H
hardyboywwe


Sông Hồng
Sông Hồng là con sông rất riêng của Hà Nội, của đất mẹ Việt Nam. Con sông ấy chẳng những bồi đắp nên nền văn minh sông Hồng – một trong 36 nền văn minh của Thế giới mà còn là hệ thống song lớn nhất miền Bắc nước ta, lớn thứ 2 trên bán đảo Đông Dương (sau sông Mêkong – hay Cửu Long). Với chiều dài 1126km, qua địa phận Việt Nam là 556km chiếm 49,3%, diện tích toàn lưu vực là 155.000 km2 chiếm 45.6% diện tích. Ngoài ra, song Hồng còn có tận 614 phụ lưu từ cấp 1 đến cấp 6, có những phụ lưu lớn như Đà, Lô, Chảy…
Sông Hồng bắt nguồn từ dãy núi Nhụy Sơn (cao 1776m) ở gần hồ Đại Lý thuộc huyện Nhị Đô, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam điển hình vào Việt Nam ở Hà Khẩu (Lào Cai) qua 7 tỉnh đổ ra biển bằng 10 cửa, cửa chính là cửa Ba Lạt (Nam Định). Đoạn sông Hồng chảy qua Hà Nội dài 91 km, thuộc phần hạ lưu.
Trước khi người Pháp đặt tên cho sông Hồng, nó đã có rất nhiều tên gọi. Mỗi địa phương có một tên sông riêng của mình, ví dụ như sông Thao, sông Cái, sông Nhĩ Hà, sông Nam Sang, Hoàng Giang… vì thế nó cũng được coi là con sông có nhiều tên nhất.
Một trong những nét đặc thù của văn hóa Việt Nam là sắc thái sông nước. Các đô thị cổ trong lịch sử Việt Nam phần lớn đều gắn liền với sông nước: Cổ Loa, Thăng Long,Phố Hiến, Hội An… Trong văn hóa tổ chức đới sống cá nhân, sắc thái nước cũng là một yếu tố quan trọng, người Việt cho rằng mình là con rồng cháu tiên xuất phát từ truyện Lạc Long Quân – Âu Cơ. Lạc Long Quân làm vua nước Xích Quỷ, được dân gọi là Bố nhưng lại sống ở Thủy phủ, tự xưng là giống rồng đứng đầu các loài dưới nước. Người Việt có tục thờ Thủy Thần. Thủy thần có nhiều tên gọi, tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, phổ biến nhất ở vùng sông nước là tục thờ mẫu Thoải (đọc chệch từ mẫu thủy để tỏ ý tôn trọng).
Từ bao đời nay, vào dịp lễ hội mùa xuân và mùa Thu, sông Hồng lại rộn ràng tiếng trống, tiếng chiêng của những đoàn thuyền Rồng đi ra tận giữa sông rước nước sông Mẹ (sông Cái) về thờ và tắm tượng. Du lịch đường sông giờ không còn là hình thức mới nữa, nhưng tài nguyên du lịch ven sông đã được khẳng định từ lâu và ngày càng hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. Chính những cuộc du ngoạn của các thi nhân mặc khách xưa nay còn in dấu trong các truyền thuyết, trong nhưng áng văn thơ.
Sông hồng còn được coi là một di tích lịch sử ghi dấu chiến công chống xâm lược. Những trận thắng lớn của nhân dân ta trong lịch sử phần lớn là những trận đánh trên sông nước: Bạch Đằng (938), (981) trận Tây Kết lần 1, Tây Kết lần 2, Chương Dương, Hàm Tử (1285, Bạch Đằng (1285), Rạch Gầm Xoài Mút (1785)… khu vực dốc Hàng Than, đầu cầu Long Biên (xưa là Đinh Bộ Đầu) nơi diễn ra trận đánh oanh liệt của quân và dân ta (29/1/1285) đánh bật 3 vạn quân Mông Cổ do Uri-ang Kha-Đai cầm đầu ra khỏi Thăng Long, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ xâm lược lần thứ 2 (1285).
