Đề " Anh chị hãy phân tích chuyện Đời Thừa để thấy được 2 bi kịch lớn trong truyện"

M

mcguire

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

2 Đề bài về Đời Thừa nhờ mọi người vào thảo luận

Đề -" Anh chị hãy phân tích chuyện Đời Thừa để thấy được 2 bi kịch lớn trong truyện"
-" Quan điểm nghệ thuật của Nam Cao trong Đời Thừa "
mọi ng` giúp e với nhé :D
 
Last edited by a moderator:
Q

quansuquatmo

Truyện tập trung vào bi kịch nhân vật Hộ. Đó là bi kịch của người trí thức nghèo trước Cách mạng tháng Tám. Hộ đã khao khát làm được một việc gì đó để nâng cao giá trị của mình trước toàn xã hội, muốn sống một cuộc sống có ý nghĩa mà cuối cùng chỉ vì gáng nặng áo cơm ghì sát đất mà phải sống một “đời thừa”, những khao khát bị tiêu diệt, những tâm tính tốt nhất cũng bị huỷ hoại.
Ở Hộ có hai bi kịch cơ bản:

1)Trước hết là bi kịch của một trí thức nghệ sĩ, bi kịch của một nhà văn. Trước kia Hộ là một nghệ sĩ chân chính, sống có lí tưởng, có hoài bão, mơ ước một sự nghiệp văn chương, có quan niệm đúng đắn về tác phẩm nghệ thuật có tính nhân đạo (“Nó phải chứa đựng được một cái gì đó lớn lao mạnh mẽ…Nó làm cho con người gần người hơn”), có quan niệm đúng đắn về đạo đức của người cầm bút (“ Văn chương không cần những người thợ khéo tay…sáng tạo những cái gì chưa có”). Và Hộ đã xả thân cho lí tưởng đó, không nề hà gian khổ. Nhưng khi bước vào cuộc sống với gánh nặng gia đình, Hộ đã dần dần biến thành một cây bút khác hẳn. Khi có cả một gia đình để lo, Hộ không thể sống như trước. Gia đình Hộ muốn sống thì cần phải có tiền. Hộ không thể không nghĩ đến kiếm tiền. Bị đồng tiền làm cho điêu đứng, Hộ đã lao vào kiếm tiền. Trong điều kiện của mình, Hộ chỉ có một phương tiện duy nhất để kiếm sống là ngòi bút, là phải viết. Muốn có tiền thì phải viết nhiều. Muốn viết nhiều thì phải viết nhanh. Muốn viết nhanh thì phải viết ẩu. Thế là Hộ lao vào sản xuất những bài báo nhạt nhẽo, những cuốn sách cẩu thả mà người đọc quên ngay sau khi đọc, còn mình thì mỗi lần đọc lại cảm thấy xấu hổ, bởi đó đều chỉ là những “ý rất nông được quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và nhạt nhẽo”. Bi kịch là ở chỗ, Hộ luôn ý thức về sự cẩu that của mình: “Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện”. Còn gì đau đớn cho bằng muốn làm một nhà văn chân chính, với một nghiệp văn có ý nghĩa rốt cuộc lại thấy mình trở thành một cây bút đê tiện. Hộ đau đớn mà thấy rằng: “Thôi thế là hết! Ta đã hỏng! Ta đã hỏng đứt rồi!”

2) Không dừng lại ở đó, cuộc sống không chỉ giết chết những hoài bão cao đẹp nhất mà còn huỷ hoại những tâm tính tốt nhất của con người. Hộ rơi vào bi kịch thứ hai. Bi kịch của một con người.

Khi phải đứng trước một sự lựa chọn nghiệt ngã: Một bên là nghiệp văn của cá nhân mình, một bên là sự sống của gia đình, Hộ đã đấu tranh quyết liệt. Tư tưởng vị kỉ đã từng cám dỗ xui khiến anh. Ấy là tư tưởng muốn làm kẻ mạnh thì phải tàn nhẫn. Nghĩa là muốn thành công thì phải từ bỏ gia đình, vợ con. Nhưng Hộ là một con người chân chính, với nguyên tắc sống rất cao cả: Nguyên tắc tình thương. Hộ cho rằng con người khác con quỷ chính là ở chỗ có tình thương đó. Chính kẻ nào biết sống tình thương mới là kẻ mạnh: “Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai kẻ khác để thoả mãn lòng ích kỉ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ người khác trên chính đôi vai mình”.

