1/a.Câu1.Sinh khương ( Gừng tươi) là thân rễ ( củ) cây gừng (Zingiber Officinalale Rosc). Vi cay tính ấm qui kinh Phế, Tỳ, Vị.
Thành phần chủ yếu: Tinh dầu ( 2 - 3% ). Trong tinh dầu có camphen, fellan-dren, xitral, bo rneod, các chất cay: gingerol, zingexen, sogaol.
Tác dụng dược lý:
1.Làm ra mồ hôi: Do chất tinh dầu làm tăng tuần hoàn ngoại vi, uống gừng vào cảm thấy nóng toàn thân và ra mồ hôi.
2.Trợ tiêu hóa: (kiện vị) Tinh dầu làm tăng tiết dịch vị ( thông qua phản xạ thần kinh) tăng co bóp dạ dày và ruột, có khả năng điều chỉnh chức năng trường vị mà cầm nôn.
3.Tiêm dịch gừng: vào mạch máu con vật thí nghiệm thì hơi thở nhanh hơn, biên độ giảm, mạch nhanh, huyết áp tăng. ( theo H.M.Emig, 1930 )
4.Theo y học cổ truyền: gừng có tác dụng giải cảm, tán hàn, làm ấm tỳ vị, cầm nôn, tiêu đàm giảm ho.
Cao lương khương Cao Lương khương còn gọi là Tiêu lương khương, Phong khương, Riềng, Galanga dùng làm thuốc được ghi đầu tiên trong sách Danh y biệt lục là thân rễ phơi hay sấy khô của cây Riềng có tên thực vật là Alpinia officinarum Hance, thuộc họ Gừng (Zingiberaceae).
Vì người ta phát hiện cây Riềng mọc ở vùng Cao lương nên có tên gọi là Cao lương khương. Cây Riềng mọc hoang hoặc được trồng khắp nơi ở nước ta để làm gia vị và làm thuốc. Tại Trung quốc, Riềng mọc nhiều tại các tỉnh Quảng đông, Quảng tây, Đài loan, Vân nam.
Tính vị qui kinh:
Riềng vị cay, tính nóng, qui kinh Tỳ Vị.
Theo các sách cổ:
Sách Danh y biệt lục: Đại ôn.
Sách Bản thảo thập di: vị cay ôn.
Sách Lôi công bào chế dược tính: nhập 2 kinh Tỳ vị.
Thành phần chủ yếu:
Trong rễ củ riềng có 0,5 - 1,5% tinh dầu. Thành phần có carineole, methyl cinnamate, eugenol, pinene, cadimene, galangin, kaempferide, kaempferol, quercetin, Isorhamnetin, galangol.
Tác dụng dược lý:
A.Theo Y học cổ truyền:
Riềng có tác dụng ôn tỳ vị, chủ trị các chứng đau bụng lạnh, nôn, tiêu chảy.
Trích đoạn Y văn cổ:
Sách Danh y biệt lục: "Chủ bạo lãnh, vị trung lãnh nghịch, hoắc loạn phúc thống".
Sách Bản thảo hội ngôn: "Cao lương khương trừ hàn thấp, ôn tỳ vị. Đối với người cao tuổi tỳ thận hư hàn, tiết tả tự ly, phụ ngân tâm vị bạo thống, do khí nộ, do hàn đàm, dùng riềng tính vị thuần dương cay nóng để trị các chứng hàn lạnh kinh niên, tác dụng như Quế Phụ. Nếu hàn phạm vị sinh nôn mửa, thương thực do ăn chất sống lạnh, sinh hoắc loạn thổ tả, phải dùng nhiều. Nếu tỳ vị hư hàn cần phối hợp với Sâm, Kỳ, Bán hạ, Bạch truật là tốt, còn dùng độc vị thì dùng nhiều. Thuốc tính cay nóng tẩu tán tất sẽ làm hao tổn trung khí".
Sách Bản kinh phùng nguyên: " Bụng dưới đau do hàn sán (sa đì). Lương khương cùng dùng với Hồi hương. Còn dùng Riềng trị chứng bụng dưới đau sau sanh do hạ tiêu hư hàn, ứ huyết".
B.Kết quả nghiên cứu dược lý hiện đại:
Tác dụng kháng khuẩn: nước sắc Cao lương khương in vitro có tác dụng ức chế nhiều loại vi khuẩn như trực khuẩn bạch hầu, liên cầu khuẩn dung huyết, anthrax bacillus, song cầu khuẩn viêm phổi, tụ cầu vàng, trực khuẩn thương hàn, trực khuẩn lao.
Nước sắc Lương khương có tác dụng hưng phấn ruột cô lập của súc vật thí nghiệm, nồng độ cao lại có tác dụng ức :
b.Tỏi (danh pháp hai phần: Allium sativum) là một loài thực vật thuộc họ Hành, nghĩa là có họ hàng với hành tây, hành ta, hành tím, tỏi tây, v.v... và cũng được con người sử dụng làm gia vị, thuốc, rau như những loài họ hàng của nó.