Ở cạnh khu vực bãi tự nhiên thuộc huyện Khoái Châu (Hưng Yên) là bến Tây Kết – nơi diễn ra chiến dịch Tây Kết lần thứ nhất do Chiêu Thành Vương, Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản, Nguyễn Khoái chỉ huy. Năm 1285, địa danh Hàm Tử (Khoái Châu – Hưng Yên) là nơi diễn ra chiến dịch Hàm Tử do Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật chỉ huy… Chương Dương là địa danh diễn ra chiến dịch Chương Dương do Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải chỉ huy cũng vào năm 1285. Những chiến thắng này còn in dấu trong bài thơ “Tụng giá hoàn kinh sư” của Trần Quang Khải:
“Đoạt sóc Chương Dương độ
Cầm hồ Hàm Tử quan
Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang san”
Cầm hồ Hàm Tử quan
Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang san”
Khoảng ba bốn trăm năm trước, Sông Hồng đã đem lại cho Hà Nội sức sống của một trung tâm thương mại. Hàng hóa từ miền xuôi theo sông Hồng về lại đồng bằng, xuôi những bến bờ lên các tỉnh miền núi, hàng lâm sản miền núi lại theo sông Hồng về đồng bằng. Những bến bờ sông Hồng ấy đã sánh ngang với những bến cảng sầm uất của Châu Âu, các tàu buôn của Pháp, Nhật, Ý, Bồ Đào Nha… tấp nập cập bến sông Hồng trong cuộc kháng chiến chôngs Pháp, Mỹ.
Sông Hồng còn là nhân chứng cho sự hy sinh mất mát và những chiến công oanh liệt của quân và dân Hà Nội.
Tài nguyên du lịch sông Hồng phải kể đến là hệ thống làng Việt. Trên sông Hồng tồn tại nhiều kiểu làng với những xóm chài, làng chài nhỏ mang đậm sắc thái sông nước. Một số làng tồn tại ở vùng đất ven sông ngoài đê chính, chẳng hạn làng gốm Bát Tràng – xưa có mỏ đất Sét trắng là nguyên liệu để làm gốm, đây cũng là vị trí thuận lợi cho giao thông vận tải đường thủy. Việc sống ở ngoài đê chính làm cho người dân luôn phải lo đối phó với lũ lụt, nên dân cư thạo vùng sông nước, hầu như nhà nào cũng có thuyền do vậy nên làng Xâm Dương (Ninh Sở, Thường Tín, Hà Tây) có tên gọi rất dân gian là Làng Dầm.
Sông Hồng còn nổi bật với những di tích ghi dấu sự kết tinh của lao động. Bản thân đồng bằng sông Hồng là mảnh đất được ông cha ta chú ý bảo vệ bằng hệ thống đê điều kiên cố. Có thể so sánh, người Ai Cập tự hào về Kim Tự Tháp, người Trung Quốc tự hào về Vạn Lý Trường Thành, người Việt Nam cũng có quyền tự hào về hệ thống đê sông, đê biển trên cả nước, có thể ví như Trường Thành vạn lý để ngăn chặn giặc nước. Với Hà Nội, kể từ khi xuất hiện đê Cơ Xá vào thời Lý đầu thế kỷ XII (1108) để bảo vệ kinh thành Thăng Long dọc sông Hồng từ Nghi Tàm đến Lương Yên và đê Quai Vạc…, hệ thống đê sông Hồng của Hà Nội đã có một bề dày lịch sử đến hơn 800 năm.
Tính Hà Tĩnh trở ra đã có gần 5000 km đê trong đó có 1580 km đê sông Hồng. Bên cạnh hệ điều, kênh Bắc Hưng Hải gồm một hệ thống sông đào, lênh mương, cống lớn làm nhiệm vụ tưới tiêu cho 3 tỉnh: Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương. Đây là công trình thủy lợi có tầm cỡ đầu tiên được xây dựng dưới chế độ Xã hội chủ nghĩa vào năm 1958. Công trình có sự tham gia của lực lượng chủ lực là cán bộ chiến sĩ chuyên ngành và hàng vạn lượt dân công.
Thông tin
Sông Thu Bồn bắt nguồn từ vô số những con suối nhỏ róc rách chảy xuống từ ngọn núi Ngọc Linh ở chỗ giáp giới hai tỉnh Quảng Nam – Kon Tum (thuộc huyện Duy Xuyên). Sông Thu Bồn như một dòng mạch tràn đầy sinh lực của mảnh đất Quảng Nam - Đà Nẵng, len lỏi qua những vùng núi non hiểm trở mạn tây Quảng Nam rồi đổ xuống các cánh đồng phì nhiêu.

