khám phá vạn vật quanh ta

L

linhlovely2002

tieuyetdethuong1
phnglan
linhduongdaubo2000
cả 3 bn đều đúng nhưng mink sẽ chọn bn tieuyetdethuong1
vì bn trả lời sớm nhất
chúc mưng bn
 
L

linhlovely2002

câu tiếp theo
a) Cá gì có vũ nuôi con?
b) Cá gì cữ mãi béo tròn xưa nay?
c) Cá gì mà lại biết bay?
d) Cá gì một lứa một bầy y nhau?
e) Cá gì đầu bẹp có râu?
g) Cá gì nghe tưởng cùng trâu họ hàng?
h) Cá gì vượt vũ môn quan?
i) Cá gì mùa rụng lá vàng mùa sương?
 
L

linhlovely2002

câu tiếp nhé
a) Con gì bơi lượn giỏi nhanh?
b) Con gì đi dọc lại thành đi ngang?
c) Con gì khiêu vũ giỏi giang?
d) Con gì đi, đứng, nằm hang cứ ngồi?
 
L

linhlovely2002

Năm con đây cùng chung bốn cẳng diện áo màu đen trắng # nhau
a) Con gì trắng tuyết bay mau?
b) Con gì chông sắt vắt đầu đen thui?
c) Con gì ngơ ngác tới lui?
d) Con gì đệ nhất dài đuôi, ba màu?
e) Con gì gác cổng trước sau
Bút nghiên chi để mực tàu lấm đen?
 
L

linhlovely2002

giun đất

Giun đất là tên thông thường của các thành viên lớn nhất của phân lớp Oligochaeta (thuộc một lớp hoặc phân lớp tùy theo tác giả phân loại) trong ngành Annelida.

Giun đất thường sống ở những khu vực đất ẩm ướt có nhiều mùn hữu cơ. Chúng có vai trò to lớn đối với ngành nông nghiệp do chúng làm đất tơi xốp và tăng độ phì nhiêu của đất. Giun đất còn là thức ăn cho gia súc và gia cầm.
 
L

linhlovely2002

những loại động vật có vẻ ngoài lạ nhất

1– Loài sâu bướm cánh dưới màu hồng (Còn được gọi là chiến binh vu thuật)

Loài bướm này có xuất xứ ở rừng mưa bán nhiệt đới Úc, và luôn khiến người ta ngạc nhiên khi nhìn thấy hình dáng sâu bướm của của chúng. Khi còn là ấu trùng, chúng thường ngụy trang thành lá để đánh lừa những kẻ săn mồi. Nhưng khi đến thời kì sâu bướm chúng có hình dạng giống như những chiến binh vu thuật.
Phần ngụy trang của nó là một phần bảo vệ lưng, còn phần đầu được bảo vệ dưới lớp vỏ. Khi bị đe dọa, sâu bướm sẽ đưa ra phần bảo vệ đó ra. Hình ảnh “con mắt” lớn, cùng với dấu hiệu đầu lâu xung quanh, tạo thành một khuôn mặt đáng sợ khiến không kẻ săn mồi nào dám đến gần nó.

May cho nó là người ta đều sợ vẻ ngoài của nó vì nó không thể làm hại đến bất kì loài nào cả.

2– Nhện cầu gai (Hay Skulltula trong Huyền thoại của Zelda)
Con nhện này có hình dáng giống hình tượng Skulltula trong Huyền thoại của Zelda, với hình đầu lâu ở trên lưng. Hai điểm này cũng đủ khiến cho người ta khiếp sợ mỗi lần nhìn thấy chúng. Bạn có thể thấy loài nhện này ở bất kì bụi rậm trên thế giới, và chắc chắn sẽ giật mình giống như đột nhiên nhìn thấy một bộ xương người trong dịp lễ Halloween.
3 – Con chôm chôm “Mặt nạ của Jason”
“Mặt nạ của Jason” là loài chôm chôm duy nhất mà người ta cảm thấy chỉ cần một cú đánh nhẹ cũng giết được hàng loạt đối thủ. Nó mới được tìm ra vào tháng 1/2013, vì thế mà các nhà nghiên cứu vẫn chưa có được một cái tên khoa học chính thức dành cho nó.

Trông nó có vẻ là loài côn trùng vô dụng, nhưng chỉ cần một con nhện con tiến lại gần nó thì chỉ cần một cú đánh nhanh là nó có thể hạ được con nhện.