Nấm gây bệnh sương mai (Phytophthora infestan) là một loài nấm đa thực, tấn công nhiều loại cây rau màu như cây họ cà, họ dưa bầu bí, họ hành tỏi, thập tự.
c.Đồng hồ sinh học thực ra là Hệ thống này cảm nhận được khi một ngày bắt đầu và kết thúc. Ở thực vật, đồng hồ sinh học truyền tín hiệu khi nào thì chúng tăng trưởng. Ở người, đồng hồ sinh học giúp điều hòa các thay đổi về huyết áp, thân nhiệt và sự tỉnh táo vốn thay đổi tùy thời gian trong ngày.
Những nhịp điệu thường nhật này phụ thuộc vào ánh sáng chứ không phải thị giác. Rõ ràng là, một bông hồng nhạy cảm với ánh sáng nhưng nó không thể nhìn thấy. Cũng giống như thực vật, con người chúng ta có những tế bào cảm nhận ánh sáng đặc biệt gọi là "tế bào nhận kích thích ánh sáng". Những tế bào này phát ra tín hiệu khi ánh sáng tác động lên chúng. Ở động vật có vú, tế bào nhận kích thích ánh sáng được biết đến duy nhất nằm ở hai mắt.
Đa số các nhà khoa học đồng ý rằng những tế bào nhạy cảm với ánh sáng này có tác dụng "cài đặt" các nhịp điệu thường nhật trong cơ thể chúng ta. Thế nhưng, mặc dù các tế bào nhận kích thích ánh sáng của chúng ta nằm ở mắt, cũng không nhất thiết phải thấy đường mới cảm nhận được nhịp điệu thường nhật. Nhiều người mù vẫn có nhịp điệu thường nhật bình thường.
Keo lá tràm hay tràm bông vàng[1] có danh pháp khoa học là Acacia auriculiformis là một loài cây thuộc chi Acacia. Loài này trong tiếng Việt còn có tên gọi khác là keo lưỡi liềm, tên này được sử dụng nhiều khi loài này mới nhập nội vào Việt Nam (thập kỷ 1960-1970), sau này người ta sử dụng rộng rãi tên gọi keo lá tràm. Keo lá tràm được phân bố tự nhiên ở vùng Indonesia vàPapua New Guinea. Hiện tại được trồng rộng rãi tại nhiều quốc gia ở vùng nhiệt đới.
Bông hồng khiêu vũ
Năm 1959, thầy trò khoa Sinh thuộc trường Đại học Trung Sơn (Quảng Châu- Trung Quốc) đã sưu tầm được loại cỏ biết “nhảy múa” ở huyện La Định, làm thành tiêu bản, trưng bày trong phòng tiêu bản của nhà trường.
Loại cỏ này sống trong những lùm bụi cây cỏ trên núi sâu không bóng người, dưới ánh nắng lá của nó có thể rung động, lắc lư nên gọi nó là “cỏ nhảy múa”.
Có người chụp ảnh loại cỏ này đã phát hiện thấy trong thời gian 20 giây, một lá nhỏ đã quay 90 độ so với thân cây, “bước nhảy” thật là nhanh!
Tháng 5 năm 1981, người ta phát hiện thấy trong rừng già nguyên thủy ở huyện Mãnh Lạp vùng tây Xanbana tỉnh Vân Nam có một loài cây nhỏ biết nhảy múa. Nếu phát âm nhạc bên cạnh cây này, nó bèn lắc lư, uyển chuyển nhảy múa theo điệu nhạc. Lá non trên ngọn cây sẽ xoay 180o theo nhạc, người ta gọi nó là “cây hoan lạc”. Nhạc ngừng thì cây nhỏ liền trở về trạng thái đứng yên.
Có điều thú vị là, cây nhỏ này khi nghe những bản nhạc hành khúc mạnh mẽ, hoặc tiếng nhạc ầm ĩ, hoặc tiếng ồn nhặng xị thì nó chán ngấy, chẳng hề động đậy, chỉ khi nghe tiếng nhạc êm tai, du dương, những ca khúc trữ tình, hoặc những tiếng thì thầm tâm tình thì chúng mới “chịu” nhảy múa. Loại cây cỏ này rất giống loại “cỏ nhảy múa” như đã nói ở trên, có lẽ chúng có quan hệ gần gũi với nhau. “Cỏ nhảy múa” chịu sự kích thích của ánh nắng, còn “cây hoan lạc” thì nhảy múa theo tiếng người, tiếng nhạc, đó là sự khác nhau giữa chúng.
Quan hệ giữa âm nhạc và sự sinh trưởng của cây cối đang được các nhà khoa học trên thế giới nghiên cứu. Tháng 4 năm 1989, Nhật Bản đã có nông trường kỳ lạ đầu tiên trên thế giới dùng âm nhạc để chăm sóc cây trồng. Nông trường này luôn cho rau, dưa, hoa quả đang trồng nghe nhạc và đã rút ngắn được khá nhiều thời gian sinh trưởng của cây trồng. Chẳng hạn như cà chua trồng theo phương thức thông thường phải mất 4 tháng mới thu hoạch được, còn chăm sóc bằng âm nhạc thì chỉ cần 3 tháng. Quả cà chua cũng lớn hơn, có trái nặng tới 2kg. Các nhà nghiên cứu cho rằng “bí mật” của nó là sóng âm có thể làm biến đổi điện thế của bản thân nó nên làm tăng nhanh sự sinh trưởng của cây trồng, và nâng cao rõ rệt sản lượng của cây trồng. Các nhà khoa học Pháp sau khi dùng âm nhạc kích thích cây trồng, đã trồng được cây bắp cải nặng 30kg và củ hành tây nặng 2,5kg. Nhờ sự trợ giúp của âm nhạc, người Mỹ đã thu được củ khoai tây to bằng quả bóng đá và cây hoa hướng dương có chu vi hoa dài đến 2m.
Song các chuyên gia liên quan thì cho rằng việc cho cây “nghe nhạc” cũng nên cẩn thận, vì thực vật khác nhau thì sự hâm mộ cũng khác nhau. Dù là loại nhạc mà chúng “ưa thích” thì mỗi lần nghe bao lâu là vừa, hiện nay vẫn chưa thể đưa ra kết luận. Thí nghiệm bước đầu nhận thấy: Rau diếp thích nhạc phong cầm nhưng không ưa nhạc giao hưởng, Hành tây chỉ thích nhạc múa ba lê mà chán loại nhạc nổi, nhạc gõ. Nếu cho Tiểu mạch nghe nhạc giật gân thì nó héo tàn như gặp sương gió. Còn âm thanh quá độ, hoặc nhạc phổ thông không hợp đều có thể làm hại cây cối.
Các loài cây ví dụ Cỏ nhảy múa !!! Hoan lạc
Cực từ trường của Trái đấtCực Nam trở thành cực Bắc và ngược lại, đây là một sự kiện đáng sợ vì nó có thể gây ra nhiều thảm hoạ cho các loài sinh vật trên trái đất, Bradford Clement, giáo sư tại Đại học Quốc tế Florida ở Miami, vừa đưa ra dự báo.
Tình trạng đảo cực từ trường xảy ra khi dòng sắt nóng chảy di chuyển quanh lớp nhân ngoài của Trái đất thay đổi quá trình tuần hoàn. Và khi đó, cường độ của từ trường giảm xuống trước khi nhịp điệu tuần hoàn được thiết lập lại và tình trạng phân cực mới bắt đầu. Tuy nhiên, cho đến nay, giới khoa học vẫn chỉ mới dự đoán thời gian kéo dài của mỗi lần đảo chiều là từ vài ngàn năm đến 28.000 năm.
Braford Clement đã tiến hành phân tích dữ liệu từ 30 mẫu trầm tích được khoan từ đáy hồ hoặc đáy biển ở nhiều kinh độ và vĩ độ trên thế giới. Các mẫu vật này lắng đọng trong 4 thời kỳ khác nhau và ghi lại dấu vết của từ trường ở những giai đoạn đó. Kết quả phân tích cho thấy phải mất trung bình khoảng 7.000 năm hai cực từ mới được thiết lập trở lại.L Và lần đảo cực gần đây nhất diễn ra cách đây khoảng 790.000 năm và nếu quá trình này tiếp tục, thì lần tới, kim la bàn sẽ chỉ về hướng nam, thay vì hướng bắc như hiện nay.
Clement cũng cho biết thêm là sự đảo chiều này không diễn ra đột ngột, nó diễn ra sớm hơn ở xích đạo (khoảng 2.000 năm) nhưng lại chậm hơn ở các vĩ độ cao, gần về phía hai cực (khoảng 10.000 năm). Nguyên nhân của tình trạng này là khi không có từ trường bắc - nam, nhân trái đất đã tạo ra một trường từ thứ hai yếu hơn, có rất nhiều cực mini tại bề mặt của nó. Cuối cùng khi hai cực chính được thiết lập lại, từ trường thứ cấp biến mất.
Không ai biết được hậu quả của hiện tượng này nhưng nhiều chuyên gia cho rằng hậu quả của sự đảo cực từ trường là đời sống sẽ bị đảo lộn, mọi người phải đi lại bằng la bàn. Từ trường còn là lá chắn bảo vệ Trái đất khỏi các vụ nổ bức xạ nguy hiểm từ mặt trời, nếu mất đi lá chắn này thì con người phải tiếp xúc nhiều hơn với bức xạ, các hạt từ mặt trời sẽ lao vào thượng tầng khí quyển, làm ấm nó và có thể làm thay đổi khí hậu.
Hiện tượng đảo ngược cực từ trường như diễn ra ngẫu nhiên về thời gian và không thể dự đoán được, có thể 20.000 - 30.000 năm và cũng có thể lên tới 50 triệu năm.