Và ngay từ ban đầu Hộ đã sống theo đúng nguyên tắc tình thương đó. Hộ đã mở lòng bác ái ra để cứu vớt, cưu mang đời Từ, một nạn nhân đáng thương. Hộ còn phụng dưỡng bà mẹ già của Từ chu tất. Đến lúc này, Hộ sẵn sàng gác bỏ, vứt bỏ sự nghiệp văn chương của mình để lao vào kiếm tiền nuôi nấng vợ con. Nghĩa là Hộ vẫn muốn, vẫn cố duy trì nguyên tắc sống cao cả của mình.

Nhưng cuộc sống tàn bạo đã giết chết luôn tâm tính tốt ấy. Khao khát văn chương bị vùi sâu chôn chặt không chết hẳn, nó vẫn âm ỉ trong lòng. Mỗi khi gặp bạn văn chương hoặc nghe tin sự thành đạt của bạn bè là nó lại bùng lên dằn vặt, đày đoạ Hộ. Hộ cảm thấy thua thiệt, thấy vỡ mộng. Mặc cảm thất bại như một mối hận chất chứa trong lòng thành một thứ trầm uất. Hộ tìm đến rượu để giải sầu. Nhưng rượu càng làm cho mối hận mù quáng kia vón cục lại, không thể tiêu tan. Từ đấy Hộ bắt đầu trút những cơn giận dữ nặng nề mù quáng xuống người thân. Hộ bắt đầu phũ phàng, nhẫn tâm với những người yếu đuối mình hằng mở lòng che chở, cưu mang. Ban đầu Từ ngạc nhiên không hiểu. Về sau Từ lờ mờ hiểu ra và cứ nhẫn nhục chịu đựng. Còn Hộ mỗi lần về nhà bộ dạng chẳng khác gì Chí Phèo! Nhưng có điều sau khi gây ra những chuyện phũ phàng, thô bạo, tồi tệ, Hộ lại ân hận , sám hối. Trong lúc ăn năn chân thành nhất, Hộ đã xỉ vả mình bằng những lời nặng nề: “Anh…anh…chỉ là một thằng khốn nạn”. Rồi sự ân hận cũng chỉ được vài ngày. Sau đó Hộ lại hành hạ, lại tàn nhẫn…rồi thức tỉnh, ăn năn…Cái vòng luẩn quẩn ấy không bao giờ dứt. Nó đã đầu độc cuộc sống của Hộ và huỷ hoại tất cả những gì là tốt đẹp nhất của một người trí thức như Hộ.
 
Q

quansuquatmo

Chúc bạn học tốt!!!