4– Loài gián khổng lồ Lucihormetica luckae
Loài gián này khiến người ta dễ dàng lầm lẫn với người Jawas trong loạt phim “Chiến tranh giữa các vì sao” với mặt ngoài rỗ và một đường miệng lớn. Vẻ ngoài này của nó khiến không ít người giật mình khi nhìn thấy.

Nhưng loài gián này chỉ có thể tìm thấy gần núi lửa Tungurahua ở Ecuador, và núi lửa này đã phun trào khiến mọi loài sinh vật ở đây đều đã bị thổi bay. Chúng còn được biết đến là loài duy nhất có “gương mặt kinh dị và kì lạ phát sáng trong đêm”.

5 – Loài bướm nhậy đầu cái chết
Không ai rõ tại sao trên lưng loài bướm này lại mang biểu tượng của cái chết, nhưng nó lại rất hợp với vẻ ngoài này và khiến người khác khiếp sợ. Có rất nhiều loài bướm như vậy nhưng loài được biết đến nhiều nhất là Acherontia atropos với vẻ ngoài như được nhuộm mực. Không chỉ vậy, loài bướm này còn đột nhập vào tổ và ăn trộm mật ong.

Thường thì việc tấn công vào tổ ong có thể coi là hành động tự sát với các loài côn trùng, nhưng loài bướm này lại có một lớp bảo vệ rất dày và có mùi hương khá giống với ong. Và theo nghiên cứu thì hình đầu lâu trên lưng nó nhằm mục đích ngụy trang giống với ong.
6– Sâu bướm nâu dùi gỗ (hay được gọi là Jack-o’-Lantern)
Loài sâu bướm này có nguồn gốc từ Đông Nam Á. Chúng có phần đầu trông giống Jack-o’-Lantern (quả bí ngô thường thấy trong lễ Halloween) và phần thân với những sọc trông giống như chân nhện.

Vẻ ngoài này để khiến những kẻ săn mồi nghĩ chúng có độc và không dám tấn công. Và thực tế thì chúng cũng ăn loài cây có độc, Derris ellipica, thường được dùng để tẩm đầu mũi tên.
nguồn net
 
L

linhlovely2002

khủng long

Khủng long là một nhóm động vật đa dạng thuộc nhánh Dinosauria. Chúng bắt đầu xuất hiện vào kỷ Tam Điệp, 231.4 triệu năm trước, và là nhóm động vật có xương sống chiếm ưu thế trong hơn 135 triệu năm, chúng biến mất vào cuối kỷ Phấn Trắng (66 triệu năm trước), khi Sự kiện tuyệt chủng kỷ Creta-Paleogen dẫn đến sự tuyệt chủng của hầu hết các nhóm khủng long và kết thúc Đại Trung Sinh. Các ghi nhận hóa thạch cho thấy chim tiến hóa từ theropoda vào kỷ Jura, do đó, chim được xem là một phân nhóm khủng long bởi nhiều nhà cổ sinh vật học.[1] [2] Vài loài chim sống sót sau sự kiện tuyệt chủng cách đây 66 triệu năm, và chúng tiếp tục phát triển đến ngày nay.[3]

Khủng long là một một nhóm đa dạng từ phân loại, hình thái đến sinh thái. Chim, với hơn 10,000 loài còn sinh tồn,[4] là nhóm động vật có xương sống đa dạng nhất ngoài bộ Cá vược.[5] Theo các bằng chứng hóa thạch, các nhà cổ sinh vật học đã nhận ra 500 chi khủng long riêng biệt[6] và hơn 1,000 loài phi chim.[7] Phần nhiều ăn cỏ, số khác ăn thịt. Cấu trúc sừng và mào phổ biến ở tất cả các nhóm khủng long, và vài nhóm thậm chí còn phát triển các biến đổi bộ xương như áo giáp xương hay gai. Có bằng chứng cho thấy trứng được đẻ và xây tổ là một đặc điểm phụ của tất cả khủng long. Trong khi khủng long hiện đại (chim) khá nhỏ để thuận tiện cho việc bay lượn, nhiều loài khủng long có cơ thể rất lớn. Nhiều loài khủng long khá nhỏ, vi dụ Xixianykus chỉ dài khoảng 50 cm (20 in).

Thuật ngữ "khủng long" được đặt ra năm 1842 bởi nhà cổ sinh vật học Richard Owen, và có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp δεινός (deinos) "khủng khiếp, mạnh mẽ, kỳ diệu" + σαῦρος (sauros) "thằn lằn". Thông qua nửa đầu của thế kỷ 20, hầu hết cộng đồng khoa học tin rằng khủng long là động vật máu lạnh chậm chạp, không thông minh. Hầu hết các nghiên cứu được tiến hành từ những năm 1970, tuy nhiên, đã chỉ ra rằng khủng long là động vật hoạt động chuyển hóa cao và thích nghi rất nhiều cho quan hệ xã hội.

Kể từ khi khủng long hóa thạch đầu tiên được ghi nhận trong những năm đầu thế kỷ 19, bộ xương khủng long hóa thạch hoặc bản sao được gắn kết do các viện bảo tàng trên thế giới trưng bày, và khủng long đã trở thành một phần của văn hóa thế giới. Chúng là xuất hiện trong các cuốn sách bán chạy nhất và những bộ phim như Jurassic Park, và những khám phá mới thường xuyên được bao phủ bởi các phương tiện truyền thông. Từ "khủng long" từng được sử dụng để mô tả những điều không thực tế to lớn, lỗi thời, hoặc bị ràng buộc bởi sự tuyệt chủng, phản ánh quan điểm lỗi thời rằng khủng long là những con quái vật maladapted của thế giới cổ đại.
"Khủng long" (được người Việt dịch ra từ tiếng Trung) là từ Hán-Việt (恐龍) có nghĩa là "rồng lớn". Từ Dinosaur được Sir Richard Owen nghĩ ra, trong tiếng Hi Lạp, δεινός (deinos) (có nghĩa là kinh khủng, mạnh mẽ, khủng khiếp) ghép với σαῦρος (sauros)(có nghĩa là thằn lằn, tuy khủng long không phải là thằn lằn).[10][11] Mặc dù tên phân loại thường được giải thích liên quan đến răng, móng vuốt của khủng long, và các đặc tính đáng sợ khác, Owen dự định nó chỉ đơn thuần là để gợi lên kích thước và vẻ oai vệ của chúng.
Khủng long được định nghĩa là: "Dinosauria = Ornithischia + Saurischia", bao gồm Theropoda (khủng long ăn thịt hai chân và chim), Ankylosauria (ăn cỏ bốn chân có cơ thể bọc giáp), Stegosauria (bốn chân và ăn cỏ có tấm xương), Ceratopsia (đi bằng 4 chân, ăn cỏ có sừng và diềm), Ornithopoda (đi bằng hai chân hoặc bốn chân ăn cỏ), và Sauropodomorpha (chủ yếu là động vật ăn cỏ đi bằng 4 chân lớn với chiếc cổ và đuôi dài).

Chim nay được xem là nòi giống sống sót duy nhất của Theropoda. Theo phân loại truyền thống, chim được coi là một lớp riêng tiến hóa từ khủng long. Tuy nhiên, phần lớn các nhà cổ sinh vật học hiện đại xem chim là khủng long, do đó, khủng long chưa tuyệt chủng. Chim được phân loại thuộc về phân nhóm Maniraptora, là Coelurosauria, là theropoda, là Saurischia, là khủng long.
 
L

linhlovely2002

Sauropoda gồm các loài khủng long lớn và nặng nhất. Trong hầu hết thời kỳ khủng long, sauropoda nhỏ nhất vẫn lớn hơn bất cứ thứ gì trong môi trường của nó, và sauropoda lớn nhất theo thứ lượng nặng hơn bất cứ thứ gì từng bước đi trên trái đất. Các loài động vật có vú không lồ tiền sử như Paraceratherium vẩn được xem là lùn với saropoda, chỉ có cá voi mới bằng hoặc vượt hơn saropoda.[23] Có nhiều lợi thế sauropoda nhận được từ kích thước lớn, bao gồm được bảo vệ khỏi khủng long ăn thịt, giảm sử dụng nặng lượng, và sống lâu, nhưng có thể lợi thế quan trọng nhất là chế độ ăn uống. Động vật lớn có hiệu quả tiêu hóa cao hơn động vật nhỏ, vì thức ăn có nhiều thời gian nằm trong hệ tiêu hóa của nó hơn. Điều này cũng cho phép chúng sống sót với thức ăn có giá trị dinh dưỡng thấp.[24]

