CLB lịch sử Đôi điều nên biết về các bản Tuyên ngôn Độc lập của dân tộc Việt Nam

Thái Minh Quân

Cựu Cố vấn Lịch sử | Cựu Chủ nhiệm CLB Lịch sử
Thành viên
29 Tháng mười 2018
3,304
4,365
561
TP Hồ Chí Minh
THCS Nguyễn Hiền
[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Có lẽ còn một số bạn chưa biết rằng, dân tộc Việt Nam có tất cả ba bản Tuyên ngôn độc lập trong suốt chiều dài lịch sử của mình.
Đó là bài thơ Nam quốc sơn hà, Bình Ngô đại cáo và bản Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, ngày 2/9/1945.
1- Bài thơ Nam quốc sơn hà
Theo các tư liệu lịch sử, Nam quốc sơn hà là bài thơ thần, do thần linh đọc giúp Lê Hoàn chống quân Tống năm 981 và Lý Thường Kiệt chống quân Tống năm 1077. Bài thơ này được coi là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam, khẳng định chủ quyền của nhà cầm quyền Đại Việt trên các vùng đất của mình
Phiên âm Hán-Việt của bản ghi trong Đại Việt sử ký toàn thư như sau:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên phận định tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Dịch thơ:
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Vằng vặc sách trời chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ
2- Bình Ngô đại cáo
Bình Ngô đại cáo là bài cáo do Nguyễn Trãi soạn thảo, viết bằng chữ Hán vào mùa xuân năm 1428, thay lời Bình Định Vương Lê Lợi để tuyên cáo kết thúc việc giành chiến thắng trong cuộc kháng chiến với nhà Minh, khẳng định sự độc lập của nước Đại Việt. Đây được coi là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của Việt Nam.
Tên gọi của Bình Ngô đại cáo nghĩa là bài tuyên cáo về việc dẹp yên giặc Ngô (Ngô ở đây vừa là tước hiệu của Chu Nguyên Chương, vừa là nguồn gốc, quê cha đất tổ của Chu Nguyên Chương - người sáng lập nhà Minh).
Về bối cảnh ra đời của tác phẩm, vào năm 1427, quân khởi nghĩa Lam Sơn đánh
Bình Ngô đại cáo là một thông báo bằng văn bản dưới hình thức của thể văn biền ngẫu, được viết bằng chữ Hán, được dịch sang tiếng Việt bởi một số học giả như Ngô Tất Tố, Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim.
Giới nghiên cứu đánh giá, Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo không chỉ tuyên bố độc lập, mà còn khẳng định sự bình đẳng của Đại Việt với Trung Quốc trong lịch sử từ trước đến nay và thể hiện nhiều ý tưởng về sự công bằng, vai trò của người dân trong lịch sử và cách giành chiến thắng của quân khởi nghĩa Lam Sơn. Ngoài ra, Nguyễn Trãi sử dụng Bình Ngô đại cáo để chứng minh tính chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và trả lời câu hỏi tại sao quân khởi nghĩa Lam Sơn có thể chiến thắng quân đội nhà Minh đó là chính sách dựa vào nhân dân.
3- Tuyên ngôn Độc lập năm 1945
Bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo và đọc trước công chúng tại vườn hoa Ba Đình (nay là quảng trường Ba Đình) ngày 2/9/1945 được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ ba trong lịch sử Việt Nam.
Bản tuyên ngôn này ra đời cùng cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, Khi Việt Minh tận dụng thời cơ Nhật Bản đầu hàng quân Đồng Minh để tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên toàn quốc từ ngày 14/8/1945.
Trên đà thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa, vào sáng 26/8/1945, tại ngôi nhà số 48 Hàng Ngang, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệu tập và chủ trì cuộc họp của Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong số các quyết định của cuộc họp này, Thường vụ nhất trí chuẩn bị Tuyên ngôn độc lập và tổ chức mít tinh lớn ở Hà Nội để Chính phủ Lâm thời ra mắt nhân dân, cũng là ngày nước Việt Nam chính thức công bố quyền độc lập và thiết lập chính thể Dân chủ Cộng hòa.
Ngày 30/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh mời một số người đến góp ý cho bản Tuyên ngôn độc lập do Người soạn thảo. Ngày 31/8/1945, Người bổ sung thêm cho dự thảo Tuyên ngôn độc lập.
Ngày 2/9/1945, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập trong cuộc mít tinh trước hàng chục vạn quần chúng, tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Mở đầu Tuyên ngôn Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Hỡi đồng bào cả nước. Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu nói này có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: “người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.
Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử đã được các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực nghiên cứu và làm rõ. Tuy nhiên, đến nay vẫn còn có người khi đọc văn bản lịch sử này đã đặt ra câu hỏi: Vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh lại mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập của mình bằng những câu trích dẫn từ hai bản Tuyên ngôn của nước Mỹ và Pháp? Ngay cả một số nhà sử học Mỹ cũng luôn nói rằng, Hồ Chí Minh đã mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập” của Việt Nam bằng cách trích dẫn: “Tuyên ngôn” của Mỹ. Điều này có phần nào không đúng và chưa đủ. Bởi lẽ, Chủ tịch Hồ Chí Minh là danh nhân văn hóa thế giới như UNESCO đã tôn vinh. Người nhắc đến hai văn kiện lịch sử ấy với lòng trân trọng đặc biệt của một trí tuệ lớn đối với sự phát triển của văn minh nhân loại mà Cách mạng giành độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 và Cách mạng tư sản Pháp năm 1789 mang lại. Đây là những thành quả văn hóa của nhân loại, là dấu mốc lớn của lịch sử loài người. Đó là nền tảng và là tiền đề để Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, chính cuộc Cách mạng mà dân tộc Việt Nam đã giành được vào mùa Thu năm 1945 là bước đi tiếp, đồng thời cũng là một cái cột mốc cho sự phát triển của lịch sử giải phóng con người thuộc các dân tộc bị áp bức, bóc lột. Vì đó là mẫu hình đầu tiên và cũng là ngọn cờ đầu của cuộc đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa nhỏ, yếu, thoát khỏi ách đô hộ, thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ và mới mà cách mạng Việt Nam do Đảng và Bác lãnh đạo đã giương cao.
Đi sâu nghiên cứu Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, chúng ta thấy: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay đổi một ý so với bản Tuyên ngôn của Th. Giép-phơ-sơn (Th. Jefferson). Trong Tuyên ngôn của nước Mỹ có câu “chúng tôi ủng hộ một sự thật hiển nhiên rằng, mọi người đều sinh ra bình đẳng” thì Chủ tịch Hồ Chí Minh suy rộng ra rằng: “Mọi dân tộc sinh ra đều bình đẳng”. Đây quả là một sự thay đổi khéo léo và sáng suốt như nguyên Thượng nghị sĩ Mác Go-vân (Mc.Govern) đã đưa ra nhận xét. Cũng bình luận về đoạn trích dẫn này, một nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam người Mỹ, bà Lây-đi Bo-tơn (Lady Borton) còn đưa ra nhận xét rằng khi dịch chữ “all men” trong văn bản của Th. Giép-phơ-sơn được viết vào thế kỷ XVIII, thời đó, từ này chỉ bao hàm những người đàn ông (đương nhiên là da trắng và có tài sản). Nhưng từ “all men” này đã được Chủ tịch của nước Việt Nam độc lập diễn dịch thành: “Tất cả mọi người”. Như vậy có thể thấy, với vốn tiếng Anh hoàn hảo cùng với thiên tài của trí tuệ, Bác Hồ đã dịch và trích dẫn Tuyên ngôn độc lập của Mỹ nhưng có sự điều chỉnh và phát triển để thể hiện quan điểm riêng của mình và trên thực tế được thể hiện trong Hiến pháp Việt Nam bao gồm tất thảy các công dân không phân biệt giới tính, tôn giáo, sắc tộc hay chính kiến. Đó chính là một sự “suy rộng” nữa mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đóng góp về lý luận đem lại những tiến bộ và phù hợp với sự phát triển của nhân loại.
Cần phải hiểu thêm rằng: Bản tuyên ngôn của nước Mỹ ra đời năm 1776, nhưng mãi đến năm 1870, những người đàn ông da màu mới có quyền đi bỏ phiếu. Với phụ nữ, sự thừa nhận về sự bình đẳng chính trị còn muộn hơn nữa. Đó là năm 1923. Như vậy, đàn ông da đen có quyền được đi bầu sau 95 năm và phải mất thêm 50 năm sau nữa, phụ nữ Mỹ mới được đi bỏ phiếu. Còn tại Việt Nam, trước năm 1945, nước ta vẫn là xã hội nặng về ý thức Nho giáo “trọng nam, khinh nữ”. Vì vậy, với bản Tuyên ngôn độc lập nổi tiếng, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt cho nhà nước mới đã tuyên bố độc lập tự do và bình đẳng cho toàn thể mọi người dân Việt Nam không phân biệt dân tộc, giới tính, tôn giáo… Đây là điều thể hiện sự tiến bộ vượt trội của Tuyên ngôn độc lập, so với hai bản Tuyên ngôn của Mỹ và Pháp, do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo.
Gần 74 năm đã trôi qua, những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945 đã trở thành sức mạnh to lớn, đưa dân tộc Việt Nam vượt qua mọi khó khăn thách thức, thực hiện lời thề với Người trong ngày lễ độc lập “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Tuyên ngôn Độc lập đã và đang khơi nguồn sáng tạo soi sáng con đường cách mạng Việt Nam hướng lên tầm cao mới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ phát triển mới. Vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh./.

Nguồn: bài viết của Huong Le, bảo tàng quân khu 7

FB_IMG_1564916863611.jpg FB_IMG_1564916861762.jpg FB_IMG_1564916859276.jpg
 
Top Bottom