"Quan điểm nghệ thuật của Nam Cao trong Đời Thừa" bạn có thể nói chung là "những nét chính trong quan điểm nghệ thuật của Nam Cao trước CM tháng Tám"
Nam Cao là một nhà văn lớn của nền văn học hiện thực phê phán nói riêng và là một nhà văn lớn của văn học Việt Nam nói chung. Sở dĩ Nam Cao có một vị trí xứng đáng như vậy bởi cả cuộc đời cầm bút của mình, ông luôn trăn trở để nâng cao "Đôi Mắt" của mình. Tất cả những gì Nam Cao để lại cho cuộc đời chính là tấm gương của một người "trí thức trung thực vô ngần" luôn tự đấu tranh để vươn tới những cảnh sống và tâm hồn thật đẹp. Với những nét tiêu biểu như vậy, Nam Cao đã thể hiện qua một hệ thống các quan điểm sáng tác của mình trước cách mạng tháng Tám.
Quan điểm nghệ thuật của Nam Cao trước cách mạng tháng Tám được thể hiện qua "Trăng Sáng" và "Đời Thừa". Trong "Trăng Sáng", nhà văn quan niệm văn chương nghệ thuật phải "vị nhân sinh", nhà văn phải viết cho hay, cho chân thực những gì có thật giữa cuộc đời, giữa xã hội mà mình đang sống. Ông viết "Chao ôi! Nghệ thuật không là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối! Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp người lầm than". Đó chính là quan điểm nghệ thuật của Nam Cao. Trước cách mạng, Nam Cao mang tâm sự u uất, đó không chỉ là tâm trạng của một người nghệ sĩ "tài cao, phận thấp, chí khí uất" (Tản Đà) mà đó còn là tâm sự của người người trí thức giàu tâm huyết nhưng lại bị xã hội đen tối bóp nghẹt sự sống. Nhưng Nam Cao không vì bất mãn cá nhân mà ông trở nên khinh bạc. Trái lại ông còn có một trái tim chan chứa yêu thương đối với người dân nghèo lam lũ. Chính vì lẽ đó mà văn chương của ông luôn cất lên "những tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than".
Trong "Đời thừa", một tác phẩm tiêu biểu của văn Nam Cao trước cách mạng, Nam Cao cũng có những quan điểm nghệ thuật. Khi mà ta đã chọn văn chương nghệ thuật làm nghiệp của mình thì ta phải dồn hết tâm huyết cho nó, có như thế mới làm nghệ thuật tốt được. "Đói rét không có nghĩa lý gì đối với gã tuổi trẻ say mê lý tưởng. Lòng hắn đẹp. Đầu hắn mang một hoài bão lớn. Hắn khinh những lo lắng tủn mủn về vật chất. Hắn chỉ lo vun trồng cho cái tài của hắn ngày một thêm nảy nở. Hắn đọc, suy ngẫm, tìm tòi, nhận xét, suy tưởng không biết chán. Đối với hắn lúc ấy, nghề thuật là tất cả, ngoài nghệ thuật không có gì đáng quan tâm nữa...". Nam Cao còn quan niệm người cầm bút phải có lương tâm và trách nhiệm đối với bạn đọc, phải viết thận trọng và sâu sắc: "sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là sự bất lương rồi, còn sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện". Với Nam Cao, bản chất của văn chương là đồng nghĩa với sự sáng tạo "văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho, văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có". Quan điểm của Nam Cao là, một tác phẩm văn chương đích thực phải góp phần nhân đạo hóa tâm hồn bạn đọc: Nó phải chứa đựng một cái gì đó vừa lớn lao vừa cao cả, vừa đau đớn vừa phấn khởi: "Nó ca ngợi tình thương, lòng bác ái, sự công bình, nó làm người gần người hơn".
Văn nghiệp của Nam Cao (1915-1951) chủ yếu được thể hiện trước cách mạng tháng Tám. Quan điểm sáng tác thể hiện trong hai truyện "Trăng Sáng" và "Đời Thừa" giúp ta hiểu sâu hơn về Nam Cao. Qua đó, ta thấy được những đóng góp về nghệ thuật cũng như tư tưởng của Nam Cao cho văn học Việt Nam. Từ đấy giúp ta hiểu vì sao Nam Cao - một nhà văn chưa tròn bốn mươi tuổi lại để lại cho cuộc đời một sự nghiệp văn chương vĩ đại đến như vậy.
 
M

mcguire

Cám ơn, e mới làm đề này 1 tiết xong, pt hộ qua đó rút ra tư tưởng nhân đạo của tác giả :D
 
P

pinattsu

Đây là dàn ý phân tích “Đời thừa”của Nam Cao,bạn có thể tham khảo:
I.Mở bài:giới thiệu tác giả ,tác phẩm (tự làm)
II.Thân bài:
1.nhân vật Từ:
-ngọai hình:rất ít được miêu tả.Phần cuối chỉ có một vài nét vẽ,là một ng đàn bà “bạc mệnh”:da mặt xanh nhợt,môi nhợt nhạt,mi mắt hơi tim tím,mắt có quầng,má hơi hóp lại…bàn tay lủng củng rặt những xương.Cổ tay mỏng mảnh.Làn da mỏng,xanh trong,xanh lọc…Đó là hình ảnh của ng thiếu phụ nhiều lo lắng,thiếu thốn về mặt vật chất,vẻ đẹp thời con gái đã tàn phai.
-lỡ làng vì tình phụ.Cảnh Từ ôm con sau ngày đẻ,nhịn đói,mẹ già bị mù, “cả mẹ lẫn con chỉ có một cách là khóc cho đến khi nào bao nhiêu thịt đều chảy ra thành nước mắt hết,để rồi cùng chết cả”.
-Từ là hội tụ bao đức tính tốt đẹp của ng vợ yêu chồng,ng mẹ thương con.Dịu dàng,chịu thương chịu khó,giàu đức hi sinh.Từ hiểu rằng Hộ khổ là vì Từ.Từ chén nước đến cử chỉ lời nói,chị đã giành cho Hộ bíêt bao tình thương yêu.Bị Hộ say rượu hắt hủi,đánh đuổi nhưng Từ vẫn yêu chồng, k thể ôm con mà bỏ đi đc vì ngòai tình yêu thì Hộ còn là ân nhân của Từ. “Từ yêu chồng bằng một thứ tình yêu rất cần với tình của một con chó đối với người nuôi”.
-phần cuối truyện,Từ ôm lấy cổ chồng nói: “…không!...anh chỉ là một ng khổ sở…chính vì em mà anh khổ…”.Nàng ru con qua dòng nước mắt…cho thấy Từ là một người bạc mệnh,nhưng bản tính dịu dàng,giàu đức hi sinh.
-Nam Cao với trái tim nhân đạo đã miêu tả sâu sắc tâm hồn nhân hậu của Từ,cảm thông với nỗi đau của Từ,của bao ng phụ nữ “bạc mệnh”và đau khổ trong xã hội cũ.Tiếng ru con của Từ là tiếng thương,là nỗi đau buồn về cuộc đời bi kịch của ng phụ nữ:sống trong tình yêu mà ít có hạnh phúc!
2.nhân vật Hộ:
a.Hộ là con ng giàu tình thương
-Hộ đã hành động một cách cao đẹp là “nuôi Từ,nuôi mẹ già,con dại cho Từ”.
Lúc mẹ Từ qua đời,Hộ đứng ra làm ma,rất chu đáo.Hộ nhận Từ làm vợ,nhận làm bố đứa con thơ…Như một nghĩa cử cao đẹp,Hộ đã cứu vớt mẹ con Từ.Biết bao nhiêu là ân nghĩa.Hộ sống vì tình thương,vì sự bao dung,chở che như chính anh quan niệm: “kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình”.
-Hộ là một ng chồng thật sự yêu thương vợ con.Anh tính chuyện “phí đi một vài năm để kiếm tiền” lo cho Từ một cái vốn làm ăn.Những lúc Từ ốm, “Hộ lo xanh mặt và thức súôt đêm”.Chỉ xa các con vài ngài,lúc gặp lại chúng Hộ cảm độgn đến ứa nước mắt, “hôn hít chúng vồ vập”.Có lúc từ mồng mười đến cuối tháng,Hộ k dám bước ra khỏi nhà để bớt chi tiêu,hắn thương vợ phải có bữa nhịn cơm ăn cháo.Sắp nhận đc tiền nhuận bút,Hộ thương đàn con thơ cả tháng “đói khát khổ sở,hôm nay có tiền cũng nên cho chúng một bữ ăn ra hồn”.