Lớn nhất và nhỏ nhất[sửa | sửa mã nguồn]
Các nhà khoa học có thể sẽ không bao giờ tìm thấy khủng long to và nhỏ nhất. Bởi vì chỉ có một số nhỏ hóa thạch được tìm thấy, và hầu hết trong số này vẫn còn bị chôn vùi trong lòng đất. Rất ít mẫu vật được thu hồi là những bộ xương hoàn chỉnh, và dấu vết về da và mô mềm rất hiếm. Phục dựng một bộ xương hoàn chỉnh theo so sánh kích thước và hình thái xương của các loài tương tự nhau là một nghệ thuật không chính xác, và phục nguyên các bắp thịt, cơ quan, là việc phỏng đoán có đào tạo.[25]


So sánh kích thước với Giraffatitan
Loài khủng long cao nhất và nặng nhất được biết đến từ một bộ xương bảo quản tốt là Giraffatitan brancai (trước được xem là một loài Brachiosaurus). Hóa thạch của nó được phát hiện ở Tanzania giữa năm 1907 và 1912. Xương của nhiều cá thể tương tự về kích thước đã được ráp vào nhau thành một bộ xương hoàn chỉnh nay được trưng bày tại bảo tàng für Naturkunde Berlin;[26] bộ xương này cao 12 mét (39 ft) và dài 22,5 mét (74 ft), và có thể thuộc về một động vật nặng khoảng 30000 đến 60000 kg (70000 đến 130000 lb). Con khủng long hoàn chỉnh dài nhất 27 mét (89 ft) là Diplodocus, phát hiện ở Wyoming ở Mỹ và được trưng bày tại bảo tàng lịch sử tự nhiên Carnegie của Pittsburgh năm 1907.[27]


So sánh kích thước với Eoraptor
Có nhiều loài khủng long lớn hơn, nhưng hiểu biết về chúng hoàn toàn nhờ các mẫu hóa thạch rời rạc. Hầu hết được thu thập từ 1970 hay sau đó, bao gồm cả Argentinosaurus, có thể nặng từ 80000 tới 100000 kg (90 tới 110 tấn ngắn); vài cá thể Diplodocus hallorum (trước đây Seismosaurus) dài tới 33,5 mét (110 ft)[24] và Supersaurus dài 33 mét (108 ft);[28] và cao nhất là Sauroposeidon cao 18 mét (59 ft), chạm vào cửa sổ toàn nhà sáu tần. Loài nặng nhất và dài nhất trong số chúng có thể là Amphicoelias fragillimus, được biết duy nhất từ một đốt sống nay đã thất lạc năm 1878. Suy ra từ hình minh họa đốt sống này, con vật này có thể dài 58 mét (190 ft) và nặng hơn 120000 kg (260000 lb).[24] Khủng long ăn thịt lớn nhất là Spinosaurus, chiều dài đạt đến 16-18 mét (52 to 60 ft), và nặng 8150 kg (18000 lb).[29] Vài loài ăn thịt lớn khác là Giganotosaurus, Carcharodontosaurus và Tyrannosaurus.[30]

Trong các loài khủng long phi chim (Avialae), loài nhỏ nhất chỉ có kích thước bằng bồ câu.[31] Không ngạc nhiên, chúng là những theropoda họ hàng gần nhất với chim. Ví dụ, Anchiornis huxleyi, có bộ xương hoàn chỉnh dài 35 cm(1.1 ft).[31][32] A. huxleyi là loài khủng long phi chim nhỏ nhất được mô tả từ cá thể trưởng thành, với cân nặng 110 gram.[32] Khủng long ăn cỏ nhỏ nhất là Microceratus và Wannanosaurus, dài khoảng 60 cm (2,0 ft) long each.[3][33]

Hành vi[sửa | sửa mã nguồn]

Tổ của Maiasaura peeblesorum được phát hiện năm 1978.
Nhiều loài chim hiện đại có tính xã hội cao, và thường sống thành bầy. Có đồng thuận chung rằng nhiều thành vi thông thường ở chim, cũng như ở cá sấu (họ hàng còn sinh tồn gần nhất của chim), cũng xuất hiện ở khủng long. Giải thích hành vi ở các loài hóa thạch chủ yếu dựa trên tư thế bộ xương và môi trường sống, máy tính mô hình hóa của cơ sinh học khủng long, và so sánh với động vật hiện đại có chung hốc sinh thái.[34]

Bằng chứng đầu tiên cho thấy sống theo bầy là một hành vi thông thường ở khủng long là vào năm 1878 khi phát hiện 31 Iguanodon bernissartensis được cho là chết cùng nhau tại Bernissart, Bỉ, sau khi tất cả rơi vào một hố sụt sâu đầy nước và chết đuối.[35] Các vùng hóa thạch như thế sau đó được phát hiện thêm. Dấu chân của hàng trăm hay hàng ngàn cá thể khủng long ăn cỏ được cho là khủng long mỏ vịt (hadrosauridae) cho thấy chúng có thể di chuyển theo đàn lớn, giống Bò rừng bizon Bắc Mỹ hay Linh dương nhảy. Dấu chân saurophoda cho thấy chúng di chuyển thành đàn nhiều loài khác nhau, ít nhất là tại Oxfordshire, Anh,[36] mặc dù không có bằng chứng chính xác về cấu trúc đàn.[37] Có nhiều loại khủng long lớn chậm, bao gồm nhiều theropoda, sauropoda, ankylosauria, ornithopoda, và ceratopsia, tạo thành một đàn các cá thể non. Ví dụ như ở vùng Nội Mông có hơn 20 bộ hóa thạch Sinornithomimus, từ một tới bảy tuổi. Sự tập hợp này được giải thích là một nhóm xã hội bị kẹt trong bùn.[38] Điều này cũng khiến therapoda trở thành loài săn cùng nhau để giết các con mồi lớn.[39][40] Tuy nhiên, cách sống này không phổ biến với chim hiện đại, cá sấu, bò sát khác.


Hai Centrosaurus apertus đang đánh nhau.
Mào và diềm cổ ở vài nhóm khủng long, như marginocephalia, theropoda và lambeosaurinae, có thể quá mỏng manh để tự vệ, và vì vậy chúng được dùng để biểu thị sự hung hăng hay tình dục, mặc dù sự giao phối và lãnh thổ của khủng long được biết đến rất ít.

Một hóa thạch quan trong được phát hiện tại Sa mạc Gobi năm 1971. Một con Velociraptor tấn công Protoceratops,[41] có bằng chứng cho thấy mỗi con thực sự tấn công con còn lại.[42] Vài loài khủng long ăn thịt đồng loại được thừa nhận, bởi các dấu răng Majungasaurus trên xương của Majungasaurus khác tại Madagascar năm 2003.[43]

So sánh ổ mắt khủng long với chim và bò sát được dùng để phỏng đoán các hành vi hàng ngày của khủng long. Mặc dù có gợi ý rằng khủng long hoạt động suốt ban ngày, các loài khủng long ăn thịt nhỏ như dromaeosauridae, Juravenator, và Megapnosaurus được cho là sống về đêm. Các loài ăn cỏ và ăn tạp vừa hay lớn như ceratopsia, Sauropodomorpha, Hadrosauridae, Ornithomimosauria hoạt động suốt một ngày, với các khoảng nghỉ ngắn, mặc dù Ornithomimosauria Agilisaurus sống ban ngày.[44]

Vài ornithischia, như Oryctodromeus có một phần cuộc sống đào bới trong hang.[45] Nhiều loài chim sống trên cây, điều này cũng đúng với chim Đại Trung Sinh, đặt biệt enantiornithes.[46] Vài loài khủng long giống chim cũng sống tốt trên cây (gồm cả Microraptor[47]) hầu hết khủng long phi chim sống trên mặt đất.

Sinh sản[sửa | sửa mã nguồn]
Khủng long đẻ trứng có màng ối với vỏ cứng được cấu tạo chủ yếu bởi canxi cacbonat.[48] Hầu hết xây tổ rất phức tạp, có thể dạng cúp, vòm, đĩa, ụ, và cả đào hang.[49] Vài loài chim hiện đại không xây tổ; chim uria thông thường đẻ trứng trên vách đá, và chim cánh cụt hoàng đế đực kẹp trứng giữa hai chân. Chim tiền sử và nhiều loài khủng long phi chim đẻ trứng vào tổ chung, và thường thì con đực ấm trứng. Chim hiện đại chỉ có một vòi trứng và chỉ đẻ một trứng/lần, chim nguyên thủy và khủng long có hai vòi trứng, giống cá sấu. Vì chi khủng long, như Troodon đẻ hai trứng mỗi một hay hai ngày, và làm trứng nở đồng thời bằng cách không ấp trứng tới khi tất cả trứng được đẻ.
 
Top Bottom