vào đùi chảy máu mới sực tỉnh. Bởi Phạm đang mãi nghĩ tới "nợ công danh", đem tài năng của mình ra thi thố dẹp giặc giúp nước. Được Hưng Đạo Vương thu nhận làm tì tướng, Phạm tỏ rõ tài năng, lập nhiều công trạng, là một trong những người anh hùng lừng lẫy thời Trần.
Thuật hoài là bài thơ tỏ lòng. Thơ tỏ lòng dưới các tên thuật hoài, ngôn chí, cảm hoài là lối thơ quen thuộc xưa. Nó tập trung bày tỏ chí hướng, khí phách của "chí làm trai". Ấy là cái "nợ công danh", cái nợ lập thân với nước, với vua để tự khẳng định mình.
Người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm từng tuyên ngôn: "Chí làm trai dặm nghìn da ngựa...", Nguyễn Công Trứ cũng nói tới "Chí anh hùng", tỏ rõ "đã sinh ra ở trong trời đất ; phải có danh gì với núi sông"... Tuy nhiên căn cứ vào từng bài, ứng với từng người, từng thời, tác phẩm có thể chỉ là một kiểu cách sách vở, nói cho có "khẩu khí" vậy thôi. Một số khác thoạt nhìn cũng nằm trong khuôn khổ này nhưng chính là tâm sự thật, là niềm day dứt máu thịt, là khát vọng sống cao đẹp của một con người, một thế hệ ở thời đại mình. Vì thế, hình ảnh và khí phách của nhân vật trữ tình trong những tác phẩm cũng rất khác nhau, tạo nên ở người đọc sự rung cảm khác nhau. Chẳng hạn ở Đặng Dung (người cuối triều Trần) là vẻ bi tráng: "Thù nước chưa xong đầu vội bạc; Mấy độ mài gươm dưới bóng trăng". Nguyễn Công Trứ là sự cao ngạo nhưng xót xa thân phận, dẫu là thân phận anh hùng.
Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão - Chàng nam tử trong bài thơ này đặt trong hệ thống "tỏ lòng" có một vẻ đẹp, khí phách riêng. Đấy chính là cái lẽ làm bài thơ qua nghìn năm vẫn tồn tại, xúc động lòng người.
Điểm thứ nhất, bài thơ không phải là khẩu khí của một người mà là khẩu khí của cả một thời đại. Thời đại "Hào khí Đông A". Bằng cách này, cách khác nhiềungười trong thời Trần lúc bấy giờ đã nói như thế. Trần Thủ Độ: "Nếu bệ hạ muốn hàng thì trước hết phải chém đầu thần đã". Trần Quang Khải: "Chương Dương cương giáo giặc; Hàm tử bắt quân thù". Trần Nhân Tông: "Xã tắc hai phen bon ngựa đá; Non sông nghìn thủa vững âu vàng".
Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão là một tiếng nói, không phải tiếng nói của chủ soái mà tiếng nói của một người, của thế hệ tuổi trẻ sống trong sự nghiệp chống ngoại xâm, muốn đóng góp sức mình, để lại tuổi tên trong sự nghiệp ấy.
Điểm thứ hai, chí khí, khát vọng công danh của Phạm Ngũ Lão cất lên qua bài thơ là sự thúc dục từ sự nghiệp chung, oai hùng lừng lẫy. Nó được minh chứng bằng chiến công của chính bản thân ông. Đó không phải là thứ "khẩu khí hão", tỏ lòng theo công thức.
Sự hoà hợp, tương ứng giữa thời đại và cá nhân làm cho bài thơ hùng tráng mà chân thực.
Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh suốt sao ngưu.
Dẫu được hiểu "cầm ngang ngọn giáo trấn giữ đất nước vừa mấy thu ; ba quân dũng mãnh như hổbáo, khí thế nuốt được cả trâu" hay "nuốt sao Ngưu" thì câu thơ cũng đều muốn dựng lại bối cảnh, hiện thực xã hội rộng lớn. Đó là hình ảnh, là bức tranh hoành tráng của sự nghiệp đánh giặc thời Trần. Phân tích bức tranh này, chúng ta thấy có nhiều tầng hình ảnh với cách thức "dựng tranh" rất nghệ thuật.
Cả hai câu thơ đầu này là cái nền rộng: hào khí đánh giặc của một dân tộc trong đó có người chiến sĩ và có cả đoàn quân. Hào khí ấy được tập trung miêu tả ở hình ảnh tiêu biểu nhất, thể hiện khí phách anh hùng nhất "múa giáo". "Múa giáo non sông trải mấy thu - Ba quân Như vậy, cả "ba quân" cùng múa giáo, cùng ra trận. Song thu lại thành điểm là hành động của người chiến sĩ. Câu thơ dựng lên trựớc mắt ta hình ảnh "một tráng sĩ múa gươm" xung trận trên cái nền "ba quân đậy hào khí giết giặc" kia. Câu thơ từ "điểm" mởrộng ra. Hoặc ngược lại, mở ra rất rộng, thu hẹp dần rồi thu thành một "điểm" (Tráng sĩ anh hùng - đội quân tráng sĩ - Ba quận, dân tộc hoặc Ba quân, dân tộc - đội quân tráng sĩ - tráng sĩ anh hùng) khiến cho chỉ hai câu thơ mà trường diễn tả rất rộng, trường cảm xúc rất mãnh liệt, sâu sắc. Câu thơ tượng trưng nhưng lại rất thực. Cái thực của thời đại ở thế hệ trẻ tuổi, ở mỗi cá nhân.
Hai câu thơ cuối cùng, hình ảnh Người tráng sĩ không còn hiện lên "trông thấy nữa". Nó được biểu hiện qua tâm sự, suy nghĩ:
Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.
Ởđây có một quan niệm nhân sinh quen thuộc của những con người có chí khí thời phong kiến. Làm thân con trai cái nợ công danh là cái nợ phải trả. Công danh là sự nghiệp và tiếng thơm. Nó còn tỏ rõ sự phân biệt nam - nữ trong đó, song không phải là tiêu cực. Khi một thế hệ "lo" những điều như thế. Và nợ công danh có một khuôn mâu mà học theo, vươn tới: gương Vũ hầu - Gia Cát Lượng.
Trên cái nghĩa chung này là hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của Phạm Ngũ Lão. Với nhà thơ - người anh hùng họ Phạm, công danh - chí làm trai - gắn vớisự đóng góp, xả thân cao nhất, ích lợi nhất, nhiều nhất cho đất nước, dân tộc trong công cuộc bảo vệ đất nước. Nỗi niềm canh cánh ấy, cái "thẹn" ấy làm cho con người vươn tới những cái cao đẹp, anh hùng. Nó cũng là sự khích lệ, một tuyên ngôn cho thế hệ và thời đại. Bản dịch nghĩa đã dịch "kẻ nam nhi... nên thẹn..." e là người đọc hiểu một ý là "chưa trả xong nợ nam nhi". Có lẽ phải dịch: "Nam nhi... thì thẹn" để rõ cái ý khuyến cáo, khích lệ, hướng tới cả một thế hệ lúc bấy giờ.
Hai câu thơ do vậy cỏ vẻ đẹp của khát vọng lập công, đóng góp, hi sinh cho dân tộc đất nước.
Bài thơ 4 câu 28 chữ đã dựng lên hào khí của cả một thời đại, một thế hệ và một con người. Nó là sự thể hiện cảm hứng yêu nước, chủ nghĩa yêu nước mãnh liệt. Dung lượng nhỏ nhưng sức bao quát, hàm chứa trong đó thật lớn lao. Đây là bài thơ điển hình về nội dung, về hình thức của văn học trung đại.


Nguồn: Nhungbaivanhay.net



[Lớp 10] Cùng bạn ôn thi học kì 1 - Nhàn

[Lớp 10] Cùng bạn ôn thi học kì 1 - Cảnh ngày hè
 
Last edited:
Top Bottom