-Hộ là 1 nhà văn nhân đạo chủ nghĩa.Với Hộ thì trang văn là cuộc đời,thấm tình đời “phải chứa đựng một cái gì lớn lao,mạnh mẽ,vừa đau đớn,lại phấn khởi.Nó ca tụng lòng thương,tình bác ái,sự công bình.Nó làm cho ng gần hơn…”đó là 1 quan điểm rất tiến bộ,quan niệm “nghệ thụât vị nhân sinh”.NHà văn phải vì con ng và vì hạnh phúc của con ng.Qua đó ta thấy,là con ng xã hội,là nhà văn,là ng chồng ng cha,trong con ng và tâm hồn Hộ đều tỏa sáng một tình nhân ái bao la.Anh đã sống và hành động,vun đắp cho hạnh phúc của con ng.
b.Hộ là nhà văn trải qua 1 bi kịch tinh thần đau đớn,dai dẳng
-Hộ có tài,lúc đầu,anh viết thận trọng.Mang một hòai bão lớn,anh “băn khoăn nghĩ tới 1 tác phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm cùng ra một thời”.Từ khi phải lo kiếm tiền nuôi vợ con,Hộ “cho in nhiều cuốn văn viết vội”,anh xấu hổ khi đọc lại văn mình,tự xỉ vả mình “là một thằng khốn nạn,là một kẻ bất lương!”Trước kia tin tưởng bao nhiêu thì giờ đau đớn,thất vọg bấy nhiêu.Hắn “rũ buồn”,lắc đầu tự bảo : “thôi thế là hết!Ta đã hỏng!Ta đã hỏng đứt rồi”
-văn chương đối với Hộ như là 1 cái nghiệp.Nợ áo cơm ghì sát đất,nhưng anh vẫn mê văn.Hộ nói,đọc đc 1 câu văn hay mà hiểu đc thì “dẫu ăn 1 món ăn ngon đến đâu cũng k bằng.Hộ điên ng lên vì phải xoay tiền”nhưng hắn bảo “khổ thì khổ thật,nhưng thử có ng giàu bạc vạn nào thụân đổi lấy cái vị trí của tôi,chưa chắc tôi đã đổi”.
-mất dần cuộc đời hồn nhiên trong sáng,có lúc “chan chứa nc mắt,mặt hầm hầm”.Hắn đọc sách mà trôg cũng dữ tợn: “đôi lông mày rậm…châu đầu lại với nhau…cái mặt hốc hác…”
-Hộ đã tìm đến rượu để giải sầu,càng ngày hắn càng lún sâu vào bi kịch,say rượu và đối xử vũ phu với vợ con.Vốn rất yêu vợ con nhưng có hôm say rượu hắn gườm gườm đôi mắt,đòi “vật một nhát cho chết cả”.Tỉnh rượu lại bẽn lẽn xin lỗi Từ,hứa chừa rượu,đc 1 thời gian ngắn,lại say,lại đánh vợ,lại làm những chuyện vừa buồn cười,vừa đáng sợ như lần trước.Trở thành bê tha “hắn đã ngủ một nửa ngày từ khi còn ở dọc đường”, về đến nhà thì đổ xuống giường “như 1 khúc gỗ…ngủ say như chết”.Có điều lạ,Hộ rất “tỉnh” khi anh bàn lụân văn chương,rất biết đìêu và ân hận thực sự khi tỉnh rượu.Hắn nhìn Từ xanh xao mà thương hại,nắm lấy tay Từ mà khóc, “nc mắt hắn bật ra như 1 quả chanh mà ng ta bóp mạnh.Và hắn khóc…Ôi chao!Hắn khóc!Hắn khóc nức nở…”Rồi hắn tự lên án mình “chỉ là…một thằng….khốn nạn!”.
-và câu hát ra còn thấm lệ của Từ như tô đậm thêm bi kịch của Hộ,của hai vợ chồng.Nỗi đau ấy đc cực tả qua câu hát “cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thương”.Tiếng khóc của Hộ,tiếng khóc của Từ mang ý nghĩa tố cáo cái xã hội tàn ác đã cướp đi mọi mơ ước,đã đày cuộc sống của mỗi gia đình,đã đầu độc tâm hồn con ng và làm méo mó mối quan hệ vốn tốt đẹp giữa ng và ng.
-cũng qua nhân vật Hộ,Nam Cao đã thể hịên ngòi bút hiện thực vừa tỉnh táo,sắc lạnh,vừa nặgn trĩu suy nigh và đằm thắm yêu thương.Nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật qua dòng độc thọai,qua tiếng khóc của Hộ và Từ vô cùng thấm thía về bi kịch của 1 tri thức nghèo,của một nhà văn nghèo trong xã hội cũ.
III.Kết bài: tự làm
 
Top Bottom