Qua chặng đường dài hàng trăm cây số, khi ầm ầm băng qua các ghềnh thác, khi thênh thang băng qua những đồng ruộng phì nhiêu, làng mạc trù phú, khi ghé qua những vùng kỹ nghệ phát đạt, mỗi một đoạn sông biểu hiện một dáng dấp riêng. Nhưng bất cứ ở đâu, Thu Bồn cũng là một dòng sông hài hòa sự kết hợp giữa vẻ đẹp của thiên nhiên với sự phong phú của cải được bàn tay và khối óc của người đất Quảng gây dựng.Từ Trà Mi, dòng sông đổ về Tiên Phước. Phía dưới Tiên Phước có Thác Cả, nước đổ trắng xóa như một dải thắt lưng lụa bạch trên nền áo xanh của rừng núi. Nơi đây không gian tĩnh mịch, chỉ đôi khi mới có một đàn voi xuất hiện lội qua sông, làm náo động dòng nước ào ào. Qua khỏi Trà Linh, sông lượn mình giữa hai ngọn núi cao sừng sững như bức tường gọi là hòn Kẽm. Chân núi hòn Kẽm có nhiều phiến đá trắng, trên đó còn lưu giữ những chữ cổ Chiêm Thành. Đến Giao Thủy, sông Thu Bồn đón nhận nhánh sông Vu Gia từ Hà Tân đổ về để cùng chảy về phía Nam, rồi chia làm hai nhánh bao bọc lấy vùng Gò Nổi. Từ đó hai dòng chảy qua Chợ Củi, Câu Lâu và cuối cùng hòa nhập để ra Cửa đại. Những vùng bãi bồi ở Duy Xuyên, Điện Bàn có sông Thu Bồn chảy qua còn lưu giữ những câu chuyện nên thơ và cảm động.

Dân gian vẫn truyền nhau câu chuyện nàng thôn nữ Chiêm Sơn. Chúa thượng Nguyễn Phước Lan lúc còn trẻ sống với cha là Thụy Quận Công đang trấn thủ Quảng Nam, tại dinh trấn Thanh Chiêm. Vào một đêm trăng, công tử Nguyễn Phước Lan cùng cha thả thuyền rong chơi trên dòng Thu Bồn. Giữa đêm trăng thanh vắng bỗng có tiếng hát véo von từ một nương dâu vọng lại. Thuyền rồng vội ghé đậu ở ghềnh điện Châu. Và dưới bãi dâu xanh nhuộm ánh trăng vàng, Nguyễn Phước Lan - sau này là Chúa thượng, đã bàng hoàng trước sắc đẹp của cô thôn nữ họ Đoàn, người huyện Tiên Phước, thuộc phủ điện Bàn. Chúa cho rước về cung và cô hái dâu họ Đoàn bên dòng sông Thu Bồn kia trở thành Hiếu Chiêu Hoàng hậu, mẹ của Thái Tôn Nguyễn Phước Tần tức chúa Hiền. Hiện nay, ở Chiêm Sơn (Duy Xuyên), về phía Tây Gò Cốc Hùng, còn có lăng Vĩnh Viễn, thờ bà Hiếu Chiêu hoàng hậu. Dòng sông Thu Bồn cũng sâu sắc lắng đọng trong ký ức và tình cảm của nhiều văn sĩ đất Quảng. Trong bài thơ "Từ vùng đất quê hương", nhà văn Nguyễn Văn Bổng viết về dòng sông Thu Bồn: "Từ làng tôi đi Hội An thì buổi chiều ra bến trên sông Thu Bồn, xuống đò. Tối, đò nhổ, rời bến, lúc chống chèo, lúc căng buồm chạy phăng phăng trên mặt nước. Nửa đêm thức giấc, chập chờn trong tiếng hò. Tiếng hò văng vẳng đâu sau lái đò mình; ơi ới trên những chiếc khác cùng xuôi dòng sông, giọng nam nữ đối đáp nhau vang vọng giữa trăng nước...Sáng hôm sau mở mắt, đò đã cắm sào bến Hội An. Hai bên sông, bên này thị xã, bên kia Cẩm Phô, tiếng gà gáy. Trên mặt nước và đường phố tiếng rao cháo hến, khoai Tiên đỏa, mì Quảng, bánh mì mật nạm (sốt vang)". Con sông Thu Bồn có màu nước trong xanh, có bãi dâu bạt ngàn, có núi Thạch Bích, có nhiều câu hò, câu hát.

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1946-1954), sông Thu Bồn là một ranh giới: Hữu ngạn trở lên phía Tây là vùng tự do; tả ngạn về phía đông là vùng tạm chiếm. Biết bao cuộc chiến đấu ác liệt chống thực dân Pháp và xâm lược Mỹ đã diễn ra hai bên bờ và ngay cả trên sông này.Không kể bao nhiên chiến sĩ cách mạng, bao nhiêu bộ đội, dân quân du kích, những người dân thường yêu nước đã vĩnh viễn nằm lại trên những mảnh đất gắn bó với dòng sông. Những con người ấy trở nên bất tử. Còn dòng sông Thu Bồn thì mãi mãi tươi đẹp, như một dòng mạch tràn đầy sinh lực của mảnh đất Quảng Nam - Đà Nẵng.
Last edited by a moderator: